Với thực lực của Cục thiết kế tàu ngầm, Hải quân Liên Xô từng cho ra đời nhiều kỷ lục như: Tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đầu tiên, tàu ngầm lặn sâu nhất... Giờ đây, người Nga cũng có thể sẽ lập kỷ lục mới: tàu ngầm mang nhiều tên lửa nhất. >> Akula - siêu tàu ngầm nguyên tử của Hải quân Nga Cục thiết kế Trung ương trang bị hải quân Rubin - Thành phố St Petersburg tuyên bố, đã bắt tay vào nghiên cứu, thiết kế tàu ngầm động cơ hạt nhân và động cơ thông thường thế hệ thứ 5, theo yêu cầu của Tư lệnh Hải quân Nga, tàu ngầm thế hệ thứ 5 sẽ đưa vào sản xuất hàng loạt sau năm 2030. Tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Mỹ có thể mang tới 24 quả tên lửa đạn đạo “Trident” D5, mỗi quả có 12 đầu đạn hoặc trang bị 154 quả tên lửa hành trình BGM-109 Tomahawk. Về tư duy thiết kế tàu ngầm thế hệ thứ 5, trong giới quân sự Nga xuất hiện 2 luồng tư tưởng đối lập nhau, một bên là “Thuyết tiến hóa” còn một bên là “Thuyết cách mạng”. “Thuyết cách mạng” thì cho rằng, mẫu thử nghiệm tàu ngầm mới phải có sự liên quan mật thiết đến khái niệm tác chiến xoay quanh một mạng lưới trung tâm, tất cả các tàu ngầm thế hệ mới đều tham dự vào phương thức tác chiến lập thể trong mạng lưới này. Cơ sở của lý luận này là từ bỏ các loại tàu ngầm cỡ lớn, chế tạo hàng loạt các loại tàu ngầm hạng trung (có lượng giãn nước từ 1500 tấn trở xuống) và cỡ nhỏ, trang bị động cơ hạt nhân phụ trợ. Tuy các tàu ngầm này có phạm vi tác chiến, tầm tấn công, khả năng hành trình liên tục kém, không có khả năng đơn độc tiến hành các nhiệm vụ lớn nhưng nếu tập hợp nhiều tàu ngầm cỡ nhỏ trong một nhóm chiến đấu, hiệu quả tác chiến của chúng sẽ vượt qua một tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo hạng nặng, mà những thiệt hại thì rất nhỏ lẻ, không ảnh hưởng nhiều đến khả năng tác chiến của toàn bộ lực lượng. Tuy vậy, các kỹ sự thiết kế Nga thiên về thuyết thứ nhất và khẳng định, trong vòng vài chục năm tới, “Thuyết tiến hóa” vẫn là xu hướng chủ đạo trong thiết kế, chế tạo tàu ngầm. Tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo thế hệ thứ 4 lớp Akula (971) của Nga. Những người theo “Thuyết tiến hóa” yêu cầu phương án phát triển phải đi theo hướng từng bước hoàn thiện công nghệ tàu ngầm hiện có. Chi phí đóng tàu ngầm hiện nay cực kỳ đắt đỏ vì thế các nhà thiết kế phải giải được bài toán hạ thấp giá thành. Phương án cơ bản được đề ra để thực hiện điều này là nâng cao tính linh hoạt trong sử dụng của tàu ngầm thế hệ thứ 5, ví dụ như hệ thống vũ khí trang bị theo kiểu Modul, có thể thay đổi khi cần thiết hoặc phát triển tàu ngầm không người lái, thậm chí là tàu ngầm tấn công không người lái. Để giảm chiều dài và tăng đường kính thân tàu mà vẫn đảm bảo bố trí hợp lý các thiết bị, có thể tàu sẽ được thiết kế kiểu 2 thân với hệ thống động lực phản thủy lực, các hệ thống thông tin và chỉ thị mục tiêu áp dụng những thành tựu mới nhất của lí thuyết vật lý, nâng cao cực hạn trình độ tự động hóa hệ thống chỉ huy và điều khiển vũ khí của tàu. Tàu ngầm hạt nhân tên lửa Trident USS Nevada “SSBN-733” (dưới nước) và USS “Tennessee” SSBN-734 (trên ụ tàu) thuộc lớp Ohio. Theo người đại diện của Bộ Tư lệnh Hải quân Nga, tàu ngầm thế hệ thứ 5 phải có tính năng thông dụng nhất, tức là phải phóng được cả tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình. Đặc trưng chủ yếu của nó là khả năng tàng hình siêu việt, độ ồn cực thấp, hệ thống chỉ huy và điều khiển vũ khí tự động hóa ở trình độ cao, lò phản ứng an toàn và trang bị số lượng cực lớn các vũ khí tấn công tầm xa, trong đó tên lửa sẽ là nét chủ đạo. Theo tin cho biết, các hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng đa dụng thế hệ mới lắp đặt trên các tàu ngầm thế hệ thứ 5 bao gồm 20 ống phóng, có thể phóng được mọi loại tên lửa, bao gồm tên lửa chống hạm và tên lửa hành trình siêu âm. Mỗi 1 ống phóng loại này có cơ số 4 quả tên lửa chiến thuật, chưa tính kho đạn dự trữ, hệ thống ống phóng này đã có tổng cộng 80 quả tên lửa. Chính vì vậy tàu ngầm thế hệ thứ 5 của Nga được mệnh danh là “Kho tên lửa cơ động” dưới đáy biển. Về hệ thống ngư lôi trên tàu, hiện các chuyên gia Nga vẫn chưa ngã ngũ giữa 3 phương án, một là giữ nguyên kích cỡ ống phóng tiêu chuẩn 533mm như hiện nay, hai là tăng cường kích cỡ các ống phóng lớn hơn và giảm số lượng đi, ba là thay thế bằng các ống phóng loại nhỏ hơn để tăng thêm số lượng. Tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo thế hệ thứ 4 Yury Dolgoruky lớp Borey (955). Quan điểm thứ hai cho rằng, tàu ngầm thế hệ thứ 5 sẽ được trang bị các loại ngư lôi hạng nặng có động cơ đẩy thì ống phóng 533mm không đảm bảo khả năng phóng đi, vì vậy phải sử dụng các hệ thống phóng lớn hơn. Ví dụ như loại ngư lôi 650mm có bộ chiến đấu nặng hơn, uy lực sát thương mạnh hơn và hệ thống tự dẫn tiên tiến hơn. Thế nhưng, nó có trọng lượng khoảng 5 tấn, dài 11m, kích thước lớn hơn rất nhiều so với ngư lôi loại cũ, dẫn đến phải mở rộng diện tích khoang chứa ngư lôi và các thiết bị bốc dỡ, kết cấu các hệ thống phức tạp hơn nhiều và làm giảm lượng vũ khí mang theo và số lượng ống phóng. Quan điểm thứ ba thiên về tăng số lượng ống phóng và tên lửa bảo đảm tiêu chí “hỏa lực tập trung”, tấn công ồ ạt nhiều mục tiêu khác nhau. Chính vì vậy, chỉ nên lắp đặt các ống phóng 324mm hoặc nhỏ hơn một chút là 254mm hoặc thậm chí là 127mm. Đây là quan điểm thuộc trường phái “cách mạng”, với sự thắng thế của “Thuyết tiến hóa” thì có lẽ phương án này sẽ bị loại bỏ. Quan điểm giữ nguyên cỡ ống phóng 533mm thì cho rằng, loại ống phóng này phù hợp với mọi loại ngư lôi và có thể phóng được tất cả các loại tên lửa hành trình và tên lửa chống hạm hiện nay của Nga. Nếu nâng kích cỡ ống phóng thì phải chế tạo riêng các loại tên lửa dùng cho tàu ngầm này, như vậy sẽ rất lãng phí. Tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo lớp Borey thử nghiệm tên lửa đạn đạo Bulava. Hơn nữa, trong tác chiến tương lai các loại ngư lôi tầm xa hạng nặng không phải là loại vũ khí mang tính chất quyết định trên chiến trường, mà chính là các tên lửa đạn đạo, tên lửa chống hạm và đối đất tốc độ siêu âm nên kích cỡ ống phóng ngư lôi phải phục vụ cho nhiệm vụ phóng tên lửa là chủ yếu, đặc biệt là các loại tên lửa chống hạm cực kỳ phong phú của Nga. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu ngầm Nga. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tàu ngầm Nga. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013
>> 'Kho tên lửa cơ động' khổng lồ dưới biển Nga
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
>> Akula - siêu tàu ngầm nguyên tử của Hải quân Nga
Tàu ngầm chiến lược Akula của Hải quân Nga được coi là tàu ngầm hạt nhân lớn nhất trên thế giới từng được chế tạo. >> Hải quân Nga và giấc mộng tung hoành đại dương (Báo Kiến Thức) |
Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012
>> Hải quân Nga và giấc mộng tung hoành đại dương
