Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: hạm đội Nam Hải

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn hạm đội Nam Hải. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hạm đội Nam Hải. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

>> Những căn cứ chiến lược ở Thái Bình Dương





Nhiều nước ven Thái Bình Dương đã và đang xây dựng những căn cứ quân sự hiện đại tại khu vực chiến lược này.

Thái Bình Dương với nguồn tài nguyên dầu khí phong phú và các tuyến đường biển huyết mạch cũng là nơi đặt một số căn cứ quân sự quan trọng của nhiều nước. Những căn cứ này phục vụ đắc lực cho chiến lược của các quốc gia cho khu vực này. Sau đây là một số căn cứ được đánh giá là nổi bật nhất.



Tàu sân bay USS George Washington của Mỹ tại Yokosuka - Ảnh: Wikipedia


Mỹ

"Siêu căn cứ" Guam

Theo báo Telegraph, Mỹ đang xây dựng một siêu căn cứ hải quân trên đảo Guam với chi phí hơn 10 tỉ USD nhằm ứng phó các hoạt động ngày càng gia tăng của quân đội Trung Quốc. Đây là khoản đầu tư lớn nhất vào một căn cứ quân sự ở Tây Thái Bình Dương của Mỹ kể từ Thế chiến 2, đồng thời là khoản chi đồ sộ nhất cho cơ sở hạ tầng hải quân trong nhiều thập niên. Theo kế hoạch, siêu căn cứ này sẽ có một bến tàu cho hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân, một hệ thống tên lửa phòng thủ, bãi tập bắn đạn thật và mở rộng căn cứ không quân có sẵn trên đảo.

Trước khi siêu căn cứ này hình thành, Mỹ đang "dùng tạm" căn cứ Hải quân Guam tại cảng Apra. Đây là nơi đặt 3 tàu ngầm lớp Los Angeles là USS City of Corpus Christi, USS Houston và USS Buffalo, đồng thời là điểm đóng quân của hàng chục đơn vị hoạt động hỗ trợ cho Bộ chỉ huy Thái Bình Dương, Hạm đội Thái Bình Dương, Hạm đội 7 và Hạm đội 5 của Mỹ.

Căn cứ Hawaii

Căn cứ thủy quân lục chiến Hawaii (MCBH) đồng thời là một sân bay của Quân đoàn Thủy quân Lục chiến Mỹ. Theo website an ninh và quân sự Globalsecurity, MCBH tọa lạc trên đảo Oahu, cách Honolulu khoảng 20 cây số về phía đông bắc và là "nhà" của Tiểu đoàn Hậu cần Tác chiến 3, Trung đoàn Thủy quân Lục chiến số 3, Đội Phi cơ Thủy quân Lục chiến 24 và Tiểu đoàn Vô tuyến số 3. Theo chuyên san Defense Industry Daily, vị trí của căn cứ này ở Thái Bình Dương biến nó thành một địa điểm lý tưởng cho việc triển khai chiến lược đến khu vực Viễn Đông.

Tại Hawaii còn có căn cứ hải quân Trân Châu Cảng, nơi đặt đại bản doanh của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ.

Căn cứ Yokosuka Là một căn cứ của Hải quân Mỹ, đặt tại thành phố Yokosuka của Nhật Bản. Nhiệm vụ của căn cứ này là duy trì và điều hành các cơ sở hậu cần cho Lực lượng Hải quân Mỹ ở Nhật, Hạm đội 7 và các lực lượng tác chiến được phân công tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Căn cứ Yokosuka nằm ở tỉnh Kanagawa, cách thủ đô Tokyo 65 km về phía nam.

Theo Globalsecurity, Yokosuka có 18 bến tàu và đủ khả năng tiếp nhận nhiều loại tàu khác nhau kể cả hàng không mẫu hạm và tàu ngầm. Hiện tại ở căn cứ có 1 tàu chỉ huy là USS Blue Ridge, 1 hàng không mẫu hạm USS George Washington, 2 tuần dương hạm USS Cowpens và USS Shiloh và 7 khu trục hạm USS Curtis Wilbur, USS John S.McCain, USS Fitzgerald, USS Stethem, USS Lassen, USS McCampbell và USS Mustin. Giữa tháng này, Mỹ đã đưa tàu sân bay USS George Washington vào biển Đông để bắt đầu tuần tiễu trong nhiều tháng.

Căn cứ Singapore

Trong khuôn khổ thỏa thuận ký năm 1992 giữa Singapore và Mỹ, các lực lượng quân sự Mỹ (chủ yếu là không quân và hải quân) được quyền sử dụng các cơ sở ở căn cứ này. Đội đặc nhiệm 73 đóng tại đây và cung cấp hậu cần cho Hạm đội 7 trong các chiến dịch ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á.

Theo giới quan sát, với việc xây dựng siêu căn cứ ở Guam cùng với các kế hoạch tái bố trí lại lực lượng ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đang muốn tiếp tục phát huy ảnh hưởng tại đây và ứng phó sự trỗi dậy của Trung Quốc, vốn đang ngày càng gây quan ngại trong khu vực.

Nga hướng về đông

Trong mấy tháng đầu năm nay, Nga có nhiều động thái đối với nhóm đảo tranh chấp Nam Kuril (Nhật gọi là Vùng lãnh thổ phía Bắc). Bộ Quốc phòng Nga dự tính đưa tên lửa đất đối không S-400 và tàu chiến đa năng Mistral vừa mua của Pháp đến bảo vệ nhóm đảo trên, theo RIA-Novosti. Ngoài ra, còn có tên lửa siêu thanh Yakhont với tầm bắn 200-300 km và hệ thống Tor-M2 có thể cùng lúc bắn 4 tên lửa vào 4 mục tiêu khác nhau. Giới quan sát đánh giá các động thái rầm rộ và quyết liệt trên của Nga không chỉ để đối phó Nhật và khẳng định chủ quyền mà đằng sau còn có một chủ ý sâu xa trước sức mạnh đang lên của Trung Quốc. "Nga đang mất đi ảnh hưởng trong các vấn đề Đông Á, chẳng hạn như vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Vì vậy, Nga đang hối hả khôi phục ảnh hưởng của mình trước khi Trung Quốc trở thành siêu cường", chuyên gia phân tích chính trị Nhật Kosuke Takahashi phát biểu trên tờ Ukrainian Week.


Nga

Căn cứ Vladivostok

Đây là nơi đặt đại bản doanh của Hạm đội Thái Bình Dương của Nga. Theo website Topwar.ru, Hạm đội Thái Bình Dương được quân đội Nga trang bị nhiều vũ khí hiện đại, trong đó có Tuần dương hạm mang tên lửa điều khiển Varyag lớp Slava, tàu khu trục chống ngầm hạng nặng lớp Udaloy I/II, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Sovremenny, tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Delta-III/IV, tàu ngầm hạt nhân chiến lược Akula, Oscar-II, tàu ngầm tấn công lớp Kilo. Hạm đội còn được trang bị các máy bay ném bom chiến lược như Tu-22M3,Tu-142, máy bay đánh chặn Mig-31, máy bay chống tàu ngầm IL-39, KA-27, KA-31.

Ngoài căn cứ chính ở Vladivostok, Hạm đội Thái Bình Dương của Nga còn có một căn cứ tàu ngầm lớn ở Vilyuchinsk trên bán đảo Kamchatka thuộc vùng Viễn Đông.

Căn cứ Kuril

Giữa tháng 11.2010, Tân Hoa xã dẫn các nguồn tin không chính thức cho hay Nga có kế hoạch xây dựng một căn cứ lớn cho Hạm đội Thái Bình Dương tại 4 hòn đảo đang tranh chấp với Nhật Bản. Tokyo gọi những hòn đảo này là "Vùng lãnh thổ phía Bắc", còn Moscow gọi là "nhóm đảo Nam Kuril".

Trong một cuộc phỏng vấn trên Đài phát thanh Echo of Moscow hồi tháng 2, Thứ trưởng Quốc phòng Nga Nikolai Pankov khẳng định quân đội đang đặc biệt ưu tiên cho các lực lượng ở phía đông đất nước. Theo đó, mục tiêu hiện tại là Moscow muốn phát triển Nam Kuril thành bệ phóng để gia tăng tiếng nói và duy trì vị trí cường quốc ở Đông Bắc Á. Nếu Nga nâng cao khả năng không quân và hải quân tại nhóm đảo tranh chấp đồng thời mở rộng Hạm đội Thái Bình Dương, các lực lượng ở đây sẽ thêm khả năng phối hợp với căn cứ quân sự ở Vladivostok và Kamchatka.

Trung Quốc

Căn cứ tàu ngầm Hải Nam

Căn cứ tàu ngầm Hải Nam được cho là nhằm phục vụ các tàu ngầm tấn công thuộc Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Dù chính quyền Bắc Kinh chưa bao giờ lên tiếng chính thức về sự tồn tại của căn cứ này nhưng thông tin về nó đã được tạp chí quân sự nổi tiếng Jane's Intelligence Review của Anh tiết lộ hồi năm 2008.


Vị trí căn cứ tàu ngầm Hải Nam - Ảnh: Telegraph


Theo đó, căn cứ này nằm gần Tam Á trên đảo Hải Nam, có các cửa rộng hơn 23m cho tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Báo Telegraph mô tả căn cứ này là một khu phức hợp khổng lồ có khả năng che giấu 20 tàu ngầm hạt nhân trước vệ tinh do thám. Hơn nữa, vị trí của căn cứ cho phép tàu ngầm xâm nhập những vùng nước sâu hơn 5.000m mà không cần nổi lên, khiến chúng càng khó bị phát hiện hơn.

Jane's Intelligence Review nhận định căn cứ này quá gần với mạng lưới giao thông đường biển khu vực Đông Nam Á và do đó gây nên quan ngại vượt xa tầm khu vực. Báo Indian Express thì dẫn lời một số chuyên gia quân sự Ấn Độ cho biết căn cứ này sẽ cho phép Trung Quốc cắt đứt đường giao thông thương mại trên biển tại biển Đông và eo biển Malacca (Ấn Độ Dương) trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. AFP dẫn lời chuyên gia Christian Le Miere cho rằng sự phụ thuộc của Trung Quốc đối với dầu khí và tài nguyên thiên nhiên đang khiến Bắc Kinh ngày càng muốn kiểm soát các đường biển quan trọng, đặc biệt là khu vực phía nam.

