Ngày nay hầu hết mọi người quen với những lời tán dương sự năng động của nền kinh tế Trung Quốc và cảnh báo sự suy giảm của Mỹ. Không ít người dự đoán, thế kỷ 21 là hoàn toàn là kỷ nguyên của "người khổng lồ châu Á" nhưng họ sai lầm. Ngay cả nếu tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại, chỉ còn giữ ở mức 7,5%, như dự báo mới nhất của Chính phủ nước này, tỷ lệ trên vẫn gấp ba lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ thời hậu khủng hoảng. Từ đó, nhiều người tin rằng không lâu nữa nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt mặt Mỹ và thế kỷ 21 là kỷ nguyên của Trung Quốc. Thậm chí, Quỹ tiền tệ quốc tế còn dự báo Trung Quốc sẽ soán ngôi cường quốc kinh tế số 1 của Mỹ vào năm 2016, mang lại cho nước này cơ hội thống lĩnh sân khấu chính trị toàn cầu. Nếu soán ngôi cường quốc kinh tế số 1 thế giới của Mỹ, Trung Quốc sẽ có cơ hội thống lĩnh sân khấu chính trị toàn cầu. Ảnh minh họa: AFP. Tuy nhiên, không ít người cũng tin vào một kịch bản hoàn toàn khác rằng sau bao biến cố và thăng trầm, nền kinh tế Mỹ đang sẵn sàng để hồi sinh trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu đối mặt với các rào cản trong thế kỷ này. Theo nhóm người này, mô hình tăng trưởng nhờ xuất khẩu được thúc đẩy bởi giá lao động rẻ mạt của Trung Quốc đang bắt đầu bộc lộ những mặt trái của nó. Trong lòng Trung Quốc, sức ép để phải chia sẻ rộng rãi hơn và công bằng hơn các thành quả có được nhờ gia tăng khả năng sản xuất đang nổi lên mạnh mẽ và trở thành bài toán khó dành cho giới lãnh đạo nước này. Đồng thời, Trung Quốc bắt đầu phải đối mặt với vấn đề tăng chi phí lao động và sự suy giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu. Việc kích thích các hộ gia đình Trung Quốc tiêu dùng nhiều hơn có thể là giải pháp nhằm bù đắp cho tình trạng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu thấp. Tuy nhiên, giới chuyên gia phân tích cũng khuyến cáo rằng giải pháp này sẽ ít hiệu quả bởi thói quen chi tiêu là điều khó mà thay đổi. Thực tế, chỉ số tiêu dùng của Trung Quốc gần đây ở mức thấp bởi thị trường bất động sản ảm đảm. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có khả năng giảm xuống còn 7,5% trong năm nay và tương lai, còn có thể sụt giảm hơn nữa, ít nhất khoảng 3 %, theo dự đoán của GS.Michael Pettis, thuộc ĐH Bắc Kinh. Trong khi đó, Mỹ bắt đầu nhận được hàng loạt các báo cáo hàng tháng đầy khả quan về tình trạng việc làm (bất chấp tỷ lệ tăng trưởng việc làm đầu tháng 4 khá ảm đảm). Ngoài ra, theo báo cáo của Cục phân tích kinh tế Mỹ, Tổng thu nhập quốc nội (GDI) quý IV/2011 của Mỹ tăng trưởng ấn tượng 4,4%. Sức sản xuất của Mỹ, nói cách khác đang trở lại. Và xét cho cùng thì suy thoái kinh tế không hoàn toàn là thảm họa mà nó dường như mang lại cơ hội cho các công ty Mỹ để sắp xếp lại hoạt động và tăng năng xuất lao động. Chẳng hạn, các hãng xe hơi của Mỹ, ba năm trước đây đứng trên bờ vực phá sản thì nay, đang bắt đầu bắt kịp lại với nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, Mỹ luôn đi đầu thế giới trong việc áp dụng sức mạnh trí tuệ nhân tạo và tin học cho các loại mặt hàng tiêu dùng, đặc biệt là các mặt hàng công nghệ. Trong khi đó, Trung Quốc nổi lên như là “kẻ sao chép” các sản phẩm công nghệ cao của cường quốc số 1 thế giới chứ không phải là “nhà sáng chế” các sản phẩm tương tự như trên. Một câu hỏi đặt ra là liệu kỷ nguyên suy giảm của Mỹ đã kết thúc? Và trên thực tế, thế kỷ 21 là của Mỹ chứ không phải của Trung Quốc? Theo hai Giáo sư chuyên ngành khoa học chính trị và kinh tế Mỹ, George C. Pardee và Helen N. Pardee thuộc ĐH California tại Berkeley, bất cứ kết luận nào vào thời điểm này đều là quá vội vàng. Trung Quốc có thể tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, trên thực tế, Bắc Kinh vẫn là một xã hội năng động và giới lãnh đạo nước này cũng rất khôn khéo khi luôn “chịu khó” áp dụng các đòn bẩy chính sách – từ giảm dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng tới tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng – nhằm tránh kịch bản nền kinh tế sụt giảm không phanh. Thêm vào đó, chi phí lao động có thể gia tăng nhưng Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường lao động giá rẻ dồi dào. Ngoài ra, trên thực tế, giới lãnh đạo Trung Quốc kêu gọi tăng trưởng kinh tế chậm lại để phát triển ổn định hơn. Các nhà sản xuất Trung Quốc cũng đang tập làm quen với lĩnh vực sản xuất các loại mặt hàng phức tạp hơn, tinh vi hơn, chẳng hạn, tuabin gió và pin mặt trời. Các nghành sản xuất này đòi hỏi lao động có kiến thức kỹ thuật và công nghệ cao chứ không đơn thuần dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Trong khi đó, sự phục hồi của Mỹ hiện nay chưa hẳn đã chắc chắn. Trên thực tế, tỷ lệ tăng trưởng 4,4% GDI trong quý IV/2011 của Mỹ chủ yếu được kích thích bởi sự tăng trưởng về tồn kho (ở Việt Nam thường gọi là tích lũy tài sản lưu động). Mỹ chỉ đang duy trì mức tăng trưởng 2,5%, thua xa Trung Quốc. Giá bất động sản tiếp tục sụt giảm, gây ra tâm trạng bất an, lo lắng cho nhiều người. Ngoài ra, người ta cũng chỉ có thể chắc chắn rằng các thành tựu công nghệ cao sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà sản xuất chúng chứ không ai dám chắc chúng đang góp phần kích thích năng xuất hay tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người Mỹ. Đáng ngại nhất là những bế tắc về chính trị của Mỹ đang trở thành trở ngại để họ giải quyết các thách thức trung hạn về tài chính. Suy đoán cho rằng sau thời kỳ chịu đựng một chuỗi các cuộc suy thoái kinh tế nặng nề, “phép màu năng xuất” sẽ diễn ra trên đất Mỹ đang bắt đầu phai nhạt. Không có gì phải bàn cãi về thực trạng nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn hơn trong khi kinh tế Mỹ đang chứng tỏ những tín hiệu phục hồi tích cực đầu tiên. Nhận ra điều đó, Trung Quốc đang bắt đầu áp dụng chiến lược phát triển ổn định hơn mà biểu hiện đầu tiên chính là chủ trương giảm tăng trưởng. Do đó, nếu Mỹ không biết nắm bắt và tận dụng các cơ hội dựa trên đà phục hồi kinh tế hiện tại để thúc đẩy tăng trưởng thì thế kỷ 21, sau tất cả, sẽ hoàn toàn là thế kỷ của Trung Quốc. |
Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012
>> Thế kỷ 21 là của Mỹ, không phải Trung Quốc?
>> Trung Quốc tiếp tục ‘dạy đời’ Ấn Độ
Trong khi báo chí Ấn Độ đua nhau viết bài ca ngợi thành công vang dội của vụ phóng tên lửa Agni-5, báo giới Trung Quốc hôm nay tiếp tục dành cho New Delhi những bình luận “khó nghe”. Theo Global Times, thành công trong vụ phóng tên lửa tầm xa có thể mang đầu đạn hạt nhân Agni-5 đang “đưa Ấn Độ lên mây”. “Cả nước hòa vào niềm vui thắng lợi của các nhà khoa học quốc phòng…” hay “Ấn Độ tự hào tuyên bố về khả năng phòng thủ cũng như phát triển các loại vũ khí chiến lược của mình”... là những lời viết đầy tự hào mà các báo Ấn Độ như Mail, Indian Express, Times of India dành để nói về thành công trong việc phóng thử tên lửa liên lục địa Agni-5. Như nhận định của giới quan sát, với tầm bắn lên đến 5.000km của Agni-5, Ấn Độ thực sự gia nhập câu lạc bộ của các cường quốc sở hữu tên lửa liên lục địa gồm Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Trung Quốc. Các báo cáo từ quân đội cho hay, tên lửa Agni-5 sau khi được phóng thử bay trong vòng 20 phút, qua vịnh Bengal và đáp xuống một địa điểm ở phía Nam Ấn Độ Dương. Toàn bộ “chuyến bay” của Agni-5 được các nhà khoa học quân sự Ấn Độ theo dõi chặt chẽ. Theo đó, tên lửa dài 17m và nặng 50 tấn này đã bay lên độ cao hơn 600km, ba tầng hoạt động tốt và trọng tải được triển khai đúng như dự kiến. Một số chuyên gia quân sự quốc tế còn nhận định, với trang thiết bị bổ sung là con quay laser hình vòng tiên tiến, động cơ tên lửa tích hợp và hệ thống dẫn đường vệ tinh có độ chính xác cao, tên lửa đạn đạo Agni-5 có đủ sức vươn tới bất kỳ khu vực nào ở Trung Quốc, đặc biệt là khu vực bờ biển miền Đông nước này. Báo Trung Quốc tiếp tục tỏ ý khinh thường bước tiến tên lửa của Ấn Độ. Ảnh minh họa: Blogspot. Tuy nhiên, Global Times khẳng định, trên thực tế, Ấn Độ “không có nhiều lý do để ăn mừng về sự kiện này”. Cho đến tận những năm 1980, Ấn Độ vẫn phát triển hơn Trung Quốc cả về lĩnh vực kinh tế và công nghệ. Tuy nhiên, sau đó, Bắc Kinh đã tiến vọt lên và vượt mặt New Delhi trên hầu hết các lĩnh vực. Dưới sức ép của các thành viên trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh nỗ lực không ngừng để phát triển chương trình tên lửa hành trình (IGMP) và vụ thử tên lửa Agni-5 dường như nằm trong giai đoạn cuối của chương trình này. Dẫu vậy, trên thực tế, các tên lửa trong IGMP được dự tính ban đầu là có tầm bắn tới 9.000km, thay vì 5.000km như Agni-5 đang có. Theo tờ báo Trung Quốc, những hoạt động ăn mừng rầm rộ của Ấn Độ chỉ càng cho thấy nước này đang cố che giấu đi thực tế bất cân xứng và lạc hậu của chương trình phát triển tên lửa của mình. Thêm vào đó, theo Global Times, sự phát triển của Ấn Độ thực sự không bền vững. Hơn 80% hệ thống vũ khí hiện đại của nước này là nhập khẩu từ Pháp, Mỹ, Nga và Israel. Nếu những nước này bất ngờ hạn chế nguồn cung vì một bất đồng dù là nho nhỏ nào thì New Delhi sẽ trở nên bất lực. “Những thương vụ vũ khí ồn ào được đánh giá là có thể gia tăng đáng kể tiềm lực hạt nhân cũng như quân sự nói chung của Ấn Độ song liệu những vũ khí vay mượn này có thể đảm bảo an ninh vĩnh viễn cho New Delhi? Câu trả lời rất có thể là không bởi những hệ thống vũ khí nhập khẩu cũng chính là đầu mối rủi ro”, Global Times nhấn mạnh. Tờ báo còn khẳng định, những ai ở Ấn Độ đang hoan hỉ ăn mừng bởi quốc gia này trở thành một điểm đến ưa thích cho các nhà buôn vũ khí toàn cầu thật là ngây thơ. Với việc lựa chọn con đường theo đuổi để bắt kịp, thậm chí vượt mặt Trung Quốc, Ấn Độ đang tự dốc toàn bộ hầu bao của mình vào túi các nhà buôn vũ khí nước ngoài, thay vì đầu tư cho sản xuất trong nước. Quan điểm này dường như khá tương đồng với chuyên gia quân sự Vasu Deva của Ấn Độ. Ông này cho rằng, sự tụt hậu về công nghiệp quốc phòng là do Ấn Độ phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu vũ khí. Ông Deva đồng thời nhấn mạnh, Ấn Độ nên học tập kinh nghiệm của Trung Quốc trong vấn đề này, thúc đẩy “chủ nghĩa dân tộc kỹ thuật”. New Delhi cần có sự quân tâm và đầu tư mạnh mẽ cho ngành công nghiệp quốc phòng của mình. Ngoài ra, Global Times cho rằng, thật lố bịch khi Chính phủ Ấn Độ nhồi nhét vào đầu dân chúng nỗi sợ hãi mang tên Trung Quốc để rồi coi vụ phóng tên lửa thành công mới đây là cái cớ để hạn chế mối lo sợ đó. “Cả hai nước nên nhận thức được rằng, những nỗ lực nhằm gieo rắc sợ hãi hay căng thẳng giữa hai bên sẽ chỉ càng làm nhau tổn thương, theo đó, làm lợi cho những kẻ bên ngoài đang nhăm nhe phá bĩnh châu Á”, tờ báo Trung Quốc lưu ý. Theo tờ báo, giới phân tích ở cả Ấn Độ và Trung Quốc cần có cái nhìn bao quát hơn và tập trung vào mối đe dọa chung mà nhân dân hai nước đang phải đối mặt. Lòng yêu nước chỉ thực sự hữu ích khi nó được bày tỏ theo cách có lợi cho đất nước, còn nếu nó gây tổn hại cho lợi ích quốc gia thì đó không thể gọi là lòng yêu nước. Ấn Độ còn đang thiếu thốn nhiều nguồn ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, Chính phủ nước này nên tăng cường đầy tư nhằm nâng cao đời sống nhân dân, thay vì đổ vào những dự án quân sự hao tiền tốn của. |
>> Trung Quốc làm càn trên biển Đông ?