Tăng cường đóng mới tàu ngầm, tàu chiến...hiện đại đồng thời triển khai tàu ngầm Akula tới bờ biển Mỹ, phải chăng Hải quân Nga đang ấp ủ một kế hoạch đặc biệt nào đó? >> Hạm đội tàu ngầm hạt nhân Nga trong sự kết hợp “8 + 8" >> Tàu ngầm Nga ồn hơn tàu ngầm Trung Quốc 8 lần? Akula cùng các thủy thủ Nga đã thực hiện thành công một kế hoạch đầy táo bạo Các phương tiện truyền thông toàn cầu gần đây lan truyền tin giật gân - tàu ngầm hạt nhân Nga đã hoạt động liên tục trong thời gian gần 1 tháng ở bờ biển ngoài khơi Vịnh Mexico (Mỹ) mà không hề bị phát hiện. Trong khi Washington đang rầm rộ điều tra và lên án các quan chức quốc phòng không thể ngăn cản được hành động thách thức như vậy thì phát ngôn viên Lầu Năm Góc lên tiếng trấn an dư luận bằng việc phủ nhận thông tin. Còn phía bên kia đại dương, các quan chức Quân đội Nga đã quyết định "im lặng" và chỉ đáp lời một cách đầy ngụ ý rằng "hiện tại các tàu ngầm Nga hoạt động ở nhiều nơi trên thế giới, thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu không được tiết lộ, thậm chí là sau hàng thập kỷ". Tuy nhiên, Chủ tịch của Hội đồng thông tin thuộc Bộ Quốc phòng Nga, trưởng ban biên tập của Tạp chí National Defense, ông Igor Korotchenko đã khoe: "Sứ mệnh chiến đấu này đáng được tôn kính. Nó cho thấy Nga vẫn còn tiềm năng và sẵn sàng cho hành động như vậy. Những hành động như vậy sẽ đảm bảo uy tín và sự tôn trọng cho hạm đội của chúng tôi". "Nhiệm vụ chống tàu ngầm ở ngoài khơi bờ biển của một kẻ thù tiềm năng là một phần kế hoạch của hạm đội chiến đấu. Đó việc hoàn toàn bình thường nếu tính tới những năm 1990, khi Hải quân Nga gần như mất đi khả năng này. Sự kiện vừa qua (tàu ngầm Akula áp sát bờ biển Mỹ) chứng tỏ rằng năng lực chiến đấu của lực lượng hải quân của chúng tôi đã và đang lấy lại vị thế ngày nào", ông Korotchenko nói. Borei, Yasen và Mistral Đầu năm 2012, Hải quân Nga tuyên bố, sẽ nối lại các chuyến tuần tra trên mọi đại dương. Trong tháng 2/2012, Tư lệnh Hải quân lúc đó là Đô đốc Vladimir Vysotsky chính thức tuyên bố: "Ngày 1/6 hoặc sau đó, lần đầu tiên sau 26 năm, Hải quân Nga sẽ tuần tra chiến đấu trở lại bằng các tàu ngầm chiến lược trên các vùng biển quốc tế". Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Duma Quốc gia Nga, Đô đốc Vladimir Komoyedov sẵn sàng chấp thuận ý tưởng tuần tra đại dương của các tàu ngầm chiến lược của lực lượng hải quân. Kế hoạch của Hải quân Nga cũng đáng kinh ngạc. Trong ấn bản đầu năm 2012 của Kommersant viết rằng, chương trình vũ trang của Nga trong giai đoạn 2011 - 2020 sẽ cung cấp khoảng 4,7 nghìn tỉ rúp ngân sách cho riêng Hải quân Nga. Với số tiền khổng lồ như vậy, dự kiến tới năm 2020, Hải quân Nga sẽ có trên 10 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình chiến lược Project 955 Borey (theo các nguồn khác, có thể sẽ là 8), 7 tàu ngầm hạt nhân đa năng Project 885 Yasen, 20 tàu ngầm thông thường (6 trong số đó là tàu ngầm diesel-điện tiên tiến Project 636.3 Varshavyanka), 14 tàu khu trục, 35 tàu hộ tống, 6 hộ tống cỡ nhỏ Project 21630 Buyan, 6 tàu đổ bộ cỡ lớn Project 1171.1, 4 tàu đổ bộ chở trực thăng Mistral do Pháp sản xuất. Gần đây, tàu đổ bộ có sàn đáp trực thăng Mistral đầu tiên đã bắt đầu được đóng ở nhà máy đóng tàu ở Saint-Nazaire (Pháp). Dự kiến, chiếc đầu tiên trong số 2 tàu được đóng ở Pháp sẽ được biên chế trong Hải quân Nga vào năm 2015. Hai chiếc còn lại sẽ được đóng tại Nga theo giấy phép. Không dừng lại ở đó, Nga tiếp tục các chương trình xây dựng tàu ngầm hạt nhân mới. Tàu ngầm Project 885 Yasen đầu tiên có tên là Severodvinsk đang được thử nghiệm ở Biển Trắng. Dự kiến, tàu sẽ tham gia phục vụ trong Hải quân vào cuối năm 2012. Chiếc tiếp theo của lớp này - Kazan - được lên kế hoạch phục vụ vào năm 2015. Đứa con đầu lòng của Project 955 Borey, tàu ngầm hạt nhân Yury Dolgoruky, rõ ràng, sẽ là một phần của Hải quân Nga (theo kế hoạch sơ bộ, tàu đã phải đưa vào phục vụ từ ngày 29/7, cùng dịp ngày lễ của Hải quân Nga). Tuy nhiên, vấn đề về tên lửa R-30 Bulava chưa được giải quyết triệt để dẫn tới kế hoạch biên chế Yury Dolgoruky liên tục bị trì hoãn. Trong khi đó, tàu ngầm hạt nhân thứ hai của Project 955 Borey mang tên Alexander Nevsky sẽ phục vụ vào đầu năm 2013. Ngoài tàu ngầm và tàu đổ bộ tấn công mới, Nga cũng không xem nhẹ trang bị các tàu hộ tống nhỏ cho hải quân. Gần đây, đội tàu Caspian đã được trang bị tàu hộ tên lửa Dagestan mới thuộc Project 11.661 Gepard. Theo các phương tiện truyền thông Nga, tàu hộ vệ tên lửa Dagestan được trang bị công nghệ tàng hình hiện đại, công nghệ khử từ tiên tiến làm các radar của kẻ thù gặp nhiều khó khăn để phát hiện. Tuy nhiên, điểm nổi bật, đây là tàu hộ tống nhỏ đầu tiên của Hải quân Nga được trang bị với hệ thống phóng tên lửa tối tân có tầm bắn xa 300 km và khả năng tấn công mục tiêu độ chính xác cao. Tàu Dagestan có khả năng chiến đấu đa năng và có thể hoạt động trong đội hình hạm đội hoặc độc lập. Khả năng chống tàu và phòng không mạnh mẽ và chỉ thiếu khả năng chống ngầm. (Đây chính là "người anh em" với bốn chiến hạm Gepard biên chế trong Hải quân Nhân dân Việt Nam. Hiện nay, phía Nga đã bàn giao cho Việt Nam hai tàu loại này). Triển khai ở đâu? Để thực hiện được vai trò Hải quân Nga trên các vùng biển thế giới, theo các chuyên gia quân sự, việc tạo ra các căn cứ hậu cần trên bờ biển là điểm mấu chốt. Bởi không hạm đội không thể thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của mình trên các đại dương nếu như không có một mạng lưới các căn cứ hải quân. Có vẻ như Hải quân Nga đang hình dung ra bối cảnh các đại dương trên thế giới đang nằm chọn trọng tay người Mỹ - đối thủ truyền kiếp và đang sở hữu nhiều căn cứ hải quân nằm rải rác trên khắp thế giới. Trong khi đó, Nga chỉ bó hẹp ở biển Baltic, bBiển Đen, biển Bắc và một vài nơi trên Thái Bình Dương, số lượng giới hạn các căn cứ hải quân trong nước này đã hạn chế đáng kể tiềm năng tác chiến. Ngoài các căn cứ trên, Nga có quân cảng hậu cần và sửa chữa ở Tartus (Syria) để phục vụ cho các hoạt động của tàu chiến khi được triển khai ở Địa Trung Hải và Vịnh Aden. Điều đáng nói là điện Kremlin vẫn đang cố gắng duy trì quân cảng này mặc dù gặp rất nhiều khó khăn để ngăn chặn những hành động hiếu chiến của phương Tây muốn lật đổ chế độ Bashar al-Assad. Trở lại trong năm 2010, Nga đã bắt đầu hiện đại hóa cảng Tartus để trở thành một căn cứ hải quân với đầy đủ khả năng triển khai các tàu chiến hạng nặng, gồm cả tàu tuần dương và tàu sân bay. Tầm quan trọng chiến lược của căn cứ ở Tartus là rõ ràng: nó ở gần biển Đỏ qua kênh đào Suez, có thể xuyên ra Ấn Độ Dương và sau đó tới Thái Bình Dương cũng nhanh chóng tiến ra Đại Tây Dương chỉ trong vài ngày thông qua bán đảo Gibraltar. Vì vậy, sẽ không chỉ là ở Vịnh Mexico, người Mỹ hoàn toàn có thể "chạm chán" tàu ngầm Nga ở bất kỳ đại dương nào trên thế giới nếu như Hải quân Nga quyết tâm tìm lại vị thế mà họ đã từng đánh mất. (BDV news) |
Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012
>> Cơ động hành quân của tầu ngầm dưới biển.(P1)
Cơ động hành quân của tầu ngầm trên biển là thực hiện hải trình từ một vị trí trên hải đồ hoặc một khu vực vào một khu vực khác hay một điểm tập kết khác để thực hiện nhiệm vụ chuyển địa điểm, căn cứ trú quân, tiến hành các hoạt động chuẩn bị cho chiến đấu hoặc các mục đích chiến thuật khác Chiến thuật tầu ngầm hải quân Xô Viết (Kỳ 1) Tổ chức hành quân cơ động Cơ động hành quân của tầu ngầm trên biển là thực hiện hải trình từ một vị trí trên hải đồ hoặc một khu vực vào một khu vực khác hay một điểm tập kết khác để thực hiện nhiệm vụ chuyển địa điểm, căn cứ trú quân, tiến hành các hoạt động chuẩn bị cho chiến đấu hoặc các mục đích chiến thuật khác. Nội dung chủ yếu của cơ động hành quân chiến đấu là các tầu ngầm bí mật, kịp thời, đúng thời gian tập kết tại khu vực được chỉ định hoặc vị trí được xác định với khả năng sẵn sàng cao nhất hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cơ động hành quân của tầu ngầm trong khu vực chiến sự được thực hiện theo tuyến đường xác định ngắn nhất, bí mật và bất ngờ nhất dưa trên cơ sở đánh giá khu vực cơ động, tính năng kỹ chiến thuật của tầu ngầm, khả năng cơ động của tầu, thời gian thực hiện hải trình và thời gian có mặt tại vị trí tập kết, trong điệu kiện chiến đấu cần tính toán đến khả năng chiến đấu của lực lượng chống ngầm đối phương cũng như trang thiết bị, phương tiện chiến đấu của địch. Mọi hải trình cơ động của tầu ngầm hoặc hành trình cơ cộng huấn luyện chiến đấu hoặc sử dụng vào các mục đích khác, trước khi triển khai cơ động đều cần được tiến hành công tác chuẩn bị chu đáo, tỷ mỉ đến từng chi tiết. Mỗi tầu ngầm trong đội hình đều phải được bố trí công tác chuẩn bị, có nghĩa là khoảng thời gian nhất định làm công tác chuẩn bị, sau khoảng thời gian đó tầu có thể nhổ neo và cơ động vào biển để thực hiện nhiệm vụ được giao. Công tác chuẩn bị được chỉ định dựa trên cơ sở tình huống thực tế, tính năng kỹ chiến thuật của tầu ngầm, đặc biệt chú ý là hệ thống năng lượng trạm nguồn của tầu. Có 3 tình huống thực hiện công tác chuẩn bị cho tầu ngầm. Ngay tức khắc chuẩn bị nhổ neo cơ động; chuẩn bị cơ động với một khoảng thời gian nhất định ( từ 1-12 giờ); chuẩn bị cơ động với thời gian chuẩn bị tính bằng ngày. Chuẩn bị nhỏ neo cơ động ngay tức khắc là: tầu ngầm cần sẵn sàng nhận mệnh lệnh nhổ neo ra