Ngoài ra, Hạm đội Nam Hải còn có nhiều căn cứ khác trên đảo Hải Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Phúc Kiến.

[Internet news]


Thứ Ba, 14 tháng 6, 2011

>> Tàu đổ bộ của Trung Quốc mới sử dụng đã xuống cấp



Tàu đổ bộ có sàn đáp cho trực thăng hiện đại nhất của Hải quân Trung Quốc chưa sử dụng được bao lâu đã xuống cấp khá nghiêm trọng.


Tàu đổ bộ Type-071 lớp Ngọc Chiêu (Yuzhao), là loại tàu đổ bộ lớn nhất và hiện đại nhất của Hải quân Trung Quốc, chiếc đầu tiên được khởi đóng vào năm 2006 tại nhà máy đóng tàu Hồ Đông (Hudong), Thượng Hải. Chiếc thứ 2 cũng đang được gấp rút hoàn thành. Chưa đầy 2 năm sau, ngày 12/5/2007, tàu đổ bộ này đã hoàn thành và biên chế vào Hải quân Trung Quốc.

Hoạt động trong Hạm đội Nam Hải, chiếc Ngọc Chiêu thứ nhất mang số hiệu 998 Côn Lôn. Đây được xem là một bước tiến nhảy vọt cả về công nghệ và tốc độ đóng tàu của công nghiệp hàng hải Trung Quốc. Tàu đổ bộ Type-071 có thông số cơ bản như sau: Dài 210 mét, rộng 28 mét, mớn nước 7 mét, tải trọng tiêu chuẩn 20.000 tấn.

Theo nhà sản xuất, Ttàu được đóng theo công nghệ khá hiện đại, có thể chở từ 500-800 binh sỹ, 15-20 xe bọc thép lội nước, được trang bị 4 hệ thống đổ bộ khí đệm, 2 hệ thống đổ bộ cơ giới. Sàn đáp và nhà chứa máy bay có khả chở 2-4 trực thăng hạng nặng Z-8 Super Frelon.

Tàu đổ bộ Type-071 được trang bị hệ thống vũ khí có nguồn gốc từ Nga, 1 pháo hạm AK-176 76mm, 4 pháo bắn nhanh AK-630 30mm, 4 hệ thống phóng mồi bẫy.

Sự ra đời của tàu đổ bộ Type-071 được xem là một nỗ lực lớn của Trung Quốc trong việc tăng cường năng lực đổ bộ cho hải quân nước này. Type-071 được cho là có thể so sánh với tàu đổ bộ lớp San Antonio của Hải quân Mỹ, nhưng chi phí xây dựng chỉ bằng 1/3 so với tàu đổ bộ của Mỹ.

Tuy nhiên, chiếc tàu đổ bộ hiện đại nhất của Hải quân Trung Quốc chưa sử dụng được bao lâu đã bị xuống cấp.

Một số hình ảnh được đăng trên các trang mạng Trung Quốc cho thấy, con tàu này đã bị ăn mòn khá nghiêm trọng cho dù thời giàn hành hải của nó chưa được bao lâu.

Dù lớp sơn ở phía trên từ mặt nước trở lên vẫn còn mới, nhưng phần từ mặt nước trở xuống đã bị ăn mòn khá nghiêm trọng.

Một số thành viên trên các trang mạng Trung Quốc nhận định rằng, do chạy theo tốc độ hiện đại hóa quá nhanh mà vấn đề chất lượng của các con tàu cũng như các trang thiết bị đi kèm chưa được chú trọng một cách triệt để.



Phần đuôi tàu bị ăn mòn khá nghiêm trọng, con tàu hiện đại này được đóng trong vòng chưa đầy 2 năm.



Phần mũi tàu cũng bị ăn mòn tương tự, cho dù phần sơn phía trên còn rất mới.



[BDV news]



Thứ Hai, 18 tháng 4, 2011

>> Tiềm năng tác chiến của tàu ngầm Trung Quốc ra sao?



Hiện nay, Trung Quốc đang đứng đầu thế giới về số lượng tàu ngầm diesel-điện và đứng thứ ba thế giới (sau Mỹ và Nga) về tiềm năng tác chiến của lực lượng tàu ngầm.

Theo ước tính, trong biên chế của Hải quân Trung Quốc hiện nay đang có khoảng 75 chiếc tàu ngầm (tính cả những chiếc vừa hòan thành trong năm 2010), trong đó có:

5 chiếc tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo (1 chiếc lớp Hạ và 3-4 chiếc lớp Tấn); 8 chiếc tàu ngầm nguyên tử (4 chiếc lớp Hán và 3-4 chiếc lớp Thượng); 60 chiếc tàu ngầm diesel-điện (10 chiếc lớp Nguyên, 13 chiếc lớp Tống, 17 chiếc lớp Minh, 12 chiếc lớp “Kilo” và 8 chiếc lớp Romeo).