Trong mấy ngày qua, dư luận Trung Quốc đang xôn xao trước bài viết đăng trên trang web của Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 và được hàng loạt trang tin điện tử của Trung Quốc đăng lại, chỉ trích “Trung Quốc đã làm càn trên biển Đông”. Thời báo Hoàn Cầu hôm 23.4 chỉ trích “Trung Quốc làm càn trên biển Đông”. Bài viết đặt vấn đề, trong vấn đề biển Đông, chính phủ Trung Quốc luôn chiếm quyền chủ động. Mặc dù dư luận trong nước cho rằng, hải quân Trung Quốc trên biển Đông còn rất yếu, nhưng thực tế thì sao? Trước đây Hãng dầu khí của Anh BP đã từng đạt được thỏa thuận với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) khai thác các giếng khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch tại biển Đông, ngoài khơi thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng trước sức ép của Bắc Kinh BP phải rút lui khỏi dự án này. "Nếu hành động này chỉ xảy ra một lần vẫn còn chấp nhận được, nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể thấy thái độ của Trung Quốc đối với biển Đông, can thiệp vào các thoả thuận này là vô lý", bài báo viết. Do không có đủ năng lực tự khai thác dầu, các nước Đông Nam Á thường phải tìm kiếm những công ty phương Tây hợp tác khai thác dầu ở biển Đông. Nhưng vì tàu chiến, máy bay của hải quân Trung Quốc luôn xuất hiện dày đặc. Hơn nữa Bắc Kinh còn thành lập thành phố Tam Sa, xây dựng sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Phú Lâm), nên họ không thể yên ổn khai thác dầu trên biển Đông. Tàu chiến Trung Quốc diễn tập bắn đạn thật trên biển Đông Cũng có một số công ty nhỏ muốn thử, nhưng liền gặp phải sự khống chế của hai “ông lớn”: Tổng công ty Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Tổng công ty Dầu khí - Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) -luôn vươn ra khắp thế giới tìm mua dầu khí, liên kết khai thác dầu mỏ... Hành vi khống chế này cũng không phải chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn. Ngoài Malaysia có những mỏ dầu gần bờ,còn hầu hết các mỏ dầu đều xa bờ, các công ty phương Tây đều không muốn làm mếch lòng Trung Quốc. Tuy nhiên, cho dù Malaysia có những mỏ dầu gần bờ, nhưng nếu mở bản đồ ra xem cho thấy, Trung Quốc chủ trương đẩy đường giới tuyến trên biển đến sát vùng đặc quyền 12 hải lý của Malaysia. Điều đó có nghĩa là, vùng đặc quyền kinh tế cũng không thuộc về Kuala Lumpur. Đến bãi ngầm James Shoal nằm ở phía đông Malaysia, còn được Bắc Kinh coi là điểm cực nam của nước này, cho thấy sự tưởng tượng quá mức cùng với sự gian tà tột cùng của họ. Cái bản đồ “đường lưỡi bò” vốn do chính quyền Trung Hoa dân quốc vẽ ra trên biển Đông, nay được Bắc Kinh ra sức tuyên truyền để có sự chấp nhận của dân chúng trong nước cũng như quốc tế. Từ xưa đến nay, đối với các nước như Brunei, Malaysia... Trung Quốc vẫn luôn vẽ đường phân tuyến tới “tận cửa nhà người ta”. Sau đó phân hóa Myanmar, Thái Lan, Campuchia... chia rẽ các nước ASEAN, nhấn chìm Philippines và từng bước gặm nhấm Việt Nam. "Đường lưỡi bò" vô lý đăng trên bản đồ Hành chính và Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc), năm 1999 Thập niên 1930 - thời kỳ cực thịnh của chính quyền Trung Hoa dân quốc. Trong thời kỳ đó, một nhóm chuyên gia tìm cách mở rộng lợi ích dân tộc Hán. Một số người du học trở về đem theo những bản đồ hàng hải của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật và tìm tất cả các loại đảo trên khắp tấm bản đồ đó, chỉ cần có lợi cho Trung Quốc liền đánh dấu hết lên trên đó. Một nhóm chuyên ra trong nước thì tìm kiếm các tư liệu sử sách cũ, từ các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh để mò mẫm những tuyến lãnh hải nhằm tuyên bố chủ quyền. Một lần, họ phát hiện ra một dải đá ngầm mang tên James Shoal. Họ đã đẩy đường giới tuyến biển xuống đến đó, dừng lại đó vì xét thấy không thể mở rộng được nữa, nếu không, sẽ đưa Malaysia nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Năm 1935, Trung Hoa dân quốc đã cho công bố tên gọi dải đá ngầm James Shoal này là dải đá ngầm Tăng Mẫu, đồng thời tuyên bố rằng đây chính là ranh giới cực nam vỹ độ thấp nhất thuộc phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc. Sau khi Trung Quốc mới ra đời, Trung Hoa dân quốc bị đẩy ra đảo Đài Loan cho đến ngày nay. Mặc dù đối đầu nhiều vấn đề, nhưng riêng về “đường lưỡi bò” này cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan dễ dàng có tiếng nói chung. "Do địa lý biển Đông quá lớn, khoảng cách giữa các đảo cũng tương đối xa, mặc dù được gọi là biển Nam Trung Hoa, tuy nhiên, điều này không có nghĩa đây là vùng biển của riêng Trung Quốc. Nói theo cách đó, không lẽ Ấn Độ Dương thuộc về Ấn Độ?". Bài viết lập luận. Ai đã khiến cho biển Đông dậy sóng? Bài viết đặt câu hỏi. Trung Quốc đã làm càn trong các cuộc xung đột từng xảy ra trên biển Đông. Bài viết thuật lại những trận đánh chiếm của hải quân Trung Quốc lên quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988. Năm 1989, sau khi chiếm được một số đảo trên quần đảo Trường Sa, với ý đồ lôi kéo sự thừa nhận của Liên hợp quốc, trong vai trò là Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Bắc Kinh kêu gọi UNESCO lập Trạm quan sát hải dương trên dải đá Chữ Thập (Fiery Cross Ree, Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử), hàm ý rằng, ai dám đánh chiếm dải đá Chữ Thập, chính là đối đầu với Liên hợp quốc. Phần cuối, bài viết đưa ra kết luận: “Bắc Kinh ngày càng thích gây ra rắc rối trên biển Đông. Trung Quốc đã tát vào mặt người khác, rồi tỏ thái độ tức giận rằng, họ đã tự đập mặt vào tay mình”. |
>> Các tổ chức tình báo quốc phòng Mỹ (kỳ 1)
Sức mạnh của Quân đội Mỹ gắn liền với sự phát triển của các tổ chức tình báo. Tình báo quân sự Mỹ chi phối cả tình hình quân sự, chính trị trên thế giới. Ấn Độ đang cố gắng thúc đẩy nền công nghiệp quốc phòng trong nước để tiết kiệm ngân sách quốc phòng cho mua sắm, vũ khí trang bị từ nước ngoài Năm 2010, cộng đồng tình báo Mỹ được chi 80 tỷ USD, gấp 2 lần năm 2001, để cung cấp tiền, trang bị, con người cho 72 trung tâm tình báo hỗn hợp và hơn 100 đội đặc nhiệm hoạt động khắp toàn cầu, dưới sự chỉ đạo của ODNI – Văn phòng giám đốc tình báo quốc gia. Ngoài CIA – Cục tình báo trung ương của dân sự, thì 4/5 phương tiện, con người và ngân sách của cộng đồng tình báo Mỹ thuộc quyền điều hành của Bộ quốc phòng, với các tên gọi: - DIA (Defence Intelligence Agency): Cục tình báo quốc phòng - NSA (National Security Agency): Cục an ninh quốc gia - NRO (National Reconnaissance Office): Văn phòng trinh sát quốc gia - NI (Navy Intelligence): Tình báo hải quân - AI (Army Intelligence): Tình báo lục quân - AFI (Air Force Intelligence): Tình báo không quân - MCI (Marine Corps Intelligence): Tình báo hải quân đánh bộ. Cùng nhiều cơ quan thu thập và phân tích tin đặc biệt khác. DIA – “Anh cả” của tình báo quốc phòng Mỹ Ngành tình báo ra đời rất sớm trong Quân đội Mỹ. Ngay từ năm 1882, đã có phòng tình báo Lục quân Mỹ. Trải qua 2 cuộc đại chiến thế giới (1914-1918 và 1939-1945) các tổ chức tình báo của các quân chủng, binh chủng phát triển mạnh. Năm 1958, Bộ Quốc phòng Mỹ quyết định tổ chức lại tình báo của hội đồng tham mưu liên quân (chỉ huy trực tiếp 4 quân chủng lục quân, không quân, hải quân và hải quân đánh bộ) nhằm cung cấp tin kịp thời cho các bộ tư lệnh chiến trường của Mỹ rải khắp thế giới. Lúc đầu tổ chức có tên JIG. Đến ngày 8/2/1961, có sắc lệnh lập cục tình báo quốc phòng DIA và ngày 1/10/1961 DIA chính thức đi vào hoạt động cho đến ngày nay. Nhiệm vụ của DIA - Tổ chức người, phương tiện để khai thác, thu thập tất cả các tin liên quan đến an ninh của Mỹ và đồng minh. - Xử lý tất cả mọi tài liệu, mẫu vật thu thập được, hình thành các bản tin và báo cáo, thông báo cho các cơ quan cấp trên, ngang cấp và cấp dưới. - Trực tiếp điều hành từ khâu tuyển chọn, đào tạo, hoạt động của tình báo quốc phòng. - Cung cấp nhân sự về tình báo theo yêu cầu của cấp trên. Quan hệ giữa DIA và CIA rất chặt chẽ. Từ 1976, DIA không trực thuộc JCS (tham mưu trưởng liên quân) mà trực thuộc Bộ trưởng quốc phòng. Cơ cấu tổ chức Số lượng nhân viên (công khai): 7.000 người. Tổng hành dinh DIA đặt ở Lầu Năm Góc, trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ. Nòng cốt của DIA là 3 trung tâm và 3 văn phòng. Trong đó, 3 trung tâm là: - Trung tâm thu thập tư liệu, tài liệu: Tổ chức hoạt động thu thập tin tình báo quân sự và liên quan tới các quốc gia và vùng lãnh thổ. Dưới trung tâm là các phòng phân theo địa lý, khu vực. Tổ chức này có trên 10 phòng, ví dụ phòng đảm trách tin tức khu vực Châu Á – Thái Bình Dương chịu trách nhiệm thu thập tin tức các quốc gia và vùng lãnh thổ trải từ Đông Bắc Á, Đông Nam Á đến tận Nam Á với mấy chục đầu mối. Đây là trung tâm có số nhân viên lớn nhất. - Trung tâm phân tích và ra tin: Trên cơ sở tin thu thập của trung tâm thu thập tin, tiến hành phân tích, xử lý tin để kịp thời có tin về quân sự, chính trị và khoa học công nghệ đệ trình lãnh đạo nhà nước, Bộ Quốc phòng và các cơ quan liên quan, đồng thời chỉ đạo các cơ quan phân tích tin ở các quân chung, chỉ đạo chung trung tâm tình báo tên lửa và vũ trụ (Missile and Space Intelligence Center) đặt ở bang Alabama và Trung tâm y tế của lực lượng vũ trang ở bang Mariland để ra các tin về vũ khí sinh học, hóa học, hạt nhân... - Trung tâm hỗ trợ tin tình báo: Chủ yếu xử lý tin bằng hệ thống máy tính, đảm bảo an toàn liên lạc, kỹ thuật cho hệ thống tin từ các chiến trường về DIA và ngược lại. Và 3 văn phòng gồm: - Văn phòng chính trị: Chuẩn bị văn bản đáp ứng yêu cầu của các giới chức về vị trí, vai trò, tác dụng, nhu cầu của DIA. Phối hợp với các nhóm của CIA, thay mặt DIA giải quyết mọi vấn đề với tình báo các nước. - Văn phòng đảm bảo kỹ thuật: Chịu trách nhiệm chính về các hoạt động của các trung tâm, văn phòng trong DIA. Tại đây, có trung tâm tổng hợp tình báo quân sự quốc gia (National Military Joint Intelligence Center), chịu trách nhiệm về các tình huống khủng hoảng trên thế giới, phối hợp với CIA, NSA và tình báo quân binh chủng. Ngoài ra, còn có Trung tâm tình báo liên quân mới thành lập nhằm hình thành mạng thông tin giữa tổng hành dinh DIA đến các binh đoàn, đơn vị của một chiến trường (như Iraq, Afghanistan) truyền tin gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh qua mã cao cấp. - Văn phòng hành chính: Bảo đảm các mặt hành chính, hậu cần, tài chính cho toàn DIA và hướng dẫn theo ngành dọc các cơ quan tình báo cấp dưới. DIA đã qua nhiều lần điều chỉnh cơ cấu tổ chức. Sau năm 1991, tổ chức đã điều chỉnh, giảm 30% số lượng nhân viên theo dõi, hoạt động ở hướng Nga, Đông Âu . Sau sự kiện 11/9, DIA điều chỉnh một lần nữa, tăng cường nhân sự và phương tiện cho hướng Trung Đông, Trung Á. Chắc chắn từ đầu năm 2011 đến nay, DIA đang điều chỉnh do Bắc Phi, Trung Đông có biến động lớn. Ngoài 3 trung tâm chính và 3 văn phòng lớn nêu trên, dưới giám đốc DIA có một số phó giám đốc phụ trách các mặt hoạt động, sản xuất tin, quan hệ với các cơ quan tình báo trong và ngoài nước, chỉ đạo các chương trình tình báo quân sự chung, tuyển chọn và huấn luyện. Trực thuộc giám đốc và các phó giám đốc có các cơ quan: Phòng nhân sự, phòng kế hoạch, phòng bình phong, phòng tài chính, phòng luật pháp, phòng thanh tra... Trong số này, phòng bình phong có vai trò đặc biệt, hoạt động theo một đạo luật có từ tháng 10/1990 cụ thể và có tính định hướng thời gian rất dài. Trước đó, đã có một số văn bản khác cho phép nhân viên DIA được hoạt động dưới bình phong thương mại, ngoại giao, hàng không, thông tấn báo chí... Người ta cũng nhớ rằng giai đoạn 1967-1981 số nhân viên DIA ở nước ngoài dạng bình phong có bị cắt giảm do nhiều thất bại của toàn bộ cộng đồng tình báo Mỹ trên khắp các lục địa. Đạo luật 1990 cho phép nhân viên bình phong có điều kiện nâng cao cả chất lượng và số lượng. |
Nhãn:
Tình báo Mỹ,
Tình báo quốc phòng
Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012
>> Hải quân Trung Quốc có thực sự đáng lo ngại?