khơi ngay lập tức hoặc trong giới hạn thời gian rất hẹp (5 phút, 15 phút). Trong trường hợp này, động cơ trạm nguồn của tầu cần được khởi động trước thời gian chuẩn bị. Khối lượng những công việc cần thực hiện trong quá trình chuẩn bị cho tầu cơ động sẵn sàng chiến đấu, phụ thuộc vào tình huống sẵn sàng cơ động, cấp chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, thời gian có được chuẩn bị cho chuyến hải trình. Để rút ngắn thời gian chuẩn bị cho cơ động, cần luôn giữ cho tầu ngầm trong trạng thái kỹ chiến thuật tốt nhât, công tác bảo đảm kỹ thuật vỏ tầu (luôn chắc chắn và sạch sẽ) vũ khí và trang thiết bị kỹ thuật trong trạng thái hoạt động tốt nhất với độ tin cậy cao, cơ sở vật chất đảm bảo (đạn, dầu, nước ngọt, các trang thiết bị lọc không khí, lương thực thực phẩm…) cần được bổ xung đầy đủ, đúng tiêu chuẩn theo cơ số biên chế quy định. Chuẩn bị đưa vũ khí trang bị lên tầu ngầm Đưa trang thiết bị lên tầu Chuẩn bị cho hải trình của tầu ngầm bắt đầu sau khi nhận được nhiệm vụ chiến đấu hoặc chỉ lệnh chuẩn bị cơ động, bao gồm chuẩn bị vũ khí trang bị, chuẩn bị cho thủy thủ đoàn thực hiện mệnh lệnh cơ động hàng quân, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao hoàn toàn phụ thuộc và chất lượng công tác chuẩn bị của tầu ngầm cho chuyến hải trình. Công tác chuẩn bị tuân thủ theo nguyên tắc của điều lệnh tác chiến, các tiêu chuẩn kỹ chiến thuật, các thông số kỹ thuật ghi lại, các tài liệu hướng dẫn bảo trì, bảo dưỡng bảo quản và khai thác sử dụng vũ khí và trang bị trên tầu. Sau khi nhận nhiệm vụ chiến đấu, thuyền trưởng của tầu ngầm cần hiểu rõ nhiệm vụ được giao (những nội dung nhiệm vụ cần thực hiện, thực hiện ở từng địa điểm cụ thể, thời gian thực hiện và thực hiện nội dung yêu cầu nhiệm vụ như thế nào). Ngoài ra, chỉ hủy trưởng tầu ngầm cần đánh giá chính xác tình hình giữa ta và địch trên tuyến đường cơ động và tại khu vực tập kết hoặc trong khu vực tác chiến, có nghĩa là nghiên cứu tất cả các yếu tố và tính huống có ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Để thực hiện chính xác những thông số chiến thuật và tình huống, trên hải đồ bằng những ký hiệu tác chiến quy ước, đánh dấu và ghi rõ mọi thông tin trinh sát địch tình, lực lượng của ta, những thông số ghi chú những yếu tố có thể ảnh hưởng đến tình hình hoàn thành nhiệm vụ và tóm tắt ngắn gọn nhất phương án giải quyết. Xác định và đánh giá đúng tình huống ta và địch: Đánh giá tình huống bao gồm đánh giá tình hình lực lượng địch, khả năng cơ động thay đổi vị trí của lực lượng địch, lực lượng của ta, tuyến hải trình cần phải cơ động và khu vực tác chiến, xác định khối lượng thời gian. Khi dánh giá tình hình địch, cần làm rõ, cơ cấu biên chế, tổ chức lực lượng địch, khả năng tác chiến của địch, khả năng xảy ra chiến trận khi chạm địch và tính chất của trận đánh, những điểm mạnh và điểm yếu của địch. Trên tuyến đường cơ động và khu vực tập kết cần xác định rõ và đánh giá chính xác khả năng lực lượng chống ngầm của đối phương, cấp độ lực lượng chống ngầm địch có thể triển khai tác chiến. Trong khu vực tác chiến cần đánh giá chính xác lực lượng địch có mặt, bao gồm mục tiêu cần tìm kiếm, theo dõi hoặc mục tiêu cần tấn công tiêu diệt, tổ chức phòng ngự của địch. Khi đánh giá lực lượng của ta trước hết cần nắm chắc tính năng kỹ chiến thuật của tầu ngầm theo năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao. Khi tham gia hiệp đồng tác chiến với các lực lượng khác của hạm đội cần nắm chắc, cơ cấu biên chế tổ chức, tính năng kỹ chiến thuật vũ khí trang bị, vị trí đứng và đường cơ động, khả năng tác chiến của lực lượng hiệp đồng, những điểm mạnh và yếu của lực lượng. Đánh giá tuyến hải trình cơ động và khu vực tác chiến cần nghiên cứu và xác định các thông số về tính chất vùng nước và địa lý đáy biển, khả năng dẫn đường và khả năng hải hành của tầu ngầm, tình hình thủy văn môi trường và tình trạng thủy âm. Trong nội dung nghiên cứu hải trình cần chú ý đến độ sâu của đáy biển, khoảng cách từ căn cứ tầu ngầm đến khu vực tác chiến và đến tuyến phòng thủ bờ biển của đối phương, khả năng xác định vị trí của tầu bằng phương pháp thiên văn học, radar định vị, sự hiển diện và tốc độ, tính chất của các dòng hải lưu, độ dày của băng trên bề mặt, eo biển, eo biển hẹp, vùng nước cạn, khả năng có bão biển, sương mù và những hiện tượng phức tạp của thời tiết khác, đồng thời cần chú ý đến hiện tượng và tốc độ tán xạ của thủy âm theo độ sâu đáy biển, cùng với các yếu tố đặc thù khác, ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện nhiệm vụ được giao. Xác định thời gian: là xác định khoảng thời gian hiện có cho công tác chuẩn bị tầu ngầm cho chuyến ra khơi, cơ động vào khu vực sẵn sàng chiến đấu và thực hiện nhiệm vụ được giao. Từ những đánh giá về tình huống thực tế, rút ra kết luận: Tình huống trước mắt thuận lợi hay khó khăn cho thực hiện nhiệm vụ được giao. Trên cơ sở phân tích và nắm chắc nhiệm vụ và những kết luận từ tình huống thực tế, chỉ huy trưởng ra quyết định hành động, có nghĩa là kế hoạch chi tiết chuẩn bị cho tầu ngầm và thủy thủ đoàn để thực hiện nhiệm vụ được giao. Quyết tâm của chỉ huy trưởng tầu ngầm được thể hiện trên hải đồ với những tính toán cần thiết và các chú giải ngắn gọn. Đồng thời, thuyền trưởng tầu ngầm giao nhiệm vụ cho các đội vũ khí trang bị, các đội kỹ thuật thân tầu về nội dung công tác chuẩn bị, tổ chức thực hiện những nội dung công tác theo kế hoạch chuẩn bị cho tầu ngầm cơ động, kiểm tra, kiểm soát trực tiếp các đội thực hiện theo kế hoạch và chất lượng công việc đạt được. Chuẩn bị cơ động cho tầu ngầm: được tiến hành theo kế hoạch đặc biệt của tầu, theo biểu đồ thực hiện nhiệm vụ, bao gồm có những nội dung chính như sau: 1-Chuẩn bị kiểm tra thân vỏ tầu, vũ khí trang bị và các trang thiết bị kỹ thuật trên boong: -Kiểm tra tình trạng của thân và vỏ tầu, sử dụng thợ lặn chuyên nghiệp kiểm tra các bộ phận thân tầu phía bên ngoài và các bộ phận khác bên ngoài thân tầu (lớp vỏ, hệ thống bánh lái ngang và bánh lái theo phương thẳng đứng, cánh quạt chân vịt…); -Kiểm tra hoạt động của hệ thống lặn xuống và nổi lên của tầu ngấm, hệ thống khí nén, hệ thống thu không khí và xả khí thải ( khi tầu chạy ngầm dưới nước vẫn sử dụng động cơ diesen – “tầu ngầm diesen- điện”- mức độ nạp điện của các bình điện – acquy, chuẩn bị vỏ tầu cho lặn ngầm; -Kiểm tra hoạt động của hệ thống tời kéo tầu và các thiết bị thả hàng, chuyển hàng ở dưới đáy biển; - Kiểm tra chi tiết theo kế hoạch hoặc kiểm tra trước giai đoạn nhằm phát hiện hỏng hóc để kịp thời sửa chữa, chỉnh chuẩn kịp thời các thiết bị đo thông số và tính toán, xử lý thông tin và cung cấp kết quả, các thiết bị đo các trường vật lý thân tầu. -Kiểm tra đồng bộ và chất lượng kỹ thuật, đảm bảo hoạt động tốt các trang thiết bị cứu hộ và các trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy, trang thiết bị thoát hiểm và các trang thiết bị dự phòng khác. -Tiếp nhận cơ sở vật chất, nhu yếu phẩm, cơ số đạn và dự trữ vật chất theo tiêu chuẩn, sắp xếp theo quy định trên tầu. -Tính toán sự phân bổ trọng tải và bơm thêm vào các thùng để dằn tầu; -Ra khơi kiểm tra kiểm hoát hoạt động của vũ khí trang bị và các trang thiết bị kỹ thuật, chuẩn bị cho thủy thủ đoàn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ và an toàn trong hải hành. 2- Chuẩn bị thủy thủ đoàn của tầu ngầm: -Chuẩn bị theo chuyên môn kỹ thuật và kỹ chiến thuật của biên chế lực lượng sĩ quan trên tầu theo nội dụng nhiệm vụ cơ động được giao, tiến hành các tính toán các thông số kỹ chiến thuật theo phương án sử dụng vũ khí trang bị chiến đấu và tranh thiết bị kỹ thuật khi cơ động; nghiên cứu vùng nước theo tuyến đường cơ động và trong khu vực hoạt động tác chiến. -Huấn luyện và tập huấn các nội dung chuẩn bị cho thủy thủ đoàn thực hiện nhiệm vụ cơ động được giao, sử dụng vũ khí khí tài thành thạo, chuẩn xác và không có sự cố, thục luyện sử dụng trang thiết bị kỹ thuật triệt để, thành thục và khai thác được hết tính năng kỹ thuật của trang thiết bị trước khi khởi hành. 3. Chuẩn bị cơ động cho biên chế tổ chức tầu ngầm về tổng thể bao gồm: -Kiểm tra tình trạng sẵn sàng cơ động của thủy thủ đoàn, quân số đơn vị, đài chỉ huy trung tâm của tầu ngầm, các vị trí quan sát bằng kính quang học và các thiết bị quan sát để đảm bảo có độ tin cậy cao nhất khi điều khiển tầu ngầm trong trường hợp tầm nhìn thấp, khi cơ động ngầm và trong những điều kiện phức tạp khác. -Kiểm tra tình trạng sẵn sàng của tầu ngầm khi nhận hàng, con người trên biển và khả năng cứu kéo khi gặp trường hợp bị mất lái hoặc hỏng hóc. -Kiểm tra khả năng hỗ trợ và cung cấp thông tin của hệ thống định vị, dẫn đường và cung cấp thông tin thủy văn, môi trường khi tầu cơ động ra biển và khi tầu thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. -Kế hoạch thực hiện công tác tư tưởng, chính trị, tinh thần khi ra khơi, tổ chức thông báo, cập nhật thông tin nói chung và những thông tin về khu vực tập kết sẵn sàng chiến đấu. Đồng thời cũng bố trí thời gian để thủy thủ đoàn chuẩn bị các nội dung liên quan khác. Theo tình huống khi nhận nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cùng với phác thảo kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Chỉ huy trưởng của tầu ra chỉ lệnh cho các cán bộ cấp dưới, cấp phó chỉ huy chính trị, các chỉ huy trưởng các bộ phận theo những nội dung sau: -Thời gian và nội dung công việc chuẩn bị cho thủy thủ đoàn, vũ khí trang bị và các phương tiện, trang bị kỹ thuật để thực hiện thành công nhiệm vụ được giao. -Những thông số kỹ chiến thuật cần được tính toán và nắm chắc về sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật, số lượng và các cơ số dự trữ đạn, thiết bị, cơ sở vật chất dự phòng sẽ được tiếp nhận lên tầu. -Tổ chức đảm bảo phòng thủ và bảo vệ tầu khi cơ động hành quân ra biển, trình tự sử dụng trang thiết bị khí tài thông tin liên lạc và nhận biết địch ta. -Hướng tập trung công tác tư tưởng, chính trị, tinh thần khi chuẩn bị hải hành, khi hành quân cơ động. -Bổ xung những chỉ thị liên quan trực tiếp đến công việc …. Khi các nội dung công tác chuẩn bị hải hành của tầu ngầm đã kết thúc, các chỉ huy các đầu mối công tác các bộ phận sẽ báo cáo cấp trực tiếp điều hành và kiểm soát các hoạt động của công tác chuẩn bị, các trợ lý, cấp phó chỉ đạo điều hành sẽ báo cáo chỉ huy trưởng tầu ngầm về tất cả các nội dung đã chuẩn bị: trạng thái kỹ chiến thuật của vũ khí, trạng thái kỹ thuật của phương tiện, trang thiết bị. Cấp độ sẵn sàng chiến đấu của thủy thủ đoàn khi nhận nhiệm vụ được giao, loại, số lượng và chất lượng cơ sở vật chất, dự trữ vũ khí đạn và khí tài, thiết bị tiếp nhận lên tầu. Tiếp nhận báo cáo của phó chỉ huy trưởng tầu và cấp phó chính trị. Chỉ huy trưởng tầu ngâm phụ thuộc vào tình huống thực tế và thời gian hiện có, cần đưa ra mệnh lệnh khởi động trạm nguồn năng lượng chính, đồng thời còn thời gian đến điểm bắt đầu khời hành, thông báo về chỉ lệnh sẵn sàng khởi hành. Kết thúc các công tác chuẩn bị cho tầu ngầm rời căn cứ, bắt đầu cơ động bằng mệnh lệnh đến toàn bộ tầu, toàn bộ các thành viên tầu ngầm “Tầu ngầm vào trạng thái chiến đấu, cơ động hành quân - chuẩn bị” theo điều lệnh và quy định tác chiến trên tầu, các thành viên thủy thủ đoàn thực hiện các nhiệm vụ được phân công theo quy định và theo biểu đồ chuẩn bị khởi hành. Thực hiện các nội dung công tác như sau: -Kiểm tra lại và xem xét sơ bộ vũ khí trang bị trên tầu. -Chuẩn bị và đưa vào hoạt động các trang thiết bị cơ động. -Chuẩn bị các trang thiết bị bảo đảm độ vững chắc và chịu lực thân tầu, chuẩn bị cho tầu lặn xuống biển. -Chuẩn bị cho các thiết bị điều khiển lặn xuống và nổi lên mặt nước hoạt động. -Kiểm tra toàn bộ công tác chuẩn bị cho tầu lặn xuống, đồng thời kiểm tra độ kín khít thân tầu. (Thông lệ cho tất cả các tầu ngầm) -Khởi động máy bơm, bơm nước vào các thùng đựng dằn tầu, các thùng tăng tốc độ lặn ngầm và các công tác khác. Sau khi thực hiện tất cả các nội dung công tác, các chỉ huy các bộ phận báo cáo chỉ huy trưởng – thuyền trưởng. Chỉ huy trưởng ra mệnh lệnh vào vị trí chiến đấu, tầu ngầm khởi hành và bắt đầu lặn xuống. Trong những trường hợp đặc biệt: Đòn tấn công bất ngờ của đối phương, các trường hợp tai nạn, hỏng hóc bất ngờ và trong những trường hợp bất thường khác. Triển khai phương án cơ động khẩn cấp. Trong những trường hợp đó, khi nhận được mệnh lệnh hoặc chỉ huy trưởng tầu ngầm ra mệnh lệnh cơ động khẩn cấp ra biển hoặc đến khu vực tập kết, bằng thời gian ngắn nhất các thành viên các bộ phận khởi động trang thiết bị thân tầu, đưa tầu ra khơi, mọi nội dung công tác chuẩn bị tiếp theo được thực hiện với khối lượng tối giản và trên đường hành quân. Vào thời điểm đã định, tầu ngầm theo mệnh lệnh của người chỉ huy tầu nhổ neo và thực hiện chuyến hải trình từ căn cứ để cơ động di chuyển đến khu vực thực hiện nhiệm vụ theo tuyến đường cơ động đã định sẵn. Khi cơ động ra khơi từ căn cứ, kíp tầu tuân thủ các quy trình bảo mật theo các kênh đã định trước, tránh khỏi bị phát hiện bởi các thiết bị tìm kiếm, định vị mục tiêu, đồng thời tránh khỏi những khu vực có bố trí thủy lôi, các hành lang hành quân đã được xác định bằng các thiết bị dẫn đường và giới hạn. Thông thường, cơ động được thực hiện độc lập, trong trường hợp có khả năng đối phương tấn công – cơ động sẽ tiến hành trong tổ chức đội hộ tống tầu ngầm, bao gồm có tầu chống ngầm, tầu với hệ thống vũ khí phòng không mạnh, đồng thời có sự có mặt của máy bay và trực thăng tác chiến không hải. Nếu có khả năng có trận địa thủy lôi do đối phương bố trí, tầu ngầm thường theo sau tầu quét thủy lôi, tầu ra quét sẽ mở đường cho tầu ngầm ra khỏi căn cứ theo tuyến đường lựa chọn. Cơ động ra khơi được thực hiện phương pháp một tầu đơn lẻ cơ động hoặc trong biên chế tổ chức của một đội tầu, liên đội tầu. Tầu có thể cơ động độc lập hoặc nằm trong biên chế của hạm đội và được sử yểm trợ, chi viện của các lực lượng khác trong hạm đội. Khi nằm trong biên chế của đội tầu ngầm hoặc liên đội tầu ngầm, các tầu ngầm thực hiện theo đội hình cơ động được bố trí, có sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các nhóm tầu và các tầu ngầm riêng biệt, nhằm đảm bảo tối ưu nhất khả năng phòng thủ, khả năng ngay lập tức sử dụng vũ khí trang bị và khả năng hiệp đồng phòng thủ giữa các tầu. Khi cơ động hành quân, các tầu ngầm sử dụng đội hình theo quy định, có thể là hàng ngang, hàng ngang có góc hướng, đội hình chữ V và đội hình chữ V ngược, trong một số trường hợp đặc biệt có thể sử dụng đội hình hàng dọc. Sơ đồ đội hình được lựa chọn theo tính huống chiến thuật và điều kiện thực tế dẫn đường, định vị và điều khiển hành trình theo tuyến đường cơ động với yêu cầu sử dụng hiệu quả cao nhất các trang thiết bị quan sát, vũ khí trang bị và thuận lợi cho điều khiển cơ động hành trình. Hoạt động cơ động của tầu ngầm ra biển, được thể hiện bằng nhiệm vụ cơ động chiến đấu – kịp thời, đúng thời gian và địa điểm, bí mật tuyệt đối trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất – thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được giao. Tập kết đúng thời gian quy định phải được đảm bảo bằng công tác điều khiển tầu ngầm, giữ cho tầu chạy với tốc độ tốt nhất và bảo đảm cơ động đúng tiến trình theo biểu đồ kế hoạch đã vạch ra. Bí mật cơ động phải đảm bảo duy trì trạng thái hành quân im lặng tuyệt đối, vòng tránh các khu vực có hoạt động của các lực lượng chống ngầm đối phương, khu vực địch bố trí các trạm quan sát, trinh sát sonar – thủy âm, tổ chức và duy trì các hoạt động làm giảm thiểu tối đa và ngụy trang các dấu hiệu của tầu ngầm. Cơ động với vận tốc giảm thiểu tiếng ồn, tính toán đúng điều kiện thủy âm trong khu vực cơ động, quan sát và nắm chắc tình hình hoạt động của các tầu nổi, tầu ngầm, không quân và hàng không của ta, địch và các hoạt động hàng hải các nước trên thế giới, đồng thời duy trì trao đổi thông tin giữa trung tâm chỉ huy và các tầu ngầm về tình hình địch ta và các bên liên quan trong khu vực cơ động, kịp thời vòng, né tránh lực lượng chống ngầm và trang thiết bị chống ngầm của đối phương. Khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được giao của tầu ngầm được đảm bảo bằng nội dung công tác thường xuyên liên tục kiểm tra kiểm soát vũ khí trang bị, đảm bảo luôn trong trạng