Ngoài ra, Hải quân Trung Quốc còn đang sở hữu 2 chiếc tàu ngầm lớp Golf và Vũ Hán để sử dụng cho mục đích thử nghiệm (thử các loại vũ khí tên lửa mới trước khi chính thức trang bị cho các lớp tàu ngầm khác trong biên chế hoặc trước khi tiến hành sản xuất hàng loạt).

Tiềm năng tác chiến của lực lượng tàu ngầm Hải quân quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được đánh giá theo tỷ lệ số vũ khí trang bị trên tàu ngầm so với tổng số vũ khí dự bị hiện có.

Cụ thể, lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc được trang bị 36 quả tên lửa đạn đạo chống ngầm (chiếm 3,3% nguồn dự trữ tên lửa hạt nhân chiến lược), 146 tên lửa đối hạm (chiếm 9,9% nguồn dự trữ tác chiến của loại tên lửa này trong Hải quân Trung Quốc), 1.182 ngư lôi (chiếm 82,4%) và 2.068 thủy lôi (chiếm 31,5% nguồn dữ trữ tác chiến của các loại vũ khí này trong Hải quân Trung Quốc).Trong biên chế thời chiến, lực lượng tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc được tổ chức và biên chế thành 6 cụm tàu tác chiến chia đều cho 3 Hạm đội: Hạm đội Đông Hải, Hạm đội Bắc Hải và Hạm đội Nam Hải.

Trong đó tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo được biên chế cho lực lượng hạt nhân chiến lược, các tàu ngầm đa nhiệm như tàu ngầm nguyên tử và tàu ngầm diesel-điện được biên chế cho lực lượng thông thường.

Trong biên chế thời bình, tất cả số tàu ngầm này đều được tổ chức và biên chế thành các cụm và lữ đoàn tàu ngầm, hoạt động theo sự chỉ đạo chung của Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Chỉ huy các Hạm đội.

Hạm đội Bắc Hải đảm nhiệm tác chiến ở khu vực Hoàng Hải và vịnh Bột Hải với biên chế tác chiến gồm: 2 đội tàu ngầm nguyên tử (1 chiếc tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo lớp Hạ, 2 chiếc lớp Tấn, 4 chiếc lớp Hán mang số hiệu từ 402 đến 405; 4 chiếc lớp Thượng đang triển khai tại căn cứ hải quân Syaopindao và Nanyang; 2 lữ đòan tàu ngầm diesel-điện (13 chiếc lớp Tống, Minh và Romeo) triển khai tại căn cứ hải quân Qingdao và Lushun. Ngoài ra, tại căn cứ hải quân Syaopindao hiện nay còn triển khai cả tàu ngầm thử nghiệm mang tên lửa đối hạm Vũ Hán mang số hiệu 351 và tàu ngầm mang tên lửa lớp Golf mang số hiệu 200.



Hạm đội Đông Hải đảm nhiệm tác chiến ở vùng biển phía Đông Trung Quốc, bao gồm cả eo biển Đài Loan với biên chế tác chiến gồm: 1 lữ đoàn tàu ngầm (4 chiếc tàu ngầm diesel-điện dự án 877/636, 6 chiếc lớp Tống, một vài chiếc dự án 636 EM và lớp Minh, lớp Romeo) triển khai tại căn cứ hải quân Sichugan.

Hạm đội này khi cần thiết cũng có thể sử dụng cả căn cứ hải quân ở Thượng Hải và Ninbo để bố trí và triển khai lực lượng tác chiến nhanh, kịp thời ngăn chặn mọi nguy cơ tiềm năng có thể xảy ra.

Hạm đội Nam Hải.
Đây là một trong những Hạm đội được Trung Quốc tập trung đầu tư nhiều kinh phí, vũ khí, trang thiết bị quân sự nhất bởi vì nó đảm nhiệm khu vực tác chiến trên biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và vịnh Tonkin (vịnh Bắc Bộ).

Theo đánh giá sơ bộ của ngành hải dương Trung Quốc, trữ lượng dầu khí dưới Biển Đông là hơn 50 tỷ tấn, chủ yếu nằm ở độ sâu từ 500 mét đến 2.000 mét. Gần đây, người ta tiếp tục phát hiện ở Biển Đông còn có một trữ lượng băng cháy (một loại năng lượng sạch cho tương lai) khổng lồ.

Bên cạnh đó, ngoài nguồn dầu mỏ tại khu vực Trung Á, tuyệt đại đa số dầu mỏ mà Trung Quốc nhập khẩu từ bên ngoài đều phải vận chuyển qua đường biển, trong đó có một phần rất lớn được vận chuyển qua Eo biển Malacca. Do vậy, bảo vệ lợi ích dầu mỏ nhập khẩu là một nhiệm vụ quan trọng đối với lực lượng hải quân Trung Quốc.

Ngoài ra, trong vấn đề chủ quyền biển đảo, Trung Quốc vẫn đang tranh chấp chủ quyền với hầu hết các nước có biển giáp với Trung Quốc. Khu vực biển Đông vẫn tồn tại những điểm nóng mâu thuẫn giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực.