Sức mạnh hải quân đang gia tăng của Trung Quốc không hẳn là một cách biểu hiện sự hiếu chiến song vẫn có lý do để lo ngại bởi bất cứ cuộc xung đột quân sự nào liên quan đến Trung Quốc hầu hết sẽ bắt đầu và diễn tiến trên biển. Sức mạnh khiến Mỹ ngỡ ngàng Kết luận tổng quát trong báo cáo đầu tháng 4 vừa qua của Ban nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS) về tiến trình hiện đại hóa hải quân Trung Quốc khẳng định: “Sự lơ là của hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương trong một thời gian dài tạo ra cơ hội để Trung Quốc tăng cường sức mạnh trên biển”. Theo báo cáo này, cụm từ hiện đại hóa hải quân nhằm chỉ sự hiện đại hóa không chỉ diễn ra trong hải quân mà còn ở các khía cạnh khác nhằm tăng cường sức mạnh trên biển của Trung Quốc như tên lửa đất đối không, máy bay chiến đấu được trang bị tên lửa đối hạm (ASCM) và radar tầm xa… Ngoài ra, theo CRS, sự lớn mạnh ấn tượng của hải quân Trung Quốc còn nằm ở các hạm đội tàu ngầm. Gần đây họ cho đóng ít nhất hai tàu ngầm lớp Jin – những tàu ngầm đầu tiên có khả năng mang tên lửa đạn đạo. Hai tàu ngầm tấn công lớp Shang sử dụng năng lượng hạt nhân cũng vừa được đưa vào sử dụng. Theo các nhà nghiên cứu Mỹ về hải quân Trung Quốc, không tính tới các tàu đã cũ, Bắc Kinh hiện có 9 tầu ngầm hạt nhân, trong đó có ba tàu được trang bị tên lửa hạt nhân tầm xa, 53 tầu ngầm chạy bằng động cơ diesel, 74 khu trục hạm và tầu hộ tống cùng số lượng tương tự tầu đổ bộ và tầu tuần tra ven biển trang bị tên lửa. Nếu tính tới các kế hoạch đóng tàu được biết hiện nay của Trung Quốc tới năm 2020, hải quân Trung Quốc có thể sẽ có hai tàu sân bay, 40 - 45 tầu ngầm động cơ diesel, khoảng 55 khu trục hạm và tầu hộ tống. Số lượng có thể ít hơn hoặc nhiều hơn, song không chênh lệch quá nhiều. Bên cạnh đó, báo cáo chỉ trích Washington không đánh giá đúng tốc độ phát triển của quân đội Trung Quốc. Hậu quả là Lầu Năm Góc không đưa dự đoán chính xác về thời điểm Bắc Kinh phát triển được tên lửa đối hạm và máy bay tàng hình. Sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc khiến Mỹ ngỡ ngàng. Ảnh: shutterstock.com. Báo cáo của CRS nhận định, Trung Quốc muốn quân đội có khả năng đóng vai trò gọi là lực lượng chống tiếp cận, giống như lực lượng ngăn chặn biển mà Liên Xô triển khai trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Bên cạnh đó, các mục tiêu khác trong chiến lược phát triển hải quân Trung Quốc còn nhằm xác định, đòi quyền lợi trong các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của nước này ở biển Hoa Đông và biển Đông, cũng như làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Thái Bình Dương. Đây là điểm gây chú ý trong chiến lược hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc vì nếu chỉ nhằm đối phó Đài Loan thì không cần đến tàu sân bay hay hàng loạt tàu khu trục và tàu tấn công đổ bộ. Trung Quốc vừa trấn an vừa đe dọa Trước sự quan ngại của Mỹ, hiện thực hóa ngay bằng hai cuộc tập trận với Philippines và Ấn Độ gần đây, Trung Quốc khẩn trương lên tiếng phân bua. Tờ Global Times hôm nay đăng bài viết khẳng định, trong một kỷ nguyên hiện đại, khi mà hòa bình, hợp tác và phát triển là mục tiêu trước nhất như hiện nay thì hải quân Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh phi quân sự liên quan đến hoạt động chống khủng bố, khắc phục hậu quả thiên tai, gìn giữ hòa bình và bảo vệ lãnh thổ. Kỷ niệm 63 năm ngày thành lập, hải quân Trung Quốc hôm nay tiếp tục xác định rõ nhiệm vụ của mình là tăng cường là hoạt động phi quân sự toàn cầu theo khuôn khổ của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, đồng thời thiết lập các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm bảo vệ nền hòa bình trên toàn thế giới. Đây cũng chính là nguyên tắc và “kim chỉ nam” hoạt động của hải quân Trung Quốc trong hiện tại và tương lai. Global Times nhấn mạnh, bất chấp thực tế này, một vài học giả nước ngoài gần đây không ngừng “rao giảng” về cái gọi là tham vọng của Trung Quốc nhằm “soán ngôi” cường quốc hải quân số 1 thế giới của Mỹ thông qua các nỗ lực tham gia vào hàng loạt chiến dịch trên biển của các tổ chức quốc tế. Theo tờ báo, giới quan sát thậm chí còn nghi ngờ về ý đồ thực sự của Bắc Kinh khi “tân trang” lại một chiếc tàu sân bay. Global Times khẳng định, hải quân Trung Quốc có tham vọng cũng như nguồn lực để thực hiện một cuộc chiến hao tiền tốn của ở trên biển. “Ngay cả khi Bắc Kinh chế tạo một chiếc tàu sân bay thì nó cũng chỉ là nhằm mục đích sử dụng cho các hoạt động chiến đấu chống lại cướp biển và bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc”, Global Times quả quyết. Ngoài ra, theo tờ báo, lâu nay các hoạt động của hải quân Trung Quốc cũng không nằm ngoài mục tiêu gia tăng quyền lực cho Liên Hiệp Quốc và góp phần xây dựng nền hòa bình và an ninh tại khu vực. Bằng cách này, hải quân Trung Quốc vừa thúc đẩy được sự tin tưởng từ cộng đồng quốc tế, vừa tăng cường được khả năng tác chiến của mình. Theo đó, Global Times kết luận, sự lớn mạnh của hải quân Trung Quốc sẽ không tiềm ẩn bất cứ mối nguy nào mà chỉ càng góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hòa bình và công bằng trên thế giới. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là ngay sau bài viết đầy ôn hòa này, Global Times tiếp tục đăng tải một bài báo trong đó khẳng định, việc cạnh tranh với sức mạnh hải quân Mỹ là khả năng trong tầm tay của Trung Quốc. “Trung Quốc có thể xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh và thực tế cho thấy Bắc Kinh đã làm được điều đó”, tờ báo chính thống Trung Quốc nhấn mạnh. Global Times khẳng định, việc phát triển lực lượng hải quân có sức mạnh ngang tầm với Mỹ là hoàn toàn trong tầm tay. Ảnh: China Daily. Theo Global Times, một số học giả phương Tây giữ quan điểm cho rằng, sức mạnh tầm lục địa của Trung Quốc sẽ không bao giờ có thể “đọ” được với khả năng tấn công trên toàn cầu của hải quân Mỹ. Những học giả này thỉnh thoảng còn khơi lại sự vắng bóng trong thời gian dài của các hạm đội chiến đấu của Trung Quốc ở những vùng biển quan trọng hay sự bất lực của nhà Thanh trong việc xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh. Theo họ, những trở ngại về văn hóa và địa lý là rào cản quá lớn đối với nỗ lực tăng cường tiềm lực hải quân của Bắc Kinh. Tuy nhiên, Global Times khẳng định, những bước tiến mà hải quân Trung Quốc đạt được trong thời gian qua cho thấy sự kiên trì và trí tuệ của con người có thể giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Global Times phân tích, Mỹ thực sự là một cường quốc trên bộ. Vì các đường biên giới của Washington không phải đối mặt với bất cứ mối hiểm nguy nào nên quốc gia này càng tiết kiệm được nguồn lực để phát triển trên biển. Tờ báo Trung Quốc nhận định, Bắc Kinh cũng hoàn toàn có thể tạo ra lợi thế như Washington đang có để phát triển hải quân. Với sẵn những đường biên giới khá yên bình, Trung Quốc chỉ cần thúc đẩy các mối quan hệ tốt đẹp với láng giềng là hoàn toàn có thể trút bỏ gánh nặng về việc bảo vệ lãnh thổ, qua đó có thể dồn lực xây dựng lực lượng hải quân có khả năng vượt mặt Mỹ. |
>> "Đồ" của Nga bị Nato cướp trong cuộc chiến Lybia
Năm 2011, nhiều người sửng sốt khi nhìn thấy xe chiến đấu Khrizantema-S trong đội hình chiến đấu của quân nổi dậy ở Libya. Năm 2010, quân đội Libya đã nhận được 3 xe chiến đấu (theo các nguồn khác là 4) này và 150 tên lửa đi kèm. Trong một thời gian dài, không ai biết gì về số phận của các hệ thống Khrizantema-S của Libya. Còn đây là một trong các hệ thống ‘lộ diện’ trong giao tranh. Chỉ có thể phỏng đoán điều gì đã xảy ra với các xe chiến đấu khác. Có lẽ, hiện nay, các chuyên gia quân sự từ các nước NATO tham chiến chống chế độ Gaddafi đã đang nghiên cứu cặn kẽ hệ thống này. Chắc chắn, họ không bỏ qua cơ hội hiếm có để khám phá hệ thống vũ khí chống tăng tối tân nhất của Nga hiện nay. Mặc dù, các hệ thống Khrizantema-S xuất khẩu thường có tính năng bị bớt xén so với các biến thể dành cho quân đội Nga. Hệ thống Khrizantema-S (phương Tây gọi là AT-15 Springer) do Viện Thiết kế Chế tạo máy Kolomna (KBM) phát triển trong thập niên 1990 dưới sự lãnh đạo của tổng công trình sư lừng danh S.P. Nepobedimy. Khrizantema-S dùng để tiêu diệt các loại tăng-thiết giáp hiện đại và tương lai, kể cả xe tăng được trang bị giáp phản ứng nổ, cũng như lô cốt, công sự, mục tiêu mặt nước, mục tiêu bay tốc độ thấp và sinh lực đối phương. Các đặc điểm khác biệt của hệ thống tên lửa chống tăng có điều khiển này là: khả năng hoạt động mọi thời tiết, hệ thống điều khiển kết hợp tự động theo tia vô tuyến và bán tự động theo tia laser, khả năng đồng thời bắn 2 mục tiêu và tốc độ bắn cao. Hệ thống 9К123 Khrizantema-S được sản xuất loạt tại hãng “Nhà máy thiết bị Saratov”. Bệ phóng mang 2 ống phóng và các phương tiện của hệ dẫn được lắp trên xe chiến đấu 9P157-2 được chế tạo dựa trên khung gầm BMP-3. Nhờ đó, vừa bảo đảm được tính chuẩn hóa, vừa tạo cho xe khả năng cơ động và việt dã cao, khả năng vượt vật cản nước, khả năng bảo vệ tốt và khả năng không vận. Kíp xe gồm 2 người là lái xe và xạ thủ. Cơ số đạn của hệ thống gồm 15 tên lửa chống tăng thuộc 4 biến thể: 9М123 với phần chiến đấu xuyên lõm tandem (2 lượng nổ) dẫn bằng tia laser; 9М123-2 với phần chiến đấu xuyên lõm tandem dẫn theo kênh vô tuyến điện; 9М123F với phần chiến đấu nhiệt áp dẫn bằng tia laser; 9М123F-2 với phần chiến đấu nhiệt áp dẫn theo kênh vô tuyến điện. Ngoài các xe chiến đấu 9P157-2, trong thành phần hệ thống Khrizantema-S còn có: xe chỉ huy đại đội 9P157-4, xe kiểm tra 9V945, xe kiểm tra 9V990 và thiết bị tập 9F852. Xe chiến đấu 9P157-2 của hệ thống tên lửa chống tăng đa năng tự hành Khrizantema-S được giới thiệu rất thành công tại triển lãm vũ khí quốc tế lần thứ VIII “Nizhny Tagil-2011” (REA-2011). Và bất chấp “tình huống rắc rối ở Libya”, Khrizantema-S vẫn rất được quan tâm. Dưới đây là một số hình ảnh về hệ thống Khrizantema: Tính năng kỹ-chiến thuật cơ bản của 9К123 Khrizantema-S Xe chiến đấu 9P157-2 Trọng lượng chiến đấu, tấn: gần 20 Kíp xe, người: 2 Cơ số đạn tên lửa chở theo xe, quả: 15 Công suất động cơ, mã lực: 660 Tốc độ trên đường nhựa, km/h: 70 Tốc độ bơi, km/h: 10 Dự trữ hành trình trên đường nhựa, km: 600 Tên lửa 9М123 Tầm bắn tối đa của tên lửa 9М123(F), m: 5000 Tầm bắn tối đa của tên lửa 9М123(F)-2, m: 6000 Tầm bắn tối thiểu, m: 400 Trọng lượng phóng của tên lửa, kg: 46 Trọng lượng phần chiến đấu xuyên lõm, kg: 8 Chiều dài x đường kính x sải cánh, mm: 2040 x 152 x 310 Tốc độ bay trung bình, m/s: gần 400 |
