J-15 hay còn được gọi là Cá mập bay là chiếc máy bay Trung Quốc sản xuất dành riêng cho tàu sân bay Liêu Ninh. Hôm 25/11 vừa qua, chiếc J-15 đầu tiên có cuộc cất hạ cánh thành công đầu tiên trên sàn tàu Liêu Ninh. >> Xung đột trên biển: Không quân Trung Quốc chiếm ưu thế trước Nhật Bản? >> Tìm hiểu máy bay tiêm kích J-10 của Không quân Trung Quốc Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang hoàn thiện từng bước trước khi đưa J-15 và sản xuất hàng loạt để trang bị cho tàu sân bay duy nhất của mình. Cá mập bay J-15 của Không quân Trung Quốc Khó khăn trong tìm "hàng mẫu" Dự án J-15 của Trung Quốc ra đời vào năm 2001, sau khi mua được một chiếc Su-33 của Liên Xô đã nhường lại cho Ukaraina. Trước đó, mặc dù rất muốn nhưng Trung Quốc không đủ cơ sở để phát triển dự án này khi mà Nga kiên quyết từ chối các đơn đặt hàng Su-33 của Trung Quốc sau bài học về Su-27SK. Năm 2006, Nga từ chối một bản hợp đồng mua Su-33 của Trung Quốc khi họ yêu cầu Nga chuyển trước 2 chiếc để "đánh giá". Năm 2009, Nga một lần nữa từ chối hợp đồng mua Su-33 của Trung Quốc dù số lượng đã được nâng lên 14 chiếc. Khi đó, Nga đã yêu cầu Trung Quốc mua ít nhất 24 chiếc Su-33 nhưng không được chấp nhận. Đây là dự án được phát triển và nghiên cứu chung bởi Viện Nghiên cứu 601 của Hải quân Trung Quốc và Tổng Cty hàng không Thẩm Dương. Năm 2005, những đồn đoán đầu tiên về chiếc máy bay này bắt đầu xuất hiện trên các trang tin, diễn đàn quân sự thế giới. Ban đầu, nhiều người cho rằng đây là một chiến đấu cơ bán tàng hình nhưng trong những bức ảnh đầu tiên xuất hiện năm 2009, các chuyên gia quân sự thế giới đã thấy ngay được hình dáng của Su-33 trong J-15. Theo trang tin RIA của Nga, chuyến bay thử đầu tiên của J-15 được diễn ra vào 31/8/2009, một tháng trước ngày Quốc khánh thứ 60 của Trung Quốc. Qua những hình ảnh đầu tiên về Cá mập bay, các chuyên gia hàng không cho biết những hệ thống quan trọng của máy bay như điều hướng và cất hạ cánh có khả năng được được sao chép từ chiếc Su-33 Trung Quốc mua từ Ukraina. J-15 của Trung Quốc phát triển dành cho tàu sân bay Liêu Ninh Vượt trội so với "cựu chiến binh" Đại tá Igor Korotchenko, Bộ Quốc phòng Nga đã đưa ra lời nhận xét sau khi J-15 xuất hiện: “J-15 khó có thể đạt được những tính năng như Su-33 và có lẽ người Trung Quốc sẽ phải mua Su-33 về dùng trên tàu sân bay của mình”. Bên cạnh đó còn nhiều lời chỉ trích nữa dành cho chiếc máy bay này, ngoài chuyện có vẻ ngoài giống Su-33 nó còn bị đánh giá thấp về các khả năng chiến đấu. Thế nhưng, Trung Quốc đã chứng minh được khả năng của mình, các hệ thống điện tử, vũ khí và radar của J-15 đều là hàng nội địa nhưng vẫn vượt trội hơn so với Su-33 của Nga. Khi đó, các chuyên gia đem phần khung của J-15 so sánh với Su-33 còn phần sức mạnh và chức năng của nó được đánh giá ngang hàng với các máy bay F-18 của Mỹ sử dụng trên các tàu sân bay của họ. Mặc dù thành công với J-15, đạt được những tính năng vượt trội hơn so với Su-33 của Nga nhưng đáng buồn cho Trung Quốc là khi J-15 thử nghiệm thành công cũng là lúc Nga cho Su-33 về" nghỉ hưu", ngừng phục vụ trên tàu sân bay của mình. Cuối năm 2009, Hải quân Nga đã chi hơn 1 tỉ USD để mua về 24 máy bay chiến MiG-29K, loại máy bay dành riêng cho tàu sân bay để thay thế toàn bộ Su-33 trên tàu Kuznetsov. Đây là phiên bản tàu sân bay của MiG-29, nó có chuyến bay thử đầu tiên từ 2005, 15 năm sau khi bản MiG-29 đầu tiên ra đời. Nan giải về trái tim của "Cá mập bay" Trong lần đầu tiên bay thử năm 2009, J-15 được trang bị các hệ thống điện tử, radar và vũ khí nội địa. Tất cả đều được nâng cấp từ dự án J-11B trước đó mà Trung Quốc đã vi phạm thỏa thuận sở hữu trí tuệ với Nga về hợp đồng sản xất Su-27SK. Thế nhưng điểm mấu chốt nhất và là sức mạnh của chiếc máy bay là động cơ thì J-15 vẫn chạy bằng động cơ phản lực AL-31F của Nga. Đến tháng 7/2011, Trung Quốc tuyên bố J-15 của họ đã có thể bay bằng động cơ FWS-10H tự sản xuất, động cơ trước đây sử dụng cho J-11B. Khi đó các chuyên gia quân sự cho biết, lực đẩy tối thiểu để J-15 cất cánh là 12,8 tấn nhưng công suất tối đa của FWS-10H chỉ là 12,5 tấn. Điều đó cho thấy có thể Trung Quốc đã thay đổi động cơ để phù hợp với máy bay hoặc ngược lại, J-15 đã bị cắt xén một vài phần để có thể bay bằng FWS-10H. Không những thay đổi về động cơ, các chuyên gia hàng không Trung Quốc còn phải nghiên cứu rất nhiều để đưa ra một số cải tiến giúp J-15 có thể cất hạ cánh thành công trên sàn của tàu sân bay Liêu Ninh như hiện nay. Có thể kể đến là bánh xe mũi hàng đôi giúp máy bay ổn định và thăng bằng tốt trong quá trình cất hạ cánh trên sàn tàu mấp mô. Thêm vào đó móc đuôi giúp nó kết hợp với cáp hãm đà trên tàu Liêu Ninh trong khi hạ cánh. Cuối cùng là khả năng gập đôi cánh khi đang