Tại khu vực biển Hoa Đông, tranh chấp giữa Trung Quốc với Nhật Bản về đảo Điếu Ngư đã không ít lần khiến quan hệ hai nước căng cẳng. Để giải quyết những vấn đề này, “chiến lược biển xanh" cùng với lực lượng hải quân hùng mạnh, đủ sức tác chiến tại vùng biển xa là mục tiêu Trung Quốc ráo riết theo đuổi.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, bên cạnh việc thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng “Hạm đội tác nghiệp biển sâu” Trung Quốc nhận thấy cần tăng cường sức mạnh cho Hạm đội Nam Hải để bảo vệ vững chắc nguồn lợi ích kinh tế khổng lồ và vị trí địa-chiến lược ở khu vực này.

Hiện nay, trong biên chế tác chiến của Hạm đội Nam Hải gồm 1 chiến đoàn tàu ngầm (tàu ngầm diesel-điện lớp Tống, Minh, Romeo) và một vài chiếc tàu ngầm thuộc dự án 636EM triển khai tại căn cứ hải quân Lushun.

[VTC news]

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011

>> Nga: Nhìn nhận về lực lượng vũ trang Trung Quốc (P.2)



[Vitinfo news] Về sức mạnh chiến đấu Hải quân Trung Quốc đang dần chiếm lĩnh vị trí thứ hai trên thế giới chỉ sau Hải quân Mỹ.




>> Nga: Nhìn nhận về lực lượng vũ trang Trung Quốc (P.1)

 Phần II: Hải quân Trung quốc

Về sức mạnh chiến đấu Hải quân Trung Quốc đang dần chiếm lĩnh vị trí thứ hai trên thế giới chỉ sau Hải quân Mỹ. Và trong một tương lai rất gần Hải quân Trung quốc có đầy đủ khả năng tiến hành các chiến dịch quân sự trên tất cả các đại dương.

Hải quân - là Quân chủng có trang bị kỹ thuật hiện đại - trong một thời gian dài trước đây là khâu yếu nhất của Quân đội Trung quốc. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ qua, Hải quân Trung quốc đã phát triển với tốc độ đột phá. Lãnh đạo Trung quốc giao cho lực lượng Hải quân Trung quốc các nhiệm vụ rất quan trọng. Thứ nhất, lực lượng Hải quân phải đủ khả năng chiếm lĩnh Đài Loan khi cần thiết. Thứ hai, đảm bảo việc vận chuyển nguyên liệu (chủ yếu là dầu) từ châu Phi và vịnh Péc-xích về Trung quốc không bị gián đoạn, và đảm bảo cho việc khai thác dầu ở các vùng biển của Trung quốc. Thứ ba là thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Trung quốc.

Một điều dễ thấy là ngay cả Hải quân Mỹ, chứ không cần nói đến bất cứ lực lượng Hải quân nào khác, cũng không giám đưa quân đổ bộ lên bờ biển Trung Quốc, bởi vì lực lượng đổ bộ chắc chắn sẽ bị lực lượng đông đảo của Lục quân Trung quốc tiêu diệt hoàn toàn. Vấn đề đáng lo ngại đối với lãnh đạo Trung quốc là khả năng của Hải quân và Không quân Mỹ sử dụng các loại vũ khí chính xác cao tấn công từ xa các mục tiêu quân sự và kinh tế của Trung quốc. Trên 80% các cơ sở doanh nghiệp - biểu tượng cho sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc - nằm ở vùng ven biển, rất dễ bị tấn công từ hướng biển. Vì vậy, Hải quân của Trung Quốc cần phải xây dựng tuyến phòng vệ trên biển càng xa bờ càng tốt.

Để thực hiện các nhiệm vụ trên đây một cách hiệu quả, kế hoạch xây dựng và phát triển Hải quân của lãnh đạo Trung quốc bao gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu Hải quân Trung Quốc cần phải đảm bảo khả năng hoạt động tác chiến trong phạm vi các đảo của tuyến thứ nhất (từ các đảo Ryukyu của Nhật đến Philippin); giai đoạn thứ hai - trong phạm vi các đảo của tuyến thứ hai (từ quần đảo Kuril qua các đảo Mariana đến New Guinea); giai đoạn thứ ba - tự do hoạt động tại bất cứ vùng biển nào trên thế giới.

Hải quân Trung Quốc có ba hạm đội: Bắc, Đông và Nam. Mỗi hạm đội có 2 đội tàu ngầm (riêng Bắc Hạm đội có 3 đội tàu ngầm), 2 đội tàu khu trục (riêng Đông Hạm đội có 3 đội tàu khu trục), 2 đội tàu cao tốc (riêng Bắc Hạm đội có 1 đội tàu cao tốc), 1 đội tàu phá mìn, 1 đội tàu đổ bộ (riêng Nam Hạm đội có 2 đội tàu đổ bộ). Đội tàu ngầm hạt nhân duy nhất của Hải quân Trung Quốc nằm trong thành phần của Bắc Hạm đội .