>> "Không đầu hàng, chúng ta sẽ dùng vũ khí hạt nhân"
Nhiều người vẫn được nghe kể chuyện MiG-25R khuấy đảo bầu trời Tel Aviv (1973) bằng tốc độ siêu kinh hoàng Mach 3. Tuy nhiên, nguồn gốc phi vụ ấy lại ít được biết đến. Nhiều người vẫn còn nhớ như in cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba (1962) đặt nhân loại trước bờ vực thảm họa hạt nhân. Tuy nhiên, vẫn còn một cuộc khủng hoảng khác có nguy cơ biển thành thảm họa quy mô toàn cầu nếu không được ngăn chặn kịp thời. Đó là cuộc khủng hoảng Trung Đông, diễn ra cách đây vừa tròn 35 năm. Thời kỳ đối đầu giữa khối XHCN và TBCN đã được gọi tên là “Chiến tranh lạnh”. Sự đối đầu không chỉ diễn ra giữa Mỹ và Liên Xô mà còn ở những đất nước, hoặc những khu vực cách Moscow và Wasington rất xa. Trung Đông là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng của bối cảnh địa chính trị như vậy. Israel ngủ quên sau chiến thắng Chiến thắng vang dội trước Quân đội Ai cập trong cuộc chiến tranh Sáu ngày (năm 1967) làm mê muội ban lãnh đạo cao cấp nhất của Israel, chính họ đã đi đến kết luận, người Arab đã mất khả năng tấn công và trong tương lai gần không có khả năng khôi phục lại lực lượng vũ trang của mình. Tâm lý say sưa với chiến thắng nhanh chóng chuyển sang tự mãn. Không ít các thông báo của các điệp viên về sự phục hồi nhanh chóng của các lực lượng vũ trang Ai Cập bị cho là không chính xác, thậm chí còn bị coi là "thất bại chủ nghĩa". Israel giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn sau cuộc chiến 6 ngày. (Phần lớn vùng đất này được trao trả trong giai đoạn 1975-1982). Thủ tướng Israel khi đó là bà Golda Meir, dưới sự bảo trợ của "ông anh" Mỹ, càng tin tưởng vững chắc vào khả năng bách chiến bách thắng của đất nước và bỏ qua các nguyên tắc của Niccolo Machiavelli, bậc thầy về ngoại giao bí mật thời trung cổ châu Âu. Theo đó, “Các chính trị gia của đất nước chiến bại có nhiều điểm chung với những đứa trẻ con: tự mình gây ồn ào để chứng minh, trong căn phòng của trẻ con mọi thứ đều theo trật tự, sự im lặng của chúng thường lại gây nên nghi ngờ”. Thật vậy, chính phủ của Nasser, và sau đó là Sadat, mặc dù mất bán đảo Sinai và mất kiểm soát kênh đào Suez, thậm chí không sử dụng diễn đàn Đại hội đồng Liên Hợp Quốc để vận động cho quyền lợi của mình. Trong khi đó, các cố vấn tình báo Liên Xô tại Ai Cập đã phát triển một kế hoạch thông tin đánh lừa người Israel. Kể từ năm 1970, người Ai Cập đã bắt đầu triển khai kế hoạch. Mỗi ngày họ cung cấp cho các nhà báo phương Tây đang có mặt ở Cairo những thông tin sai lệch về tình hình quân đội, tình trạng tâm lý của binh sĩ, đặc biệt nhấn mạnh tới việc họ không có khả năng làm chủ và kiểm soát các trang thiết bị quân sự của Liên Xô. Mục đích của hoạt động kể trên là nhằm tạo cho ban lãnh đạo Israel sự hình dung sai lệch về mối nguy hiểm thật sự và thuyết phục người Israel tin rằng, người Arab cam chịu thất bại và sẽ hành động theo điều răn của Đấng tiên tri Mohammed: "Cứ ngồi trên bậc thềm nhà mình và hãy chờ đợi rằng, nước của con mương sẽ cuốn hết đi xác chết kẻ thù của bạn…" Người Ai Cập đã kiên trì "giả ốm đau" suốt 6 năm, để tới năm 1973, họ khôi phục hoàn toàn và trang bị thêm các vũ khí tấn công hiện đại nhất của Liên Xô. Cùng với đó, nhiều sĩ quan Liên Xô từng cố vấn tại Việt Nam, trực tiếp tham gia chỉ huy các đơn vị Quân đội Ai Cập. Tháng 9/1973 Giám đốc cơ quan tình báo quân sự Israel Elia Zeira bỏ qua thông tin tình báo về sự sẵn sàng báo thù của quân đội Ai Cập và Syria. Giám đốc CIA William Colby cũng có hành động tương tự như vậy, bất chấp thực tế là các vệ tinh quân sự ghi nhận sự di chuyển các đơn vị Quân đội Ai Cập tới biên giới Israel. "Không đầu hàng, chúng ta sẽ dùng vũ khí hạt nhân" Sáng ngày 5/10/1973 bắt đầu chiến dịch được hoạch định bởi các tướng lĩnh Ai Cập và Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng Vũ trang Liên Xô dưới mật danh “Ubur” (băng qua thác nước). Quân đội Ai Cập vượt qua kênh đào Suez, còn Quân đội Syria tấn công các đơn vị Israel tại cao nguyên Golan. Cả hai đội quân tiến về Tel-Aviv và tạo thành gọng kìm bao vây chặt thủ đô của Israel. Không phải tình cờ mà ngày này được chọn làm ngày mở màn chiến dịch tấn công. Ngày 5/10 là ngày lễ truyền thống của người Do Thái (Day of Judgment – Ngày phán xét). Vào ngày này, tất cả tín đồ Do Thái chính giáo đều phải đến nhà thờ sám hối cho những tội lỗi đã gây ra trong năm. Nhờ nắm được yếu tố bất ngờ, quân đội Arab đã gây tổn thất lớn cho các đơn vị quân đội Israel: 3.000 binh lính và sĩ quan bị giết, hơn 900 xe tăng và khoảng 200 máy bay bị phá hủy. Đối với Israel đây là mất mát ngoài sức tưởng tượng về vật chất và nhân mạng. Cuộc chiến "Ngày phán xét" (Yom Kippur) năm 1973, Israel ở vào thế "lưỡng đầu thọ địch". Sau ba ngày giao tranh đẫm máu, con đường đã mở ra ở phía trước xe tăng Syria. Tình thế nguy cấp tới mức tại cuộc họp khẩn diễn ra tối ngày 7/10, Bộ trưởng Quốc phòng Israel Moshe Dayan trong cơn hoảng loạn đã quay sang bà Thủ tướng Golda Meir với một đề nghị đầu hàng. Tuy nhiên, Thủ tướng Israel, người mà người dân nước này mô tả: "Trong chính phủ có một người đàn ông, và ông là một người phụ nữ có tên là Golda", đã không tán thành vẻ sợ hãi của tướng Dayan. Sáng sớm ngày 8/10 tại một cuộc họp khẩn cấp, bà Thủ tướng công bố phán quyết cuối cùng: "Không đầu hàng. Chúng ta sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân và phá hủy Cairo và Damascus". Thật vậy, lúc đó, trong tay Israel đã có 18 quả bom hạt nhân. Các Bộ trưởng hiểu rằng “người đàn bà thép” đã mất kiềm chế và không ai có thể thuyết phục bà ấy. Cả phòng họp im lặng như chết. Golda Meir lặng lẽ đánh giá sự im lặng của các đồng nghiệp của mình. Không một giây do dự, bà ra lệnh cho Tướng Moshe Dayan đặt toàn bộ kho vũ khí hạt nhân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Israel chưa bao giờ khẳng định sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng cũng chưa bao giờ ra tuyên bố phủ nhận khả năng này. Trong ảnh là biếm họa về kho vũ khí hạt nhân của Israel. Cũng trong ngày hôm đó, các chi nhánh tình báo của KGB và GRU (tình báo quân sự) tại Trung Đông từ các điệp viên có ảnh hưởng đã thâm nhập vào các tầng cao của chính quyền Israel, đã biết quyết định của Thủ tướng Meir. Ngày 10/10 Bộ Chính trị BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô tán thành “Kế hoạch hành động buộc Israel từ bỏ việc tiến hành tấn công hạt nhân” (Kế hoạch cưỡng bức) do Giám đốc KGB Iury Andropov đệ trình lên. Ngày 11/10, Tham tán công sứ Đại sứ quán Liên Xô tại Wasington Georgy Kornieko đã trao cho Ngoại trưởng Henry Kissinger thư của các nhà vật lý hạt nhân nổi tiếng thế giới như: Iury Khariston, Yakova Zeldovicha, Iliy Vivshitsa, gửi tới Tổng thống Mỹ. Trong thư, các Viện sĩ Liên Xô gọi quyết định của Thủ tướng Israel là tự sát. Và nhấn mạnh, ném bom hạt nhân xuống Cairo và Damascus sẽ là thảm họa không chỉ cho Trung Đông mà còn cho toàn bộ nền văn minh thế giới. Các nhà khoa học cũng khéo léo ám chỉ rằng, Liên Xô có ràng buộc với Ai Cập và Syria về hợp tác quân sự, không ngồi nhìn và sẽ có biện pháp tương ứng với hành động tấn công hạt nhân của Israel. Đồng thời, họ nhấn mạnh, tất cả trách nhiệm về hậu quả của sự đáp trả tương ứng như vậy chính phủ Israel sẽ phải hứng chịu. Do chính quyền Mỹ nhiều lần trì hoãn thời hạn đưa ra câu trả lời, Ban lãnh đạo Liên Xô quyết định tiến hành “Kế hoạch cưỡng bức”. MiG-25 là một phần trong "kế hoạch cưỡng bức" của Liên Xô. Chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv Ngày 13/10/1973, Phó chỉ huy của trung đoàn không quân tiêm kích, Thiếu tá Vertievets, trực chiến đấu tại sở chỉ huy sân bay quân sự Vladimirovka tại tỉnh Volgograd. Lúc 6h15’, người mang thư hỏa tốc từ Bộ Tham mưu quân khu Privolzhsky trao cho viên Thiếu tá một túi hồ sơ được đóng dấu: “Mật. Mở ngay!”