thái hoạt động ổn định, tin cậy, khai thác sử dụng tuân thủ đúng theo tài liệu hướng dẫn sử dụng, người chỉ huy đảm bảo tổ chức và quản lý tốt hệ thống phòng thủ và bảo vệ, đồng thời giữ vững tư tưởng chính trị và tinh thần chiến đấu của thủy thủ đoàn. Để duy trì tốt khả năng sẵn sàng chiến đấu, tầu ngầm, phân đội tầu ngầm tổ chức triển khai hệ thống phòng không, hệ thống chống ngầm và hệ thống chống tầu mặt nước, trong điều kiện địch có khả năng sử dụng vũ khí hủy diệt lớn, cần tổ chức hệ thống phòng chống vũ khí hủy diệt lớn. Giai đoạn ngày nay, sự phát triển của các phương tiện tấn công có khả năng tự dẫn cao – vũ khí robot, do đó, ban chỉ huy tầu ngầm và các thành viên cần tổ chức bảo vệ, chống các đòn tấn công của vũ khí tự dẫn – robot. Các nội dung phòng chống được thực hiện trên tầu ngầm, ngoài ra, những nội dung khác được cấp trên đảm bảo bằng lực lượng thuộc quyền. Trong nội dung phòng thủ chống ngầm, nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm và tiêu diệt tầu ngầm đối phương, trên tuyến cơ động của lực lượng tầu ngầm, đặc biệt triển khai lực lượng chống ngầm, trong đó có những tầu ngầm đảm nhiệm nhiệm vụ chống ngầm, lực lượng cảnh giới chống ngầm cho các phân đội tầu ngầm đang triển khai chiến đấu, đồng thời, các phân đội tầu ngầm phải có động năng động, bí mật, khôn khéo tránh khỏi các tầu ngầm và vũ khí chống ngầm của đối phương. Thông thường, đường hành quân của tầu ngầm thường được lựa chọn các khu vực mà ở đó, các tầu ngầm địch ít hoạt động. Thực hiện nội dung chống thủy lôi trên đường cơ động, tầu ngầm hoặc phân đội tầu ngầm tiến hành các hoạt động quan sát trinh sát bằng các trang thiết bị của tầu ngầm, hoặc các trang thiết bị của lực lượng ra quét thủy lôi, các lực lượng trinh sát, rà quét thủy lôi khi phát hiện được sẽ thông báo cho đội tầu ngầm khu vực có thủy lôi ( khu vực căn cứ tầu ngầm, trên tuyến đường cơ động và trong khu vực tập kết, tiến hành quét mìn và phá hủy mìn. Dẫn đường cho các tầu ngầm theo tuyến an toàn trong các trận địa mìn trên diện rộng. Để bảo vệ các tầu ngầm khi có nguy cơ địch sử dụng vũ khí hủy diệt lớn, các lực lượng trinh sát được tổ chức theo dõi, kịp thời thông báo và cấp chỉ huy trực tiếp có trách nhiệm thông báo kịp thời cho lực lượng tầu ngầm về khả năng địch có thể sử dụng vũ khí hủy diệt lớn, ban chỉ huy tầu ngầm tổ chức theo dõi chặt chẽ diễn biến tình huống, tiến hành trinh sát phóng xạ và trinh sát hóa học, thực hiện các biện pháp làm giải các tính chất sát thương, phá hoại của vũ khí hạt nhân, đồng thời khắc phục những hậu quả của vũ khí hủy diệt lớn. Trong quá trình tiến hành các hoạt động tác chiến của chiến tranh lan rộng, các tầu ngầm khi ra khơi cơ động chiến đấu sẽ phải vượt qua các tuyến chống ngầm và các trận địa thủy lôi trên biển. Hoàn thành nhiệm vụ cơ động chiến đấu của tầu ngầm phụ thuộc không những là khả năng chuẩn bị sẵn sàng cơ động, cũng như là kết quả thục luyện và trình độ tác nghiệp điêu luyện của thủy thủ đoàn, mà còn là năng lực trình độ cao cấp của thuyền trường và sĩ quan chỉ huy trên tầu. Sĩ quan trực chỉ huy trên tầu có nhiệm vụ giữ ổn định khả năng sẵn sàng chiến đấu của tầu ngầm, chế độ cơ động hải trình, được quy định bởi chỉ hủy trường, theo dõi quỹ đạo cơ động của tầu ngầm, độ sâu lặn ngầm của tầu ngầm, kiểm soát các hoạt động theo dõi, trinh sát tình hình và diễn biến các tình huống trên biển, kiểm soát các hoạt động được duy trì trong chế độ bảo mật nghiêm ngặt. Trong chiến tranh khi bất ngờ xuất hiện tầu địch ( chạm địch) trên đường hành quân, sĩ quan trực chỉ huy chiểu theo những quy định tác chiến về việc sử dụng vũ khí và đồng thời ra quyết định điều khiển tầu ngầm né tránh sự phát hiện của địch hoặc đòn tấn công của vũ khí chống tầu ngầm của đối phương bằng các phương tiện chế áp thủy âm, sonar. Trong trường hợp được phép sử dụng vũ khí, sĩ quan trực chỉ huy tổ chức thực hiện đòn tấn công khi phát hiện đối phương trước. |
Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012
>> Tìm hiểu tàu ngầm tấn công lớp Kilo
Tàu ngầm lớp Kilo của Nga lần đầu tiên được đưa vào sử dụng năm 1980, do Cục Thiết kế Hàng hải Trung ương Rubin, St Petersburg thiết kế. Hiện nay phiên bản của lớp tàu ngầm này có ba loại là Loại 877EKM, loại 636 và loại 677, do xưởng đóng tàu Admiralty ở St Petersburg đóng. Hải quân Việt Nam đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo (Loại 636), chúng có những đặc điểm kỹ thuật như sau >> Chiến thuật tầu ngầm hải quân Xô Viết (Kỳ 1) Thiết kế Tàu gồm có sáu khoang kín được ngăn cách với nhau bằng những vách ngăn ngang trong lớp vỏ kép có áp suất. Thiết kế này và khả năng nổi tốt của nó làm cho nó vẫn có thể hoạt động được nếu bị thủng, thậm chí với một khoang và hai ngăn liền kề bị ngập nước. Tàu có chiều dài là 72,6m, đường kính 9,9m, trọng lượng dãn nước 2.350 tấn, 57 thủy thủ và có thể hoạt động liên tục 45 ngày trên biển. Tàu có thể lặn sâu tối đa 300m, tốc độ khoảng 22 km/h khi nổi và khoảng 40 km/h khi lặn. Tầm hoạt động là 12.000km khi có ống thông hơi và 640 km khi lặn. Tàu được trang bị một hệ thống chiến đấu và điều khiển đa mục đích cung cấp thông tin để điều khiển và phóng ngư lôi một cách hiệu quả. Hệ thống máy tính tốc độ cao của hệ thống có thể xử lý thông tin từ từ các thiết bị trinh sát và hiển thị lên màn hình; xác định dữ liệu mục tiêu nổi và chìm và tính toán các tham số bắn; điều khiển bắn tự động; và cung cấp thông tin và các kế hoạch gợi ý về hoạt động và triển khai vũ khí. Hỏa lực Tàu có một bệ phóng tám quả tên lửa biển đối không Igla hoặc Strela-3. Tên lửa Strela do Cục Thiết kế Fakel, Kaliningrad sản xuất (theo phiên bản tên lửa SA-N-8 Gremlin của NATO) có thiết bị dò tìm tia hồng ngoại nguội và đầu đạn nặng 2 kg. Tầm bắn tối đa là 6km. Tên lửa Igla (theo phiên bản SA-N-10 Gimlet của NATO) cũng được điền khiển bằng tia hồng ngoại nhưng nặng hơn, có tầm bắn tối đa 5 km và tốc độ gấp 1,65 lần tốc độ âm thanh (1.980 km/h). Tàu ngầm lớp này có thể triển khai được hệ thống tên lửa hành trình Novator Club-S (SS-N-27), sử dụng tên lửa chống tàu 3M-54E1. Tầm bắn là 220km, đầu đạn chứa 450kg thuốc nổ có sức công phá lớn. Tàu được trang bị sáu ống phóng ngư lôi 533 mm nằm ở phía mũi tàu ngầm và 18 quả ngư lôi. Các ống phóng ngư lôi này còn có thể triển khai được 24 quả thủy lôi. Hai ống phóng ngư lôi được thiết kế để bắn ngư lôi điều khiển từ xa có độ chính xác rất cao. Hệ thống ngư lôi do máy tính điều khiển giúp nạp đạn nhanh hơn. Loạt bắn đầu tiên được thực hiện trong 2 phút và loạt thứ hai trong 5 phút. Bộ phận cảm biến Tàu ngầm Loại 636 được trang bị hệ thống định vị siêu âm dưới nước kỹ thuật số MGK-400EM. Radar của tàu hoạt động theo chế độ sử dụng kính tiềm vọng và chế độ nổi, cung cấp thông tin về các tình huống dưới nước và trên không và định vị an toàn. Tàu còn được trang bị các thiết bị hỗ trợ điện tử, máy thu cảnh báo radar và máy định hướng bằng tín hiệu radio. Hệ thống đẩy Hệ thống đẩy của tàu bao gồm hai máy phát điện diesel, một động cơ đẩy chính, một động cơ tiết kiệm nhiên liệu, một bánh lái một trục và một chân vịt bảy cánh cố định. Thông số kỹ thuật Thể tích dãn nước: 2,300-2,350 tấn khi nổi 3,000-4,000 tấn khi lặn Kích thước: Dài: 70-74 meters Ngang: 9.9 meters Draft: 6.2-6.5 meters Tốc độ tối đa: 10-12 hải lý / giờ khi nổi 17-25 hải lý / giờ khi lặn Sức đẩy: Diesel-điện 5900 mã lực (4400kW) Độ sâu tối đa: 300 meters (hoạt động tốt ở độ sâu 240-250 meters) Bán kính hoạt động ngầm: 400 hải lý với tốc độ 3 hải lý/giờ (6km/h) lặn ngầm 6000 hải lý với tốc độ 7 hải lý/giờ sử dụng ống thông hơi (7,500 dặm cho lớp Kilo cải tiến) 45 ngày trên biển Vũ khí: Phòng không: 8 Tên lửa (phóng từ mặt nước) SA-N-8 Gremlin hoặc SA-N-10 Gimlet Sáu ống phóng thủy lôi 533 mm với 18 53-65 ASuW hoặc thủy lôi TEST 71/76 ASW hoặc VA-111 Shkval supercavitating "tên lửa ngầm", hoặc 24 mìn DM-1 Thủy thủ đoàn: 52 |
Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012
>> Chiến thuật tầu ngầm hải quân Xô Viết (Kỳ 1)