Lực lượng Hải quân Trung quốc có: 02 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo, 06 tàu ngầm hạt nhân, 57 tàu ngầm diesel, 77 tàu khu trục, 78 tàu tên lửa cao tốc, 170 tàu tuần tra cao tốc, 22 tàu phá mìn và 72 tàu đổ bộ.

Lực lượng không quân đánh biển của Trung quốc cũng khá lớn, bao gồm các loại ném bom (30 máy bay H-6, 100 máy bay H-5), tiêm kích và cường kích (48 máy bay Su-30, 18 máy bay JH-7, 320 máy bay J-8, 26 máy bay J-7, 200 máy bay J-6, 30 máy bay Q-5), trinh sát (7 máy bay HZ-5, 4 máy bay SH-5, 4 máy bay Y-8X), tiếp nhiên liệu (3 máy bay HY-6), vận tải (2 máy bay Yak-42, 4 máy bay Y-8, 50 máy bay Y-5, 4 máy bay Y-7, 6 máy bay Y-7H), trực thăng (10 trực thăng Ka-28, 8 trực thăng Mi-8, 25 trực thăng Z-9C, 15 trực thăng Z-8).

Đông hạm đội là hạm đội mạnh nhất, dùng để tấn công Đài Loan khi cần thiết. Đông hạm đội được trang bị các loại tàu mới nhất mua từ Nga (tàu ngầm 877 và 636, tàu khu trục 956) và tàu ngầm “Sun” 039 mới nhất của Trung Quốc; toàn bộ số máy bay đánh biển hiện đại (48 máy bay Su-30 và 18 máy bay JH-7) được trang bị cho sư đoàn không quân số 6 của Đông hạm đội. Yếu hơn một chút là Nam hạm đội, có nhiệm vụ phối hợp hỗ trợ Đông hạm đội tấn công Đài Loan, và đảm bảo việc chiếm giữ các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa vùng biển phía Nam. Nam hạm đội được trang bị một nửa số lượng tàu ngầm và toàn bộ số lượng tàu khu trục 052.

Tất cả các loại tàu mới của Hải quân Trung Quốc được mua của Nga hoặc tự chế tạo có số lượng nhỏ với mục đích chủ yếu là để nắm bắt công nghệ mới. Khi cần thiết, việc sản xuất tàu với số lượng lớn có thể được triển khai nhanh chóng. Nhưng chỉ với số lượng tàu hiện nay, Hải quân Trung quốc đã có sức mạnh chiến đấu đáng kể. Tàu khu trục 956 là loại tàu chiến đấu với các mục tiêu trên mặt biển; còn tàu khu trục 052C (do Trung quốc tự chế tạo) là loại tàu thực hiện nhiệm vụ phòng không của lực lượng hải quân. Tàu 052C được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “RIF” của Nga (“RIF” là tên gọi phương án lắp trên tàu của Hệ thống tên lửa phòng không C-300 nổi tiếng, gồm 6 bệ phóng và 8 tên lửa cho mỗi bệ phóng) và hệ thống chỉ huy đa chức năng tương tự như hệ thống “Aegis” của Mỹ.

Tàu khu trục 052C có thể được coi là một ví dụ điển hình chính sách tổng hợp các công nghệ nước ngoài của Trung quốc. Tàu này được lắp động cơ tuabin-khí “Zaria” của Ukraina; về vũ khí, ngoài hệ thống tên lửa phòng không "RIF" của Nga, tàu còn được trang bị tên lửa đối hạm C-803 của Trung Quốc (bản thân C-803 cũng được tổng hợp từ tên lửa đối hạm “Exocet” của Pháp và tên lửa đối hạm "Gabriel" của Israel), pháo 100-mm (được làm theo loại pháo AC M68 của Pháp), pháo phòng không 30-mm 7-nòng (được làm theo loại pháo “Golkiper” của Hà Lan), ngư lôi Yu-7 chống tàu ngầm (được làm theo loại ngư lôi Mk46 của Mỹ), máy bay trực thăng Z-9 (được làm theo loại máy bay trực thăng SA-365 của Pháp). Ngoại trừ máy bay trực thăng và hệ thống phòng không "RIF", tất cả các loại vũ khí còn lại đã được sao chép sản xuất tại Trung Quốc mà không có giấy phép.

Trang bị vũ khí các tàu cũ của Hải quân Trung quốc gồm có: tên lửa đối hạm loại HY, được chế tạo trên cơ sở loại tên lửa P-15 của Liên Xô trước đây; hiện đại hơn thì có tên lửa đối hạm loại YJ, được chế tạo trên cơ sở tổng hợp từ tên lửa đối hạm “Exocet” của Pháp và tên lửa đối hạm "Gabriel" của Israel. Khá hơn cả là tên lửa đối hạm YJ-83 (cũng chính là C-803) có tốc độ siêu âm.