. MiG-25R trong một chuyến bay. 15 phút sau, Vertievets cùng người đưa thư và đội kỹ thuật đi vào nhà chứa máy bay, nơi để những chiếc máy bay chiến đấu mới nhất được bảo quản đặc biệt. Thiếu tá Vertievets nhanh chóng lên khoang lái và người đưa thư lại tiếp tục đưa cho anh ta một gói nữa có đóng dấu mật “Đặc biệt quan trọng. Tiêu hủy ngay sau khi đọc!” Vào lúc 8h12’, theo giờ địa phương, màn hình radar phòng không ở Tel Aviv xuất hiện một điểm sáng. Còi báo động bật liên hồi. Điểm sáng nhanh chóng di chuyển từ phía đông bắc sang khu vực phía tây nam, tiếp cận không phận của thành phố, và viên sĩ quan trực chiến ra lệnh đánh chặn kẻ xâm phạm vùng trời bằng một biên đội máy bay chiến đấu siêu âm Mirage. Giọng của người chỉ huy biên đội vang lên từ loa phóng thanh, ông ta chỉ thị cho kẻ xâm phạm phải hạ cánh. Đáp lại là sự im lặng. Lần tiếp theo, yêu cầu lại vang lên bằng tiếng Arab. Và đáp lại vẫn là sự im lặng và im lặng. Chỉ huy chuyển sang dùng tiếng Anh. Nhưng cũng không hiệu quả. Viên sĩ quan trực chiến theo dõi trên màn hình radar thấy rằng, ba chiếc Mirage đang di chuyển song song cùng hướng với kẻ xâm phạm. Nhưng tại sao họ không vượt lên trên? Quả thật, biên đội Mirage đang ở một số “tầng” thấp hơn đường bay của máy bay lạ, nhưng tại sao? Tại sao, cuối cùng, khoảng cách giữa biên đội ba chiếc Mirage với chiếc máy bay lạ kia cứ tăng lên sau mỗi giây? Điều này có nghĩa là các đặc tính bay lạ tốt hơn nhiều so với Mirage? “Chết tiệt! – viên chỉ huy biên đội bay hét lên, chúng tôi không bắt được nó. Nó bay trên chúng tôi 6.000 feet ... và di chuyển nhanh gấp 2 lần!” Tiếp theo trên màn hình xuất hiện những màu sọc trắng: hình ảnh biên đội Mirage bắn tên lửa không đối không Hokami. Nhưng tất cả tên lửa bắn ra đều biến mất vào chân trời màu xanh, không tiêu diệt được mục tiêu, trong khi nó bung ra tốc độ đáng kinh ngạc, đạt đến độ cao 69.000 feet. Không ! Nó lại quay trở lại lần nữa ! Nó đang tạo ra một, hai, ba ... (!) sáu vòng tròn trên bầu trời thành phố - đây là chuyện hoang đường chăng! Và nó không sợ bị bắn hạ! Sĩ quan trực chiến yêu cầu thêm một biên đội Phantom lên trợ giúp biên đội Mirage đang tỏ ra bất lực. Than ôi! Không có bất kỳ chiếc Phantom hay tên lửa nào của nó có thể “bắt được” máy chiếc bay lạ kia... Bắt được gì đây? Thậm chí không biết phải gọi tên chiếc máy bay đó là gì? Nó là một vật thể bay chuyển động ngoài giới hạn của tốc độ và đạt đến độ cao đáng kinh ngạc. Liệu đây có phải là một chiếc máy bay hay là một UFO? Nếu những suy luận trên là đúng thì nó từ đâu đến? Người Arab cho đến thời điểm này không thể có được cỗ máy tương tự. Như vậy có nghĩa là nó đến từ Nga. Bộ trưởng Quốc phòng Israel đã tới gặp Thủ tướng Meir cùng với một báo cáo về “sự cố” trên bầu trời Tel Aviv, và bắt gặp bà Thủ tướng đang đọc lá thư của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô. Sau khi nghe Tướng Dayan báo cáo, bà Golda Meir ngay lập tức hiểu ra, những sự kiện này, lá thư và cuộc xâm nhập của chiếc máy bay lạ, thực chất là một vở kịch mà đạo diễn chính là Moscow. Golda Meir, "người đàn bà thép" của Nhà nước Do Thái. “Người đàn thép” buộc phải “điều chỉnh lại cuộc hành quân”. Bà Thủ tướng yêu cầu Ngoại trưởng Henry Kissinger và các quan chức cấp cao Mỹ tăng viện trợ quân sự bổ sung. Kết quả, dưới những áp lực lớn của các cuộc vận động hành lang của giới lobby Do Thái ở Washington đã tác động tới Tổng thống Nixon và một “cầu hàng không” giữa Mỹ và Tel Aviv đã được thiết lập ngay lập tức. Nhờ vậy, Israel nhanh chóng có các thiết bị quân sự mới nhất, gồm máy bay, xe tăng và tên lửa... Các công ty Mỹ thuộc sở hữu của người Do Thái, trong vòng một tuần đã đầu tư vào nền kinh tế Israel 2,5 tỉ USD. Đồng thời, các nhà ngoại giao Israel bắt đầu "làm việc" với Vua Jordan Hussein và Vua Morocco Hassan II, để thông qua họ thuyết phục ban lãnh đạo Ai Cập và Syria ký kết một hiệp ước đình chiến. Đối mặt với thất bại thực tế của Israel trong cuộc chiến "Ngày phán xét", Kissinger đã thực hiện một nỗ lực vô cùng lớn để cứu vãn Tel Aviv ít nhất không phải đầu hàng nhục nhã. Ông đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc xung đột, tìm kiếm loại bỏ các lực lượng Ai Cập và Syria và tạo ra một vùng đệm với Israel. Tuy nhiên, sáng kiến của ông không nhận được sự ủng hộ của các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Theo yêu cầu của các nhà ngoại giao Liên Xô, một nghị quyết về thành lập lực lượng khẩn cấp sẽ tạo nên một khu vực tách biệt giữa các đơn vị quân đội Ai Cập và Israel, đã được thông qua. Vụ xâm nhập của vật thể bay bí ẩn trên bầu trời Tel Aviv, không chỉ làm tan vỡ huyền thoại bách chiến bách thắng của Israel, mà còn buộc bà Golda Meir từ bỏ sử dụng đòn tấn công nguyên tử vào Thủ đô của Ai Cập và Syria. Vào tháng 4/1974, "người đàn bà thép" Meir và Dayan đã buộc phải ra đi sau thất bại tại cuộc bầu cử. Sau đó không lâu, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự Israel Zeir Elia cũng mất chức. MiG-25R là sản phẩm trí tuệ của Cục Thiết kế Mikoyan và Gurevich, đến cuối thập niên 1970, nó đã vượt qua tất cả các đối thủ cùng loại trên thế giới. Trần bay thực tế là 23 km, tốc độ - 3.600 km/h, gần ba lần tốc độ âm thanh (Mach 3). Như vậy, máy bay chiến đấu của Liên Xô hoàn toàn nằm ngoài tầm với của máy bay tiêm kích đánh chặn và hệ thống phòng không của đối phương! Năm 1973, Alexander Danilovich Vertievets, người đã thực hiện chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv, đã được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô. |
Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012
>> Khám phá kho tên lửa của Triều Tiên
Với kho tên lửa ước chừng hơn 1.000 quả, đa dạng đủ chủng loại, CHDCND Triều Tiên đang sở hữu "bảo bối" hiệu quả bảo vệ an ninh quốc gia. Tên lửa Nodong trong một buổi diễu hành Bắt đầu triển khai từ những năm 1960 - 1970, chương trình tên lửa của Triều Tiên dựa rất nhiều vào công nghệ sản xuất tên lửa Scud của Liên Xô. Đến nay, trong "tài sản" của mình Triều Tiên đã có đầy đủ tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tên lửa tầm xa. Không được xem là quốc gia "giàu có", nhưng Triều Tiên có một kho tên lửa khá phong phú và đa dạng, được sử dụng như một trong những quân bài hiệu quả để mặc cả với nước lớn. Hwasong - "hậu duệ" Scud Khởi đầu từ vài mẫu tên lửa Scud-B có được qua từ Ai Cập trong những năm cuối thập niên 1970, sau gần 20 năm nghiên cứu, Bình Nhưỡng đã chế tạo thành công tên lửa tầm ngắn Hwasong-5. Đây là biến thể Scud-B, tên lửa 1 tầng của Triều Tiên có thể mang đầu đạn nặng 1 tấn, sử dụng nhiên liệu lỏng, tầm bắn 300 km. Giá đỡ tên lửa cao khoảng 11m, đường kính 88 cm, sử dụng những thùng nhiên liệu và oxi hoá riêng. Hwasong-5 sử dụng hệ thống dẫn đường nằm trong tên lửa do vậy độ chính xác không cao. Thử lửa trong cuộc chiến Iran-Iraq, các nhà khoa học Triều Tiên có cơ hội thu thập dữ liệu cải tiến Hwasong-5 để cho ra đời biến thể cải tiến Hwasong-6 sử dụng cùng giá đỡ. Để nâng tầm bắn xa của Hwasong-6 lên tới 500km, các chuyên gia đã hy sinh tải trọng khi giảm còn 700 - 800 kg. Động cơ tên lửa được cải tiến giúp thời gian đốt cháy nhiên liệu kéo dài hơn. Tuy nhiên, một số thông tin phỏng đoán, Hwasong-6 kém chính xác hơn so với Hwasong-5. Cả hai loại tên lửa này có thể được trang bị đầu đạn nổ cực mạnh hoặc đầu nổ sinh hóa. Ngoài ra, Triều Tiên còn phát triển thêm nhiều biến thể của loại tên lửa này (như Scud-D) theo xu hướng trên (nâng tầm bắn và hy sinh tải trọng). Những thông tin này luôn khiến "người anh em" Hàn Quốc sống trong lo lắng bởi bất kỳ thành phố quan trọng nào của nước này đều nằm dưới tầm bắn của Hwasong. No-dong đặt Nhật Bản vào tầm ngắn Nodong trong một buổi diễu hành Dự án chế tạo tên lửa Hwasong-5 và các biến thể bị dừng lại vào giữa những năm 1990 khi Triều Tiên bắt đầu chương trình sản xuất tên lửa No-dong. Trước yêu cầu chế tạo loại tên lửa mới có thể vươn đến Nhật Bản cùng khả năng mang đầu đạn hạt nhân, Triều Tiên đã xây dựng chương trình phát triển loại tên lửa mới có tên No-dong. Đây cũng là tên lửa 1 tầng, sử dụng bệ phóng di dộng, có chiều dài khoảng từ 15 - 16m, đường kính khoảng từ 1,2 - 1,3m. Tên lửa mới có tầm xa từ 1.000 - 1.300km, nặng 700 - 1.000kg và vẫn sử dụng nhiên liệu lỏng. Theo một số nguồn tin, tên lửa mới có thể đạt tốc độ gấp 0,5 lần so với tốc độ của Hwasong-6. Để làm được điều này tên lửa phải dùng động cơ đẩy có công suất lớn hơn Scud 4 lần. Có nhiều thông tin rằng tên lửa này có độ sai lệch khoảng từ 3 - 5km và thậm chí có thể lớn hơn nếu như đầu nổ di chuyển theo đường xoắn ốc hoặc lộn nhào khi quay về quyển khí Trái Đất. Tuy chưa có chứng cứ cụ thể nhưng tên lửa loại này ngoài đầu đạn hoá sinh có thể gắn được đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, "đối tượng tác chiến" của Triều Tiền không chỉ là Nhật Bản mà số 1 phải là Mỹ. No-dong không phải "quân bài" có sức nặng đối với Washington. Vì vậy, từ cuối những năm 1990, Triều Tiên bắt đầu quan tâm đến tên lửa đa tầng, công nghệ chủ chốt giúp nâng cao tầm bắn của tên lửa. Khi mới ra đời, Teapo dong-1 chỉ có 2 tầng, trong đó, tầng 1 lấy từ tên lửa No-dong còn tầng 2 dùng tên lửa Hwasong-6. Tên lửa nặng khoảng 33 tấn có thể mang đầu đạn hoặc vệ tinh nặng 1 tấn với tầm bắn khoảng 2.000 km. Giới chuyên gia Mỹ thực sự bất ngờ trước việc tên lửa Taepo dong-1 xuất hiện với 3 tầng và được thiết kế để phóng vệ tinh lên quỹ đạo. Tầng đầu tiên của tên lửa là biến thể của tên lửa No-dong, với vai trò là tên lửa phóng. Tầng thứ 2 sử dụng động cơ của tên lửa Scud cải tiến, kéo dài thời gian đốt cháy nhiên liệu nhưng làm giảm lực đẩy. Còn tầng 3 gồm một động cơ tên lửa nhỏ chứa nhiên liệu rắn, có thể mang theo vệ tinh nhỏ. Vụ phóng Taepo dong-1 gây rất nhiều phản ứng gay gắt bởi quỹ đạo bay của tên lửa hướng thẳng về phía Đông của bán đảo Triều Tiên, vượt qua Nhật Bản. Sự việc được kết thúc bằng một bản ghi nhớ về việc phóng thử tên lửa tầm xa (gồm cả tên lửa No-dong) giữa Triều Tiên và Mỹ vào tháng 9.1999, đổi lấy việc Mỹ sẽ dỡ bỏ một số lệnh cấm vận đã ban bố trước đây. Hướng tới ICBM Bất chấp những hạn chế về mặt kỹ thuật trong chế tạo Taepo dong-1, Triều Tiên vẫn bắt tay vào chế tạo Taepo dong-2 (TD-2 hay Unha-2), bước đệm để phát triển tên lửa liên lục địa (ICBM). TD-2 sử dụng động cơ và chất nổ đẩy của No-dong nhưng tầng 1 lớn hơn, dùng tới 4 động cơ No-dong. Tầng thứ 2, TD-2 dùng động cơ tên lửa No-dong được cải tiến để dùng ở tầng thượng quyển. Phần thân của tên lửa tầng 2 ngắn và to hơn so với No-dong để có thể giảm bớt được trọng lượng tầng này. Để đạt được tầm xa tối đa, TD-2 cần tầng tên lửa thứ 3 giống của TD-1 được thử nghiệm năm 1998. Hướng tới mục tiêu này, Triều Tiên gặp không ít thách thức, cần phát triển tấm chắn nóng để bảo vệ tên lửa tại tầng thứ 3 khi nó quay về mặt đất. Với trọng lượng khoảng 75 - 80 tấn, đường kính 2,4m, việc chế tạo giá đỡ cũng gặp nhiều khó khăn. Những giả thiết về việc Triều Tiên vẫn tiếp tục nghiên cứu và phát triển TD-2 dường như đã được chứng minh với công bố sẽ phóng vệ tinh lên quỹ đạo bằng tên lửa TD-3 (Unha-3) đang làm nóng khu vực Đông Bắc Á. |
>> Thi Lang sẽ có sức mạnh như tàu sân bay Kuznetsov ???