đậu để tiết kiệm diện tích khi tập hợp trên tàu sân bay. Trước đây, các máy bay sản xuất theo hợp đồng với Nga, phải sử dụng các hệ thống bên trong của nhà cung cấp và thường không tương thích với vũ khí của Trung Quốc. J-15 có thể sử dụng tốt các vũ khí trong nước do có hệ thống tương thích, các vũ khí của nó bao gồm tên lửa PL-8, PL-12 AAMs hay tên lửa chống hạm YJ-83K, một số loại bom dẫn đường thông minh. Đây là những bước tiến khá lớn của Hải quân Trung Quốc khi sức mạnh của J-15 được đánh giá ngang hàng với F/A-18C của Mỹ. Trung Quốc đang có kế hoạch sản xuất hàng loạt J-15 để trang bị cho Liêu Ninh trong khi hiện nay đã có 20 chiếc máy bay loại này được sản xuất, sử dụng cho công tác thử nghiệm và đào tạo phi công. Đầu tháng 11 vừa qua, Trung Quốc cũng đã công bố những hình ảnh đầu tiên về chiếc J-15 thứ 2 của mình. Nhưng đây lại là một phiên bản 2 chỗ ngồi, trong đó phi công phụ sẽ là người đảm nhận nhiệm vụ điều khiển hệ thống vũ khí của máy bay. Nguyên lí hoạt động của phiên bản này được cho là giống với máy bay trên tàu sân bay F-15E của Mỹ. Tuy nhiên, hiện nay Mỹ cũng đã cho các máy bay F-15E của mình ngừng hoạt động. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiêm kích J-10. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiêm kích J-10. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013
>> Tìm hiểu Cá mập bay J-15 của Không quân Trung Quốc
Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013
>> Cuộc đối đầu giữa F-15 Nhật Bản với J-10 Trung Quốc
So sánh sức mạnh F-15J và J-10 thì giống như “kẻ tám lạng, người nửa cân”. Xét một cách chủ quan về hệ thống radar điều khiển hỏa lực của 2 loại máy bay thì F-15J có phần nhỉnh hơn. >> Tìm hiểu máy bay tiêm kích J-10 của Không quân Trung Quốc >> Báo Hàn Quốc bàn về khả năng máy bay J-10 Trung Quốc F-15J là máy bay tiêm kích đánh chặn “xương sống” của lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF). Hiện nay, trong kho máy bay chiến đấu của lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF) biên chế 424 tiêm kích làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời, vùng biển lãnh thổ nước này. Trong đó, tiêm kích F-15J/DJ chiếm số lượng đông đảo nhất, hơn 200 chiếc. F-15J là biến thể tiêm kích đánh chặn mọi thời tiết F-15 Eagle do hãng McDonnell Douglas (Mỹ) nghiên cứu phát triển. Năm 1975, chính phủ Nhật Bản đã quyết định mua F-15J/DJ từ Mỹ nhằm hiện đại hóa lực lượng không quân. Việc chế tạo F-15J/DJ do Tập đoàn Misubishi Heavy Industries thực hiện trong nước theo giấy phép sản xuất của Mỹ từ năm 1981 tới 1997. Trong đó, F-15J là tiêm kích đánh chặn chiếm ưu thế trên không còn F-15DJ là biến thể huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi. Sức mạnh F-15J F-15J là tiêm kích đánh chặn có kích thước lớn, dài 19,43m, cao 5,63m, sải cánh 13,05m, trọng lượng cất cánh tối đa 30,84 tấn. F-15J được lắp đặt hệ thống radar điều khiển hỏa lực (ở mũi máy bay) AN/APG-63(V)1 có khả năng theo dõi 14 mục tiêu và dẫn bắn 6 tên lửa tấn công 6 mục tiêu cùng lúc. Ngoài hệ thống radar, F-15J trang bị các khí tài tác chiến điện tử tương tự biến thể F-15C/D của Mỹ gồm: hệ thống chế áp điện tử bên trong AN/ALQ-135, radar cảnh báo sớm AN/ALR-56. Tiêm kích đánh chặn hạng nặng F-15J. Về hệ thống vũ khí trên F-15J, máy bay được thiết kế với một pháo 20mm 6 nòng M61 Vulcan (dự trữ đạn 940 viên) trong thân dùng cho không chiến tầm cực gần, ở cự ly mà tên lửa không đối không khó phát huy hiệu quả cao nhất. Ngoài pháo trong thân, máy bay thiết kế 10 giá treo trên cánh và thân có khả năng mang được hơn 7 tấn vũ khí gồm tên lửa và bom. Ban đầu các tiêm kích F-15J đều phải sử dụng các tên lửa đối không nhập khẩu từ Mỹ. Nhưng hiện nay tất cả được thay thế bằng vũ khí do Nhật Bản tự sản xuất. F-15J có thể mang 3 loại tên lửa không đối không sau: - Tên lửa không đối không tầm ngắn AAM-3 có tầm bắn tối đa 13km, lắp đầu tự dẫn hồng ngoại (tức là bám theo tín hiệu nhiệt phát ra từ miệng phụt động cơ phản lực). - Tên lửa không đối không tầm ngắn AAM-5 có tầm bắn tối đa 35km, lắp đầu tự dẫn hồng ngoại. - Tên lửa không đối không tầm trung AAM-4 có tầm bắn 100-120km, lắp đầu tự dẫn radar chủ động (tức là ở khoảng cách nhất định thì radar trên tên lửa sẽ kích hoạt bám bắt và tấn công mục tiêu). Máy bay có thể mang bom thông thường Mk 82 nặng 227kg hoặc bom chùm CBU-87 nặng 430kg (chứa 202 đạn nhỏ) dùng để tấn công phương tiện chiến đấu bọc thép và mục tiêu mềm. Máy bay trang bị 2 động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy Pratt & Whitney F100-100 cho phép đạt tốc độ tối đa 2.660km/h (trần bay cao) hoặc 1.450km/h (trần bay thấp), trần bay tối đa 20.000m. “Đại bàng hay rồng mạnh hơn” Trong những ngày gần đây, F-15J thường xuyên được