*Bài viết được tổng hợp từ nguồn Tech.edu (Biên dịch: Trịnh Thái Bằng) Lực lượng tầu ngầm hải quân là một binh chủng của quân chủng hải quân, có nhiệm vụ chủ yếu là sử dụng tầu ngầm để thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu dưới biển, binh chủng tầu ngầm trong thời bình và thời chiến phải thực hiện các nhiệm vụ quan trọng là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong công tác bảo vệ biển, hải đảo, lãnh hải, thềm lục địa và các vùng biển có lợi ích chính đáng của quốc gia dân tộc Trong giai đoạn ngày nay, các cường quốc biển tăng cương phát triển lực lượng hải quân, trong biên chế của các lực lượng, các hạm đội, lực lượng tấn công chủ lực của Hải quân là tầu ngầm và tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình phóng từ tầu ngầm và tầu nổi. Sự phát triển mạnh mẽ của tầu ngầm kết hợp tên lửa đã tăng cường khả năng tiến công và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng hải quân các cường quốc biển. Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của các nền kinh tế trên các biển và đại dương, các quốc gia hùng mạnh và có nền kinh tế cường thịnh đều có xu hương phát triển mạnh kinh tế biển đảo, những mâu thuẫn của các nền kinh tế phát triển làm nẩy sinh những nguy cơ tranh chấp các khu vực đặc quyền kinh tế, lãnh hải và bờ biển, đảo và quần đảo, vùng nước và thềm lục địa, sự tăng trưởng kinh tế và những suy thoái, lạm phát của những nền kinh tế mới nổi, các mâu thuẫn về chính trị, tôn giáo, áp lực dân số, cạn kiệt tài nguyên của nhiều vùng trên thế giới làm sâu thêm những mâu thuẫn giữa các nước có nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chậm phát triển, từ đó hình thành những nguy cơ chiến tranh cục bộ, xung đột khu vực, với sự tham gia của của các lực lượng quân sự hùng mạnh, có tiềm lực lớn cả về quân số, vũ khí trang bị và khoa học công nghệ. Nguy cơ chiến tranh, xung đột đang có xu hướng chuyển dần ra biển và đại dương. Trọng trách bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc được giao cho các lực lượng vũ trang, mà trong đó, trên biển và đại dương là chủ chốt là lực lượng hải quân và không quân hải quân. Quân chủng Hải quân là lực lượng vũ trang có nhiệm vụ tác chiến chủ yếu trên đại dương, trên biển, khu vực bờ biển và trong những trường hợp cần thiết, tác chiến sâu trong đất liền, quân chủng Hải quân bao gồm có lực lượng tầu chiến trên mặt nước, lực lượng tầu ngầm, không quân Hải quân, lực lượng pháo binh – tên lửa phòng thủ bờ biển, lực lượng lính thủy đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm hải quân, lực lượng vận tải đường biển, hậu cần kỹ thuật biển và các lực lượng khác theo yêu cầu nhiệm vụ. Lực lượng tầu ngầm hải quân là một binh chủng của quân chủng hải quân, có nhiệm vụ chủ yếu là sử dụng tầu ngầm để thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu dưới biển, binh chủng tầu ngầm trong thời bình và thời chiến phải thực hiện các nhiệm vụ quan trọng là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong công tác bảo vệ biển, hải đảo, lãnh hải, thềm lục địa và các vùng biển có lợi ích chính đáng của quốc gia dân tộc. Trong một số trường hợp theo yêu cầu, lực lượng tầu ngầm có thể thực hiện các nhiệm vụ khác phục vụ cho lợi ích của đất nước như nghiên cứu khoa học, cứu hộ cứu nạn, xây dựng các công trình ngầm…. Chiến thuật là một bộ phận của nghệ thuật quân sự, bao hàm lý thuyết và thực tế, huấn luyện sẵn sàng chiến đâu, triển khai các trận chiến đấu của các tầu, các đội tầu và các phân đội tầu. Chiến thuật nghiên cứu quy luật, tính chất và nội dung của trận đánh, từ đó đưa ra những phương pháp tiến hành trận đánh trên biển với các loại vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh. Chiến thuật bao gồm: Liên tục cập nhật các thông tin tình huống chiến trường, ra quyết định triển khai trận đánh và quyết tâm chiến đấu, giao nhiệm vụ cho cấp thuộc quyền theo quyết tâm chiến đấu, lên kế hoạch tác chiến, công tác đảm bảo và kế hoạch chuẩn bị cho trận đánh; điều hành các hoạt động tác chiến và các chiến hạm, các đội tầu và các phân đội binh chủng hợp thành thuộc quyền, tổ chức hiệp đồng và công tác đảm bảo cho các các hoạt động tác chiến. Chiến thuật của hạm đội bao gồm có chiến thuật của tầu ngầm, các loại tầu nổi trên mặt biển và không quân hải quân. Mỗi binh chủng trong hạm đội được phát triển chiến thuật của mình dựa trên cơ sở những nội dung chủ yếu của chiến thuật hạm đội, đồng thời chú trọng ý nghĩa chiến thuật, cấp loại tầu và vũ khí trang bị được biên chế cho tầu. Tầu ngầm U-boat của phát xít Đức Sơ đồ tầu ngầm U-boat Đức trực triến trên biển thuộc hải phận Anh, Đại chiến thế giới thứ II Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, các trận chiến đấu trên biển là sự phối hợp giữa các binh chủng của Hạm đội, bao gồm cả không quân Hải quân, các tầu ngầm tấn công đối phương hầu hết trong điều kiện lặn ngầm. Pháo binh trên tầu ngầm chủ yếu để tấn công các tầu vận tải không có vũ trang, các tầu ngầm thường hoạt động đơn lẻ hoặc theo đội tầu, sử dụng chiến thuật che mành (phục kích). Thời điểm ban đầu chiến tranh, các tầu ngầm của Đức thường thực hiện chiến thuật Bầy sói trên các tuyến đường vận tải của đối phương ( Anh, Mỹ..). Các đội tầu ngầm Đức sau khi tấn công đoàn công voa quân sự bằng ngư lôi, tiếp tục theo đuổi và tấn công nhiều ngày liền để gây tổn thất nặng nề cho đối phương. Phương pháp cơ động chủ yếu là ban đêm, nổi trên mặt nước, chiếm lĩnh vùng nước trên tuyến đường vận tải của đối phương, khi phát hiện đối phương sẽ lặn xuống và tấn công mục tiêu bằng ngư lôi. Cuối chiến tranh, các lực lượng chống ngầm phát triển mạnh, cùng với sự phát triển của sonar và radar, sự hiển diện của tầu ngầm trên mặt biển trở lên vô cùng nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có thể bị phát hiện, bị tấn công tiêu diệt, chiến thuật Bầy Sói phá sản, các tầu ngầm bắt buộc phải hoạt động chủ yếu ở dưới ngầm, sử dụng động cơ điện hoặc cận ngầm, tầu phải lặn ở độ sâu không đáng kể, sử dụng thiết bị thông khí để chạy động cơ diesen dưới mặt nước biển. Chiến thuật treo mành ( phục kích) dọc tuyến đường vận tải của Tầu ngầm hải quân Xô viết. 1944 Tầu ngầm tấn công các tầu vận tải và tầu chiến Trong đại chiến thế giới lần thứ II, các tầu ngầm đã rất thành công trong nhiệm vụ sử dụng vũ khí trên boong, chủ yếu là ngư lôi chống các tầu nổi, cài đặt và rải thủy lôi, đổ bộ lực lượng đặc công trinh sát vào sâu trong hậu phương địch, rút các lực lượng đặc nhiệm và du kích khỏi chiến trường, cung cấp lương thực thực phẩm và cơ sở vật chất cho các tầu ngầm khác, cung cấp cơ sở vật chất cho các khu vực bị phong tỏa, cứu hộ cho lực lượng không quân. Sau chiến tranh, giai đoạn chiến tranh lạnh đã có sự phát triển mạnh mẽ của các lực lượng hải quân, trong đó có lực lượng tầu ngầm. Nền công nghiệp đóng tầu ngầm đã có những thay đổi rất lớn, đó là sử dụng năng lượng nguyên tử cho tầu ngầm, ứng dụng sự phát triển vượt bậc của điện tử, vi mạch, bán dẫn, các tầu ngầm được trang bị các hệ thống vũ khí hiện đại như tên lửa các loại, ngư lôi, các phương tiện trang thiết bị hiện đại khác …) Từ đó, chiến thuật sử dụng tầu ngầm cũng có những thay đổi mang tính cách mạng, không gian chiến trường rộng lớn, uy lực của vũ khí trang bị trên boong rất mạnh như vũ khí hủy diệt lớn, vũ khí có độ chính xác cao, các lực lượng tham gia đội hình chiến đấu cũng trở lên đa dạng và hiệu quả tác chiến cao hơn hẳn so với chiến tranh thế giới thứ II, từ đó, việc triển khai và điều hành các lực lượng tác chiến trên biển cũng trở lên phức tạp và đòi hỏi trình độ khoa học rất cao. Phải có những phương thức và nghệ thuật điều hành chiến đấu hoàn toàn mới với các lực lượng tham gia tác chiến, đảm bảo cho các đơn vị hiệp đồng chiến đấu nhịp nhàng ăn khớp, hiệu quả trận đánh cao. Phối hợp tác chiến cùng chiến hạm Hoạt động trong đội hình của hạm đội Chiến thuật tác chiến tầu ngầm cũng có những phương pháp chiến đấu mới, có thể là một tầu độc lập tác chiến, một đội tầu hoặc một liên đội trong hình thức tác chiến phục kích che mành, và tác chiến của phân đội tầu ngầm nhiều loại hoặc các phân đội binh chủng hợp thành. Trong chiến thuật của các phân đội tầu, trọng tâm là điều hành tác chiến của các tầu