Hải quân Trung Quốc hiện vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết nhằm tăng cường các hệ thống phòng không cho lực lượng hải quân. Ngoài các tàu khu trục loại 052C được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “RIF”, mới chỉ có thêm các tàu khu trục loại 956 và 052B được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “Stil” (cũng của Nga). Một phần các tàu khu trục khác chỉ có hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn HQ-7 (là bản sao hệ thống tên lửa phòng không “Krotalya” của Pháp). Số tàu còn lại chỉ được trang bị các loại pháo phòng không đã cũ. Các tàu của Hải quân Trung Quốc cũng chưa có khả năng chống tàu ngầm đủ mạnh, ngoại trừ các tàu khu trục loại 52. Vào tháng Giêng năm nay hai tàu khu trục loại này, trong khi đi chống cướp biển Somali, không chỉ đã phát hiện được, mà còn buộc tàu ngầm loại 877 của Ấn Độ đang theo dõi hai tàu này phải nổi lên trên mặt nước. Tàu ngầm loại 877, là loại tàu của Nga sản xuất, có mức độ tiếng ồn rất thấp.

Trung quốc đang tích cực triển khai thiết kế chế tạo tàu sân bay (trên cơ sở các loại tàu sân bay cũ được mua lại từ các nước: tàu sân bay "Variag" của Ukrraina, các tàu sân bay “Kiev” và “Minsk” của Hải quân Nga và tàu sân bay “Melbourne” của Hải quân Australia). Hải quân Trung Quốc đã đưa vào hoạt động chiếc tàu đổ bộ 071 đầu tiên. Cho đến nay đó là chiếc tàu lớn nhất của Hải quân Trung Quốc có tải trọng 20 nghìn tấn, có khả năng vận chuyển 800 lính thủy đánh bộ và 50 xe bọc thép. Xe bọc thép và lính thủy đánh bộ được đổ bộ từ tàu vào bờ bằng 4 tàu đổ bộ cao tốc và 4 máy bay trực thăng.

Lực lượng lính thủy đánh bộ của Hải quân Trung quốc hiện nay có khoảng 10 nghìn người, gồm hai lữ đoàn trực thuộc Nam hạm đội. Trong quân chủng Lục quân của quân đội Trung quốc cũng có lực lượng lính thủy đánh bộ, còn mạnh hơn rất nhiều so với lực lượng lính thủy đánh bộ của Hải quân. Các tàu sân bay và các tàu đổ bộ lớn sẽ tạo cho Hải quân Trung Quốc những khả năng mới trước hết là trong cuộc chiến nhằm lấy lại Đài Loan, và tiếp sau đó là cho các hoạt động trên các đại dương. Nếu lấy lại được Đài loan Trung Quốc sẽ có khả năng kiểm soát các tuyến giao thông ở vùng biển phía tây Thái Bình Dương và vùng Đông Nam Á. Trong trường hợp này, Trung Quốc sẽ gỡ bỏ được “rào cản đảo” chạy dọc theo bờ biển, và Hải quân Trung quốc sẽ tự do bước vào đại dương rộng lớn. Trung Quốc đang chuẩn bị cho bước đột phá này, bằng cách phát triển nhanh số lượng tàu hoạt động trên đại dương và giảm số lượng tàu hoạt động vùng ven bờ. Trên thực tế, chỉ cần có một tàu sân bay Hải quân Trung Quốc đã có thể đảm bảo hoạt động trong phạm vi các đảo của tuyến thứ hai, bao gồm cả Sakhalin, Kuril và Kamchatka.


Thứ Bảy, 26 tháng 2, 2011

>> Tàu đổ bộ chủ lực của Trung Quốc



Hải quân Trung Quốc hiện có 54 tàu đổ bộ cỡ lớn và cỡ trung, có khả năng đổ bộ khoảng 12.000 quân, hoặc 1 sư đoàn.
Tàu đổ bộ cỡ lớn Hải quân Trung Quốc có 27 tàu đổ bộ cỡ lớn, bao gồm một tàu phục vụ vận tải đổ bộ (LPD) kiểu 071 lớp Ngọc Chiêu (Yuzhao), 7 chiếc kiểu 072 lớp Ngọc Khang (Yukan), 10 chiếc kiểu 072-II lớp Du Đình (Yuting), và 9 chiếc kiểu 072-III lớp Du Đình II (Yuting-II).

Tàu kiểu 071 Lớp Ngọc Chiêu
Gồm 1 chiếc, được biên chế tại hạm đội Nam Hải.



Tàu kiểu 071 Ngọc Chiêu

Các thông số cơ bản:

Lượng choán nước: 17.000 – 20.000 tấn
Chiều dài: 210 m
Chiều rộng:
26,5 m
Mớn nước:
7 m
Vận tốc:
20 hải lý/h
Tầm hoạt động: 6.000 hải lý (tại 18 hải lý/h)
Khả năng vận tải: 400-800 quân; 2 xuồng đổ bộ chở quân
và phương tiện; 2-4 máy bay trực thăng Z-8
Super Frelon.

Tàu kiểu 072 Ngọc Khang
Gổm 7 chiếc, biên chế tại hạm đội Đông Hải (Số hiệu lần lượt là 927, 928, 929, 930, 931, 932, 933).