Tàu sân bay Varyag của Trung Quốc dự kiến đi vào hoạt động cuối hè này, có thể được trang bị vũ khí tương tự tàu sân bay Kuznetsov của Nga. Tàu sân bay Varyag của Trung Quốc. Ngày 21/4, trang mạng bình luận quân sự Nga cho biết, đầu thập niên 1990, tàu sân bay Riga của Liên Xô cũ lần đầu tiên được đổi tên thành tàu Varyag, nhưng không thể đưa vào biên chế cho Hải quân Nga. Sau khi Liên Xô giải thể, Ukraina đã sở hữu tàu sân bay được hoàn thành gần 70% này, nhưng không thể thực sự chế tạo thành tàu chiến phức tạp, buộc phải bán cho Trung Quốc vào năm 1998. Sau khi trải qua nhiều năm cải tạo, chiếc tàu sân bay này cuối cùng được Trung Quốc hoàn thành, được hồi sinh, đã đổi chủ nhân, cũng sẽ được đặt tên mới. Hiện nay, chiếc tàu sân bay này có số phận sáng sủa và lạc quan. Báo Nga cho rằng, Trung Quốc bỏ ra 20 triệu USD mua tàu sân bay Varyag tuy lúc đó chưa chế tạo xong, nhưng vẫn là một giao dịch tương đối có lợi. Bởi vì, cuối cùng Trung Quốc đã có được nền tảng của chiếc tàu sân bay đầu tiên, cái giá phải trả hoàn toàn không cao. Ở mức độ nào đó, tàu Varyag 11436 có thể nói là phiên bản phát triển trực tiếp của tàu sân bay Kuznetsov của Hải quân Nga, hai chiếc có kích cỡ, tính năng, lắp đặt vũ khí trang bị tương tự nhau. Nó có lượng choán nước là 60.000 tấn, dài 305 m, rộng 75 m, sử dụng 4 động cơ tua-bin hơi nước, tổng công suất 200.000 mã lực, tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ, hành trình hiệu quả là 8.000 hải lý. Máy bay chiến đấu J-15 sẽ là máy bay chủ lực của tàu sân bay Varyag Trung Quốc. Theo báo Nga, Trung Quốc tạm thời chưa tiết lộ tình hình lắp đặt vũ khí cho tàu sân bay Varyag. Dự kiến sẽ cơ bản tương đồng với tàu sân bay Kuznetsov. Pháo hạm và vũ khí tên lửa sẽ được lắp đặt song song. 6 khẩu pháo tự động AK-630 phụ trách phòng bị các mục tiêu mặt nước và trên không tầm gần. 2 máy phóng tên lửa và 12 giếng phóng tên lửa chống hạm Granit được trang bị cho tàu sân bay Kuznetsov cũng hoàn toàn có thể được lắp đặt cho tàu Varyag, nhưng đến nay Trung Quốc vẫn chưa có tên lửa chống hạm tương tự Granit. Vì vậy, đa số chuyên gia cho rằng, giếng phóng tên lửa chống hạm của tàu Varyag hoặc là không có đạn để sử dụng, hoặc là bị dỡ bỏ. Máy bay chiến đấu J-15 dự kiến là máy bay trang bị chính, nhưng nó đối mặt với vấn đề hệ thống bảo đảm không hoàn chỉnh. J-15 có thể cất cánh kiểu nhảy cầu được, tự hạ cánh xuống đường băng tàu sân bay được, chắc chắn phải sử dụng cáp hãm đà. Mấy năm trước, Nga từng từ chối bán 4 cáp hãm đà cho Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc giải quyết định vấn đề này thế nào vẫn còn chưa rõ. Máy bay J-15 trên tàu sân bay. Báo Nga cho rằng, hiện nay tàu sân bay Varyag đang được tiến hành chạy thử. Nghe nói có kế hoạch đưa vào hoạt động vào cuối mùa hè năm nay, nhưng hiện có thuận lợi hay không thì vẫn còn một số vấn đề. Quân đội Trung Quốc chuẩn bị sử dụng nó làm trang bị huấn luyện, đào tạo phi công của Hải quân, nắm chắc kỹ thuật của biên đội tàu sân bay, dự kiến đến năm 2020, Trung Quốc sẽ bắt đầu chế tạo tàu sân bay kiểu mới nội địa có cấp độ tương tự, tiến tới trở thành nước lớn hải quân mới nổi sở hữu biên đội tàu sân bay. |
>> Nga bán hệ thống tên lửa phòng không cho Belarus
Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov ngày 18/4 cho biết nước này sẽ tiếp tục bán các hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E được giảm giá cho Belarus trong năm 2012. Hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov ngày 18/4 cho biết nước này sẽ tiếp tục bán các hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E được giảm giá cho Belarus trong năm 2012. Phát biểu sau cuộc họp tại Minsk giữa một ủy ban chung gồm các bộ trưởng quốc phòng của Nga và Belarus, ông Serdyukov nêu rõ: "Trong số các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập khác, Belarus là thị trường tiêu thụ vũ khí và khí tài quân sự hàng đầu của Nga, và chúng tôi sẽ tiếp tục bán các hệ thống tên lửa phòng không TOR-M2E giảm giá cũng như chuyển giao vũ khí và khí tài quân sự do Nga sản xuất cho các quân chủng an ninh của Belarus." Ngoài ra, Nga có kế hoạch tiếp tục huấn luyện nhân viên cho lực lượng vũ trang Belarus, trong đó gồm cả các chương trình không thu phí. Theo ông, "tình hình hiện nay khiến chúng tôi phải tăng cường hợp tác với các đồng minh của mình, chủ yếu là Belarus. Chúng tôi lo lắng trước việc NATO tăng cường hoạt động gần các đường biên giới của Liên minh Nga-Belarus và việc Mỹ cùng các thành viên khác trong NATO có kế hoạch triển khai các thành tố của lá chắn phòng thủ tên lửa ở Châu Âu." Ông cho biết thêm Nga và Belarus có kế hoạch "tiếp tục cuộc đối thoại xây dựng nhằm thúc đẩy nền an ninh chung giữa hai nước," và việc cung cấp viện trợ cho các đồng minh và đối tác là một trong những ưu tiên hàng đầu của Nga. Về phần mình, Bộ trưởng Quốc phòng Belarus nhấn mạnh hợp tác quân sự giữa Belarus và Nga đóng vai trò trung tâm cho an ninh Belarus. Belarus quan tâm đến việc phát triển và mở rộng hơn nữa sự hợp tác với Liên bang Nga. |
>> C-130 sẽ trở thành hung thần hủy diệt
Sau hơn 10 năm chối bỏ bom điều khiển bằng laser Viper Strike, cuối cùng bom này cũng tìm được đất dụng võ. Tên lửa Viper Strike Lục quân Mỹ hiện sử dụng Viper Strike trên máy bay không người lái (UAV) Hunter. UAV 720 kg Hunter có khả năng mang đến 91 kg tải trọng thiết bị và vũ khí. Do chỉ mang được tải trọng hữu ích hạn chế như vậy, Hunter khó có thể sử dụng tên lửa 47 kg Hellfire, nhưng lại phù hợp lý tưởng với bom 20 kg Viper Strike. Viper Strike ban đầu được phát triển làm vũ khí chống tăng với phần chiến đấu chỉ chứa 1,8 kg thuốc nổ. Nhưng chính lượng thuốc nổ nhỏ lại giúp nó trở thành vũ khí tuyệt vời cho tác chiến đô thị vì bom này có độ chính xác rất cao nên có xác suất thấp gây thương vong không mong muốn cho dân thường. Viper Strike là bom liệng (không có động cơ) với chiều dài 914 mm và đường kính 130 mm và cánh gấp. Bom được thả từ khoảng cách không quá 1.000 m so với mục tiêu, nhưng điều đó không phải là vấn đề. Gần đây, bom Viper Strike cũng đã được sử dụng trên các máy bay vận tải mới KC-130J được trang bị cửa sau cải tiến Derringer Door, cho phép phóng tên lửa và nạp đạn lại cho bệ phóng mà không phải mở làm kín trước máy bay và thả cửa sau. KC-130J là biến thể mới nhất và lớn nhất của máy bay vận tải С-130 của Thủy quân lục chiến Mỹ (USMC), được dùng để tiếp dầu trên không. Nhưng KC-130J cũng có thể chở hàng và mang vũ khí (bom, tên lửa) dưới cánh. Biến thể này được gọi là KC-130J Harvest Hawk. Đây là hệ thống chiến đấu cho phép triển khai nhanh vũ khí và các sensor trên các máy bay vận tải С-130. Toàn bộ quy trình này chỉ mất vài giờ và kết quả là máy bay vận tải C-130 biến thành một máy bay chiến đấu có khả năng tương tự khu trục cơ AC-130. Bộ sensor bao gồm cụm camera video ban ngày và ban đêm có khả năng được tăng cường. Hiện nay, vũ khí bao gồm 10 ống phóng Derringer Door và 4 tên lửa Hellfire treo dưới cánh. Hệ thống chiến đấu này của USMC đã được đưa tới Afghanistan từ 2 năm trước. Từ đó, các máy bay Harvest Hawk đã phóng hàng trăm tên lửa Hellfire và Griffin, cũng như nhiều lần phát hiện các hoạt động thù địch. Hiện nay, các máy bay này còn sử dụng cả bom Viper Strikes. Một khó khăn tồn tại là cần phải mở cửa sau máy bay để phóng tên lửa và nạp đạn lại cho bệ phóng. Do máy bay thường hoạt động ở độ cao lớn (6.400 m so với mực nước biển) nên tổ lái phải đeo mặt nạ oxy và cần thời gian để cân bằng áp suất trong khoang hàng và thả cửa hậu. Hệ thống mới Derringer Door chứa 10 ống phóng có thể sử dụng (để phóng bom hoặc nạp đạn lại) khi cửa hậu vẫn đóng. Ban đầu, các bệ phóng này được sử dụng để phóng tên lửa Griffin. Tên lửa Griffin nặng 20,5 kg và mang đầu đạn nặng 5,9 kg. Griffin có tầm xa (15 km) hơn tên lửa Hellfire nhờ các cánh bung ra cho phép nó liệng sau khi phóng. Griffin sử dụng hệ dẫn laser, GPS và quán tính. Tên lửa Hellfire II được phát triển trước đó khá lâu, có trọng lượng 48,2 kg, mang phần chiến đấu 9 kg và có bán kính chiến đấu 8.000 m. Ưu điểm chủ yếu của hệ thống chiến đấu trên KC-130J là các sensor của nó, chứ không phải vũ khí. Hệ thống có khả năng quan sát bức tranh tình hình ban đêm với những chi tiết nhỏ nhất và lập tức tiêu diệt mục tiêu bằng vũ khí trên khoang, còn với sự xuất hiện của các bom thông minh (dẫn bằng GPS và laser), vũ khí hàng không trở nên sẵn có hơn để tiêu diệt mọi mục tiêu phát hiện được. Như vậy, Harvest Hawk có khả năng tiêu diệt các mục tiêu cấp thời (cần tiêu diệt trước khi chúng ẩn náu), cũng như có thể sử dụng các bom thông minh hay tên lửa dẫn bằng laser chống các mục tiêu không thể cơ động nhanh. Phần lớn công việc của Harvest Hawk ở Afghanistan là tìm kiếm các bom mìn ven đường hay những kẻ cài chúng. USMC muốn theo dõi những kẻ cài bom mìn ven đường để lần ra căn cứ của chúng, sau đó tiến hành chiến dịch chống các căn cứ này. |
>> Nga không hiểu hay tại Trung Quốc nhiều chiêu ?
Cuộc tập trận Nga - Trung lôi cuốn Nga vào cuộc tranh chấp lãnh thổ nguy hiểm của người khác. Có uẩn khúc trong tiếng súng phát đi từ Hoàng Hải và Biển Đông ? Tại Hoàng Hải, cuộc tập trận hải quân chung “Hợp tác trên biển-2012” của Hạm đội Thái Bình Dương của Nga và Hải quân Trung Quốc đã bắt đầu và dự kiến kết thúc vào ngày mai, 27/4. Nhân sự kiện này, tờ Svobodnaya Pressa (Nga) đã có bài bình luận, đăng ngày 24/4/2012.Dưới đây là nội dung chính của bài viết: Các nhiệm vụ tập trận nhìn chung cũng bình thường cho loại hình diễn tập chiến đấu này trên đại dương: Truy tìm và “tiêu diệt” tàu ngầm, giải thoát tàu biển bị khủng bố chiếm giữ... Về nguyên tắc thì dường như chẳng có gì khác thường. Các cuộc tập trận chung hải quân Nga-Trung được nhất trí tiến hành thường xuyên từ năm 2005. Nhưng dẫu sao cuộc tập trận hiện nay vẫn có điểm đặc biệt riêng. Một là, chưa bao giờ trong hai thập kỷ hậu Liên Xô, Hạm đội Thái Bình Dương cử một binh đoàn tàu hùng mạnh như vậy tham gia tập trận (với tuần dương hạm tên lửa cận vệ Varyag, các tàu chống ngầm cỡ lớn Đô đốc Tributs, Đô đốc Vinogradov, Nguyên soái Shaposhnikov, tàu chở dầu Pechenga và 2 tàu cứu kéo SB-522, MB-37)... Theo các sách tra cứu thì đây thực tế là toàn bộ các chiến hạm nổi đại dương mà Nga còn ở Viễn Đông (đúng ra là tất cả các chiến hạm lớn có thể rời cầu cảng mà không có rủi ro, chết máy chẳng hạn). Đáng chú ý hơn, chính trong những ngày Nga - Trung, ở biển Đông đang vang lên những loạt súng pháo từ những chiến hạm khác. Ở đó, cũng diễn ra cuộc tập trận chung lớn giữa Mỹ và Philippines. Bắc Kinh đã phản ứng cực kỳ kích động với cuộc tập trận này. Ngày 21/4, Trung Quốc chính thức cảnh báo Washington và Manila rằng, có nguy cơ nổ ra va chạm quân sự tại khu vực tập trận. Khi đó, đại diện Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) tuyên bố: “Từ lâu , các nhà quan sát vô tư đã nhận thức rằng, tập trận quân sự là một giai đoạn trên con đường tiến đến va chạm quân sự và giải quyết xung đột thông qua sử dụng vũ lực”. (Dĩ nhiên, họ (PLA) nói về cuộc tập trận của Mỹ và Philippines, còn cuộc tập trận mà Nga và Trung Quốc đang tiến hành ở Hoàng Hải, rõ ràng là tràn đầy tình yêu hòa bình, theo Trung Quốc). Đáp lại, Lầu Năm Góc vội vã lên tiếng trấn an dư luận quốc tế là không hề có gì mang tính khiêu khích trong các hành động của hạm đội Mỹ. Và rằng, cuộc tập trận đã được lên kế hoạch từ lâu và tất cả những ai cần biết thì đều biết, kể cả Bắc Kinh và Moskva. Nhưng người Mỹ không cách nào giải thích được chuyện kỳ lạ: Theo kế hoạch, cuộc tập trận chung với Philippines ở Biển Đông lẽ ra phải ngày 23/4 mới bắt đầu. Nhưng nó lại được triển khai sớm hơn một tuần, bắt đầu vào ngày 16/4. Vì sao có sự vội vã đó? Trăm tội cũng chỉ tại sự cố tranh chấp lãnh thổ mới xảy ra ngày 10/4. Hôm đó, Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines đã phát hiện 2 tàu Trung Quốc gần bãi đá ngầm Scarborough mà Philippines và Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền. Phía Philippines định bắt giữ những kẻ mà họ cho là “đánh cá trộm” nhưng các tàu bán quân sự Trung Quốc lập tức xuất hiện ngăn cản. Giao chiến không xảy ra, nhưng vụ việc đã gây sóng gió lớn trên vũ đài ngoại giao với sức nóng mới. Cái giá của vấn đề là lá cờ của ai sẽ bay trên hàng trăm hòn đảo, bãi đá ngầm và đảo san hô trên một vùng biển rộng 40 vạn km2 nằm trên những tuyến hàng hải trọng yếu nhất từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương. Tất cả những hòn đảo, bãi đá tranh chấp lớn nhỏ được gọi là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Các bên đòi chủ quyền gồm Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan, Trung Quốc và Philippines. Mỗi bên đều chiếm giữ được một ít. Nhưng chiếm được vị thế đắc lợi nhất là kẻ thù đáng nguyền rủa của Bắc Kinh - đó là chế độ Đài Loan. Lá cờ của họ bay trên chỉ một hòn đảo, song lại là đảo to nhất ở Trường Sa! Trên đảo Itu Aba (còn gọi là đảo Ba Bình, phía Đài Loan gọi là Thái Bình) có một căn cứ hải quân và một căn cứ không quân của Đài Bắc cho phép kiểm soát vùng biển rộng lớn. Trung Quốc không chỉ một lần mưu toan giải quyết tranh chấp lãnh thổ bằng vũ lực. Năm 1974, Bắc Kinh đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam và đưa ra yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Năm 1988, họ lại dùng vũ lực chiếm một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Nhân đây, cũng phải nói rằng, từ rất lâu, người Việt Nam gọi khu vực này là biển Đông, Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa (Hoa Nam). Còn mới đây, Philippines chính thức gọi biển này biển Tây Philippines. Vì thế, dư địa cho những thỏa hiệp ngoại giao còn lại rất ít. Người Mỹ cũng tích cực tham gia vào cuộc tranh chấp này. Mỹ nhận thức rõ rằng, nếu chiếm được quần đảo Trường Sa, Trung Quốc sẽ nắm được quyền kiểm soát hiển nhiên đối với một khu vực trọng yếu nhất của đại dương thế giới. Tuy nhiên, khả năng của Mỹ ảnh hưởng đến tình hình bị sút giảm mạnh sau khi họ đóng cửa căn cứ hải quân lớn nhất của mình tại khu vực này ở vịnh Subic vào năm 1992. Lúc đó, người Mỹ nghĩ rằng, sau khi Hải quân Liên Xô rút khỏi khu vực, họ chẳng cần căn cứ Subic làm gì. Song Washington đâu ngờ được khoảng trống xuất hiện lại bị Trung Quốc lấp đầy nhanh đến vậy? Tuy nhiên, tháng 6/2011, Philippines đã có được những bảo đảm đặc biệt của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cam kết bảo vệ Philippines trước Trung Quốc. Đó chính là cái mớ bòng bong chính trị - quân sự mà Nga đã dính vào cùng với cuộc tập trận “Hợp tác trên biển-2012”. Vì thế, chỉ mong sao cuộc tập trận kết thúc càng mau càng tốt. "Các tuần dương hạm tên lửa đâu có đánh nhau với khủng bố" Bình luận của Phó Giám đốc Viện Phân tích chính trị và quân sự (Nga) Aleksandr Khramchikhin. SP: - Thưa ông Aleksandr Anatolievich, điều đang diễn ra ở Hoàng Hải và Biển Đông phải chăng là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Ông Aleksandr Khramchikhin: - Theo tôi được biết, ý tưởng tập trận chung với Trung Quốc là do phía Nga đưa ra năm 2011, khi tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc thăm Moskva. Nga đã đề xuất, nhưng Trung Quốc có thái độ lạnh nhạt. Sau đó, vào đầu năm 2012, Mỹ chính thức đưa vấn đề kiềm chế Trung Quốc bằng quân sự trở thành nhiệm vụ chủ yếu trong tương lai gần. Vậy là, giới quân sự Trung Quốc “nhớ” ra đề xuất tập trận chung của Nga và bắt đầu sốt sắng với việc tập trận chung. - Kết quả là có lẽ lần đầu tiên kể từ chiến tranh lạnh, các tàu chiến Nga và Mỹ đồng thời tập luyện đánh đắm tàu chiến đối phương ở các vùng biển liền kề. Đương nhiên, giả định về những tên khủng bố chiếm giữ một tàu biển dân sự trong các cuộc tập trận chẳng qua là nói cho vui. Các tuần dương hạm tên lửa đâu có đánh nhau với khủng bố. Nga có cần cái đó trong hoàn cảnh hiện nay không? - Tôi nghĩ là Nga không để ý kế hoạch tập trận của Mỹ và Philippines. Nên khi biết thì công tác chuẩn bị cho cuộc tập trận “Hợp tác trên biển-2012” đã khởi động. Không còn đường lùi nữa. Hơn nữa, ở đây còn có một khía cạnh nữa. Mới đây, Nga đã ký với Việt Nam hợp đồng hợp tác khai thác dầu khí ở thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông, vùng biển mà bất Trung Quốc chấp mọi quy định của luật pháp quốc tế coi là biển của họ. Như vậy, lần đầu tiên chúng ta đã chống lại Bắc Kinh trong một vấn đề cực kỳ nhạy cảm đối với họ. Trong bối cảnh đó, từ chối thêm cuộc tập trận chung với Trung Quốc sẽ gia tăng thêm xung đột với Trung Quốc. Cùng tập trận, may ra chúng ta sẽ làm dịu bớt được những mâu thuẫn. - Nhưng cuộc tập trận chung của Hải quân Nga với Trung Quốc không thể không làm Việt Nam, đối tác quan trọng nhất của chúng ta trong lĩnh vực mua bán vũ khí trong khu vực, bực tức. Chúng ta đang có với họ những hợp đồng hàng tỷ USD. Chúng ta sẽ không làm xấu quan hệ với Việt Nam chứ? - Nga ở Đông Nam Á đang thực thi chính sách nước đôi. Tôi không nghĩ là sẽ có những phức tạp nghiêm trọng với Việt Nam. Mặc dù nay có thể sẽ phát sinh những vấn đề nhất định. Nhưng Hà Nội chẳng thể làm thế nào được. Nhiều hệ thống vũ khí họ chẳng thể mua được ở đâu khác cả. - Thế hạm đội Nga cần cuộc tập trận đó làm gì? Định học bài đánh trận bằng tiền Trung Quốc? Hay là định học cách truy tìm tàu ngầm Trung Quốc để tìm ra nhược điểm của các tàu ngầm Nga? - Ở mức độ nhất định thì đúng là như vậy. - Chính bởi vậy mà lực lượng chủ lực của Hạm đội Thái Bình Dương đã tiến ra Hoàng Hải? - Đã ra khơi tập trận là 4 trong 6 tàu chiến mặt nước tác chiến đại dương mà Nga hiện có ở Thái Bình Dương. Nằm lại Vladivostok là 2 chiếc đang được sửa chữa. |
>> Top 10 trực thăng hàng đầu thế giới (Kỳ 2)