nhắc đến trên truyền thông thế giới vì đây là loại tiêm kích mà Nhật Bản đang sử dụng để đánh chặn các máy bay Trung Quốc xâm phạm không phận quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư. Và trong một động thái mới đây, chính quyền Trung Quốc tuyên bố điều tiêm kích J-10 để giám sát F-15J của quân phòng vệ. So sánh sức mạnh F-15J và J-10 thì giống như “kẻ tám lạng, người nửa cân”. Xét một cách chủ quan về hệ thống radar điều khiển hỏa lực của 2 loại máy bay thì F-15J có phần nhỉnh hơn. Sức mạnh giữa tiêm kích F-15J và J-10 khó so sánh "ai hơn ai". Trong khi radar J-10 chỉ có thể theo dõi 10 mục tiêu cùng lúc và dẫn bắn đồng thời 2-4 mục tiêu thì loại AN/APG-62(V) 1 của F-15J có con số tương ứng là theo dõi 16 mục tiêu, dẫn bắn 6 mục tiêu. Về khả năng mang vũ khí thì tải trọng của F-15J lớn hơn so với J-10 chỉ mang 6 tấn. Tuy nhiên, xét tính đa năng (đảm nhiệm vai trò khác nhau) thì F-15J “không có cửa” đọ sức với J-10. Khi mà J-10 mang được vũ khí không đối đất, không đối hạm chính xác cao. Dù vậy, nếu phải thực hiện các phi vụ không đối đất, không đối hải thì quân phòng vệ trên không Nhật Bản còn một “con át” khác là tiêm kích đa năng Misubishi F-2 (thiết kế dựa trên F-16 của Mỹ). Dẫu sao đây chỉ là những đánh giá mang tính chất chủ quan dựa trên thông số kỹ thuật của F-15J và J-10. Vì trong không chiến, để đánh thắng kẻ địch cần phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố (kinh nghiệm phi công, chiến thuật) chứ không chỉ là dựa vào thông số kỹ thuật. |
Nhãn:
Tiêm kích F-15E,
Tiêm kích J-10
Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012
>> Su-30 của Việt Nam, Ấn Độ không bằng J-10B của Trung Quốc
J-10B đang trở thành mô hình máy bay chiến đấu tiên tiến nhất của Không quân Trung Quốc thời điểm hiện tại. >> Việt Nam muốn mua 18 chiếc Su-30K >> Syria bắn rơi F-4 Thổ Nhĩ Kỳ Thời báo Hoàn Cầu đưa tin, phiên bản mới nhất của máy bay chiến đấu J-10 là J-10B của Trung Quốc đã được tiến hành thử nghiệm tại Trung tâm thử nghiệm máy bay chiến đấu thuộc Không quân Trung Quốc và kết quả cho thấy máy bay chiến đấu phiên bản mới J-10B của Trung Quốc đã đạt đến trình độ kỹ thuật vượt trội so với phiên bản gốc của nó là J-10. Máy bay chiến đấu J-10B do Trung Quốc sản xuất Hoàn Cầu báo dẫn các nguồn tin "khó tìm" cho hay, J-10B của Trung Quốc đã được trang bị các thiết bị hiện đại hơn nhiều, trong đó có hệ thống tác chiến điện tử và thiết bị điện tử hàng không được cải thiện một cách đáng kể. Có thể nói, J-10B đang trở thành mô hình máy bay chiến đấu tiên tiến nhất của Không quân Trung Quốc thời điểm hiện tại. Có nguồn tin cho rằng, máy bay chiến đấu J-10B còn được trang bị loại radar với công nghệ quét mảng pha từng giai đoạn hiện đại bật nhất hiện nay khiến cho các tính năng kỹ, chiến thuật của nó được nâng cao hơn. Ngược lại, theo Hoàn Cầu báo với máy bay chiến đấu J-10A và J-11, máy bay J-10B có tính năng kỹ thuật được đánh giá là hiện đại hơn nhiều so với máy bay chiến đấu do Liên Xô sản xuất là Su- 30MK2/MKV của Việt Nam và Su-30MKI của Ấn Độ. Thậm chí, nó còn có thể so sánh được với máy bay chiến đấu Rafale của Không quân Pháp. Máy bay chiến đấu Su-30MKV của Việt Nam và Su-30MKI của Không quân Ấn Độ Chiếc máy bay nguyên mẫu đầu tiên J-10B được thử nghiệm thành công vào ngày 27/12 /2008. Nó được thiết kế tương tự như máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ. Kiểu thiết kế này có thể giảm diện tích phản xa radar, giúp cho nó khó bị phát hiện hơn trên màn radar của đối phương, từ đó nâng cao khả năng tàng hình. Trước khi máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 của Trung Quốc là J-20 đi vào hoạt động thì J-10B được cho là “con bài” quan trọng nhất của Không quân Trung Quốc hiện nay. ( Nguồn :: Báo Giáo Dục) |
Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012
>> Tìm hiểu máy bay tiêm kích J-10 của Không quân Trung Quốc
Ngày 5 tháng 1 năm 2007 tại Bắc Kinh đã diễn ra một sự kiện, sự kiện này đã được toàn bộ ngành hàng không mong đợi nhiều năm – chính thức công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về một loại máy bay tiêm kích phản lực mới nhất của Trung Quốc (Chengdu J-10) (Phương tây đặt cho tiêm kích này cái tên là Vigorous Dragon).
Trên thực tế, khi gỡ bỏ mọi bức mành bí mật, có thể nhận thấy rằng, J-10 hoàn toàn không phải là kiệt tác của trí tuệ các kỹ sư Trung Quốc như các nguồn tin chính thức của Trung Quốc thông báo, mà hoàn toàn là một sản phẩm được hình thành từ các hoạt động thương mại. Theo thông báo của những sỹ quan đại diện cho lực lượng Không quân Trung Quốc, máy bay tiêm kích mới này có thể thực hiện những nhiệm vụ chiến đấu, thống trị bầu trời không thua kém các máy bay chiến đấu F-16C của Mỹ hoặc Mirage 2000 của Pháp.