nhiều cấp loại và mục đích chiến thuật khác nhau. Chiến thuật của không quân Hải quân có vị trí then chốt là hoạt đống chống lại các đòn tấn công của các lực lượng tầu trên biển của đối phương, ngăn chặn những đòn tấn công của máy bay cường kích mang tên lửa của địch, thực hiện nhiệm vụ chống ngầm bằng vũ khí của không quân và phối hợp với các lực lượng chống ngầm khác. Tầu ngầm phóng tên lửa đạn đạo Theo nhận định của các chuyên gia, tầu ngầm nguyên tử cấp chiến lược, trang bị ICBM với độ chính xác cao và các đầu đạn hạt nhân có công suất phá hủy lớn, hoạt động bí mật, tính cơ động cao và các tính năng kỹ thuật khác, đảm bảo cho tầu ngầm nguyên tử có khả năng tác chiến ổn định, có ảnh hưởng mang tính quyết định chiến lược đến cục diện chiến trường. Tầu ngầm nguyên tử là lực lượng tấn công hải – đất liền chủ đạo nhằm vào các mục tiêu trong khu vực kiểm soát, nội địa của đối phương. Do có khả năng duy trì hoạt động thời gian dài dưới biển, xuất hiện hình thức sử dụng tầu ngầm nguyên tử mới, bí mật tuần phòng và trực chiến đấu trong các vùng nước sâu trên đại dương, sắn sàng khai hỏa tấn công các mục tiêu trên bờ và ở sâu trong đất liền đối với các quốc gia được coi là có nguy cơ xảy ra chiến tranh. Khả năng duy trì liên tục nguy cơ bị tấn công bất ngờ từ dưới biển sâu đã làm xuất hiện một hướng phát triển tầu ngầm và phương thức tác chiến mới- chống ngầm. Lực lượng chống ngầm của tầu ngầm chống lại các lực lượng tên lửa chiến lược từ dưới biển – các tầu ngầm mang tên lửa. Theo các chuyên gia nước ngoài nhận định, để chống lại đòn đánh từ các tầu ngầm, phương thức tác chiến hiệu quả nhất là sử dụng các tầu ngầm, được trang bị các vũ khí và phương tiện chống ngầm. Hầu hết các tầu ngầm của Mỹ và Anh, ngoại trừ các tầu mang tên lửa, đều có khả năng chống ngầm rất cao. Điển hình là các tầu ngầm nguyên tử ngư lôi đa nhiệm với tốc độ cao và được trang bị các thiết bị trinh sát sonar, thủy âm, cho phép phát hiện tầu ngầm đối phương và theo dõi từ khoảng cách rất xa. Phóng tên lửa Tomahawk từ tầu ngầm Một trong những phương pháp sử dụng tầu ngầm chống ngầm được xác định là cơ bản, đó là tầu ngầm tiến hành tuần tiễu ở tuyển chống ngầm ( phục kích chống ngầm) hoặc tham gia truy tìm các tầu tên lửa cùng với các lực lượng chống ngầm và phương tiện chống ngầm khác. Song song cùng triển khai các tầu ngầm đơn lẻ, các đội tầu tìm kiếm, theo dõi và phục kích các tầu ngầm tên lửa là hoạt động tác chiến chống ngầm của phân đội binh chủng hợp thành (tầu ngầm, tầu chống ngầm và máy bay chống ngầm). Các chuyên gia quân sự cho rằng: sự liên kết phối hợp chống ngầm của phân đội binh chủng hợp thành, với hệ thống thiết bị trinh sát siêu âm, thủy âm tầm xa có thể dự đoán, cảnh báo và phát hiện sớm các tầu ngầm đối phương, từ đó có thể giải quyết tốt nhiệm vụ bảo vệ các tầu ngầm tên lửa của Hạm đội trước các đòn tấn công của tầu ngầm đối phương, đồng thời còn có thể bảo vệ tốt các tập đoàn chiến hạm của Hạm đội và các đoàn vận tải quân sự. Các tầu ngầm ngày càng được biên chế chung vào trong đội hình tác chiến của các liên đoàn tầu chiến hoặc các đoàn công voa quân sự hoặc tham gia tuần tiễu bảo vệ các tầu ngầm nguyên tử mang vũ khí chiến lược. Các tầu ngầm diesen được biên chế trong tuyến phòng thủ các khu vực bờ biển, hải đảo, trong đội hình phòng thủ chúng của các lực lượng phòng thủ bờ biển. Đồng thời cùng với các phương án sử dụng tầu ngầm trong tác chiến, hình thành và phát triển các phương tiện, trang thiết bị hiện đại để tìm kiếm, phát hiện và tấn công các tầu ngầm. Chiến thuật tầu ngầm hiện đại đã và đang phát triển các giải pháp, phương án và thủ đoạn chiến thuật vượt qua các lực lượng chống ngầm và các phương tiện chống ngầm của đối phương, các phương án chế áp chống ngầm được xây dựng dưa trên khả năng giữ bí mật cao, vũ khí trang bị hiện đại, hiệp đồng binh chủng và trang thiết bị, phương tiện chế áp điện tử. Song hành cũng với các phương án chiến thuật hiện đại, dựa trên cơ sở của vũ khí trang bị công nghệ cao. Hướng phát triển tiếp theo của chiến thuật tầu ngầm dưa trên kinh nghiệm của chiến tranh thế giới lần thừ II, và được phát triển mạnh mẽ trong điều kiện thế giới hiện này, đó là sử dụng tầu ngầm để chống tầu nổi và các đoàn vận tải quân sự. Chiến trường trên biển, trên các tuyến đường vận tải huyết mạch ngày càng trở lên rộng lớn và phức tạp hơn do sự lớn mạnh của các nước phát triển, nhu cầu về các nguồn tài nguyên khoáng sản chiến lược, năng lượng cũng như khai thác tài nguyên trên biển, trên đảo và thềm lục địa ngày càng gay gắt, dẫn đến cạnh tranh và mâu thuẫn lợi ích vô cùng sâu sắc. Trong các nguy cơ xung đột này, lực lượng tầu ngầm, đặc biệt tầu ngầm nguyên tử đóng vai trò quan trọng và mang tính quyết định. Các tầu ngầm nguyên tử, tầu ngầm diesen hiện đại cần phải có khả năng hoạt động, bảo vệ tất cả các tuyến đường vận tải biển, từ hải cảng này đến hải cảng khác. Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng đó, lực lượng Hải quân Mỹ, đặc biệt là tầu ngầm, đã đưa vào biên chế trang bị cho tầu ngầm hệ thống tên lửa hành trình có tầm bắn đến 2000 km, phóng từ tầu ngầm qua ống phóng ngư lôi, có khả năng tiêu diệt các mục tiêu nằm sâu trong đất liền đối phương, các tầu chiến trên mặt nước, tầu vận tải, căn cứ hải quân trên biển, trên đảo và hải cảng. Đồng thời, người Mỹ cũng phát triển những thủ đoạn chiến thuật sử dụng tên lửa hành trình khi tác chiến tấn công các mục tiêu được lựa chọn, có khả năng xuyên thủng hệ thống phòng thủ mạnh mẽ của đối phương trên đất liền, trên biển và đại dương. Sự hiểu biết của các sĩ quan hải quân tầu ngầm về chiến thuật tác chiến của tầu khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, đồng thời khả năng và phương thức sử dụng lực lượng chống ngầm, phương tiện chống ngầm của đối phương, các thủ đoạn, phương pháp chọc thủng tuyến phòng thủ chống ngầm là điều kiện căn bản để hoàn thành xuất sắc nhiệm vị được giao trong chiến đấu trên biển. Sự hiểu biết căn bản về sử dụng tầu ngầm, tính năng kỹ chiến thuật của tầu và các phương án, thủ đoạn của chiến thuật sử dụng tầu ngầm cần thiết không chỉ cho các sỹ quan hạ sĩ quan trong lực lượng Hải quân, và còn là sự hiểu biết căn bản, sâu sắc trong lực lượng vũ tranh. Khi thực hiện các nhiệm vụ tác chiến chiến thuật hoặc chiến dịch, có sự hiệp đồng của các quân binh chủng, lực lượng phòng thủ bờ biển, lực lượng bảo vệ tuyến phòng thủ lợi ích quốc gia, phối hợp nhuần nhuyễn, nhanh chóng và hiệu quả với lực lượng tầu ngầm, đặc biệt khi tác chiến chống ngầm. Chương I. Tính năng kỹ chiến thuật tầu ngầm 1.1 Phân loại tầu ngầm và cơ cấu tổ chức biên chế của binh chủng Tầu ngầm 1.2 Nhiệm vụ chủ yếu của tầu ngầm 1.3 Những tính năng kỹ chiến thuật Chương II. Những hình thức tác chiến chủ yếu của tầu ngầm 2.1 Các hình thức chiến thuật của tầu ngầm 2.2. Các phương án tác chiến sử dụng lực lượng tầu ngầm 2.3 . Điều hành, kiểm soát lực lượng tầu ngầm và công tác đảm bảo Chương III. Cơ động hành quân của tầu ngầm dưới biển. 3.1 Tổ chức hành quân cơ động 3.2 Bí mật bất ngờ trong hành quân chiến đấu. 3.3 Lực lượng chống ngầm và vũ khí trang bị, phương tiện 3.4. Giải pháp vượt qua khu vực chống ngầm và phòng tuyến chống ngầm Chương IV. Tầu ngầm trong hoạt động Trinh sát địch 4.1 Nhiệm vụ, mục tiêu và phương tiện trang bị trinh sát 4.2 Tìm kiếm và quan sát 4.3 Theo dõi mục tiêu Chương V. Tầu ngầm tác chiến chống chiến hạm nổi 5.1. Lực lượng tấn công chủ lực trên biển 5.2 Đoàn vận tải quân sự (congvoa) và các đội đặc nhiệm đổ bộ. 5.3 Các hình thức tác chiến với chiến hạm trên mặt biển. Chương VI. Tầu ngầm tác chiến chống tầu ngầm. 6.1 Tầu ngâm nguyên tử mang tên lửa. 6.2 Hoạt động tác chiến chống tầu ngầm Chương VII. Tầu ngầm tác chiến tấn công các mục tiêu trên đất liền 7.1 Hệ thống phòng thủ tên lửa 7.2 Đòn tấn công vào các mục tiêu trên đất liền Kết luận |
Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012
>> Tàu ngầm Trung Quốc lọt top 8
Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo Type-094 của Trung Quốc đã lọt vào top 8 tàu ngầm mạnh nhất thế giới do các chuyên gia quân sự Nga xếp hạng.
Hãng thông tấn vũ khí Nga Arms-expo vừa thực hiện bảng xếp hạng danh sách các loại vũ khí và thiết bị quân sự hiện đại nhất trên thế giới, trong đó, các chuyên gia quân sự Nga đã so sánh hiệu quả của các tàu ngầm hạng nặng mang tên lửa đạn đạo chiến lược của tất cả các cường quốc quân sự.
Sau khi đánh giá và xếp hạng, các loại tàu ngầm của Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ đã lần lượt chiếm lĩnh các vị trí quan trọng. Trong danh sách 8 loại tàu ngầm hạt nhân mạnh nhất thế giới của 6 quốc gia, Mỹ vẫn là cường quốc số 1, trong khi đó, dù đứng ở vị trí số hai, nhưng Hải quân Nga lại có tới 3 đại diện tàu ngầm. Điều bất ngờ nhất, tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn, Type-094 của Hải quân Trung Quốc đã được đánh giá khá cao và lọt vào vị trí số 7. Điểm xếp hạng các tàu ngầm SSBN do các chuyên gia Nga. Sức mạnh tấn công của tất cả các vũ khí trên tàu (số lượng đầu đạn, tầm bắn cực đại của tên lửa đạn đạo liên lục địa, độ chính xác tấn công mục tiêu). Cấu trúc, các chỉ số hoàn hảo khi hoạt động (lượng giãn nước, các thông số về kích thước, hiệu suất, độ bền) Độ tin cậy (thời gian thực hiện một loạt bắn tên lửa, thời gian giữa các loạt bắn liên tiếp, xác suất phóng thành công tên lửa, xác suất hỏng của hệ thống trên tàu). Hiệu suất hoạt động (tốc độ di chuyển trên mặt nước và dưới nước, mức độ tự động hóa khi vận hành và khả năng hoạt động dài ngày). Trước năm 1991, Ấn Độ tuy không tự chế tạo được tàu ngầm hạt nhân nhưng họ đã thuê của Liên Xô loại tàu ngầm tên lửa đa năng Project 670, riêng tàu ngầm hạt nhân chiến lược đầu tiên của họ, tàu INS Arihant vẫn đang trong quá trình hoàn thiện chế tạo. Vị trí của các tàu ngầm Kết quả trong danh sách các tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược mạnh nhất đã không có bất ngờ với sự chiếm lĩnh ngôi vị số một thuộc về loại tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio của Hải quân Mỹ, đạt tổng số điểm 49,4. Sau Mỹ là Nga với 3 đại diện tàu ngầm là tàu ngầm lớp Dolphin thuộc Project 667BDRM (NATO gọi là tàu ngầm lớp Delta IV) với tổng điểm 47,7. Tàu ngầm Project 941, lớp Akula (định danh NATO là Typhoon) đạt 47,1 điểm và tàu ngầm Project 955 Borey đạt 41,7 điểm. Cả ba tàu ngầm này của Nga lần lượt xếp vị trí từ 2 đến 4. Xếp thứ năm là tàu ngầm lớp Vanguard của Anh với 35,9 điểm. Tàu ngầm lớp Le Triomphant của Pháp đứng thứ sáu (33,4 điểm). Đặc biệt, tàu ngầm Type-094 của Trung Quốc đã lọt vào vị trí thứ 7 với tổng 30,1 điểm, số điểm này của Type-094 bỏ xa tàu ngầm INS Arihant của Ấn Độ xếp thứ 8 (17,7 điểm). Ohio vẫn luôn được đánh giá là tàu ngầm hạt nhân số 1 thế giới. Tàu ngầm tấn công hạt nhân mang tên lửa chiến lược Ohio của Hải quân Mỹ luôn được xếp hạng cao nhất kể từ năm 2002 tới nay. Tàu ngầm lớp Ohio có thể di chuyển với tốc độ 17 hải lý/h khi di chuyển trên mặt nước và đạt tới tốc độ 25 hải lý/h, khả năng hoạt động hiệu quả ở độ sâu 365 m, và có thể tới mức độ giới hạn là 550 m. Tàu được biên chế 14 - 15 sỹ quan và 140 thủy thủ. Lượng giãn nước là 16.746 tấn khi nổi và 18.750 tấn khi chìm, chiều dài 170,7 m, rộng 12,8 m, và cao 11,1 m. Tàu ngầm Ohio được trang bị 1 lò phản ứng hạt nhân được làm nguội bằng nước nén General Electric GE PWR S8G với hai động cơ turbine hơi (tổng công suất 60.000 mã lực), 2 động cơ turbine (mỗi động cơ có công suất 4 MW), một động cơ diesel (công suất 1,4 MW), một động cơ chân vịt dự trữ (công suất 325 mã lực). Vũ khí chính bao gồm 4 ống phóng ngư lôi 533 mm và 24 tên lửa đạn đạo Trident IID5. Tàu ngầm xếp hạng 2, tàu ngầm hạt nhân chiến lược Project 667BDRM có tốc độ di chuyển khi nổi là 14 hải lý/h và khi lặn là 24 hải lý/h (thấp hơn so với Ohio), tàu có thể hoạt động ở độ sâu 400 m, và độ sâu giới hạn là 650 m, khả năng hoạt động liên tục trên biển trong thời gian 90 ngày, thủy thủ đoàn 140 người, lượng giãn nước khi nổi là 11.740 tấn, khi lặn 18.200 tấn, chiều dài 167,4 m, rộng 11,7 m và cao 8,8 m. Tàu ngầm hạt nhân Project 677BDRM của Hải quân Nga. Tàu ngầm Project 667BDRM được trang bị kết hợp 2 lò phản ứng hạt nhân ВМ-4СГ (VM-4SG) công suất 180 MW, 2 tua-bin công suất 60.000 mã lực, 2 tua-bin phát điện ТГ-300 (TG-300) công suất 3 MW, 2 động cơ Diesel công suất 460 kW. Vũ khí chính bao gồm 4 ống phóng ngư lôi 533 mm và 16 tên lửa đạn đạo R-29RM. Tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn (Type-094) hiện vẫn đang là tàu ngầm hiện đại nhất trong biên chế của Hải quân Trung Quốc. Tàu có chiều dài 133 m, lượng choán nước khi nổi 8.000 tấn, khi lặn 9.000 tấn. Các đặc điểm khác vẫn chưa được công bố. Vũ khí tấn công chủ lực của tàu là 12 tên lửa đạn đạo liên lục địa phóng từ tàu ngầm JL-2 có tầm bắn tối đa từ 7.000 - 8.000 km cùng với 6 ống phóng ngư lôi 533 mm. |
Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011
>> Tầu ngầm hạt nhân mới nhất của Nga bắt đầu thử nghiệm
Tàu ngầm tấn công đa năng chạy bằng năng lượng hạt nhân Severodvinsk, thuộc lớp Project 885 Yasen (Graney) đầu tiên của Nga đã được đưa ra biển để thử nghiệm vào hôm 12/9. Thông tin được nhà máy đóng tàu Sevmash công bố. Con tàu được hạ thủy dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Sergey Mitiaeva. Việc lắp đặt tàu Severodvinsk - dự án tàu ngầm lớp 885 Yasen (lớp Graney) đầu tiên, được bắt đầu năm 1993 tại nhà máy đóng tàu Sevmash ở thành phố cảng Severodvinsk thuộc miền bắc nước Nga. Các chuyên gia cho biết việc đóng tàu bị kéo dài như vậy không chỉ do các khó khăn kinh tế, mà còn bởi nguyên tắc thiết kế thân tàu và trang bị vũ khí. Hiện nay, không chỉ ở Nga, mà cả trên thế giới đều không có tàu ngầm tương đương với tàu nguyên tử thế hệ thứ tư Severodvinsk. Tàu dự kiến sẽ đi vào phục vụ trong Hải quân Nga vào cuối năm 2011. Mô hình 3D của tàu ngầm Severodvinsk. Tàu ngầm hạt nhân lớp Graney là tàu ngầm đa năng thế hệ thứ tư, có thiết kế thân tàu và trang bị vũ khí mới hiện đại và là tàu ngầm gây ít tiếng ồn nhất thế giới và có khả năng tàng hình. Severodvinsk được thiết kế để phóng nhiều tên lửa hành trình tầm xa khác nhau lên đến 3.100-5.000 km, với đầu đạn thông thường hoặc đầu đạn hạt nhân, và có thể tiêu diệt tất cả tàu ngầm, tàu nổi và các mục tiêu trên đất liền của đối phương. Đuôi vỏ tàu ngầm trục với một mức độ thấp của lĩnh vực âm thanh. Thân tàu có kiểu dáng lướt nước hình bầu dục với 10 khoang chiến đấu. Tàu được trang bị các hệ thống thông tin liên lạc và định vị hiện đại nhất, động cơ hạt nhân mới và có nhiệm vụ tấn công các mục tiêu khác nhau ngầm dưới nước, trên biển và trên bộ. Tàu có lượng giãn nước 8.600 tấn khi nổi, 13.800 tấn khi lặn, độ lặn sâu tối đa 600m, di chuyển với tốc độ 16 hải lý/h khi nổi và 31 hải lý/h khi lặn, với thủy thủ đoàn 90 người. Vũ khí trang bị cho tàu ngầm này bao gồm tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm (SLCM) 3M51 Alfa, NX-26 Onik hoặc the SS-N-21 Granat/Sampson. Tàu có 8 ống phóng ngư lôi cũng như thủy lôi và các tên lửa chống tàu (như SS-N-16 Stallion). Điểm mới ở tàu ngầm Severodvinsk là ống phóng ngư lôi không được đặt ở trong mũi của con tàu. Tàu ngầm thứ hai của lớp Graney, tàu Kazan hiện đang được đóng ở nhà máy Sevmash trong khi việc đóng tàu ngầm thứ ba thuộc lớp này sẽ bắt đầu đóng vào cuối năm 2011. Hải quân Nga có kế hoạch nhận được tới 10 tàu ngầm lớp Graney cho đến năm 2020. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)