Military Channel mới đây đã công bố bảng xếp hạng 10 trực thăng hàng đầu thế giới, trong đó có các trực thăng từng tham chiến tại Việt Nam. >> Top 10 trực thăng hàng đầu thế giới (Kỳ 1) Hiện nay, trực thăng đang được sử dụng một cách phổ biến trong quân đội hầu hết các nước trên thế giới. Nó là một thành phần rất quan trọng của lực lượng Không quân nói riêng và quân đội nói chung: vừa là loại máy bay vận tải thuận tiện vừa là loại máy bay chiến đấu rất hiệu quả, nhất là trong các nhiệm vụ đổ bộ đường không, tấn công cơ động, thọc sâu và yểm trợ, tấn công mặt đất. Mới đây, Kênh Military thuộc Hãng truyền thông Discovery của Mỹ - một kênh truyền hình mới dành cho quân đội đã đưa ra một ma trận gồm các điểm như mức độ hoàn thiện kỹ thuật thiết kế, số lượng sản xuất, tính năng kỹ chiến thuật, hiệu quả sử dụng, lịch sử chiến đấu, xu hướng phát triển…để xếp hạng 10 trực thăng hàng đầu thế giới. 5. “Thiên mã” CH-53E Super Stallion Xếp ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng 10 trực thăng hàng đầu thế giới theo bình chọn của Military Channel là trực thăng vận tải hạng nặng CH-53E Super Stallion - loại trực thăng lớn nhất, nặng nhất từng được nghiên cứu, sản xuất và sử dụng trong quân đội Mỹ. Trực thăng vận tải hạng nặng CH-53E Super Stallion Chuyến bay đầu tiên: 1974 Số lượng sản xuất: 115 chiếc Tải trọng: 13 tấn trọng tải hàng hóa hoặc 14,5 tấn treo bên ngoài, hoặc 55 binh lính. CH-53E là một biến thể hiện đại hóa của máy bay trực thăng nổi tiếng CH-53 Sea Stallion được tạo ra vào năm 1964 để đáp ứng các yêu cầu chiến đấu của Hải quân, Thủy quân lục chiến và lực lượng phòng thủ bờ biển của Quân đội Hoa Kỳ. CH-53 Super Stallion chủ yếu được Lực lượng thuỷ quân lục chiến Mỹ sử dụng trong các chiến dịch đổ bộ, thực trực thăng vận nhằm vận chuyển và di rời các trang thiết bị vũ khí hạng nặng phục vụ nhiệm vụ chiến đấu. Loại máy bay này còn có một nhiệm vụ khá quan trọng là chuyên chở các máy bay phản lực hoặc trực thăng chiến đấu bị hư hỏng trên các tàu sân bay hạng nặng của Hải quân Mỹ. CH-53 đã từng tham chiến tại Iraq và Afghanistan giúp quân đội Mỹ vận chuyển hàng ngàn tấn hàng hóa và binh lính ra chiến trường đồng thời hỗ trợ chiến đấu cho các lực lượng mặt đất, góp phần tạo nên những chiến tích oanh liệt của Quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh tại các chiến trường này. 4. “Ác điểu” UH-1 Trực thăng đa năng Bell UH-1 Chuyến bay đầu tiên: 1956 Số lượng sản xuất: 16.000 chiếc Tải trọng: 1,5 tấn hoặc 14 binh lính. Đây là loại trực thăng quân sự đa năng, nổi tiếng vì được sử dụng nhiều trong chiến tranh Việt Nam. Nó thường được biết dưới tên (dùng trong thủy quân lục chiến Mỹ) là Huey. Mặc dù tổn thất rất lớn (3.305 chiếc UH-1 bị mất trong chiến đấu), nhưng Huey vẫn được xem là một trong những trực thăng thành công nhất mà Mỹ từng chế tạo. Theo số liệu từ các số liệu thống kê, trong suốt 11 năm tham chiến tại Việt Nam, máy bay trực thăng UH-1 đã thực hiện không dưới 36 triệu phi vụ, một con số quá khủng khiếp. Trước khi Cobra ra đời, Huey đã trải qua một cuộc “đại phẫu” với việc trang bị thêm cặp súng máy 12,7 mm và 48 quả tên lửa không điều khiển. Và cũng từ đó nó được mệnh danh là “ác điểu” trên bầu trời. Huey được sử dụng một cách rộng rãi và có mặt trong lực lượng vũ trang của hơn 70 quốc gia trên thế giới (nhiều hơn cả số quốc gia sử dụng súng trường tấn công Kalashnikov của Liên Xô/Nga). 3. Trực thăng đa nhiệm Mi-8 Chuyến bay đầu tiên: 1961 Số lượng sản xuất: 17.000 chiếc Tải trọng: 3 tấn hoặc 24 người Vũ khí: 2-3 súng máy và 6 giá treo vũ khí có thể mang đến 1,5 tấn vũ khí bao gồm tên lửa không điều khiển 57 mm, bom và tổ hợp tên lửa đối hạm Phalang. Khoảng 17.000 chiếc máy bay trực thăng đa chức năng Mi-8 (định danh NATO Hip) đã được sản xuất với hơn 3.000 chiếc được xuất khẩu và chúng hiện phục vụ trong lực lượng không quân hơn 50 quốc gia trên thế giới trong đó có Ấn Độ, Trung Quốc và Iran. Các máy bay trực thăng Mi-8 được chế tạo bởi công ty sản xuất máy bay trực thăng Mil Moscow Helicopter JSC ở Moskve, công ty Kazan JSC ở Kazan và công ty hàng không Ulan-Ude. Chúng gồm các biến thể dùng trong dân sự và quân sự. Các biến thể quân sự gồm Mi-8T vận tải, chuyên chở quan chức cao cấp, chiến tranh điện tử, trinh sát, phiên bản Mi-8TV có trang bị vũ khí và phiên bản tìm kiếm và cứu hộ Mi-8MPS. Mi-8 là một máy bay trực thăng đơn giản, nhưng hiệu quả, có độ tin cậy cao và có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết - từ sa mạc Sahara đến khu vực Bắc Cực. Trực thăng đa chức năng Mi-8 đã tham chiến tại nhiều nơi trên thế giới trong đó có các cuộc xung đột quân sự tại Afghanistan, Chechnya và Trung Đông. Hiện Mi-8 vẫn đang được Bộ quốc phòng Nga tiếp tục trọng dụng và có kế hoạch sản xuất với số lượng lớn. 2. “Hung thần” AH-64 Apache Xếp ở vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng những trực thăng hàng đầu thế giới của Military Channel là trực thăng AH-64 Apache - máy bay trực thăng tấn công của Lục quân Hoa Kỳ, là thế hệ kế tiếp của máy bay trực thăng Bell AH-1 Cobra. Nó được thiết kế bởi hãng Hughes, sau đó được phát triển bởi hãng McDonnell Douglas và hiện tại được sản xuất bởi hãng Boeing. Trực thăng tấn công Boeing AH-64 Apache Chuyến bay đầu tiên: 1975 Số lượng sản xuất: 1.174 chiếc Vũ khí: Pháo M230 30 mm (tốc độ bắn 625 phát/phút, cơ số đạn lên đến 1.200 viên ), tên lửa AGM-114 Hellfire, AIM-92 Stinger, AIM-9 Sidewinder , AGM-122 Sidearm, rocket Hydra 70. AH-64 là loại máy bay trực thăng hiện đại vẫn đang được sử dụng hiện nay. Với thiết kế để có thể hoạt động ở mọi địa hình, nó có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết cả ngày lẫn đêm. Apache được sử dụng trong chiến đấu lần đầu tiên là vào năm 1989 trong chiến tranh Panama. AH-64A Apache và AH-64D Apache đã đóng vai trò quan trọng trong một số cuộc chiến tranh ở Trung Đông, gồm Chiến tranh Vùng Vịnh, Chiến dịch Tự do bền vững ở Afghanistan, và cuộc chiến tranh Iraq năm 2003. Các máy bay trực thăng Apache đã chứng tỏ chúng là các thợ săn xe tăng tuyệt vời và cũng đã phá hủy hàng trăm các loại xe bọc thép (chủ yếu của quân đội Iraq). Vào mùa thu năm 2011, trong cuộc chạy đua tại Ấn Độ, Apache đã vượt lên trên “đại kình địch” Mi-28N “Thợ săn đêm” của Nga để giành chiến thắng trong gói thầu cung cấp máy bay trực thăng tấn công cho Quân đội nước này. 1. “Diều hâu đen” Sikorsky UH-60 Black Hawk UH-60 Black Hawk là một máy bay trực thăng đa dụng bốn cánh quạt, hai động cơ hạng trung do Sikorsky Aircraft chế tạo. UH-60 đi vào phục vụ trong Lục quân năm 1979, thay thế loại UH-1 Iroquois trở thành máy bay trực thăng vận tải chiến thuật của Lục quân. Trực thăng đa năng Sikorsky UH-60 Black Hawk Chuyến bay đầu tiên: 1974 Số lượng sản xuất: 3.000 chiếc Trọng tải: 1,5 tấn hàng hóa và 4 tấn treo bên ngoài hoặc 14 binh lính. Vũ khí: 2× M240H 7.62 mm hay 2× M134 minigun 7.62 mm hay 2× GAU-19 12.7 mm, rocket 70 mm Hydra 70, tên lửa dẫn đường bằng laser AGM-114 Hellfire. UH-60 đi vào phục vụ trong Sư đoàn Không vận số 101 của Lục quân Hoa Kỳ tháng 6 năm 1979. Lục quân Hoa Kỳ lần đầu sử dụng UH-60 trong chiến đấu trong cuộc xâm lược Grenada năm 1983, và một lần nữa trong cuộc xâm lược Panama năm 1989. Trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, UH-60 đã tham gia vào chiến dịch tấn công đường không lớn nhất trong lịch sử Lục quân Hoa Kỳ với hơn 300 chiếc trực thăng tham gia. Năm 1993, Black Hawk trở nên nổi bật trong cuộc tấn công vào Mogadishu ở Somalia. Những chiếc Black Hawk cũng hoạt động tại Balkan và Haiti trong thập niên 1990. Những chiếc UH-60 vẫn tiếp tục phục vụ ở Afghanistan và Iraq. Các chuyên gia của Military Channel nhận định rằng “Diều hâu đen” Sikorsky UH-60 Black Hawk là trực thăng của thế kỷ XXI, mặc dù nó đã được tạo ra cách đây 40 năm. Trực thăng Black Hawk mang đầy đủ những tính năng ưu việt của những trực thăng tốt nhất thế giới. Nó có thể thực hiện nhiều kiểu nhiệm vụ, gồm cả vận tải chiến thuật với lính, thiết bị chiến tranh điện tử, và giải cứu đường không. Một biến thể chở VIP được gọi là VH-60N được dùng để chuyên chở các quan chức quan trọng của chính phủ (ví dụ, Nghị viện, các cơ quan Hành pháp) với dấu hiệu máy bay là Marine One khi chở Tổng thống Hoa Kỳ. Trong các cuộc tấn công đường không nó có thể chở một đội 14 lính chiến hay mang một bích kích pháo 105 mm M102 howitzer với 30 viên đạn và khẩu đội 4 người chỉ trong một chuyến.[12] Black Hawk được trang bị các thiết bị điện tử tiên tiến để có khả năng và tính năng tồn tại tốt như Hệ thống định vị toàn cầu. Ngoài các biến thể trên bộ cơ bản, UH-60 còn có các biến thể nổi bật như 2 biến thể chống ngầm SH-60B Sea Hawk và SH-60F Ocean Hawk (được trang bị 1 từ kế và sonar), biến thể HH-60 Rescue Hawk để tìm kiếm cứu hộ và tham gia các hoạt động đặc biệt, cũng như biến thể hiện đại MH-60 Knighthawk. Chính vì có những tính năng ưu việt, chi phí thấp, bảo trì đơn giản, MH-60 (biến thể hiện đại của UH-60) đang được Quân đội Hoa Kỳ lên kế hoạch để trở thành loại máy bay trực thăng duy nhất cho tất cả các lực lượng vũ trang bao gồm hải, lục không quân và Thủy quân Lục chiến. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)