Trong đoạn băng video ngày 5 tháng 1 2007 quay lại cảnh những chiếc bay bay Chengdu J-10 bay trong chương trình quảng cáo với những pha nhào lộn ngoại mục, quá trình phóng tên lửa và bay trong đội hình diễu hành. Nhận thấy rõ ràng, nhờ có cấu trúc thiết kế khí động học ở đẳng cấp cao, có trọng tải hợp lý, đồng thời được trang bị động cơ đẩy mạnh, chiếc máy bay tiêm kích đời mới này của Trung Quốc có được khả năng cơ động rất cao, đồng thời có tốc độ cất cánh tối ưu nhất. Với mục tiêu làm giảm trọng lượng, trên máy bay tiêm kích đã ững dụng những công nghệ vật liệu mới nhất, như vật liệu composit tổng hợp, đồng thời lắp đặt nhưng bộ phận và trang thiết bị có cấu trúc nhỏ gọn hợp lý và khối lượng nhẹ. Dự án Lavi - B2 của Israel Lịch sử phát triển của Chengdu J-10 được bắt đầu vào khoảng giữa những năm 1980-х , khi nền công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc đối mặt với vấn đề phải có phương án đáp trả tương xứng với việc xuất hiện trong biên chế của lực lượng không quân Liên bang Xô viết loại máy bay MIG – 29 và SU-27. Thiết kế thế hệ máy bay mới vào năm 1986 được giao cho Viện nghiên cứu hàng không №611 thành phố Thành Đô, đồng thời việc chế tạo máy bay cũng được giao cho công ty chế tạo máy bay Chengdu Aircraft Industrial Company ( CA-IC) cũng nằm tại thành phố này. Trong giai đoạn này dự an được mang mã số " Dự án 8610”. Hiện nay công bố chính thức trên phương tiện thông tin đại chúng rằng nền công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 trên thế giới (sau Mỹ, Nga và Pháp), có khả năng tự chế tạo máy bay chiến đấu hiện đại. Nhưng, những tuyên bố hùng hồn về sự phát triển độc lập của chương trình Chengdu J-10, cũng có nhiều thời điểm tạo ra những chỉ trích gay gắt đối với nguồn thông tin chính thống này.
Một trong những hòn đá to nhất ném vào khu vườn hàng không của Trung Quốc, đó là sự giống nhau giữa Chengdu J-10 với máy bay tiêm kích của Israel Lavi, nhưng trên phương tiện thông tin đại chúng, thông báo chính thức của Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ điều nay, nhưng sự giống nhau từ phía bên ngoài cả về hinh dáng lẫn kích thước có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Một cách gián tiếp, việc bán một số các công nghệ phát triển máy bay tiêm kích Lavi đã được thừa nhận khi Bộ trưởng Quốc phòng Israel Larry David, trong một cuộc phỏng vấn "Press Assosheyted" thông báo rằng một số công nghệ vẫn đã được chuyển giao cho người Trung Quốc.
Theo tuyên bố của một chuyên gia độc lập thuộc Trung tâm phân tích Hồng Công KANWA Andrew Chan, vào năm 1986, một nhóm chuyên gia trong lĩnh vực hàng không quân sự Israel đã có một thời gian rất dài có mặt ở Thành Đô. Trong giai đoạn đó, chương trình phát triển máy bay chiến đấu Lavi của Israel bị kìm hãm do vấn đề tài chính. Xin nhắc lại là vào nửa đầu những năm 1980-x, hàng không quân sự Israel bắt đầu các nghiên cứu của mình với mục tiêu, sử dụng những công nghệ hàng không tiên tiến áp dụng cho máy bay F16A?B, chế tạo cho lực lượng không quân nước mình máy bay tiêm kích, có những tính năng kỹ chiến thuật hơn hẳn F16 của Mỹ. Giai đoạn đầu tiên của dự án được sự hỗ trợ đáng kể về công nghệ và tài chính từ phía Mỹ, nhưng khi chương trình Lavi đạt đến giai đoạn thử nghiệm, người Mỹ mới hiểu ra rằng, họ đang tự sinh cho mình một đối thủ cạnh tranh đáng gờm.
Với lý do lo ngại về khả năng có thể tái xuất loại máy bay này cho các chế độ không thân thiện với các nhà nước châu Âu, nguồn hỗ trợ từ phía Mỹ bị đóng cửa. Mục tiêu của Mỹ là hủy bỏ hoàn toàn dự án của Israel nhằm bảo vệ nền công nghiệp hàng không nước mình. Không có sự ủng hộ tài chính, Israel không tiếp tục phát triển chương trình Lavi và chương trình máy bay tiêm kích này chính thức bị đóng lại vào năm 1987. Chính sự cố này, có thể đã mở ra một lối ngầm, mà qua đó, các giải pháp công nghệ riêng biệt được bán cho Trung Quốc. Khi thiết kế cấu hình khí động học vỏ ngoài của máy bay Chengdu J-10, các kỹ sư hàng không của Israel đã giúp đỡ các chuyên gia Trung Quốc thiết kế hệ thống một loạt các trang thiết bị trên thân máy bay, và đặc biết, giúp đỡ thiết kế hệ thống điện tử điều khiển từ xa máy bay.
Để trả lời, Trung Quốc đã nhận trách nhiệm theo 3 điểm: 1- Không bán máy bay tiêm kích thế hệ mới cho kẻ thù hoặc kẻ thù tiềm năng của Israel. 2- Cho phép Israel toàn quyền sử dụng những giải pháp công nghệ do Trung Quốc phát triển (có sự có mặt của các nhà khoa học Israel). 3- (điều quan trọng nhất) Trung Quốc và Israel là hai đối tác có quyền tương đương nhau trong các hoạt động thương mại bán sản phẩm máy bay tiêm kích đánh chặn cho các nước thuộc thế giới thứ 3. Đương nhiên, điều khoản cuối cùng của thỏa thuận, theo ý kiến của các chuyên gia, đã mang trong nội dung 1 hiểm họa cho các kế hoạch xuất khẩu máy bay của Mỹ. Và áp lực từ phía Mỹ lập tức tăng lên, từ những năm đầu của thập kỷ 1990-x, sự hợp tác công nghệ quân sự của Israel và Trung Quốc càng ngày càng thu ngắn lại. Trong điều kiện quá khó khăn như vậy, Trung Quốc bắt buộc phải tìm kiếm đối tác mới. Vào năm 1994, kết nối vào chương trình phát triển máy bay tiêm kích J-10 Chengdu một kẻ thù tiềm năng cũ của Trung Quốc, nhưng lại là đối tác chiến lược ngày nay về khoa học công nghệ quân sự - nước Nga. Vì vậy, có thể nói, Chengdu J-10 thật sự là một sản phẩm của sự hợp tác công nghê quốc tế đa phương hóa. Theo thông báo của tạp chí Nga " Vũ khí xuất khẩu” thời gian chế tạo nguyên mẫu đầu tiên Chengdu J-10 kết thúc vào cuối năm 1993, cất cánh lần đầu tiên vào không trung khoảng giữa năm 1994 và 1996, đồng thời máy bay được lắp động cơ phản lực của Nga. Vào năm 1996 xuất hiện nguyên mấu thứ hai Chengdu J-10 02, nhưng nguyên mẫu này đã bị rơi trong một tai nạn hàng không khi bay thử nghiệm. Cũng vào thời gian này, người Trung quốc đã chế tạo bộ khung máy bay để thử nghiệm độ vững chắc và tin cậy của máy bay. Mẫu thứ 3 được chế tạo và cất cánh vào năm 1998, là chiếc máy bay đầu tiên được trang bị đầy đủ vũ khí. Cũng vào năm đó, các mẫu máy bay thử nghiệm J-10 -04, J-10 05, J-10 06 cũng được lần lượt đưa vào bay thử nghiệm.
Đến cuối năm 2000, các máy bay J-10 bay thử nghiệm được hơn 140 giờ bay, vào năm 2002 Trung Quốc tiếp tục chế tạo thêm J-10 07 đến J-10 09, sau đó là J-10 10 đến J-10 16. Chiếc đầu tiên cất cách vào ngày 28 tháng 7 năm 2002. Vào đầu năm 2003, mười chiếc máy bay này được đưa đến Quân khu Nam Kinh để thử nghiệm thực tế tại đơn vị chiến đấu. vào năm 2005, máy bay J-10 chính thức được biên chế vào lực lượng không quân Trung Quốc. Cũng vào năm đó, đơn vị không quân tác chiến đầu tiên được biên chế máy bay Chengdu J-10 đã sẵn sàng – sư đoàn không quân số 44 đóng quân tại tỉnh Tứ Xuyên. Đên thời điểm hiện tại, lực lượng không quân Trung Quốc có khoảng 70 chiếc máy bay Chengdu J-10. Để cung cấp đầy đủ theo yêu cầu, không quân Trung Quốc, đã có kế hoạch sản xuất khoảng 300 chiếc máy bay J-10A.
Tiêm kích Chengdu J-10A Khoảng năm 2000, hàng không quân sự Trung Quốc bắt đầu phát triển máy bay hai người lái huấn luyện Chengdu J-10B, vào ngày 26 tháng 12 năm 2003, máy bay hai người lái huấn luyện lần đầu tiên cất cánh. Hiện nay, Trung Quốc dự kiến trên cơ sở máy bay huấn luyện, sẽ chế tạo máy bay tiêm kích ném bom.Viện nghiên cứu không quân №611 kết thức phác thảo dự kiến 2 mấu máy bay J-10 mới, khác các mẫu trước đây khả năng giảm độ phản xạ hiệu dụng nhằm thu nhỏ khả năng phát hiện mục tiêu (mẫu thứ 1 - phần mũi của thân máy bay được thiết kế theo mô hình công nghệ tàng hình steath, đồng thời tăng thêm động cơ, đó là phác thảo mẫu thứ 2 với hai động cơ phản lực). Như vậy rõ ràng rằng Trung Quốc đang lần lượt phát triển mẫu máy bay mới từ mục tiêu ban đầu là chế tạo máy bay có khả năng chiếm lĩnh ưu thế trên không, tiến đến có khả năng sử dụng hiệu quả vũ khí lớp " không trung – mặt đất (nước)”, và trong tương lai gần sẽ phát triển thành máy bay tiêm kích đa nhiệm có sử dụng công nghệ steath để giảm độ phản xạ hiệu dụng, giảm khả năng phát hiện của radar ( khả năng phát hiện ở mức độ thấp). Chengdu J-10A là máy bay siêu âm một chỗ ngổi một động cơ phản lực tiêm kích, được thiết kế theo mô hình khí động học " Con vịt” với cánh mũi nhỏ có trục quay trọng tâm gắn ở phía trước (canard), hai cánh tam giác với các cánh cản có trục quay phía trước, điểm đặc biệt cho phép máy bay có khả năng cơ động cao hơn. Một cánh đuôi thẳng đứng với cánh cản điều hướng và ống hút không khí có thể điều chỉnh được nằm ở phía dưới bụng máy bay. Một phần tổ hợp của cánh máy bay hình tam giác, phía gần thân có độ dày tương đối so với độ dày mặt cắt ngang của cánh, giảm dần về phía sau. Độ khoảng 45% sải cánh được gắn kết với phần cánh cản có thể tháo rời, phần cánh cản tháo rời có mặt cắt mỏng hơn và đường uốn cong gấp về phía sau. Bộ phận cánh cản bao gồm có các cánh cản và các ống lót trục xoay cánh cản trên cánh tam giác của máy bay. Sơ đồ kỹ thuật của máy bay Chengdu J-10A Để đảm bảo ổn định hướng trong những lúc bẻ góc tấn công lớn, phía dưới ông phụt phản lực có hai cánh kiểu vây cá. Thân máy bay được chia làm 3 khoang chính. Khoang phía trước bao gồm cabin cách ly độc lập của phi công, radar mạng pha, buồng thiết bị điện tử, họng hút không khí, phận bụng máy bay trước bánh xe đỡ máy bay, đồng thời được lắp đặt cánh nhỏ phía trước dưới buồng lái. Khoang giữa máy bay được bố trí thùng dầu, các bánh chịu nặng của máy bay và đường hành lang ống dẫn không khí cho động cơ.
Phía đuôi máy bay lắp đuôi máy bay với cánh điều hướng, 4 nắp đựng dù hãm máy bay, 2 lườn ngang với vây cánh đuôi. Phía trong lắp đặt động cơ phản lực. Bộ ba càng và bánh máy bay được thu vào thân máy bay, càng và bánh phía trước có 2 bánh, 2 càng và bánh phía sau có một bánh đối xứng nhau. Trên các máy bay mẫu và máy bay sản xuất trước khi đưa vào sản xuất dây chuyền càng chịu lực và bánh phía trước được đóng bằng 2 cánh cửa. Trên các máy bay sản xuất dây chuyền có 3 cánh cửa khoang thu càng máy bay, một cánh cửa phía trước và 2 cánh cửa hai bên. Cấu hình của buồng lái phi công chưa từng có trong ngành hàng không Trung Quốc, kiểu giọt nước lồi lên phái trên và được bọc kính trong suốt, đảm bảo cho phi công có góc nhìn 360o khi bay.
Sơ đồ chi tiết máy bay tiêm kích Chengdu J-10A Máy bay tiêm kích Chengdu J-10A được thiết kế phi cân bằng động, do đó có thể đảm bảo khả năng cơ động rất cao. Điều đó đòi hơi hệ thống điều khiển tự động từ xa điện tử với 4 cấp tăng cường dự phòng và máy tính điện tử hiện đại. Hệ thống điện tử thân máy bay, cấu trúc hiện đại của cabin máy bay và hệ thống điều khiển hỏa lực có tính năng kỹ chiến thuật hơn hẳn bất cứ máy bay nào được phát triển bởi công nghiệp hàng không Trung Quốc. Đặc biệt, thông tin về các thông số của chuyến bay và tình hình chiến thuật được hiển thị trên 3 màn hình hiển thị đa chức năng và được chiếu lên bảng chỉ thị nền trên kính chắn gió của mũ phi công.
Máy bay được trang bị hệ thống dẫn đường GPS/INS, máy tính kỹ thuật số tính toán thông số đường bay và hệ thống cảnh báo thông báo máy bay bị chiếu radar ARW9101. Theo đơn đặt hàng của Trung Quốc, tổ hợp "Fazotron-NIIR" đã chế tạo cho máy bay này radar an ten mạng pha đa nhiệm RP -35 "Pearls". Nhà sản xuất khẳng định, radar có khả năng theo dõi một lúc 24 mục tiêu, đồng thời có thể xác định mục tiêu trên mặt đất. Đồng thời ở Trung Quốc cũng hoàn thành phát triển radar của mình JL-10A (theo một số nguồn tin — «mã số 1473») khả năng phát hiện mục tiêu loại tiêm kích lên đến 100 km, có khả năng theo dõi 10 mục tiêu cùng một lúc và khai hỏa tấn công 4 mục tiêu cùng một lúc. Để phát triển khả năng xuất khẩu sau nay, người Trung Quốc có thể sử dụng radar loại N010 « Beetle 10PD », radar Israel IAI Elta EL/M-2023 và radar của Ý Galileo Avionica Grifo 2000, nhưng hai loại radar nay khó có thể mua được do vấn đề chính trị.
Động cơ đẩy — động cơ phản lực AL-31FN. Theo hợp đồng thứ nhất giữa "Rosoboronexport" và các nhà sản xuất Trung Quốc, vào năm 2002 – 2004 đã chuyển đến 54 động cơ. Sau đó đã ký kết một hợp đồng xuất khẩu thêm 100 động cơ nữa. Tổng số động cơ người Trung Quốc cần khoảng 250 – 300 động cơ. Người Trung Quốc hy vọng rằng, trong thời gian họ nhập khẩu động cơ từ Nga, họ có thể phát triển và thay thế bằng động cơ sản xuất tại Trung Quốc loại WS-10ATai Hang. Vào năm 2006, xuất hiện thông tin về phiên bản Chengdu J-10, có tên là Super 10. Máy bay này được lắp động cơ thế hệ mới AL-31FN –M1 tăng cường lực đẩy tối đa từ 12550 đến 13500 kgf. Theo các nguồn thông tin khác, , Super 10 — là máy bay tiêm kích được lắp động AL-31 với lực đẩy vecto định hướng góc phụt. Lượng dầu dự trữ trong thân máy bay Chengdu J-10 là 4950 lít. Ngoài ra, dưới cánh và dưới thân máy bay có thể treo thêm các thùng dầu phụ. Để tăng cường bán kính hoạt động và thời gian hoạt động trên không, trên máy bay có lắp thêm thiết bị tiếp dầu trên không. Một trong những mẫu máy bay Chengdu J-10 (J-10 06) được thiết kế theo mẫu này và có thiết bị định vị ống dẫn tiếp dầu trên không. Máy bay đã được thử nghiệm tiếp dầu từ thùng dầu trên máy bay ném bom H-6U (Тu-16) vào năm ngoái tại bãi thử trên sa mạc Gobi. Vũ khí trang bị lắp đặt trên máy bay Chengdu J-10A bao gồm pháo tự động 2 nòng 23 mm, lắp phía dưới thân trên bộ giá treo súng nhẹ. Theo kết cấu trên thân dễ dàng nhận thấy là loại pháo tự động nổi tiếng đã lắp trên MiG 21 và MiG 23. Máy bay có thể mang tới 4500 kg trên 9 móc treo: sáu cái trên cánh, 2 giá dọc theo ống hút không khí và 1 ở chính giữa thân máy bay. Để chiến đấu trên không với các máy bay tiêm kích đối phương, J-10 có thể mang từ 2 đến 4 tên lửa có điều khiển tầm trung, sử dụng radar dẫn đạn PL-11 (mua lisence từ Ý Aspide Mk.1) hoặc PL-12 (SD-10 hay ShanDian-10) do chính Trung Quốc phát triển.
Đối với các cuộc cận chiến, sử dụng tên lửa tầm gần PL-8 với đầu tự dẫn hồng ngoại lisence của Israel Python 3, bố trí ở móc treo phía ngoài cùng của cánh máy bay tam giác, Máy bay có thể sử dụng tên lửa của Nga R-73 và R-77, hoặc sử dụng tên lửa của Mỹ "Saydvinder" và "Sparrow". Tấn công các mục tiêu trên mặt đất, máy bay Chengdu J-10A có thể sử dụng bom rơi tự do hoặc bom có điều khiển (có đầu tự dẫn laser) LT-2 và LS-6, hoặc НАР. Trên biển, máy bay Chengdu được trang bị các loại tên lửa chống tầu sử dụng động cơ nhiên liệu rắn YJ-8K và С-801К, hoặc sử dụng tên lửa hành trình chống tầu С-802 động cơ turbin phản lực. Để tiêu diệt các mục tiêu radar tên lửa phòng không, máy bay Chengdu được trang bị tên lửa tự dẫn YJ-9. Trong mọi trường hợp sử dụng các loại vũ khí điều khiển chính xác lớp không đối đất hoặc không đối hải, máy bay Chengdu theo cấu hình hiện nay cần có thêm thiết bị chỉ thị mục tiêu treo trên thân máy bay hoặc được chỉ thị mục tiêu từ máy bay trinh sát, máy bay không người lái hoặc từ mặt đất (mặt biển).
Chương trình Chengdu J-10 tiếp tục phát triển, có cơ sở căn bản từ các mẫu Chengdu J-10 thành công, hàng không quân sự Trung Quốc tiếp tục phát triển mẫu biến thể Chengdu J-10 lắp 2 động cơ đẩy sử dụng trên tầu sân bay. Trong triển lãm hàng không Aero India 2007 có nhắc đến một sự phát triển khác của biến thể Chengdu J-10, thiết kế máy bay tiêm kích, ném bom (Qian Shi-10). Căn cứ vào những kết quả đạt được theo thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong tương lại rất gần, máy bay tiêm kích Chengdu J-10 sẽ là máy bay chủ lực của lực lượng Không quân Trung Quốc, với số lượng máy bay rất lớn theo dự kiến (động cơ nhập khẩu từ Nga và tự chế tạo). Với cơ số vũ khí biên chế rất đầy đủ và rất đa dạng, có thể tác chiến trong nhiều không gian chiến trường, Chengdu J-10 sẽ tham gia tác chiến trong các lực lượng không quân tiêm kích, không quân hải quân và không quân yểm trợ lục quân. Thông số kỹ chiến thuật của máy bay tiêm kích Chengdu J-10 : Kíp lái: 1 Chiều dài: 16,43 m Sải cánh: 9,75 m Chiều cao: 5,43 m Diện tích cánh: 33,05 m Trọng tải rỗng: 9 800 kg Trọng tải mang đầy đủ vũ khí: 18 000 kg Tải trọng cất cánh cực đại: 19 277 kg khối lượng thùng dầu phụ: 2x 624 lit (4 x165 lit) Động cơ: 1 động cơ tuốc bin phản lức Saturn-Cradle AL-31FH hoặc Woshan WS-10A «Taihang» Lực đẩy cực đại: 89,43 kN (7600 kgf) Lực đẩy khi cất cánh: 122,5 kN (12500 kgf) Tốc độ cực đại: 2,0 М Tốc độ hành trình: 1110 km/h Tốc độ hạ cánh: 235 km/h Bán kính hoạt động tác chiến: 800 km Tầm bay xa thực tế: 2 000 km (không tiếp dầu) Trần bay: 18 000 m Lực đẩy – tải trong T/W : 0,69 (khi cất cánh với khối lượng là 18000kg) Vũ khí trang bị Pháo tự động: 1 x 2 23mm Giá móc treo: 11 ( 3 giá treo dưới cánh và 5 giá treo dưới thân) Tải trọng vũ khí trang bị: 7 260 kg các loại vũ khí trang bị: Tên lửa: Không đối không : PL-8, PL-9, PL-11, PL-12, P-27 và Р-73 Không đối đất – hải: PJ-9, YJ-8K, YJ-9K, 90 mm rốc két НАР Bom điều khiển (LT-2, LS-6) và bom thả rơi tự do Tải trọng tác chiến: Chiếm lĩnh ưu thế bầu trời và đánh chặn: Tên lửa: 4x PL-11 hoặc PL-12 MRAAM + 2x PL-8 SRAAM + 1x 800 lit thùng dầu phụ. Tên lửa: 2x PL-11 hoặc PL-12 MRAAM + 2x PL-8 SRAAM + 2x 1 600 lít và 1x 800 lit thùng dầu phụ. Tấn công các mục tiêu trên mặt đất: Tên lửa tầm gần 2x PL-8 SRAAM + 6x 250 kg bom + 2x 1 600 л và 1x 800 lit thùng dầu phụ. Tên lửa tầm gần: 2x PL-8 SRAAM + 2x 500 kg bom điều khiển (LT-2) + 2x 1 600 lít và 1x 800 lit thùng dầu phụ + thiết bị laser chỉ thị mục tiêu. Nước sử dụng: Trung Quốc và Pakistan Máy bay tương đương, theo đánh giá của các chuyên gia Trung Quốc Eurofighter Typhoon, Saab JAS 39 Gripen và General Dynamics F-16 Fighting Falcon. |
Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011
>> Bí ẩn sau tai nạn của tiêm kích J-10
Đối với các nước trên thế giới, thông báo về tai nạn máy bay là điều bình thường, nhưng với Trung Quốc đó là những bí mật không bao giờ công bố.
Một chiếc J-10 bị rơi vào năm 2007 tại Quế Lâm do động cơ đột ngột chết máy. Đối với sự phát triển của bất kỳ hệ thống vũ khí nào, khó khăn trong phát triển, trục trặc kỹ thuật, thậm chí là tai nạn chết người là điều khó tránh khỏi. Những khó khăn, tai nạn trong quá trình phát triển là kinh nghiệm quý báu để các nhà thiết kế khắc phục các vấn đề tương tự trong tương lai. Đó là điều không cần gì phải che giấu. Bí ẩn đằng sau những tai nạn Nhưng đối với sự phát triển của các hệ thống vũ khí của Trung Quốc, đặc biệt là phát triển máy bay. Tai nạn trong quá trình phát triển là bí mật không bao giờ được công bố. Nhất là đối với "tiêm kích con cưng", "xương sống Không quân", chiến đấu cơ J-10 do Trung Quốc phát triển. Theo thông tin từ trang mạng của Ấn Độ và các diễn đàn quốc phòng như Defence.pk và airline.net, Trung Quốc đã giấu kín thông tin về vụ tai nạn của máy bay J-10 trong năm 2010. Chiếc máy bay gặp nạn này nằm trong số các máy bay sẽ xuất khẩu cho Pakistan. Vậy tại sao điều khá bình thường đối với các nước trên thế giới lại là điều không bình thường đối với Trung Quốc. Phải chăng đằng sau những tai nạn này chứa đựng những bí mật không thể công bố. Theo đó vụ tai nạn xảy ra vào ngày 13/4/2010, tại một địa điểm không được công bố gần thành phố cảng Thiên Tân, cách Bắc Kinh 130km về phía Đông. Theo nguồn tin, vụ tai nạn làm đại tá chỉ huy sư đoàn không quân số 9 của Không quân Trung Quốc thiệt mạng. Tang lễ của ông ta được tổ chức quá long trọng khiến nhà cầm quyền không thể bưng bít được thông tin về tai nạn này. Trang tin địa phương cho biết, có đến 200 chi tiết trong thiết kế của J-10 làm việc không hiệu quả dẫn đến tai nạn thảm khốc này. Các vụ tai nạn khác Ban đầu J-10 được dự định sẽ chính thức đưa vào sản xuất loạt vào năm 1998, tuy nhiên, nguyên mẫu đầu tiên đã bị rơi chỉ ít phút sau khi cất cánh. Nguyên nhân dẫn đến tai nạn được cho là do hệ thống “fly-by-wire” do Trung Quốc chế tạo không hoạt động. Sự cố này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của J-10, mãi đến năm 2005, máy bay mới được giới thiệu, đến năm 2007 các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc mới công bố các bức ảnh chính thức đầu tiên về tiêm kích này. Vụ tai nạn tiếp theo xảy ra vào năm 2007, tại sư đoàn không quân số 2 đóng tại tỉnh Quế Lâm. Vụ tai nạn thứ 3 của J-10 xảy ra vào tháng 8/2009, phi công Meng Fansheng đã buộc phải thoát ra ngoài khi động cơ của máy bay đột ngột chết máy. Nguyên nhân của tai nạn này được các nguồn tin quân sự Trung Quốc công bố ra bên ngoài dưới dạng không chính thức. Theo đó, hệ thống điện tử kiểm soát động cơ đã không hoạt động, khiến động cơ đột ngột chết máy trong khi phi công đang thực hiện một pha nhào lộn. Chiếc máy bay bị rơi xuống và gảy làm đôi, rất may phi công đã thoát ra ngoài an toàn. Cũng trong năm 2009, đã xảy ra một sự cố khác, toàn bộ hệ thống điện tử của chiếc J-10A đột ngột ngưng hoạt động khi phi công đang tiến hành một bài tập chiến thuật. Rất may phi công điều khiển trung tá Li Feng đã hạ cánh an toàn mà không có sự hỗ trợ của bất kỳ thiết bị điện tử nào. Vụ tai nạn vào năm 2010 được cho là thảm khốc nhất, nguyên nhân của vụ tai nạn sau khi không thể bưng bít được đổ lỗi cho phi công điều khiển. Song các ý kiến hầu hết trên các trang mạng ngoài Trung Quốc đều nghi ngờ về điều này. Bản thân phi công là một đại tá, chỉ huy của cả một sư đoàn không quân, kinh nghiệm bay của ông ta rõ ràng không ít chút nào. Những lỗi trong thao tác là điều rất khó xảy ra. Có một số nguồn tin cho rằng, nếu nguyên nhân chính của vụ tai nạn được công bố, có thể dẫn đến sự phá sản trong hợp đồng xuất khẩu 36 chiếc tiêm kích J-10 trị giá 1,4 tỷ USD cho Pakistan. Đốt cháy giai đoạn để chứng minh khả năng? Có một số nguồn tin cho rằng, sự phát triển của J-10 bị "đốt cháy giai đoạn" do Trung Quốc muốn chứng minh năng lực của nền công nghiệp hàng không với thế giới. Theo đó, mẫu tiêm kích thế hệ thứ 4 hiện đại do Trung Quốc sản xuất, có thể so sánh với các tiêm kích tiên tiến trên thế giới là một minh chứng hùng hồn cho sự lớn mạnh của công nghiệp hàng không Trung Quốc. Sự phát triển của tiêm kích J-10 được cho là đã bỏ qua các chỉ số an toàn bay cơ bản để đạt được cột mốc thử nghiệm như dự tính ban đầu. Số hiệu của máy bay đã bị xóa khi đưa lên mạng. Trên diễn đàn Defence.pk, một diễn đàn quân sự của Pakistan, đa số các thành viên đều cho rằng, J-10 là một bản thiết kế chắp vá không hoàn hảo. Hình dáng khí động học sao chép lại mẫu tiêm kích Lavi của Israel, động cơ mua từ Nga, các thiết bị điện tử được chắp vá từ nhiều nguồn khác nhau. Sự không đồng bộ trong vận hành là điều khó tránh khỏi, cùng với đó các sản phẩm mà Trung Quốc sao chép lại từ các mẫu của nước ngoài không hoàn toàn giống với bản gốc. Rủi ro trong các công nghệ sao chép là điều rất dễ xảy ra, đặc biệt đối với những công nghệ hiện đại, độ rủi ro càng cao hơn. Như thường lệ thông tin và nguyên nhân về các vụ tai nạn của tiêm kích J-10 cũng như các hệ thống vũ khí khác không bao giờ được công bố một cách chính thức. Điều đó cho thấy rằng phía sau những vụ tai nạn, có thể ẩn chứa những bí mật “động trời” liên quan đến công nghệ chế tạo vũ khí của Trung Quốc. Nếu được công bố có thể dẫn đến sự phá sản của các mẫu vũ khí do Trung Quốc sản xuất với thị trường trong và ngoài nước. Tất cả những gì mà thế giới biết được đều dưới dạng các nguồn tin không chính thức, thực hư của các vấn đề này mãi vẫn là những ẩn số như chính bản thân những hệ thống vũ khí do Trung Quốc sao chép từ các công nghệ bên ngoài. |
Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011
>> F-22 luyện tập đánh J-10?
[VietnamDefence news] Không quân Mỹ đã điều một số máy bay huấn luyện Т-38 Talon tới căn cứ không quân Holloman, nơi bố trí các tiêm kích thế hệ 5 F-22 trong 6 tháng.
Т-38 được phát triển dựa trên tiêm kích F-5, sẽ đóng vai trò đối thủ của F-22 và có khả năng thực hiện 3 chuyến bay/ngày với chi phí khai thác thấp. Yếu tố này khiến nó có lợi thế hơn so với F-15, ngoài ra, T-38 cũng có bề mặt tán xạ hiệu dụng nhỏ. Theo đại tá không quân Mỹ Molloy, Т-38 có kích thước nhỏ, sức cơ động cao và khó phát hiện nó trên không. Bề mặt tán xạ hiệu dụng nhỏ và bức xạ điện từ yếu có thể giúp phi công Т-38 “trừng phạt” phi công F-22 nếu anh ta phạm sai lầm khi luyện tập không chiến. Xuất hiện câu hỏi việc huy động Т-38 để huấn luyện phi công F-22 có phải nhằm mục đích huấn luyện họ không chiến với các máy bay tiêm kích J-10 của Trung Quốc hay không? |
Nhãn:
Căn cứ không quân Holloman,
china,
Không quân Mỹ,
Không quân Trung Quốc,
Máy bay huấn luyện Т-38 Talon,
Tiêm kích F-5,
Tiêm kích J-10,
trung quốc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)