Tàu kiểu 072 lớp Ngọc Khang

Lượng choán nước: 3.110 tấn (tiêu chuẩn), 4.170 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 120 m
Chiều rộng:
15,3 m
Mớn nước:
2,9 m
Vận tốc:
Lớn nhất 18 hải lý/h; Tiết kiệm 14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
3.000 hải lý (tại 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
130
Khả năng vận tải:
200 quân, 10 xe tăng, 2 xuồng đổ bộ chở quân
và phương tiện (tổng cộng 500 t)

Tàu kiểu 072-II Du Đình
Gồm 10 chiếc: 5 chiếc tại hạm đội Đông Hải (908, 909, 910, 939, 940), 5 chiếc tại hạm đội Nam hải (934, 935, 936, 937, 991).


Tàu kiểu 072-II lớp Du Đình

Lượng choán nước:
4.800 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 119,5 m
Chiều rộng: 16,4 m
Mớn nước:
2,8 m
Vận tốc:
Lớn nhất 17-18 hải lý/h; Tiết kiệm 14 hải lý/h
Tầm hoạt động: 3.000 hải lý (tại 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
130
Khả năng vận tải:
250 quân, hoặc 10 xe tăng, hoặc 500 tấn hàng.

Tàu kiểu 072-III Du Đình II
Gồm 9 chiếc: 6 chiếc tại hạm đội Nam Hải (992, 993, 994, 995, 996, 997), 2 chiếc tại hạm đội Bắc Hải (911, 912), 1 chiếc tại hạm đội Đông Hải (913).


Tàu kiểu 072-III lớp Du Đình II

Lượng choán nước:
4.800 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 119,5 m
Chiều rộng:
16,4 m
Mớn nước: 2,8 m
Vận tốc:
Lớn nhất 17 hải lý/h; Tiết kiệm 14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
3.000 hải lý (tại 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
104
Khả năng vận tải:
250 quân, hoặc 10 xe tăng, hoặc 500 tấn hàng.

Tàu đổ bộ cỡ trung
Hải quân Trung Quốc có 27 tàu đổ bộ cỡ trung bao gồm 11 chiếc kiểu 073-III lớp Ngọc Đăng (Yudeng), 10 chiếc kiểu 074 lớp Dục Hải (Yuhai), và 6 chiếc kiểu 074A.

Ngoài ra còn có 31 tàu đổ bộ khác được coi là cỡ trung kiểu 079 lớp Vu Liên (Yulian), hoạt động chủ yếu ở vùng ven bờ và biển Đông.

Tàu kiểu 073-III Ngọc Đăng
Gồm 11 chiếc: 4 chiếc tại hạm đội Đông Hải (941, 942, 943, 944), 7 chiếc tại hạm đội Nam Hải (945, 946, 947, 948, 949, 950, 990).


Tàu kiểu 073-III lớp Ngọc Đăng

Lượng choán nước: 1.460 tấn (tiêu chuẩn), 2.000 tấn (đầy tải)
Chiều dài:
87 m
Chiều rộng: 12,6 m
Mớn nước: 2,25 m
Vận tốc:
Lớn nhất 17 hải lý/h, kinh tế 14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
1.500 hải lý (ở 14 hải lý/h)
Thủy thủ đoàn:
74
Khả năng vận tải:
179 quân, hoặc 6 xe tăng, hoặc 8 xe tăng hạng nhẹ,
hoặc 9 xe bọc thép, hoặc 12 xe quân sự, hoặc 250 tấn hàng

Tàu kiểu 074 Dục Hải
Gồm 10 chiếc: 5 chiếc tại hạm đội Bắc Hải (3111, 3113, 3115, 3116, 3117), 2 chiếc tại hạm đội Đông Hải (3229, 3244), 3 chiếc tại hạm đội Nam Hải (7593, 7594, 7595).


Tàu kiểu 074 lớp Dục Hải

Lượng choán nước:
800 tấn (đầy tải)
Chiều dài:
58,4 m
Chiều rộng:
10,4 m
Mớn nước: 2,7 m
Vận tốc:
14 hải lý/h
Tầm hoạt động:
N/A
Thủy thủ đoàn:
56
Khả năng vận tải: . 250 quân và 2 xe tăng, hoặc 100 tấn hàng

Tàu kiểu 074A
Gồm 6 chiếc: 2 chiếc tại hạm đội Bắc Hải (3128, 3129), 4 chiếc tại hạm đội Đông Hải (3232, 3233, 3234, 3235).


Tàu kiểu 074A

Lượng choán nước 800 tấn. Các thông số khác chưa được tiết lộ.

Tàu kiểu 079 Vu Liên
Gồm 31 chiếc được biên chế tại hạm đội Nam Hải.

Tàu kiểu 079 lớp Vu Liên

Lượng choán nước:
730 tấn (tiêu chuẩn), 833,4 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 60,3 m
Chiều rộng: 10 m
Mớn nước: 2,36 m
Vận tốc: 12 hải lý/h
Tầm hoạt động:
1.000 hải lý (7 ngày)
Thủy thủ đoàn:
60
Khả năng vận tải:
5 xe tăng, hoặc 8 xe quân sự, hoặc 4 xe vận tải
kéo theo 4 khẩu pháo 85mm, hoặc 200 tấn hàng.


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang