Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

>> Chiến tranh Nam Tư : Tác chiến theo quy ước là chuốc lấy thất bại


Kinh nghiệm sử dụng chiến đấu bộ đội phòng không (PK) trong các cuộc chiến tranh cục bộ vẫn ít đượcbiết đến và hầu như không được vận dụng trong huấn luyện chiến đấu cho các đơn vị PK.


Cho đến cuối thập kỷ 1990, khoảng cách giữa sự gia tăng về số và chất lượng của các phương tiện tiến công đường không-vũ trụ của Mỹ và các nước NATO với sự phát triển hầu như chậm lại của các lực lượng và phương tiện PK của các nước có khả năng bị tấn công đường không bằng tên lửa đã đạt đến điểm nguy hiểm. Những biện pháp kỹ thuật và tổ chức muộn màng nhằm nâng cao hiệu quả PK của các nước này đã không mang lại kết quả đáng kể.




http://nghiadx.blogspot.com
Không quân Mỹ trong chiến tranh Nam Tư 1999 đã khẳng định được đẳng cấp cao của mình. Các máy bay ném bom В-2А xuất phát từ lục địa nước Mỹ, thực hiện các chuyến bay xa không hạ cánh kéo dài đến 30 giờ với 4 lần tiếp dầu trên không để ném bom nước này (Không quân Mỹ)


Khả năng và sức mạnh tiến công đường không đã được Mỹ và NATO thể hiện trong các chiến dịch:

- “Cáo sa mạc” (Operation Desert Fox): Tấn công đường không bằng tên lửa vào Iraq năm 1998

- “Sức mạnh cương quyết” (Operation Determined Force), Mỹ đặt mật danh cho chiến dịch này là “Sức mạnh Đồng minh” -(Opertaion Allied Force): Cuộc xâm lược Nam Tư của NATO năm 1999

- “Tự do bất diệt” (Operation Enduring Freedom: Chiến dịch chống khủng bố ở Afghanistan năm 2001-2002 

- “Cú sốc và sự kinh hoàng” [Operation Shockand Awe] (Chiến dịch xâm lược Iraq năm 2003).

Từ góc độ đối kháng lực lượng và phương tiện tiến công đường không và PK, có ý nghĩa nghiên cứu nhất là Chiến dịch Determined Force, trong đó các lực lượng KQ và PK không lấy gì làm mạnh của nước Nam Tư đã bị chia rẽ vì mâu thuẫn nội bộ đã phải đối phó với một lực lượng KQ và hải quân (HQ) hùng mạnh của liên quân NATO.

Trong chiến dịch này, có lẽ chưa có KQ và PK của nước nào lại phải đồng thời thực hiện một tổ hợp các nhiệm vụ PK như vậy. Các chuyên gia quân sự nước ngoài cho rằng, các cuộc xung đột vũ trang có thể xảy ra trong tương lai gần sẽ diễn ra theo kịch bản tương tự. Bởi vậy, Chiến dịch Determined Force cần được chú ý đặc biệt.

Trong Chiến dịch Determined Force, một lực lượng đa quốc gia của NATO với vai trò hàng đầu của quân đội Mỹ đã được huy động. Lần đầu tiên, quân đội Đức đã đóng vai trò tích cực trong hoạt động tác chiến, trước đó sự tham gia của họ chỉ hạn chế ở việc yểm trợ tài chính hoặc cung cấp lực lượng bảo đảm. Các sân bay của Italia, Đức, Anh, Pháp, Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ đã được sử dụng tích cực để triển khai các đơn vị không quân chiến thuật NATO tham chiến.

Giới lãnh đạo chính trị-quân sự NATO đã giành vị trí trung tâm cho các phương tiện tiến công đường không-vũ trụ trong việc đạt được các mục đích của Chiến dịch Determined Force.

Nhằm mục đích đó, họ đã xây dựng và tiến hành một chiến dịch tiến công đường không từ ngày 24/3-10/6/1999 gồm 3 giai đoạn chính.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiêm kích tàng hình tối tân vào thời điểm năm 1999 F-117 đã bị tiểu đoàn TLPK S-125 bắn rơi trong chiến tranh ở Nam Tư (Không quân Mỹ)

Mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 1 mà lãnh đạo NATO đặt ra là: giành ưu thế trên không, chế áp hệ thống PK Nam Tư và loại khỏi vòng chiến những mục tiêu chính của hạ tầng quân sự tại Kosovo.

Trong vòng 2-3 ngày đêm, NATO dự định dùng các cuộc tấn công đường không chủ yếu được thực hiện vào ban đêm để tiêu diệt các đài radar, các phương tiện hoả lực, các đầu mối thông tin liên lạc và các sở chỉ huy KQ và PK, làm rối loạn công tác lãnh đạo nhà nước và chỉ đạo chiến tranh của Nam Tư. Ngoài ra, họ còn dự định gây tổn thất lớn cho lực lượng quân sự tại các điểm trú đóng thường xuyên và cô lập các lực lượng quân đội ở Kosovo..

Giai đoạn 2 trù tính: tiếp tục thực hiện các đòn tấn công bằng bom và tên lửa để tiêu diệt các mục tiêu trên toàn lãnh thổ Nam Tư.

Các nỗ lực chính được tập trung vào tiêu diệt các đơn vị lục quân, vũ khí và kỹ thuật quân sự, cũng như các mục tiêu quân sự các cấp, kể cả cấp chiến thuật. Ở giai đoạn này, lãnh đạo NATO đặt ra mục tiêu chính là cô lập khu vực chiến sự..

Trong giai đoạn 3, NATO trù định: thực hiện các cuộc tấn công vào những mục tiêu nhà nước và công nghiệp quốc phòng quan trọng của Nam Tư nhằm làm suy yếu tiềm lực kinh tế-quân sự của Nam Tư và đè bẹp ý chí kháng chiến của nhân dân Serbia.

Khi bắt đầu chiến sự, lực lượng KQ và HQ liên quân NATO gồm gần 300 máy bay chiến đấu, trong đó có 8 máy bay ném bom chiến lược và 35 tàu.

Tiếp đó, để thực hiện các mục tiêu của chiến dịch tiến công đường không, NATO đã thành lập lực lượng liên quân gồm hơn 600 máy bay chiến đấu (tổng cộng có hơn 1.000 máy bay), trong đó có các các máy bay ném bom chiến lược tàng hình tối tân В-2А và các máy bay tiêm kích tàng hình F-117A, hơn 60 tàu các loại, trong đó có 4 tàu sân bay.

Đặc điểm nổi bật của lực lượng này là trong biên chế của nó có một số lượng lớn máy bay không người lái các loại. Tổng cộng đã tập trung tại khu vực xung đột gần 40 máy bay không người lái (gần 20 chiếc của Mỹ, gần 10 chiếc Pháp và hơn 10 chiếc của Đức).


http://nghiadx.blogspot.com
Các loại bom đạn sắp được sử dụng chống các mục tiêu của quân đội và kinh tế Nam Tư (Hải quân Mỹ)


Các mẫu vũ khí hiện đại (tên lửa hành trình phóng từ biển và trên không), cũng như các mẫu vũ khí chính xác cao mới như bom có điều khiển JDAM được dùng làm những phương tiện tiến công đường không chính.

Lực lượng KQ chiến lược, chiến thuật của KQ và KQHQ Mỹ chiếm hơn 50% lực lượng KQ liên quân NATO.

Trong thành phần lực lượng NATO, HQ Mỹ chiếm hơn 30% tàu chiến và 90% tên lửa hành trình phóng từ biển Tomahawk.

Trong chiến dịch không kích chống Nam Tư, NATO đã thực hiện hơn 20.000 phi vụ xuất kích và phóng đi 870 tên lửa hành trình (792 tên lửa hành trình phóng từ biển và 78 tên lửa hành trình phóng từ trên không), trong đó phóng 374 tên lửa hành trình phóng từ biển vào các mục tiêu trên lãnh thổ Kosovo.

Gần 80% tên lửa đã được sử dụng để tiêu diệt các mục tiêu tĩnh kiên cố và có PK mạnh (các mục tiêu nhà nước và quân sự quan trọng, các sở chỉ huy và các đầu mối thông tin, các căn cứ KQ và phương tiện PK) nhằm làm giảm thiệt hại trong các hoạt động tiếp sau của KQ. 20% tên lửa còn lại dùng để phóng vào các mục tiêu công nghiệp lưỡng dụng (các xí nghiệp công nghiệp hoá chất, lọc dầu và chế tạo máy).

KQ và PK Nam Tư gồm có: 1 quân đoàn KQ (2 lữ đoàn KQ, 1 trung đoàn trực thăng, 1 phi đội trực thăng vận tải) và 1 quân đoàn PK (1 lữ TLPK, 2 trung đoàn KQ tiêm kích và 6 trung đoàn TLPK) với tổng cộng 10 phi đội KQ chiến đấu (5 phi đội tiêm kích-bom, 2 phi đội tiêm kích và 1 phi đội huấn luyện chiến đấu), 1 phi đội KQ hỗ trợ (huấn luyện), 5 phi đội trực thăng và 32 tiểu đoàn PK. Tổng cộng có 136 máy bay chiến đấu, 132 bệ phóng TLPK tầm trung, 30 máy bay hỗ trợ và 53 trực thăng.

http://nghiadx.blogspot.com
Vũ khí đang được lắp lên máy bay F-117 (Không quân Mỹ)


Trong trang bị của KQ Nam Tư có các máy bay tiêm kích MiG-21bis và MiG-29, máy bay tiêm kích-bom J-22 Orlo (Đại bàng), máy bay cường kích hạng nhẹ G-4 Super Galeb và máy bay trinh sát MiG-21R và 1R.

Loại máy bay hiện đại nhất của quân đoàn KQ là MiG-29, nhưng số lượng chỉ có 13 chiếc. Các máy bay tiêm kích MiG-21 là loại đã cũ và không thể đối phó hiệu quả với các máy bay của liên quân NATO. Chúng thích ứng kém với các cuộc không chiến tầm xa với các máy bay tiêm kích chiến thuật F-15 và F-16 trang bị tên lửa tầm bắn đến 80 km.

Hiện đại hơn cả trong các đơn vị tiêm kích-bom là các máy bay tiêm kích-bom J-22 Orlo với các ưu điểm hiển nhiên là trang bị tên lửa chính xác cao lắp đầu tự dẫn truyền hình và laser Maverick vốn đã thể hiện hiệu quả cao trong chiến sự ở Trung Cận Đông.

KQ Nam Tư trú đóng tại các sân bay thường trực được trang bị khá tốt. Các máy bay và trực thăng được bố trí phân tán tại các sân bay này và có áp dụng các biện pháp nguỵ trang.

Nhằm đánh lừa đối phương và gây khó khăn cho việc phát hiện các mục tiêu thật, trên các sân bay có bố trí một số lượng lớn các mô hình máy bay chiến đấu.

Một bộ phận máy bay chiến đấu được giấu trong các hầm trú ẩn, nhiều hầm trú ẩn trong số đó được xây dựng rất khéo léo. Ví dụ, tại sân bay Pristina, các hầm trú ẩn cho máy bay được xây dựng trong lòng núi nên khó bị phát hiện và làm cho KQ hầu như không thể tấn công tiêu diệt từ trên không.

Nòng cốt của hệ thống PK Nam Tư là các hệ thống TLPK đã lạc hậu của Liên Xô như S-75 Dvina, S-125 Pechora, Kvadrat, Strela-1 (lắp trên xe thiết giáp BRDM) và Strela-10 (lắp trên xe thiết giáp MTLB), tên lửa phòng không mang vác Strela-2 (3), Stinger, và pháo PK.

Để bảo vệ thủ đô Belgrade, Nam Tư chủ yếu sử dụng các tiểu đoàn TLPK trang bị S-125 đã được các chuyên gia Nam Tư hiện đại hoá. Tất cả các tiểu đoàn này đều được trang bị hệ thống điều khiển hoả lực tự động hoá của hãng Marconi và 2 tiểu đoàn được trang bị các trạm hồng ngoại của hãng Philips.

Việc sử dụng các trạm ảnh nhiệt thụ động do phương Tây sản xuất trong các hệ thống S-125 đã bảo đảm khả năng sống còn, tính bí mật, bất ngờ sử dụng, tính vững chắc trước nhiễu tích cực và tiêu cực và khả năng tác chiến cả ngày lẫn đêm.

Công tác nguỵ trang binh khí kỹ thuật tại các trận địa rất được chú trọng. Nhằm mục đích đó, người ta đã sử dụng các phương tiện nguỵ trang trong biên chế và sẵn có. Ví dụ, các cabinn điều khiển chiến đấu được phủ các tấm cao su dày 15-20 mm. Sau đó, đặt tấm lát bằng gỗ tròn.

Để giảm hiệu quả các cuộc tấn công của địch vào các phương tiện PK, Nam Tư sử dụng rộng rãi các bộ tạo giả bức xạ đài radar mang vác. Chúng được bố trí tại các trận địa phóng, cách đài an ten hay đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường (SURN) của hệ thống TLPK vài trăm đến vài ngàn mét.

Công suất bức xạ của bộ tạo giả là 5-6 kW. Trong thiết kế của nó có sử dụng các magnetron được dùng trong máy móc điện tử trên khoang của máy bay MiG-21 và có tần số công tác giống các thiết bị phát của hệ thống TLPK.

Ban đầu, công suất và thời gian làm việc của các bộ tạo giả bức xạ đài radar không đủ lớn và trang bị trên khoang của máy bay NATO vẫn có khả năng phân biệt, nhận dạng chúng. Vì thế, trong đa số các trường hợp, phi công NATO vẫn dẫn được tên lửa chống radar HARM vào thiết bị bức xạ của các phương tiện hoả lực PK, bỏ qua bộ tạo giả.

Sau đó, thiết kế của bộ tạo giả bức xạ radar đã được cải tiến. Các tham số bức xạ của nó trở nên giống như các tham số của radar của hệ thống TLPK. Tuy các bộ tạo giả được chế tạo tại các nhà máy, nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu.

Việc KQ NATO đã mất rất nhiều thời gian và tên lửa chống radar để tiêu diệt một số đài radar và phương tiện PK có trang bị một số bộ tạo giả bức xạ radar đã cho thấy hiệu quả của các bộ tạo giả này. Ví dụ, trong 30 ngày tác chiến, KQ NATO đã phóng vào 2 bộ tạo giả radar bảo vệ 2 đại đội TLPK Kvadrat và 1 bộ tạo giả radar bảo vệ 1 tiểu đoàn S-125 lần lượt 14 và 15 tên lửa chống radar HARM, nhưng các hệ thống TLPK vẫn không bị tổn hại.

Một phương tiện hiệu quả không kém trong việc nâng cao khả năng sống còn của hệ thống TLPK là các bộ phản xạ góc được bố trí thành từng cụm hay đơn lẻ tại các trận địa giả và trận địa thật ở khoảng cách đến 300 m so với đài radar hay đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường của hệ thống TLPK.

Việc sử dụng các bộ phản xạ góc đạt hiệu quả cao nhất khi sử dụng kết hợp với cấu trúc của trận địa. Khi đó, công sự cho radar được đào với tính toán sao cho bộ phát xạ bên dưới của anten nằm ngang mặt đất. Điều đó làm giảm 20-30% cự ly phát hiện, nhưng đồng thời do ảnh hưởng của mặt đất bên dưới và hạ thấp bộ phát xạ mà trường radar của đài radar bị biến dạng ít nhiều và cho phép tận dụng tối ưu nhất tác dụng của cá bộ phản xạ góc.

Ví dụ, KQ NATO đã phóng vô hiệu quả 8 tên lửa chống radar vào một trận địa được cấu trúc như vậy của 1 trung đoàn TLPL Kvadrat được trang bị 2 nhóm bộ phản xạ gíc đặt cách đài radar P-15 ở khoảng cách 100 và 300 m. Đã có trường hợp tên lửa chống radar HARM đã phóng vào chiếc bừa đĩa bị bỏ lại trên cánh đồng cách đài radar gần 3 km.

Kinh nghiệm tác chiến đã cho thấy hầu như trong tất cả các trận đánh PK đều có sự sử dụng ồ ạt tên lửa chống radar. Đó là vì bộ chỉ huy NATO muốn giảm bớt tối đa tổn thất có thể của KQ chiến đấu trong chiến dịch đường không trước các phương tiện PK Nam Tư.

Do đó, để phát hiện vị trí và xác định chính xác toạ độ và thực hành tấn công các trận địa của các phương tiện PK đang hoạt động, KQ NATO đã áp dụng các thủ đoạn khiêu khích đi kèm với chuyến bay tốp của máy bay tiêm kích (10-15 chiếc) gần khu vực sát thương của các hệ thống TLPK và thực hiện các động tác giả vào công kích mục tiêu.

Hoạt động tác chiến của các đơn vị PK của quân đội Nam Tư có đặc điểm chính là sử dụng nhiều những trận đột kích, cơ động và di chuyển trận địa hầu như hàng ngày. Một số tiểu đoàn TLPK S-125 và các đại đội TLPK Kub, theo lệnh của bộ chỉ huy, đã được rút khỏi biên chế của lữ đoàn PK và các trung đoàn PK để chuyển thuộc trực tiếp bộ chỉ huy quân đoàn PK và sau đó được sử dụng theo kế hoạch của bộ chỉ huy quân đoàn PK. Việc chỉ huy hoả lực trong quá trình chiến sự được thực hiện cả từ bộ chỉ huy quân đoàn PK, lẫn thông qua các bộ chỉ huy của lữ đoàn PK và các trung đoàn PK.

Mọi hoạt động cơ động và di chuyển phương tiện PK thường được thực hiện về đêm không theo đội hình đoàn xe. Binh khí kỹ thuật được di chuyển từng xe một, với địa điểm và thời gian đến được ấn định, có tính tới tốc độ hành quân ở chế độ im lặng vô tuyến hoàn toàn. Để nguỵ trang, việc di chuyển trong đa số các trường hợp được thực hiện lẫn trong đoàn xe dân sự hay đoàn người sơ tán và bề ngoài phương tiện kỹ thuật được thay đổi tối đa bằng các phương tiện sẵn có.

Điều đáng lưu ý là trong thời gian không quá 1-1,5 phút sau khi bắn, đơn vị PK đã phải thu hồi khí tài và lên đường đến khu vực tập kết. Khu vực tập kết thường có các địa vật tự nhiên hoặc nhân tạo có thể dùng để nguỵ trang như (các khe trũng, các hăng-ga...), và chỉ thực hiện từ đó.

Thời gian chờ đợi (1-1,5 phút) được xác định căn cứ vào thời gian mà các máy bay NATO có thể tổ chức tấn công vào các trận địa của đơn vị. Khi rẽ khỏi đường ô tô và di chuyển đến trận địa phóng, các xe khí tài tắt đèn pha và đèn tín hiệu quanh xe. Chiến thuật hành quân này tỏ ra khá hiệu quả. Thực tế đã không xảy ra một cuộc tấn công nào vào trận địa phóng của PK Nam Tư do bị lộ khi hành quân.

Việc thay đổi trận địa phóng được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Sau khi phóng: Thay đổi ngay lập tức. Sau khi bật radar phát xạ trong chu trình bắn để phục vụ việc thực hành sau đó nhiệm vụ bắn (hoặc không thực hành).

- Sau khi có máy bay không người lái trinh sát của NATO bay qua: Thay đổi ngay lập tức. Theo lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn và theo kế hoạch thay đổi trận địa phóng tại khu vực cơ động chiến đấu.

Hiệu quả nhất là việc cơ động 1 trung đoàn TLPK vào vùng núi mà trên đó KQ NATO tiến hành lập đội hình các tốp máy bay tấn công. Bộ chỉ huy NATO nghĩ rằng, các Nam Tư không thể đưa các phương tiện PK vào vùng này nên đã không áp dụng các biện pháp cần thiết phòng chống TLPK.

Việc cơ động được thực hiện ban đêm và bí mật đối với tình báo đối phương, có áp dụng tối đa các biện pháp nguỵ trang chiến thuật. Sau khi KQ NATO tập trung, trung đoàn TLPK Kvadrat bất ngờ tấn công bằng tất cả các phương tiện hiện có. Tổn thất của NATO là không dưới 5 máy bay chiến đấu.

Trong quá trình tác chiến của các đơn vị PK đi kèm với việc sử dụng ồ ạt tên lửa chống radar, phía Nam Tư đã có những điều chỉnh lớn đối với các quy định bắn mục tiêu bay.

Chẳng hạn, khu vực sát thương của các hệ thống TLPK đã bị giảm đi 50% để bảo đảm việc phát xạ ở mức tối thiểu và xác suất tối ưu tiêu diệt mục tiêu bay. Các thiết bị phát radar của các phương tiện hoả lực được bật lên khi cự ly tới mục tiêu là không quá 20 km (tức là mục tiêu luôn nằm trong khu vực sát thương).

Các tên lửa và loạt đạn thay thế được chuẩn bị từ trước. Thời lượng hoạt động của thiết bị phát radar, được xác định bằng thử nghiệm, là không được quá 6 s. Nếu trong quãng thời gian này (nhất là về đêm) mà không bắt bám được mục tiêu thì thiết bị phát radar bị tắt đi. Sau 10 s, thiết bị phát radar được bật lại hoạt động trong 6 s. Nếu trong quãng thời gian bật lại này, vẫn không bắt được mục tiêu thì sau đó thiết bị phát radar không được bật lại nữa. Trong trường hợp bắt bám được mục tiêu thì lập tức tiến hành phóng đạn mà thường là đồng thời bắn 2 quả đạn tên lửa.

Khi bắn ban ngày, hệ thống ngắm quang truyền hình được dùng làm phương tiện trinh sát chính bởi vì hệ thống các khí tài tự động hoá Krab (của hệ thống TLPK Kvadrat) ở chế độ “Radio” (Vô tuyến) không được sử dụng do đối phương gây nhiễu.

Thông tin chỉ thị mục tiêu được truyền qua điện thoại chỉ rõ phương vị và cự ly. Số liệu về độ cao bay của các mục tiêu bay thường không được cung cấp do các khí tài vô tuyến đo cao cơ động đã bị tiêu diệt. Các kíp trắc thủ đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường sử dụng khí tài ngắm quang truyền hình để sục sạo mục tiêu. Tần suất để lọt mục tiêu không quá 0,7.

Nếu kíp trắc thủ đài điều khiển, trinh sát và dẫn đường bật đài trinh sát mục tiêu (SRTs) để tìm kiếm mục tiêu thì thường dẫn tới kết quả đài bị không dưới 2 tên lửa chống radar tấn công. Trong khi đó, không phải lúc nào trên màn hình của đài cũng nhìn thấy tên lửa chống radar.

Nhờ áp dụng chiến thuật phục kích đón lõng, hệ thống TLPK Kvadrat thường bảo đảm được tính bất ngờ trong sử dụng vũ khí mà không bị KQ NATO đối phó bằng nhiễu và tên lửa chống radar.

Ví dụ, 1 đại đội TLPK được di chuyển đến Kosovo ở chế độ hoạt động bình thường đã tiêu diệt được 1 trực thăng chiến đấu của NATO và một số tên lửa hành trình.

Các hệ thống TLPK Kvadrat và S-125 cực kỳ ít khi được dùng để bắn máy bay không người lái và tên lửa hành trình để tránh làm lộ trận địa. Phương tiện chính để đánh tên lửa hành trình và máy bay không người lái là hệ thống TLPK Strela thuộc tất cả các kiểu loại mà Nam Tư có trong tay và pháo phòng không cỡ nhỏ.

Khi phát hiện được các tốp máy bay lớn (15-20 máy bay), PK Nam Tư để cho chúng bay qua đội hình chiến đấu của mình và chỉ nổ súng khi những máy bay đơn lẻ hay các tốp máy bay nhỏ (2-4 chiếc) lọt vào khu vực sát thương.

Họ chỉ bắn vào máy bay đi đầu trong trường hợp quãng thời gian giữa các mục tiêu trong tốp là hơn 1 phút, và bắn chiếc đi sau cùng khi quãng thời quan giữa các mục tiêu trong tốp ngắn hơn.

Thông thường, sau khi phát hiện có TLPK bắn lên, các máy bay NATO thường cố thoát khỏi khu vực sát thương càng nhanh càng tốt bằng cách vứt bỏ vũ khí mang theo, sử dụng các loại nhiễu và thực hiện cơ động tránh đạn tên lửa.

Gần 90% lần phóng TLPK là ở chế độ bắn đuổi. Các lần phóng đơn lẻ 1 quả TLPK cơ bản là bắn trượt, còn phóng 2 quả TLPK thường tiêu diệt được mục tiêu. Việc đánh giá kết quả bắn bằng cách sử dụng radar của hệ thống TLPK không được áp dụng. Ngay sau khi đầu đạn TLPK nổ, tất cả các thiết bị phát radar được tắt đi.

KQ tiêm kích chỉ được sử dụng trong 3 ngày đầu sau khi chiến sự bùng nổ bởi vì trang bị vô tuyến điện tử và vũ khí hàng không của các máy bay Nam Tư (MiG-29, MiG-21) không cho phép tiến hành không chiến ngang bằng với máy bay NATO. Sau đó, KQ Nam Tư không tham chiến nữa.

Toàn bộ các thông tin về hoạt động của các phương tiện tấn công đường không-vũ trụ của NATO được tập trung và phân tích tại sở chỉ huy quân đoàn PK Nam Tư. Các đơn vị radar hầu như không được huy động tham gia cuộc xung đột.

Các phương tiện radar tiến hành sục sạo mục tiêu ở chế độ phát xạ trong thời gian ngắn. Việc phát hiện kịp thời, xác định hướng bay và vị trí của các phương tiện tiến công đường không của NATO do các hệ thống trinh sát vô tuyến điện tự động hoá KRTP-86 Tamara do Cộng hoà Czech chế tạo đảm nhiệm.

Hệ thống này với tầm hoạt động đến 450 km có khả năng sống còn cao và tính bí mật trong hoạt động. Nó hoạt động không dựa trên nguyên lý định vị vô tuyến chủ động mà dựa trên việc ghi nhận và phân tích bức xạ của các khí tài vô tuyến điện tử trên máy bay.

Để bảo toàn khả năng chiến đấu của các đơn vị PK, theo lệnh của bộ chỉ huy PK Nam Tư, các đài radar của các trung đoàn và tiểu đoàn PK đã được ghép vào hệ thống chung trinh sát máy bay địch và được rút khỏi các khu vực trận địa (các trận địa phóng) của các đơn vị này.

Nếu các đài radar này bị loại khỏi vòng chiến, sở chỉ huy của lữ đoàn hay trung đoàn PK nhận thông tin tình báo về tình hình máy bay địch qua kênh điện thoại từ sở chỉ huy quân đoàn PK và các đài quan sát triển khai thành 2 tuyến (mỗi tuyến 8 đài): tuyến 1 cách 30 km, tuyến 2 cách 80 km so với sở chỉ huy các đơn vị TLPK.

Nhiều khi phía Nam Tư sử dụng tin tức từ những người yêu thích vô tuyến điện nghiệp dư để thông báo việc KQ NATO cất cánh từ các sân bay đóng quân. Trong đa số các trường hợp, việc thông báo mối đe doạ của máy bay NATO được thực hiện 10-15 phút trước khi các đòn không kích bắt đầu.

Đáng chú ý là công tác chuẩn bị có kế hoạch và định hướng cho quân đội để đối phó với cuộc tấn công. Ban lãnh đạo chiến tranh Nam Tư, khi thấy tình hình xung quanh Kosovo có chiều hướng diễn biến tiêu cực và âm mưu của NATO giải quyết vấn đề Kosovo bằng vũ lực, đã áp dụng hàng loạt biện pháp chuẩn bị KQ, các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư để đối phó cuộc xâm lược có thể xảy ra.

Các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư đã được kịp thời chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp độ cao. Việc trực chiến được thực hiện suốt ngày đêm bởi các kíp trắc thủ đủ hoặc thiếu.

Các tiểu đoàn TLPK S-125 tiến hành thay đổi trận địa 5 ngày/lần, còn các đại đội TLPK Kub cứ 2-3 ngày thay đổi trận địa 1 lần. Nam Tư đã xây dựng các kế hoạch phân tán một phần lực lượng máy bay từ các sân bay thường trực sang các sân bay dự bị và các khu vực đường cao tốc có cấu trúc phù hợp.

Đầu tháng 3/1999, một đoàn quân sự Nam Tư đã đến thăm Iraq. Các chuyên gia Nam Tư đã tìm hiểu chiến thuật hoạt động của KQ Mỹ trong các chiến dịch “Bão táp sa mạc” và “Cáo sa mạc” chống Iraq, nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của PK Iraq, các phương pháp hiệu quả để nguỵ trang binh khí kỹ thuật và phát hiện máy bay F-117.

Ngay trước khi cuộc xâm lược của NATO diễn ra, radar tại một số trạm radar cố định của PK Nam Tư đã được tháo dỡ và di chuyển đến các trận địa dự bị. Ở các trạm khác, radar phát hiện mục tiêu bay chỉ được huy động trong thời gian ngắn. Từ ngày 19/3/1999, trong các đơn vị TLPK tầm trung và ngắn đã thực hiện chế độ im lặng vô tuyến.

Sau những ngày đầu tiên của chiến dịch không kích của NATO, bị tổn thất lớn nhất là các trận địa cố định của PK Nam Tư: các sở chỉ huy KQ và PK, các sân bay và trạm radar cố định. Vì nguyên nhân này và do liên quân NATO sử dụng tích cực các khí tài tác chiến điện tử nên việc chỉ huy tập trung các lực lượng và phương tiện PK đã bị phá vỡ. Các đơn vị PK Nam Tư đã phải tác chiến phi tập trung trong các khu vực trách nhiệm của mình.

Trong chiến dịch không kích Nam Tư, theo một số nguồn tin, KQ liên quân NATO đã mất 31 máy bay chiến đấu, 6 trực thăng, 11 máy bay không người lái và gần 40 tên lửa hành trình. Ngoài ra, do bị bắn bị thương, 3 máy bay NATO đã phải hạ cánh bắt buộc xuống các sân bay Sarajevo (Bosnia-Herzegovina) và Skopje (Macedonia).

Tổn thất của Nam Tư là 20 máy bay (8 MiG-29 và 12 MiG-21), trong đó 12 máy bay (4 MiG-29 và 8 MiG-21) bị tiêu diệt trên mặt đất; 13 đài radar bị loại khỏi vòng chiến.

Việc phân tích công tác tổ chức PK lãnh thổ và PK các mục tiêu của Nam Tư, cũng như các hoạt động của các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư chống lại các cuộc tiến công đường không của NATO cho phép nêu ra một số đặc điểm tích cực và tiêu cực trong hoạt động của các lực lượng và phương tiện PK Nam Tư.

Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động tác chiến của KQ và PK Nam Tư là thời gian tác chiến khá dài trong điều kiện KQ NATO chiếm ưu thế áp đảo về số lượng-chất lượng.

Đặc điểm này được lý giải bởi một loạt yếu tố:

- Trước hết là sự dũng cảm và kiên cường của bộ đội KQ và PK Nam Tư. Tuy thua kém đối phương về số và chất lượng vũ khí, KQ và PK Nam Tư vẫn tiêu diệt được một số lượng đáng kể các phương tiện tiến công đường không của NATO. Việc PK Nam Tư bắn rơi 1 máy bay F-117A, niềm tự hào của công nghiệp quốc phòng Mỹ tại thời điểm đó, là một sự kiện thực sự chấn động;

- Nghệ thuật chỉ huy khéo léo các lực lượng và phương tiện của KQ và PK vốn là kết quả của trình độ huấn luyện chiến thuật-chiến dịch cao của đội ngũ chỉ huy quân đội Nam Tư. Không có đủ lực lượng và phương tiện KQ và PK để tiến hành chiến dịch phòng ngự đường không và tác chiến giành ưu thế chiến dịch trên không, phía Nam Tư đã không trực diện đối đầu với KQ NATO để tránh tổn thất một bộ phận KQ và lực lượng PK mặt đất. Nam Tư đã tập trung lực lượng và phương tiện KQ và PK để bảo vệ những mục tiêu quan trọng trong hậu phương đất nước và quân đội ở Kosovo, tức là sử dụng các phương tiện bảo vệ của mình để giành ưu thế chiến thuật trên không có tính đến các điều kiện địa-vật lý của khu vực;

- Sự sẵn sàng chiến đấu cao của các đơn vị KQ, PK ngay trong thời bình. Hệ thống trú quân và trận địa rộng khắp đã cho phép bộ chỉ huy Nam Tư ngay trước khi cuộc xâm lược diễn ra đã kịp thời phân tán KQ sang các sân bay dự bị và nguỵ trang, nhờ thế đã giảm tối đa hiệu quả các đòn khôngg kích của KQ và tên lửa hành trình NATO nhằm vào các căn cứ KQ chính Batanica, Golubovca, Ponjava và Novi Sad. Các đơn vị PK Nam Tư mà nòng cốt là các hệ thống PK cơ động, từ trước khi diễn ra cuộc xâm lược, đã được báo động và nhanh chóng thay đổi địa điểm trí quân, rút sang các khu vực đóng quân dự bị. Các hành động này của KQ và PK Nam Tư đã khiến cho tin tức tình báo, trinh sát của NATO về hệ thống mục tiêu của KQ và PK Nam Tư lập tức bị lỗi thời;

- Nghệ thuật nguỵ trang mục tiêu xuất sắc của KQ và PK. Nam Tư đã xoá tan hoàn toàn huyền thoại về sự toàn năng của các phương tiện trinh sát và vũ khí hiện đại. Theo lời khẳng định của William Cohen, Nam Tư đã không còn quân đội sau những trận không kích ác liệt. Dĩ nhiên, ý ông ta nói là cả KQ và PK Nam Tư. Tu nhiên, điều sửng sốt đối với đa số các nhà quan sát là quân đội Nam Tư đồn trú ở Kosovo đã rút khỏi Kosovo gần như đủ biên chế, cùng vũ khí và trang bị. Hầu như toàn bộ các máy bay chiến đấu MiG đã tự bay khỏi sân bay Pristina, trong đó 11 chiếc bay ngay và 3 chiếc còn lại bay đi sau vài ngày sửa chữa nhỏ. Trong khi đó, theo các báo cáo của NATO thì các máy bay này bị coi là đã bị tiêu diệt và theo số liệu do thám vũ trụ thì chỉ còn lại các mảnh vụn của các máy bay này.

Sau đó, các sĩ quan NATO đã có dịp tận mắt nhìn thấy những "mảnh vụn" này. Những chiếc máy bay MiG bị phá huỷ mà các vệ tinh chụp ảnh được hoá ra là các mô hình đồ chơi làm bằng gỗ dán, ván hay mô hình bằng cao su bơm hơi. Trước khi xảy ra xung đột, Nam Tư đã chế tạo đến 200 mô hình máy bay MiG-29 và MiG-21 bằng gỗ dán và đã khiến các phi công tốn nhiều công sức, bom đạn để tiêu diệt chúng;

- Xây dựng những hầm trú ẩn cho máy bay tại các sân bay và sử dụng các đoạn đường cao tốc làm đường băng cất-hạ cánh. Trước khi chiến tranh nổ ra, Nam Tư đã xây dựng tại 10 sân bay của mình 98 hầm bê tông cốt thép; theo một số nguồn tin chỉ có 40 trong số đó (tức 41%) bị tiêu diệt trong chiến tranh và 30 bị hư hỏng. Tuy phá huỷ được các đường băng và đường lăn chính trên các sân bay Nam Tư, nhưng KQ NATO vẫn không làm cho KQ Nam Tư mất đi các sân bay như đã làm ở Iraq năm 1991. Nam Tư đã sử dụng thành công các đoạn thẳng của các tuyến đường ô tô rải nhựa để phân tán KQ tiêm kích. Ban đầu, chỉ có các đơn vị MiG-21 được triển khai đến đó, sau đó trong các trường hợp đơn lẻ các đơn vị máy bay tiêm kích MiG-29 cỡ lớn hơn cũng áp dụng chiến thuật này. Bộ chỉ huy Nam Tư tìm cách bố trí các máy bay tiêm kích hạ cánh gần các đầu đường để khi một làn đường bị hỏng thì dễ dàng kéo máy bay sang làn đường khác. Dĩ nhiên là ngay cả ở các sân bay mới cũng áp dụng mọi biện pháp nguỵ trang quy định;

- Sử dụng bẫy hồng ngoại. Được biết, Nam Tư đã sử dụng tại các sân bay những thiết bị nung nóng, trong đó có các lò vi sóng, để hút về mình các vũ khí hàng không lắp đầu tự dẫn hồng ngoại của địch và bằng cách đó bảo vệ các máy bay và các mục tiêu của Nam Tư;

- Sử dụng rộng rãi các hệ thống TLPK tầm ngắn có hiệu quả khá cao và ít chịu tác động của khí tài tác chiến điện tử, bắn vào các mục tiêu quan sát được bằng mắt. Điều đó đã buộc KQ NATO phải bay ở độ cao không dưới 3.000 m và làm giảm được hiệu quả bắn của tên lửa hành trình. Ví dụ, kết quả sử dụng tên lửa hành trình Tomahawk phóng từ biển là thấp hơn dự kiến 20%. Theo các nguồn tin, chỉ có 60-70% trong tổng số tên lửa hành trình được sử dụng tiêu diệt được mục tiêu thay vì 80-90% theo tính toán như đã đạt được trong điều kiện lý tưởng của chiến tranh Iraq năm 1991.

Sự kiện bắn rơi F-117A cũng rất đáng chú ý. Tham gia bảo vệ Belgrade có cả đại đội 3 được trang bị các hệ thống TLPK S-125 của Lữ đoàn 250. Trong vòng 3 ngày đầu không kích, đại đội đã không bật đài điều khiển tên lửa để tránh bị đối phương phát hiện. Liên lạc giữa sở chỉ huy và các trận địa hoàn toàn thực hiện qua cáp điện thoại. Các trận địa được thay đổi gần như hàng ngày. Lực lượng điệp báo Serbia theo dõi các sân bay NATO ở Italia sử dụng điện thoại di động để báo về Belgrade mỗi khi máy bay NATO xuất kích. Tham gia báo cáo về đường bay của máy bay NATO còn có các đội viên quan sát ngay trên lãnh thổ Serbia. Tiểu đoàn trưởng TLPK Dani Zoltan đã khéo léo bố trí đài điều khiển tên lửa để có thể phát hiện máy bay Mỹ với xác suất cao. Đài điều khiển chỉ được bật lên trong vài giây để không làm lộ vị trí với các máy bay chỉ huy/báo động sớm AWACS của NATO. Tên lửa được phóng đi khi máy bay địch đã lọt sâu vào khu vực sát thương của hoả lực PK. Chiếc F-117A đã bị bắn rơi cách các trận địa phóng của tiểu đoàn 13 km. Ngoài ra, chiếc F-117A này còn bay theo đường bay thường lệ nó đã bay 3 đêm trước mà không có lực lượng bảo vệ.

Sau vụ này, các máy bay tàng hình F-117A chỉ xuất kích khi có các máy bay tiêm kích trang bị tên lửa chống radar HARM hộ tống và mỗi lần đường bay đều được thay đổi. Sau đó, người Serbia không còn tổ chức được cuộc phục kích nào thành công như thế nữa. Tuy nhiên, sau đó, đại đội 3 của Lữ 250 PK còn bắn rơi 1 máy bay F-16 và ngăn chặn được một số cuộc tập kích của KQ NATO. Trong các trận đánh này, đại tá Zoltan đã không tổn thất lấy 1 người hay 1 đơn vị binh khí kỹ thuật nào.

Một đặc điểm trong hoạt động tác chiến của KQ Nam Tư là sự tham gia ít ỏi của KQ tiêm kích Nam Tư. Trong quá trình chiến sự, lực lượng này chỉ thực hiện một số ít trận không chiến. Đó là vì lãnh đạo Nam Tư muốn bảo toàn lực lượng KQ của mình trong bối cảnh NATO có ưu thế áp đảo về KQ. Các máy bay tiêm kích Nam Tư ít khi cất cánh và tác chiến không lâu, thành từng tốp nhỏ chủ yếu để đánh chặn nhanh từ vị trí phục kích vì bay lâu trên không là cực kỳ nguy hiểm. Các máy bay chỉ huy và báo động sớm AWACS của NATO lập tức phát hiện máy bay Nam Tư cất cánh và dẫn đường cho các máy bay tiêm kích PK trang bị tên lửa không-đối-không có tầm bắn hiệu quả đến 80 km đến chặn đánh.

Các phi công tiêm kích Nam Tư không có những vũ khí như thế nên đã dùng chiến thuật để đối phó. Ngay khi vừa rời đường băng, họ lập tức lẩn vào các khe núi, bay thấp để thoát khỏi sự đeo bán của máy bay AWACS và của những máy bay tiêm kích do máy bay AWACS điều đến, và chọn thời điểm để công kích máy bay địch. Sau khi tấn công, họ lập tức rút xuống các khe núi hoặc hạ xuống độ cao cực nhỏ.

Một trong nét nổi bật trong tác chiến của KQ Nam Tư là hiệu quả sử dụng KQ tiêm kích thấp. Đó là vì lực lượng máy bay tiêm kích hiện đại MiG-29 có số lượng ít (15 chiếc), các máy bay MiG-21 thì vừa ít vừa không thích ứng với không chiến tầm xa bằng tên lửa với các máy bay tiêm kích F-15 và F-16. Điều đó dĩ nhiên đã được phản ánh ở mức độ tổn thất của KQ tiêm kích Nam Tư. Phía Nam Tư không có khả năng bổ sung cho những tổn thất đó. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp máy bay tiêm kích Nam Tư đã thành công, ví dụ Miroslav Druginic trong 1 đêm đã bắn rơi 6 tên lửa hành trình.

Trong tác chiến của KQ và PK Nam Tư đã bộc lộ nhiều nhược điểm:

- Khi chiến tranh bùng nổ, chỉ huy KQ và PK Nam Tư đã bị lúng túng nhất định, họ nắm không chắc tình hình tác chiến, suy giảm sự chỉ huy tập trung các lực lượng và phương tiện thuộc quyền.

- Trong cuộc chiến tranh, Nam Tư tỏ ra thụ động trong sử dụng KQ cường kích. Tuy có trong tay hơn 50 máy bay tiêm kích-bom và các máy bay cường kích hạng nhẹ có khả năng tấn công các sân bay và tàu chiến NATO ở biển Adriatic, nhưng phía Nam Tư đã không tận dụng khả năng này.

- Sự tập trung hoá chỉ huy quá mức (không có lệnh của sở chỉ huy PK trung ương thì đại đội trưởng không có quyền thay đổi trận địa phóng) đã dẫn tới việc nhiều đơn vị đã không thay đổi trận địa trong vòng 4-5 ngày.

- Phải thừa nhận nhược điểm nghiêm trọng nhất của PK Nam Tư là nó đã không thành công với tư cách một hệ thống và đã không hoàn thành nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ các mục tiêu trên lãnh thổ quốc gia. Gần như 100% mục tiêu công nghiệp dầu mỏ, 70% mục tiêu của công nghiệp hàng không, 40-50% các nhà máy xe tăng, đạn dược, gần 70% đường ô tô và đường sắt, 20-80% hạ tầng quân sự bị loại khỏi vòng chiến.

- Chiến thuật sử dụng lực lượng và phương tiện PK của Nam Tư một mặt đã cho phép bảo toàn được lực lượng chủ lực của PK với mức độ tổn thất, theo các nguồn tin, là khoảng 30-35% và khả năng chỉ huy tương đối đối với các lực lượng và phương tiện PK và điều này có thể sẽ có tác dụng tích cực một khi NATO mở chiến dịch trên bộ chống Nam Tư. Tuy nhiên, mặt khác, nó đã không bảo đảm bảo vệ các mục tiêu của tiềm lực kinh tế-quân sự, các mục tiêu thuộc hạ tầng quân sự và dân sự.

- Hệ thống PK Nam Tư được xây dựng, giống như ở đa số các nước, dựa trên hệ thống radar chủ động để đối phó với máy bay có người lái của đối phương trên lãnh thổ của mình, đã tỏ ra bất lực trước các phương tiện tác chiến điện tử, trinh sát và chỉ huy hiện đại, trước thủ đoạn sử dụng ồ ạt tên lửa hành trình bay ở độ cao cực nhỏ trong điều kiện địa hình phức tạp về địa lý và sử dụng quy mô lớn vũ khí chính xác cao. Hầu như, bất kỳ nguồn phát bức xạ vô tuyến nào cũng thường bị tiêu diệt sau lần phóng vũ khí đầu tiên.

Nguồn: Anatoly Kulikov // VKO.-N.5 (42) 2008.

>> Điểm yếu chí tử của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc


Tàu ngầm hạt nhân 094 Trung Quốc được cho là “tàu ngầm trong vịnh Bột Hải”, hễ ra khỏi bờ biển là dễ bị phát hiện và tiêu diệt.




http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm hạt nhân tên lửa chiến lược 094 Trung Quốc được lưu truyền trên mạng.


Tạp chí “Kanwa Defense Review” kỳ mới nhất (tháng 4/2012) đã dành sự quan tâm đến tàu ngầm hạt nhân 094 của Trung Quốc, có nhan đề “Từ thiết kế của tàu ngầm hạt nhân chiến lược 094 để xem xét tên lửa hạt nhân JL-2”.

Bài báo cho biết, khi bàn về đặc điểm thiết kế và vấn đề tiếng ồn của tàu ngầm hạt nhân 094, các học giả, chuyên gia công nghệ Mỹ-Âu cho rằng, mặc dù chưa xem xét tiếng ồn lớn hơn của lò phản ứng, 094 vẫn là tàu ngầm hạt nhân trong vịnh Bột Hải, một khi rời khỏi bờ biển, rất dễ bị hệ thống phát hiện chống tàu ngầm hiện đại của Mỹ và châu Âu thám thính được.

Theo bài báo, khoang tên lửa dạng hình học phẳng cỡ lớn của tàu ngầm hạt nhân 094 có khiếm khuyết rõ ràng, lực cản sinh ra khi chạy trên biển đã gây ra tiếng ồn chuyển động, khả năng tàng hình khi chạy dưới/trên mặt nước cũng kém so với yêu cầu của tàu ngầm hạt nhân chiến lược thế hệ mới của Mỹ, Nga.

Khi hoạt động ở vùng nước nông, trên mặt biển, đặc điểm từ tính sẽ lớn hơn tàu ngầm hạt nhân chiến lược kiểu mới của Mỹ, Nga (tàu ngầm Mỹ, Nga được dung hòa ở thân tàu), dễ bị thiết bị dò từ tính của máy bay chống tàu ngầm P-3C phát hiện được.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tuần tra chống tàu ngầm P-3C của Mỹ.

Đến nay, khoảng cách và độ chính xác do thám của radar máy bay trực thăng chống tàu ngầm, máy bay chống tàu ngầm của NATO đã được cải thiện rất lớn, tàu ngầm của Âu-Mỹ phần nhiều được thiết kế tàng hình, được quét sơn tàng hình.

Tạp chí Kanwa cho biết, thiết kế của 094 rất giống với thiết kế của 092, tuy thời gian thiết kế của hai loại này cách nhau gần 20 năm, đặc biệt là khoang phóng tên lửa cao vút, rất nhiều lỗ thoát nước.

Kanwa suy đoán, điều này có thể có liên quan đến hình dạng của tên lửa JL, đồng thời cho rằng tên lửa đạn đạo phiên bản hải quân của Trung Quốc vẫn lạc hậu so với Mỹ, Nga trên các phương diện kiểm soát điện tử, thể tích động cơ, kết cấu nhiên liệu.

Căn cứ vào số liệu của Wikipedia, JL-2 có chiều dài gần 13 m, chiều dài của tên lửa phóng ngầm Bulava (tầm phóng gần 10.000 km) là 11,5 m, chiều dài ống phóng tên lửa là 12,1 m.

Kanwa suy đoán, JL-2 được nghiên cứu phát triển trên nền tảng DF-31 (tầm phóng 8.000 km), trong khi đó so với tên lửa chiến lược phiên bản hải quân cùng loại, tên lửa chiến lược phiên bản hải quân có tầm phóng tối đa thấp hơn 15-20%, vì vậy tầm phóng của JL-2 có thể là khoảng 6.400-6.800 km.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa JL-2 phóng từ tàu ngầm của Trung Quốc.

Đương nhiên, không loại trừ trong quá trình nghiên cứu phát triển áp dụng công nghệ động cơ của DF-31A, nếu tầm phóng của DF-31A tăng đến 10.000 km, thì tầm phóng của JL-2 cũng có thể tăng tới 8.000-8.500 km, khi đó càng nhiều thành phố của Mỹ sẽ bị đe dọa.

Vì vậy, mặc dù 094/JL-2 được trang bị, lực lượng tấn công hạt nhân chiến lược của Hải quân Trung Quốc cũng không thể bao phủ toàn bộ lãnh thổ Mỹ. Tàu ngầm 094 và tên lửa JL-2 trong vịnh Bột Hải chỉ có thể tấn công các mục tiêu ở Alaska, Hawaii.

Kanwa cho rằng, “tàu ngầm hạt nhân chiến lược trong vịnh Bột Hải” có nghĩa là khả năng sống sót của 094 khá thấp, lực lượng tấn công hạt nhân của Quân đội Mỹ chỉ cần lấy đánh đòn phủ đầu, trực tiếp phát động tấn công hạt nhân đối với vịnh Bột Hải, thì sẽ có thể đánh chìm tàu ngầm 094.

Còn bề ngoài của tàu ngầm hạt nhân chiến lược 096 thế hệ tiếp theo, có thể giảm tiếng ồn do tiếng nước và tàu sinh ra ở dưới nước, trong nước hay không, không chỉ phụ thuộc vào các nhà thiết kế tàu ngầm, mà càng phụ thuộc vào trình độ cải tiến tên lửa chiến lược JL-2 hoặc JL-3.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm 095 Trung Quốc được lưu truyền trên mạng.


http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng tàu ngầm hạt nhân chiến lược 096 do dân mạng lưu truyền.


>> Hải quân Trung Quốc đã vượt qua tầm kiểm soát của Mỹ


Trung Quốc đang từng bước thách thức vị thế lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, trong đó tàu chiến Trung Quốc đã vươn ra vùng biển tuần tra của Washington.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu hộ tống 054A của Hải quân Trung Quốc.


Tờ “The Christian Science Monitor” Mỹ vừa có bài viết cho rằng, Tổng thống khóa tới của Mỹ sẽ đối mặt với một loạt thách thức ngoại giao.

Bài viết cho rằng, Tổng thống Mỹ Barack Obama đương nhiệm và người dẫn đầu vòng bầu cử sơ bộ Đảng Cộng hòa Romney, bất kể là ai thắng cử, đều sẽ đối mặt với 6 thách thức lớn trong các vấn đề ngoại giao.

Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng thống nhiệm kỳ tới chính là khôi phục nền kinh tế Mỹ, còn tính không xác định về ngoại giao sẽ định hình lại cấu trúc chính trị và quyền lực toàn cầu.

Sáu thách thức lớn này lần lượt đến từ Trung Quốc, Nga, thế giới Ả-rập, Iran, CHDCND Triều Tiên và Pakistan.

1. Trung Quốc

Tốc độ phát triển đáng kinh ngạc của nền kinh tế Trung Quốc đã từng bước thách thức vị thế lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, sức mạnh tiềm tàng này của Trung Quốc rất có thể làm cho trung tâm phát triển kinh tế thế giới trong tương lai từ thế giới phương Tây chuyển sang thế giới phương Đông.

Đồng thời, “sức mạnh quân sự ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc cũng làm cho các nước Đông Nam Á láng giềng cảm thấy lo ngại”.

Hải quân Trung Quốc cũng trỗi dậy, vùng biển tuần tra của tàu chiến Hải quân mở rộng, “kéo dài tới vùng biển tuần tra của Mỹ ở châu Á”.

Là một chủ nợ của Chính phủ Mỹ, Bắc Kinh hy vọng được Washington tôn trọng ở mức độ nào đó. Nhưng, quan hệ Trung-Mỹ lại rất nhạy cảm, đặc biệt biểu hiện trong các vấn đề như nhân quyền và quyền sở hữu trí tuệ.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục tên lửa Thanh Đảo - Hải quân Trung Quốc.


2. Nga

Thủ tướng Nga Vladimir Putin đã đắc cử Tổng thống Nga nhiệm kỳ tiếp theo. Putin luôn có lập trường cứng rắn trong việc xử lý quan hệ với Mỹ. Khi Reagan làm Tổng thống Mỹ, bóng đen Chiến tranh Lạnh đã bao phủ dày lên quan hệ Mỹ-Nga, nhưng Reagan vẫn dốc sức phát triển quan hệ song phương với Nga.

Vì vậy, trong 4 năm tiếp theo, Nhà Trắng vẫn phải làm việc như vậy, nỗ lực tìm kiếm đồng thuận với Nga trong vấn đề Syria và hạt nhân Iran.

3. Thế giới Ả-rập

Những thay đổi mạnh mẽ, đột biến của thế giới Ả-rập có lẽ không thể làm cho Mỹ hiểu được. “Chính quyền Syria Assad hết sức vi phạm tự do nhân quyền”, “đàn áp người dân Syria”, Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo phải kêu gọi tự do ở thế giới Ả-rập: tự do ngôn luận, tự do bầu cử và độc lập về trật tự tư pháp.

4. Iran

Trước thềm bầu cử, Obama lo ngại xảy ra bất cứ cuộc xung đột nào với Iran, phải hết sức ngăn chặn bất cứ hành động quân sự nào nhằm vào Iran. 4 năm tới, cho dù ai lên làm Tổng thống,

Iran có thể đóng một vai trò “bom hẹn giờ” trong quan hệ Mỹ-Iran, “họ có khả năng tiếp tục nghiên cứu chế tạo bom hạt nhân”, “hoặc khiêu khích Mỹ trong vấn đề khác”.

Vì vậy, Tổng thống nhiệm kỳ mới của Mỹ phải tăng cường sức ép phi quân sự đối với Iran, răn đe động cơ nghiên cứu chế tạo bom hạt nhân của Iran.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu đổ bộ Côn Lôn Sơn - Hạm đội Nam Hải.


5. CHDCND Triều Tiên

Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo phải phán đoán được, nhà lãnh đạo CHDCND Triều Tiên Kim Jong-ul thực sự muốn giảm tâm lý hiếu chiến, đổi lấy viện trợ lương thực của Mỹ.

“Chính phủ CHDCND Triều Tiên nhiều lần nuốt lời, phá hoại thỏa thuận Mỹ-Triều”.

Nếu nhà lãnh đạo mới Kim Jong-ul có được sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế, thì phải có hành động thực tế để thuyết phục Mỹ.

6. Pakistan

Đây là thời kỳ nổi lên của Pakistan, để Pakistan và người dân nước này tự hào, cần thúc đẩy sự phát triển của Pakistan, thúc đẩy nước này trỗi dậy. Pakistan cần viện trợ kinh tế của cộng đồng quốc tế, Chính phủ Mỹ sẵn sàng tiếp tục viện trợ lớn cho Pakistan bất cứ lúc nào.

Nhưng, Chính phủ Pakistan phải có sự thay đổi trên một số phương diện.

Chẳng hạn: “Trước đây, cơ quan tình báo Pakistan có liên hệ với Taliban và các tổ chức khủng bố khác”, sự liên hệ này cần phải cắt đứt. Pakistan cần phát huy vai trò mang tính xây dựng ở khu vực Trung Đông.


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm hạt nhân 093 của Hải quân Trung Quốc.


Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

>> Việt Nam sắp mua radar VERA mà Trung Quốc mơ ước


Cộng hòa Séc sẽ "hiện đại hóa hàng loạt" trang thiết bị vũ khí của Lục quân, Không quân và có thể bán vũ khí công nghệ cao cho Việt Nam.



Thông tin trên được các trang Ceskatelevize.cz và Natoaktual.cz của Cộng hòa Séc đăng tải sau chuyến thăm tới Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc phòng Alexandr Vondra.

Các nguồn tin dẫn lời Bộ Trưởng Quốc phòng Vondra cho hay, trong chuyến thăm vừa qua, phía Việt Nam đã bày tỏ muốn được Cộng hòa Séc giúp cải thiện năng lực chiến đấu của lực lượng mặt đất và lực lượng không quân."Có thể có những đơn đặt hàng thú vị", Bộ trưởng Quốc phòng Vondra chia sẻ với Natoaktual.

Natoaktual còn dẫn lời của Bộ trưởng Vondra cho hay, các công ty Séc có thể mở văn phòng tại Việt Nam. Một nửa triệu quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, gồm lực lượng lục quân và không quân có thể được Séc giúp đỡ hiện đại hóa.

Quân đội Việt Nam đang sử dụng một số lượng lớn vũ khí và các trang thiết bị kỹ thuật có xuất xứ từ Nga, những vũ khí này đã và đang được Quân đội Séc sử dụng.

Sau các cuộc tiếp xúc với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh, ông Vondra nhận xét: "Việt Nam là một đối tác rất triển vọng, họ có lực lượng quân đội mạnh nhưng cần được hiện đại hóa".

Hai bên đã ký kết biên bản ghi nhớ để tạo ra một khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, truyền thông Séc tiết lộ.

Những lĩnh vực triển vọng

Theo ông Vondra, Séc có thể cung cấp các công nghệ được bảo mật để hiện đại hóa các phương tiện trang bị cho không quân và lục quân Việt Nam.

Việt Nam đang sử dụng hàng nghìn xe bọc thép các loại, gồm xe chiến đấu bộ binh BMP-1 và BMP-2, nhưng đã lỗi thời, cần được thay thế, sửa chữa thiết bị. Séc sẽ giúp hiện đại hoá lực lượng này cho Lục quân Việt Nam.

Ngoài ra, các công ty của Séc có thể tham gia vào việc hiện đại hóa các loại vũ khí nhỏ cho Việt Nam như nâng cấp súng Kalashnikov AK-47 và súng tiểu liên Vzor 58 của Séc (một biến thể của AK-47 có biên chế trong Quân đội Nhân dân Việt Nam) hiện đại hơn.


http://nghiadx.blogspot.com
Các chiến xa bộ binh BMP-1, BMP-2...của Lục quân Việt Nam sẽ được nâng cấp trong thời gian tới.


Natoaktual cũng cho biết, công ty quốc phòng Séc có khả năng hợp tác với Việt Nam về việc chế tạo mặt nạ cho các đơn vị phòng hóa của quân đội

Như vậy, với việc biên bản ghi nhớ về hợp tác kỹ thuật quân sự đã được ký kết giữa Việt Nam và Cộng hòa Séc, trong tương lai gần, cùng với Hải quân và Không quân, Lục quân Việt Nam sẽ được hiện đại hóa với tốc độ nhanh hơn, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Về không quân, Việt Nam đang sử dụng 20 máy bay huấn luyện chiến đấu hạng nhẹ L-39 do công ty Aero Vodochody sản xuất, vì vậy, Séc sẽ dễ dàng cung cấp linh kiện và hiện đại hoá các máy bay loại này.

Còn công ty sửa chữa máy bay Malesice có thể cung cấp phụ tùng, thực hiện sửa chữa và hiện đại hóa các trực thăng dòng Mil và Kamov đang có trong biên chế Không quân Việt Nam.

Vũ khí “công nghệ cao”

Hôm 29/3, Đài truyền hình CT (Séc) loan tin, mục đích chính chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Vondra rất rõ ràng - bán vũ khí của Cộng hòa Séc.

Ngày 29/3, trang mạng Bộ Quốc phòng Séc dẫn lời Bộ trưởng Alexandr Vondra cho biết, Cộng hòa Séc sẽ xuất khẩu sang Việt Nam các vũ khí công nghệ cao. Theo đài CT, nổi trội nhất là VERA, hệ thống radar giám sát thụ động tiên tiến nhất thế giới, có thể phát hiện ra các máy bay tàng hình của Mỹ.



VERA cùng với Tamara và Kolchuga là các hệ thống radar thụ động phát hiện máy bay tàng hình tiên tiến nhất thế giới hiện nay.


Năm 2004, Mỹ từng gây áp lực để Cộng hòa Séc không bán cho Trung Quốc hệ thống này.

“Không có gì ngăn cản việc chúng tôi bán vũ khí công nghệ cao cho Việt Nam. Chúng tôi sẽ giúp Việt Nam có được hệ thống VERA”, Bộ trưởng Vendra nói với đài CT.

Việc ký kết hợp đồng đang được thực hiện, nhưng sẽ mất không ít thời gian, nguồn tin cho hay.

>> Kỉ nguyên máy bay thế hệ 6 đã bắt đầu


"Rất nhiều nước đã tới tấp bước vào vạch xuất phát trong vấn đề nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, Trung Quốc cần sẵn sàng".


Tờ “Phương Đông” ngày 31/3 đăng bài viết của chuyên gia quân sự Trung Quốc Trần Hổ.

Bài viết cho biết, về máy bay chiến đấu thế hệ thứ sáu, rất nhiều người cảm thấy đề tài này đưa ra vẫn còn sớm.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu không gian X-37B của Mỹ


Đến nay, việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 trên toàn cầu phổ biến đều ở trạng thái khắc phục khó khăn về công nghệ.

Có thể thấy, F-35 của Mỹ hiện đang ở giai đoạn nghiên cứu phát triển quan trọng nhất trước khi sản xuất hàng loạt, cần giải quyết một số vấn đề công nghệ cuối cùng nhằm bảo đảm đồng thời với việc nhanh chóng đưa vào sản xuất thì còn phải có khả năng kiểm soát giá thành có hiệu quả.

Ngoài ra, T-50 của Nga còn đang ở giai đoạn bay thử của máy bay thử nghiệm công nghệ.
Còn các nước khác tham gia nghiên cứu chế tạo máy bay thế hệ thứ 5 như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ đều cơ bản dừng lại trên giấy tờ.

Như vậy, máy bay thế hệ thứ 5 hiện nay còn chưa từ nghiên cứu phát triển đi vào trạng thái sản xuất và trang bị toàn diện.

Trên thực tế, thông qua một loạt các thông tin gần đây sẽ thấy rằng, rất nhiều nước đã tới tấp bước vào vạch xuất phát trong vấn đề nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, vấn đề thảo luận nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 đã không thể coi là còn sớm nữa.

Trong một thời gian trước đây, Nhật Bản đã đưa ra ý tưởng nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 “i3”.

Hầu như đồng thời, tờ “Thời báo Tài chính” Đức cho biết, một cơ quan nghiên cứu Ấn Độ kiến nghị nghiên cứu phát triển một loại máy bay chiến đấu kiểu mới bay ở độ cao và tốc độ lớn, tốc độ bay tối đa của nó có thể lên gấp 5 lần tốc độ âm thanh, bay ở độ cao có thể lên tới 10.000 m – đã tiếp cận bên ngoài bầu khí quyển.

Như vậy, loại máy bay chiến đấu tiên tiến này của Ấn Độ chính là một ý tưởng máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.


http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6 của Công ty Boeing, Mỹ.


Hơn nữa, Mỹ đã thử bay X-47, X-37B, còn Pháp từng đưa ra máy bay chiến đấu không người lái NEURON trong triển lãm hàng không.

Báo Phương Đông viết một loạt thông tin này thực sự đang nhắc nhở Trung Quốc: Rất nhiều nước đã bắt đầu sẵn sàng cho việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.

Con đường công nghệ của nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6

Hiện nay, con đường công nghệ nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 trên thế giới cơ bản có thể chia làm 2 loại:

Loại thứ nhất là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn. “Máy bay chiến đấu không gian” X-37B chính là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn điển hình.

Đặc điểm lớn nhất của nó là: không gian bay chủ yếu của nó là rìa ngoài bầu khí quyển hoặc là không gian vũ trụ bên ngoài bầu khí quyển. Còn tốc độ của nó có thể đạt gấp mấy lần, thậm chí mười mấy lần tốc độ âm thanh.

Loại thứ hai là máy bay chiến đấu không người lái. X-47 B của Mỹ và NEURON của Pháp thuộc loại này. Đối với máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, loại máy bay chiến đấu không người lái này và máy bay không người lái trước đây có sự khác biệt rõ rệt: máy bay không người lái trước đây chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ trên chiến trường,

còn nhiệm vụ tác chiến chỉ là một chức năng phái sinh của nó; về phương pháp kỹ thuật, máy bay không người lái trước đây hoặc là kiểm soát mặt đất, hoặc là bay có trật tự, còn máy bay X-47 của Mỹ và NEURO của Pháp hiện nay đều thuộc một trạng thái tự kiểm soát, nói cách khác, mức độ thông minh của chúng đã được cải thiện rất lớn, đây là một đặc điểm điển hình nhất trong phát triển công nghệ máy bay không người lái.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái X-47B của Mỹ.


Máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 của Nhật Bản có đặc điểm riêng

Khi nói đến con đường công nghệ của những máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 này, mọi người có thể sẽ quan tâm: tiêu chuẩn “i3” của “máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 Nhật Bản” thuộc một trạng thái như thế nào?
Trần Hổ cho rằng, Nhật Bản vẫn đi theo con đường máy bay chiến đấu không người lái. Nhưng, nó lại khác với NEURO của Pháp và X-47B của Mỹ: máy bay không người lái của Mỹ và Pháp nghiêng hơn về tự kiểm soát tác chiến, còn con đường đi theo ý tưởng của Nhật Bản lại có độ khó công nghệ tương đối thấp.

Trên thực tế, nó một trạng thái “kiểm soát không đối không”, tức là Nhật Bản đi trên con đường công nghệ “dùng máy bay chiến đấu có người lái để kiểm soát máy bay chiến đấu không người lái”.

Trong con đường phát triển, do yêu cầu công nghệ đối với bản thân máy bay không người lái khác nhau, cho nên trung tâm nghiên cứu của họ cũng khác nhau.

Mỹ và Pháp đi theo con đường phát triển máy bay không người lái tự chủ tác chiến, do đó họ đã có X-47 và NEURO. Còn Nhật Bản muốn phát triển một loại máy bay chiến đấu không người lái dùng cho “kiểm soát không đối không”. Độ khó công nghệ của trạng thái này không phải ở máy bay không người lái, mà ở máy bay kiểm soát.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay thế hệ thứ sáu "i3" Nhật Bản.

Cho nên, ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6 “i3” do Nhật đưa ra, trọng điểm của nó là nghiên cứu phát triển được máy bay chiến đấu có người lái dùng để kiểm soát máy bay không người lái.


Qua đó, có thể phát hiện, hai con đường công nghệ lớn của máy bay thế hệ thứ 6 còn có thể phân làm hai nhánh trong lĩnh vực máy bay không người lái.

Nếu nói về phân nhánh chi tiết hơn, máy bay chiến đấu không người lái của Pháp và máy bay chiến đấu không người lái của Mỹ cũng có chút khác biệt. X-47 của Mỹ nghiêng hơn về tấn công đối đất, còn NEURO của Pháp thì nghiêng về chiến đấu trên không.

Nói về độ khó công nghệ, máy bay không người lái chiến đấu trên không tự chủ kiểm soát còn khó hơn máy bay không người lái kiểu tấn công tự chủ kiểm soát.
Tình hình nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 thay đổi

Trong thời đại máy bay thế hệ thứ 3 trước đây, trên quốc tế, việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu tiên tiến cơ bản phân thành 3 bộ phận lớn:

Bộ phận thứ nhất là Mỹ; bộ phận thứ hai là Liên Xô (Nga hiện nay); bộ phận thứ ba là một số nước phát triển của châu Âu, như Anh, Pháp…

Đến thời đại máy bay thế hệ thứ 5, bố cục nghiên cứu phát triển đã bắt đầu có những thay đổi. Các nước phát triển châu Âu không nghiên cứu phát triển loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5, vì vậy trên thực tế là Mỹ độc tôn, Nga bám gót theo sau.

Còn một số nước châu Á, chẳng hạn Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ cũng tích cực gia nhập hàng ngũ nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 5.

http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay tấn công tàng hình không người lái NEURO của Pháp


Còn đối với máy bay thế hệ thứ 6 đang ở trong giai đoạn nghiên cứu phát triển mang tính ý tưởng hiện nay, sự thay đổi bố cục quốc tế còn rõ ràng hơn trạng thái xuất hiện của máy bay thế hệ thứ 5.


Mỹ vẫn thuộc trạng thái độc tôn: cho dù là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn hay máy bay chiến đấu không người lái, Mỹ đều có chương trình nghiên cứu phát triển và mô hình nghiên cứu tương ứng.

Còn Nga đến nay vẫn chưa thấy có ý tưởng hoặc chương trình nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6.

Trong các nước châu Âu, mặc dù có NEURO của Pháp, nhưng lại biểu hiện như một trạng thái yếu ớt, bởi vì nó hoàn toàn không thể so sánh được với trạng thái tích cực khi châu Âu nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ ba trước đây.

Trái lại, một số nước châu Á lại tích cực chưa từng có trong việc đưa ra ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6:

Nhật Bản đưa ra máy bay “i3”, còn Ấn Độ đưa ra máy bay chiến đấu tiên tiến có độ cao và tốc độ lớn. Trên thực tế điều này cũng phản ánh quyết tâm và tự tin của các nước đi sau trong việc cố gắng bước vào câu lạc bộ hàng không đỉnh cao quốc tế.

Mặc dù hiện nay việc nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 vẫn nằm trong giai đoạn thảo luận ý tưởng, nhưng tin rằng đã có thảo luận về ý tưởng này, thời gian máy bay thế hệ thứ 6 thực sự đi vào nghiên cứu phát triển các kiểu loại sẽ không còn quá lâu.

Phương Đông báo viết, nhìn vào chu kỳ nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu tiên tiến hiện nay, trong 20 năm nữa, chúng ta sẽ nhìn thấy máy bay thế hệ thứ 6 bay trên bầu trời.

Cho nên, đối với những nước có tham vọng giành lấy quyền kiểm soát trong tương lai, hành vi hiện tại đúng lúc đã nghiệm chứng được câu nói thịnh hành: không thể thua ngay trên vạch xuất phát.


http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay chiến đấu hạng trung tiên tiến AMCA của Ấn Độ tại Triển lãm hàng không năm 2009.


>> Sức mạnh mới của "thần lửa" Agni-V


Tên lửa Agni-V có phạm vi bao trùm toàn bộ Trung Quốc, nếu phóng thành công, Ấn Độ sẽ bước vào câu lạc bộ tên lửa xuyên lục địa.




http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo Agni-V do Ấn Độ nghiên cứu phát triển.


Ngày 1/4, tờ “Thời báo Ấn Độ” đưa tin, Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng Ấn Độ (DRDO) cho biết, trong 2 tuần nữa Ấn Độ sẽ phóng thử tên lửa đạn đạo Agni-V.

Ngoài ra, Ấn Độ sẽ tiến hành thử nghiệm phóng tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm trước năm 2013, vào năm 2014 sẽ xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa, trong mấy năm tới phóng vệ tinh cỡ nhỏ và nghiên cứu phát triển vũ khí laser.
Ngày 31/3, tại “Triển lãm vũ khí trang bị hệ thống an ninh nội bộ và Lục-hải không quân quốc tế năm 2012” (DefExpo2012) ở New Delhi, người phụ trách DRDO V.K.

Saraswat cho biết, Ấn Độ sẽ phóng thử tên lửa xuyên lục địa Agni-V (có tầm phóng 5.000 km, có thể mang đầu đạn hạt nhân) vào trung tuần tháng 4/2012.

Saraswat nói, tên lửa 3 tầng này đã được trang bị con quay laser hình vòng tiên tiến, động cơ tên lửa tích hợp và hệ thống dẫn đường vệ tinh có độ chính xác cao, về công nghệ đã tiếp cận khoa học công nghệ mũi nhọn của Mỹ. Hiện nay, việc phóng thử đã đi vào giai đoạn cuối cùng.

Tờ “Thời báo Ấn Độ” cho biết, một khi tên lửa Agni-V được phóng thành công, Ấn Độ sẽ “bước vào câu lạc bộ tên lửa xuyên lục địa”. Thành viên câu lạc bộ này đến nay chỉ có Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp và Anh.

Đồng thời, tên lửa này có đặc tính linh hoạt khi tác chiến, phạm vi tấn công có thể bao trùm toàn bộ Trung Quốc, điều này rất quan trọng cho việc nâng cao tư thế răn đe hạt nhân cho Ấn Độ.

Bài báo còn cho biết, trong bối cảnh “Trung Quốc phát triển vũ khí chống vệ tinh”, DRDO còn dốc sức cho nghiên cứu “an ninh không gian”, tập trung bảo vệ tài sản vũ trụ của Ấn Độ “tránh bị phá hoại”.

Một số hình ảnh về tên lửa Agni-V của Ấn Độ:


http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012

>> Tìm hiểu máy bay tiêm kích J-10 của Không quân Trung Quốc


Ngày 5 tháng 1 năm 2007 tại Bắc Kinh đã diễn ra một sự kiện, sự kiện này đã được toàn bộ ngành hàng không mong đợi nhiều năm – chính thức công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về một loại máy bay tiêm kích phản lực mới nhất của Trung Quốc (Chengdu J-10) (Phương tây đặt cho tiêm kích này cái tên là Vigorous Dragon).


Trên thực tế, khi gỡ bỏ mọi bức mành bí mật, có thể nhận thấy rằng, J-10 hoàn toàn không phải là kiệt tác của trí tuệ các kỹ sư Trung Quốc như các nguồn tin chính thức của Trung Quốc thông báo, mà hoàn toàn là một sản phẩm được hình thành từ các hoạt động thương mại. Theo thông báo của những sỹ quan đại diện cho lực lượng Không quân Trung Quốc, máy bay tiêm kích mới này có thể thực hiện những nhiệm vụ chiến đấu, thống trị bầu trời không thua kém các máy bay chiến đấu F-16C của Mỹ hoặc Mirage 2000 của Pháp.




http://nghiadx.blogspot.com


Trong đoạn băng video ngày 5 tháng 1 2007 quay lại cảnh những chiếc bay bay Chengdu J-10 bay trong chương trình quảng cáo với những pha nhào lộn ngoại mục, quá trình phóng tên lửa và bay trong đội hình diễu hành. Nhận thấy rõ ràng, nhờ có cấu trúc thiết kế khí động học ở đẳng cấp cao, có trọng tải hợp lý, đồng thời được trang bị động cơ đẩy mạnh, chiếc máy bay tiêm kích đời mới này của Trung Quốc có được khả năng cơ động rất cao, đồng thời có tốc độ cất cánh tối ưu nhất. Với mục tiêu làm giảm trọng lượng, trên máy bay tiêm kích đã ững dụng những công nghệ vật liệu mới nhất, như vật liệu composit tổng hợp, đồng thời lắp đặt nhưng bộ phận và trang thiết bị có cấu trúc nhỏ gọn hợp lý và khối lượng nhẹ.

http://nghiadx.blogspot.com
Dự án Lavi - B2 của Israel


Lịch sử phát triển của Chengdu J-10 được bắt đầu vào khoảng giữa những năm 1980-х , khi nền công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc đối mặt với vấn đề phải có phương án đáp trả tương xứng với việc xuất hiện trong biên chế của lực lượng không quân Liên bang Xô viết loại máy bay MIG – 29 và SU-27.

Thiết kế thế hệ máy bay mới vào năm 1986 được giao cho Viện nghiên cứu hàng không №611 thành phố Thành Đô, đồng thời việc chế tạo máy bay cũng được giao cho công ty chế tạo máy bay Chengdu Aircraft Industrial Company ( CA-IC) cũng nằm tại thành phố này. Trong giai đoạn này dự an được mang mã số " Dự án 8610”. Hiện nay công bố chính thức trên phương tiện thông tin đại chúng rằng nền công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 trên thế giới (sau Mỹ, Nga và Pháp), có khả năng tự chế tạo máy bay chiến đấu hiện đại. Nhưng, những tuyên bố hùng hồn về sự phát triển độc lập của chương trình Chengdu J-10, cũng có nhiều thời điểm tạo ra những chỉ trích gay gắt đối với nguồn thông tin chính thống này. 

Một trong những hòn đá to nhất ném vào khu vườn hàng không của Trung Quốc, đó là sự giống nhau giữa Chengdu J-10 với máy bay tiêm kích của Israel Lavi, nhưng trên phương tiện thông tin đại chúng, thông báo chính thức của Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ điều nay, nhưng sự giống nhau từ phía bên ngoài cả về hinh dáng lẫn kích thước có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Một cách gián tiếp, việc bán một số các công nghệ phát triển máy bay tiêm kích Lavi đã được thừa nhận khi Bộ trưởng Quốc phòng Israel Larry David, trong một cuộc phỏng vấn "Press Assosheyted" thông báo rằng một số công nghệ vẫn đã được chuyển giao cho người Trung Quốc.

Theo tuyên bố của một chuyên gia độc lập thuộc Trung tâm phân tích Hồng Công KANWA Andrew Chan, vào năm 1986, một nhóm chuyên gia trong lĩnh vực hàng không quân sự Israel đã có một thời gian rất dài có mặt ở Thành Đô. Trong giai đoạn đó, chương trình phát triển máy bay chiến đấu Lavi của Israel bị kìm hãm do vấn đề tài chính. Xin nhắc lại là vào nửa đầu những năm 1980-x, hàng không quân sự Israel bắt đầu các nghiên cứu của mình với mục tiêu, sử dụng những công nghệ hàng không tiên tiến áp dụng cho máy bay F16A?B, chế tạo cho lực lượng không quân nước mình máy bay tiêm kích, có những tính năng kỹ chiến thuật hơn hẳn F16 của Mỹ. Giai đoạn đầu tiên của dự án được sự hỗ trợ đáng kể về công nghệ và tài chính từ phía Mỹ, nhưng khi chương trình Lavi đạt đến giai đoạn thử nghiệm, người Mỹ mới hiểu ra rằng, họ đang tự sinh cho mình một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. 

Với lý do lo ngại về khả năng có thể tái xuất loại máy bay này cho các chế độ không thân thiện với các nhà nước châu Âu, nguồn hỗ trợ từ phía Mỹ bị đóng cửa. Mục tiêu của Mỹ là hủy bỏ hoàn toàn dự án của Israel nhằm bảo vệ nền công nghiệp hàng không nước mình. Không có sự ủng hộ tài chính, Israel không tiếp tục phát triển chương trình Lavi và chương trình máy bay tiêm kích này chính thức bị đóng lại vào năm 1987. Chính sự cố này, có thể đã mở ra một lối ngầm, mà qua đó, các giải pháp công nghệ riêng biệt được bán cho Trung Quốc. Khi thiết kế cấu hình khí động học vỏ ngoài của máy bay Chengdu J-10, các kỹ sư hàng không của Israel đã giúp đỡ các chuyên gia Trung Quốc thiết kế hệ thống một loạt các trang thiết bị trên thân máy bay, và đặc biết, giúp đỡ thiết kế hệ thống điện tử điều khiển từ xa máy bay.

Để trả lời, Trung Quốc đã nhận trách nhiệm theo 3 điểm:

1- Không bán máy bay tiêm kích thế hệ mới cho kẻ thù hoặc kẻ thù tiềm năng của Israel.

2- Cho phép Israel toàn quyền sử dụng những giải pháp công nghệ do Trung Quốc phát triển (có sự có mặt của các nhà khoa học Israel).

3- (điều quan trọng nhất) Trung Quốc và Israel là hai đối tác có quyền tương đương nhau trong các hoạt động thương mại bán sản phẩm máy bay tiêm kích đánh chặn cho các nước thuộc thế giới thứ 3.

Đương nhiên, điều khoản cuối cùng của thỏa thuận, theo ý kiến của các chuyên gia, đã mang trong nội dung 1 hiểm họa cho các kế hoạch xuất khẩu máy bay của Mỹ. Và áp lực từ phía Mỹ lập tức tăng lên, từ những năm đầu của thập kỷ 1990-x, sự hợp tác công nghệ quân sự của Israel và Trung Quốc càng ngày càng thu ngắn lại. Trong điều kiện quá khó khăn như vậy, Trung Quốc bắt buộc phải tìm kiếm đối tác mới. Vào năm 1994, kết nối vào chương trình phát triển máy bay tiêm kích J-10 Chengdu một kẻ thù tiềm năng cũ của Trung Quốc, nhưng lại là đối tác chiến lược ngày nay về khoa học công nghệ quân sự - nước Nga. Vì vậy, có thể nói, Chengdu J-10 thật sự là một sản phẩm của sự hợp tác công nghê quốc tế đa phương hóa.

Theo thông báo của tạp chí Nga " Vũ khí xuất khẩu” thời gian chế tạo nguyên mẫu đầu tiên Chengdu J-10 kết thúc vào cuối năm 1993, cất cánh lần đầu tiên vào không trung khoảng giữa năm 1994 và 1996, đồng thời máy bay được lắp động cơ phản lực của Nga. Vào năm 1996 xuất hiện nguyên mấu thứ hai Chengdu J-10 02, nhưng nguyên mẫu này đã bị rơi trong một tai nạn hàng không khi bay thử nghiệm. Cũng vào thời gian này, người Trung quốc đã chế tạo bộ khung máy bay để thử nghiệm độ vững chắc và tin cậy của máy bay. Mẫu thứ 3 được chế tạo và cất cánh vào năm 1998, là chiếc máy bay đầu tiên được trang bị đầy đủ vũ khí. Cũng vào năm đó, các mẫu máy bay thử nghiệm J-10 -04, J-10 05, J-10 06 cũng được lần lượt đưa vào bay thử nghiệm.

Đến cuối năm 2000, các máy bay J-10 bay thử nghiệm được hơn 140 giờ bay, vào năm 2002 Trung Quốc tiếp tục chế tạo thêm J-10 07 đến J-10 09, sau đó là J-10 10 đến J-10 16. Chiếc đầu tiên cất cách vào ngày 28 tháng 7 năm 2002. Vào đầu năm 2003, mười chiếc máy bay này được đưa đến Quân khu Nam Kinh để thử nghiệm thực tế tại đơn vị chiến đấu. vào năm 2005, máy bay J-10 chính thức được biên chế vào lực lượng không quân Trung Quốc. Cũng vào năm đó, đơn vị không quân tác chiến đầu tiên được biên chế máy bay Chengdu J-10 đã sẵn sàng – sư đoàn không quân số 44 đóng quân tại tỉnh Tứ Xuyên. Đên thời điểm hiện tại, lực lượng không quân Trung Quốc có khoảng 70 chiếc máy bay Chengdu J-10. Để cung cấp đầy đủ theo yêu cầu, không quân Trung Quốc, đã có kế hoạch sản xuất khoảng 300 chiếc máy bay J-10A.

http://nghiadx.blogspot.com
Tiêm kích Chengdu J-10A


Khoảng năm 2000, hàng không quân sự Trung Quốc bắt đầu phát triển máy bay hai người lái huấn luyện Chengdu J-10B, vào ngày 26 tháng 12 năm 2003, máy bay hai người lái huấn luyện lần đầu tiên cất cánh. Hiện nay, Trung Quốc dự kiến trên cơ sở máy bay huấn luyện, sẽ chế tạo máy bay tiêm kích ném bom.Viện nghiên cứu không quân №611 kết thức phác thảo dự kiến 2 mấu máy bay J-10 mới, khác các mẫu trước đây khả năng giảm độ phản xạ hiệu dụng nhằm thu nhỏ khả năng phát hiện mục tiêu (mẫu thứ 1 - phần mũi của thân máy bay được thiết kế theo mô hình công nghệ tàng hình steath, đồng thời tăng thêm động cơ, đó là phác thảo mẫu thứ 2 với hai động cơ phản lực). Như vậy rõ ràng rằng Trung Quốc đang lần lượt phát triển mẫu máy bay mới từ mục tiêu ban đầu là chế tạo máy bay có khả năng chiếm lĩnh ưu thế trên không, tiến đến có khả năng sử dụng hiệu quả vũ khí lớp " không trung – mặt đất (nước)”, và trong tương lai gần sẽ phát triển thành máy bay tiêm kích đa nhiệm có sử dụng công nghệ steath để giảm độ phản xạ hiệu dụng, giảm khả năng phát hiện của radar ( khả năng phát hiện ở mức độ thấp).

Chengdu J-10A là máy bay siêu âm một chỗ ngổi một động cơ phản lực tiêm kích, được thiết kế theo mô hình khí động học " Con vịt” với cánh mũi nhỏ có trục quay trọng tâm gắn ở phía trước (canard), hai cánh tam giác với các cánh cản có trục quay phía trước, điểm đặc biệt cho phép máy bay có khả năng cơ động cao hơn. Một cánh đuôi thẳng đứng với cánh cản điều hướng và ống hút không khí có thể điều chỉnh được nằm ở phía dưới bụng máy bay.

Một phần tổ hợp của cánh máy bay hình tam giác, phía gần thân có độ dày tương đối so với độ dày mặt cắt ngang của cánh, giảm dần về phía sau. Độ khoảng 45% sải cánh được gắn kết với phần cánh cản có thể tháo rời, phần cánh cản tháo rời có mặt cắt mỏng hơn và đường uốn cong gấp về phía sau. Bộ phận cánh cản bao gồm có các cánh cản và các ống lót trục xoay cánh cản trên cánh tam giác của máy bay.

http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ kỹ thuật của máy bay Chengdu J-10A


Để đảm bảo ổn định hướng trong những lúc bẻ góc tấn công lớn, phía dưới ông phụt phản lực có hai cánh kiểu vây cá. Thân máy bay được chia làm 3 khoang chính. Khoang phía trước bao gồm cabin cách ly độc lập của phi công, radar mạng pha, buồng thiết bị điện tử, họng hút không khí, phận bụng máy bay trước bánh xe đỡ máy bay, đồng thời được lắp đặt cánh nhỏ phía trước dưới buồng lái. Khoang giữa máy bay được bố trí thùng dầu, các bánh chịu nặng của máy bay và đường hành lang ống dẫn không khí cho động cơ. 

Phía đuôi máy bay lắp đuôi máy bay với cánh điều hướng, 4 nắp đựng dù hãm máy bay, 2 lườn ngang với vây cánh đuôi. Phía trong lắp đặt động cơ phản lực. Bộ ba càng và bánh máy bay được thu vào thân máy bay, càng và bánh phía trước có 2 bánh, 2 càng và bánh phía sau có một bánh đối xứng nhau. Trên các máy bay mẫu và máy bay sản xuất trước khi đưa vào sản xuất dây chuyền càng chịu lực và bánh phía trước được đóng bằng 2 cánh cửa. Trên các máy bay sản xuất dây chuyền có 3 cánh cửa khoang thu càng máy bay, một cánh cửa phía trước và 2 cánh cửa hai bên. Cấu hình của buồng lái phi công chưa từng có trong ngành hàng không Trung Quốc, kiểu giọt nước lồi lên phái trên và được bọc kính trong suốt, đảm bảo cho phi công có góc nhìn 360o khi bay.



http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ chi tiết máy bay tiêm kích Chengdu J-10A


Máy bay tiêm kích Chengdu J-10A được thiết kế phi cân bằng động, do đó có thể đảm bảo khả năng cơ động rất cao. Điều đó đòi hơi hệ thống điều khiển tự động từ xa điện tử với 4 cấp tăng cường dự phòng và máy tính điện tử hiện đại. Hệ thống điện tử thân máy bay, cấu trúc hiện đại của cabin máy bay và hệ thống điều khiển hỏa lực có tính năng kỹ chiến thuật hơn hẳn bất cứ máy bay nào được phát triển bởi công nghiệp hàng không Trung Quốc. Đặc biệt, thông tin về các thông số của chuyến bay và tình hình chiến thuật được hiển thị trên 3 màn hình hiển thị đa chức năng và được chiếu lên bảng chỉ thị nền trên kính chắn gió của mũ phi công. 

Máy bay được trang bị hệ thống dẫn đường GPS/INS, máy tính kỹ thuật số tính toán thông số đường bay và hệ thống cảnh báo thông báo máy bay bị chiếu radar ARW9101. Theo đơn đặt hàng của Trung Quốc, tổ hợp "Fazotron-NIIR" đã chế tạo cho máy bay này radar an ten mạng pha đa nhiệm RP -35 "Pearls". Nhà sản xuất khẳng định, radar có khả năng theo dõi một lúc 24 mục tiêu, đồng thời có thể xác định mục tiêu trên mặt đất. Đồng thời ở Trung Quốc cũng hoàn thành phát triển radar của mình JL-10A (theo một số nguồn tin — «mã số 1473») khả năng phát hiện mục tiêu loại tiêm kích lên đến 100 km, có khả năng theo dõi 10 mục tiêu cùng một lúc và khai hỏa tấn công 4 mục tiêu cùng một lúc. Để phát triển khả năng xuất khẩu sau nay, người Trung Quốc có thể sử dụng radar loại N010 « Beetle 10PD », radar Israel IAI Elta EL/M-2023 và radar của Ý Galileo Avionica Grifo 2000, nhưng hai loại radar nay khó có thể mua được do vấn đề chính trị.

Động cơ đẩy — động cơ phản lực AL-31FN. Theo hợp đồng thứ nhất giữa "Rosoboronexport" và các nhà sản xuất Trung Quốc, vào năm 2002 – 2004 đã chuyển đến 54 động cơ. Sau đó đã ký kết một hợp đồng xuất khẩu thêm 100 động cơ nữa. Tổng số động cơ người Trung Quốc cần khoảng 250 – 300 động cơ. Người Trung Quốc hy vọng rằng, trong thời gian họ nhập khẩu động cơ từ Nga, họ có thể phát triển và thay thế bằng động cơ sản xuất tại Trung Quốc loại WS-10ATai Hang. Vào năm 2006, xuất hiện thông tin về phiên bản Chengdu J-10, có tên là Super 10. Máy bay này được lắp động cơ thế hệ mới AL-31FN –M1 tăng cường lực đẩy tối đa từ 12550 đến 13500 kgf. Theo các nguồn thông tin khác, , Super 10 — là máy bay tiêm kích được lắp động AL-31 với lực đẩy vecto định hướng góc phụt.

Lượng dầu dự trữ trong thân máy bay Chengdu J-10 là 4950 lít. Ngoài ra, dưới cánh và dưới thân máy bay có thể treo thêm các thùng dầu phụ. Để tăng cường bán kính hoạt động và thời gian hoạt động trên không, trên máy bay có lắp thêm thiết bị tiếp dầu trên không. Một trong những mẫu máy bay Chengdu J-10 (J-10 06) được thiết kế theo mẫu này và có thiết bị định vị ống dẫn tiếp dầu trên không. Máy bay đã được thử nghiệm tiếp dầu từ thùng dầu trên máy bay ném bom H-6U (Тu-16) vào năm ngoái tại bãi thử trên sa mạc Gobi.

Vũ khí trang bị lắp đặt trên máy bay Chengdu J-10A bao gồm pháo tự động 2 nòng 23 mm, lắp phía dưới thân trên bộ giá treo súng nhẹ. Theo kết cấu trên thân dễ dàng nhận thấy là loại pháo tự động nổi tiếng đã lắp trên MiG 21 và MiG 23. Máy bay có thể mang tới 4500 kg trên 9 móc treo: sáu cái trên cánh, 2 giá dọc theo ống hút không khí và 1 ở chính giữa thân máy bay. Để chiến đấu trên không với các máy bay tiêm kích đối phương, J-10 có thể mang từ 2 đến 4 tên lửa có điều khiển tầm trung, sử dụng radar dẫn đạn PL-11 (mua lisence từ Ý Aspide Mk.1) hoặc PL-12 (SD-10 hay ShanDian-10) do chính Trung Quốc phát triển. 

Đối với các cuộc cận chiến, sử dụng tên lửa tầm gần PL-8 với đầu tự dẫn hồng ngoại lisence của Israel Python 3, bố trí ở móc treo phía ngoài cùng của cánh máy bay tam giác, Máy bay có thể sử dụng tên lửa của Nga R-73 và R-77, hoặc sử dụng tên lửa của Mỹ "Saydvinder" và "Sparrow". Tấn công các mục tiêu trên mặt đất, máy bay Chengdu J-10A có thể sử dụng bom rơi tự do hoặc bom có điều khiển (có đầu tự dẫn laser) LT-2 và LS-6, hoặc НАР. Trên biển, máy bay Chengdu được trang bị các loại tên lửa chống tầu sử dụng động cơ nhiên liệu rắn YJ-8K và С-801К, hoặc sử dụng tên lửa hành trình chống tầu С-802 động cơ turbin phản lực. Để tiêu diệt các mục tiêu radar tên lửa phòng không, máy bay Chengdu được trang bị tên lửa tự dẫn YJ-9. Trong mọi trường hợp sử dụng các loại vũ khí điều khiển chính xác lớp không đối đất hoặc không đối hải, máy bay Chengdu theo cấu hình hiện nay cần có thêm thiết bị chỉ thị mục tiêu treo trên thân máy bay hoặc được chỉ thị mục tiêu từ máy bay trinh sát, máy bay không người lái hoặc từ mặt đất (mặt biển).

Chương trình Chengdu J-10 tiếp tục phát triển, có cơ sở căn bản từ các mẫu Chengdu J-10 thành công, hàng không quân sự Trung Quốc tiếp tục phát triển mẫu biến thể Chengdu J-10 lắp 2 động cơ đẩy sử dụng trên tầu sân bay. Trong triển lãm hàng không Aero India 2007 có nhắc đến một sự phát triển khác của biến thể Chengdu J-10, thiết kế máy bay tiêm kích, ném bom (Qian Shi-10).

Căn cứ vào những kết quả đạt được theo thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong tương lại rất gần, máy bay tiêm kích Chengdu J-10 sẽ là máy bay chủ lực của lực lượng Không quân Trung Quốc, với số lượng máy bay rất lớn theo dự kiến (động cơ nhập khẩu từ Nga và tự chế tạo). Với cơ số vũ khí biên chế rất đầy đủ và rất đa dạng, có thể tác chiến trong nhiều không gian chiến trường, Chengdu J-10 sẽ tham gia tác chiến trong các lực lượng không quân tiêm kích, không quân hải quân và không quân yểm trợ lục quân.

Thông số kỹ chiến thuật của máy bay tiêm kích Chengdu J-10 :

Kíp lái: 1
Chiều dài: 16,43 m
Sải cánh: 9,75 m
Chiều cao: 5,43 m
Diện tích cánh: 33,05 m
Trọng tải rỗng: 9 800 kg
Trọng tải mang đầy đủ vũ khí: 18 000 kg
Tải trọng cất cánh cực đại: 19 277 kg
khối lượng thùng dầu phụ: 2x 624 lit (4 x165 lit)
Động cơ: 1 động cơ tuốc bin phản lức Saturn-Cradle AL-31FH hoặc Woshan WS-10A «Taihang»
Lực đẩy cực đại: 89,43 kN (7600 kgf)
Lực đẩy khi cất cánh: 122,5 kN (12500 kgf)
Tốc độ cực đại: 2,0 М
Tốc độ hành trình: 1110 km/h
Tốc độ hạ cánh: 235 km/h
Bán kính hoạt động tác chiến: 800 km
Tầm bay xa thực tế: 2 000 km (không tiếp dầu)
Trần bay: 18 000 m
Lực đẩy – tải trong T/W : 0,69 (khi cất cánh với khối lượng là 18000kg)
Vũ khí trang bị
Pháo tự động: 1 x 2 23mm
Giá móc treo: 11 ( 3 giá treo dưới cánh và 5 giá treo dưới thân)
Tải trọng vũ khí trang bị: 7 260 kg các loại vũ khí trang bị: 

Tên lửa: 

Không đối không : PL-8, PL-9, PL-11, PL-12, P-27 và Р-73
Không đối đất – hải: PJ-9, YJ-8K, YJ-9K, 90 mm rốc két НАР
Bom điều khiển (LT-2, LS-6) và bom thả rơi tự do
Tải trọng tác chiến:
Chiếm lĩnh ưu thế bầu trời và đánh chặn:
Tên lửa: 4x PL-11 hoặc PL-12 MRAAM + 2x PL-8 SRAAM + 1x 800 lit thùng dầu phụ.
Tên lửa: 2x PL-11 hoặc PL-12 MRAAM + 2x PL-8 SRAAM + 2x 1 600 lít và 1x 800 lit thùng dầu phụ.
Tấn công các mục tiêu trên mặt đất:
Tên lửa tầm gần 2x PL-8 SRAAM + 6x 250 kg bom + 2x 1 600 л và 1x 800 lit thùng dầu phụ.
Tên lửa tầm gần: 2x PL-8 SRAAM + 2x 500 kg bom điều khiển (LT-2) + 2x 1 600 lít và 1x 800 lit thùng dầu phụ + thiết bị laser chỉ thị mục tiêu.

Nước sử dụng: Trung Quốc và Pakistan

Máy bay tương đương, theo đánh giá của các chuyên gia Trung Quốc Eurofighter Typhoon, Saab JAS 39 Gripen và General Dynamics F-16 Fighting Falcon.

>> VN nên quan hệ tốt với Myanmar ?


(Báo Đất Việt) Với những chuyến thăm ngoại giao gần đây cũng như vai trò Chủ tịch ASEAN 2014, VN sẽ có sự hỗ trợ tốt hơn từ Myanmar trong các vấn đề khu vực, đặc biệt là biển Đông.


Nhận định trên đây được ông Đoàn Xuân Lộc, nghiên cứu sinh tại Học viện Chính sách Toàn cầu London, nêu ra trong một bài viết được đăng trên The Diplomat.


http://nghiadx.blogspot.com
Ông Đoàn Xuân Lộc là người tập trung nghiên cứu về chính trị khu vực Đông Nam Á, quan hệ ASEAN với cường quốc, đặc biệt là Trung Quốc, vấn đề chủ nghĩa khu vực, quan hệ EU-ASEAN.


Dưới đây là nội dung chính của bài viết:

Quan hệ đang nồng ấm

Ngày 20/3 vừa qua, Tổng thống Myanmar, ông Thein Sein đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam. Đón tiếp tại trung tâm chính trị Hà Nội, ông Sein nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ các nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Chuyến thăm diễn ra trong 2 ngày, đánh dấu thời kỳ quan hệ mới với việc hai nước gia tăng, tìm kiếm cơ hội hợp tác, thắt chặt tình hữu nghị. Mối liên kết này đã tăng cường từ nhiều năm qua với việc trao đổi các chuyến thăm cấp cao.

Tháng 6/2011, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng đã tới thăm Myanmar trong 4 ngày. Tiếp sau đó, Tổng tư lệnh mới của Lực lượng vũ trang Myanmar, tướng Aung Hlaing tới thăm Hà Nội vào tháng 11/2011 với việc ký kết thỏa ước hợp tác quốc phòng với Đại tướng Phùng Quang Thanh.

Một tháng sau, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Myanmar để tham dự Hội nghị cấp cao Tiểu vùng sông Mekong lần thứ 4, diễn ra ở thủ đô Napyidaw.

Nối tiếp chuỗi sự kiện này, ngày 12/3/2012, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh đã bắt đầu chuyến công du chính thức tới Naypyidaw; đồng thời 2 tàu khu trục của Hải quân Myanmar có chuyến thăm lịch sử tới cảng Tiên Sa, Đà Nẵng trong 3 ngày.

http://nghiadx.blogspot.com
Sự hiện diện của tàu khu trục Myanmar ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng đánh dấu chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử với hợp tác quốc phòng 2 nước.


Một sự kiện khác là phái đoàn quan chức, doanh nghiệp của TP HCM, dẫn đầu là Bí thư thành ủy Lê Thanh Hải tới thăm Myanmar.

Những hoạt động song phương diễn ra mạnh mẽ cùng thời điểm Myanmar tiến hành cải cách, mở rộng tiềm năng kinh tế, nối tiếp sau những cải cách chính trị.

Chỉ riêng năm 2011, Myanmar đã tiếp nhận khoản FDI kỷ lục: 20 tỷ USD, so sánh với con số ít ỏi 302 triệu USD năm 2010 và 16 tỷ USD trong 2 thập kỷ trước đó cộng lại.

Nếu như các nhà đầu tư đã nhận ra những cơ hội kinh doanh to lớn ở Myanmar, Chính phủ Việt Nam cũng nhận thức và khai thác được giá trị ngoại giao với đất nước hơn 60 triệu dân này.

Trước đây, quan hệ kinh tế nói riêng giữa hai nước giữ ở mức kém phát triển, đặc biệt khi so sánh với những quan hệ tương ứng giữa Việt Nam với các thành viên khác của ASEAN.

Ở phía Việt Nam, nếu như 18,5% hoạt động thương mại diễn ra với các nước ASEAN thì tỷ lệ của Myanmar chỉ chiếm 0,1%. Ở phía đối diện cũng không sáng sủa hơn: Việt Nam chỉ chiếm 0,9 % trong tổng số 45,2 % giá trị trao đổi của Myanmar với các nước trong khối ASEAN.

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi chuỗi các chuyến viếng thăm đều tập trung vào hợp tác kinh tế giữa hai nước. Thành quả đầu tiên là cam kết tăng giá trị thương mại 2 chiều từ 170 triệu USD năm 2010 lên 500 triệu USD năm 2015.

Cải cách từ phía Myanmar: rời xa Trung Quốc

Ngoài ra, việc hợp tác sẽ làm lợi cho cả 2 nước ở mức độ quốc gia và khu vực.

Với Myanmar, chuyến thăm của ông Thein Sein tới Việt Nam, điểm đầu tiên trong chuyến thăm 3 nước gồm cả Lào và Campuchia, là kết quả của mở cửa gần đây, thể hiện một phần quan trọng trong nỗ lực tăng cường vai trò của nước này trên các diễn đàn, ngoại giao khu vực.

Bởi lẽ, dù gia nhập ASEAN từ năm 1997, nước này chưa bao giờ giữ vai trò Chủ tịch trong khối, được xem là “bơ vơ” trong cộng động quốc tế hay thậm chí là mối cản trở trong quan hệ ASEAN với EU và các nước phương Tây.

Tuy nhiên, việc cải cách chính trị đem lại chiếc ghế Chủ tịch ASEAN lần đầu tiên cho Myanmar năm 2014, nước này còn sẽ có cơ hội trong việc tổ chức Hội nghị thường niên của ASEAN và các cuộc gặp quan trọng khác như: Hội nghị bộ trưởng của Diễn đàn khu vực ASEAN hay Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, hai diễn đàn ASEAN+ quan trọng với sự tham gia của một số quyền lực trong khu vực và thế giới. Trong chuyến thăm vừa rồi, ông Thein Sein cũng đã cảm ơn Việt Nam vì ủng hộ đất nước của ông giữa vai trò chủ tịch trong 2 năm.

Hơn nữa, với việc quá lệ thuộc vào Trung Quốc ở nhiều cấp độ như hiện nay, Myanmar cần thiết phải đa dạng hóa các liên kết quốc tế nhằm hạn chế sự thống trị của Trung Quốc. Trên thực tế, người ta thừa nhận rộng rãi, lý do chủ chốt cho cuộc cải cách chính trị hiện tại là tham vọng cân bằng lại sự hiện diện áp đảo của Trung Quốc.

http://nghiadx.blogspot.com
Dù từng là đồng minh chịu nhiều sự phụ thuộc, nhưng việc cải cách chính trị gần đây có ý nghĩa chiến lược với Myanmar trong thực hiện các bước tiến nhằm giảm bớt sự ảnh hưởng của Trung Quốc.


Với ý nghĩa này, dù chưa phải là đối tác kinh tế chính của Myanmar, Việt Nam có thể tiếp thêm cho các nhà lãnh đạo nước bạn một số đòn bẩy trong quan hệ với Bắc Kinh, vì hai nước cùng chia sẻ quan ngại về sự gia tăng sức mạnh, ảnh hưởng của người hàng xóm khổng lồ này.

Rõ ràng, dựa trên những tính toán an ninh, chiến lược mà cả hai nước sẽ cùng phát triển quan hệ song phương. Biểu hiện rõ rệt nhất là việc trao đổi về mặt quốc phòng, an ninh giữa hai nước: chuyến viếng thăm của Đại tướng Aung Hlaing và Hải quân Myanmar.

Chuyến thăm của một Tổng tư lệnh quân đội còn có ý nghĩa khác: nó diễn ra ngay sau khi Myanmar đơn phương đình chỉ dự án Đập Myitsone trị giá 3,6 tỷ USD do Trung Quốc tài trợ. Hơn nữa, thay vì đến thăm Trung Quốc giống như người tiền nhiệm, ông Hlaing đã lựa chọn Việt Nam là điểm công du chính thức đầu tiên khi nhậm chức.

Một điều đáng lưu ý khác, cùng thời điểm với việc 2 tàu chiến Myanmar cập cảng Việt Nam, Bộ trưởng ngoại giao hai nước đã thảo luận về tầm quan trọng của duy trì hòa bình, ổn định ở biển Đông với các tranh chấp sẽ giải quyết theo con đường hòa bình, tuân thủ luật quốc tế. Thông điệp này cũng tái nhấn mạnh trong chuyến thăm của Tổng thống Thein Sein.

Rõ ràng, những thông điệp, thảo luận trên khó khiến Trung Quốc hài lòng. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh tuyên bố về việc, các quốc gia thứ ba không nên dính tới tranh chấp.

Trong bối cảnh đó, việc hỗ trợ với các bước tiến trong giải quyết tranh chấp của Việt Nam từ phía Myanmar, quốc gia không có tuyên bố chủ quyền nào ở biển Đông, có ý nghĩa biểu tượng quan trọng. Điều này càng đặc biệt hơn khi Myanmar từng là đồng minh thân thiết của Trung Quốc.

Do vậy việc tăng vai trò trong quan hệ Việt Nam-Myanmar, kết hợp với vị thế của Myanmar làm Chủ tịch ASEAN từ năm 2014, sẽ tăng cường đáng kể vị thế của Việt Nam trong việc quan hệ với Trung Quốc.

>> Tương quan lực lượng Không quân 1 số nước Đông Nam Á


Aviation Week có bài bình luận về tương quan lực lượng Không quân của một số quốc gia Đông Nam Á với nhan đề “Lựa chọn chạy đua trong khu vực Biển Đông”.


Bài bình luận chỉ ra, hiện nay, ưu tiên Quốc phòng của các nước Đông Nam Á nhằm kiểm soát và bảo vệ lãnh thổ trong khu vực Biển Đông trước những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.

Trước bối cảnh này, các nước này có xu hướng chuyển dịch trong chiến lược từ phòng thủ sang phòng thủ từ xa, tích cực mua sắm, sản xuất các vũ khí tối tân, hạng nặng. Sức mạnh trên biển của mỗi quốc gia được so sánh bằng sức mạnh hải quân và không quân.

Trên chiến trường này, quân số không có nhiều ý nghĩa so với mức độ hiện đại của các loại phương tiện, vũ khí, khí tài chiến tranh và khả năng hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị, vị trí địa lý của các căn cứ quân sự và năng lực hậu cần.

Giờ đây, dường như đang có một cuộc chạy đua đầu tư mua sắm máy bay chiến đấu chủ chốt thế hệ mới định hướng tới năm 2020. Trong đó, tầm quan trọng của máy bay cảnh báo sớm (AEW) và máy bay tác chiến điện tử cũng đang được chú trọng phát triển.

Không quân Singapore


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Singapore.


Những năm gần đây, Singapore tăng cường ngân sách quốc phòng hơn bất kỳ quốc gia nào trong khu vực Đông Nam Á cho máy bay Gulfstream G550s được trang bị hệ thống cảnh báo sớm ELTA đảm bảo thực thi nhiệm vụ.

Trong đó, còn có kế hoạch nâng cấp F-16S lên phiên bản F-16V do Lockheed Martin thực hiện sau triển lãm hàng không đầu năm 2012.

Việc nâng cấp cũng bao gồm cả phát triển hệ thống radar quét điện tử và chủ động vốn dành cho các máy bay F-35 và F-22.

Bên cạnh đó, Lực lượng Không quân Hải quân Singapore cũng có xu hướng phát triển nhằm đảm bảo các nhiệm vụ phòng thủ, tuần tra, gồm trực thăng S-70B Sea Hawk, 5 máy bay tuần tra biển Fokker 50.

Trong giai đoạn này, Singapore thương lượng với Mỹ để mua P-3C Orion, có tầm bay xa 9.000km với vận tốc lên tới 750km/giờ, nếu cần có thể vũ trang thêm bom, tên lửa, thủy lôi… để thực hiện các nhiệm vụ tác chiến.

Ngoài ra, Singapore đang tìm kiếm và mua sắm các máy bay mới, trong đó có máy bay tiếp liệu trên không mới để thay thế cho 4 máy bay tiếp liệu KC-135R đang nằm trong biên chế lực lượng không quân.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay RSAF F-16 của Không quân Singapore.


Theo Aviation Week, Bộ Quốc phòng Singapore đang đàm phán với một số hãng chế tạo hàng không trên thế giới về vấn đề này.

Dự kiến, việc mở gói thầu tìm kiếm máy bay tiếp liệu trên không mới của Không quân Singapore sẽ được thực hiện trong năm 2012 và tới năm 2013, kết quả của gói thầu này sẽ được công bố.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới việc Không quân Singapore cần máy bay tiếp liệu trên không mới là để đảm bảo hậu cần cho các chiến đấu cơ F-15S và F-15SG.

Không quân Thái Lan


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Thái Lan


Thái Lan đang có một máy bay cảnh báo sớm Saab Erieye và chính phủ nước này vừa ký hợp đồng mua thêm 1 chiếc nữa.

Đồng thời, Thái Lan đã nhận được 6 máy bay Saab Gripen 39C/Ds JAS và đang đặt hàng thêm 6 chiếc (lô hàng này sẽ nhận được vào đầu năm 2013 như dự kiến).

Trang bị trên máy bay Gripens gồm radar sử dụng xung doppler Ericsson/GEC-Marconi PS-05/A, tên lửa chống tàu RBS15 và hệ thống tác chiến điện tử EWS 39, đồng bộ với phần mềm do Không quân Thủy Điển cung cấp.

Các giải pháp tác chiến mạng Không quân của Thái Lan cũng được nâng lên cấp độ cao hơn.

Tập đoàn Saab, sở hữu 40% của công ty Thái Avia Satcom, được giao nhiệm vụ phát triển liên kết dữ liệu chiến thuật cấp quốc gia trong đó bao gồm sự tham gia của các máy bay cảnh báo sớm (AEW), Gripens, F-16, máy bay dành cho lực lượng hải quân và tàu hải quân.

Máy báy Saab Erieye làm việc trên liên kết 16 nên có khả năng đồng bộ với các dữ liệu của máy bay F-16 như nước này đang sở hữu, nhưng thuận lợi cho Thái Lan trong việc tạo liên kết dữ liệu quốc gia là khả năng kiểm soát đối với mã hóa.

Ngoài ra, Thái Lan cũng muốn đặt mua thêm 6 máy bay Gripen để nâng cấp phi đội không quân lên thành 18 chiếc. Việc mua các máy bay Gripens nhằm thay thế cho các máy bay Northrop F-5S tại căn cứ Surat Thani vì khả năng liên kết mạng của chủng loại máy bay này.


http://nghiadx.blogspot.com
Thái Lan mới đây đã tiếp nhận thêm 6 máy bay Saab Gripen 39C.


Bên cạnh đó, Thái Lan cũng tiến hành nâng cấp máy bay 18 F-16A/Bs như tích hợp thêm máy quét radar (Northrop Grumman APG-68V9), hệ thống phát hiện đối tượng (bạn - thù) BAE Systems APX-113, hệ thống quản lý tác chiến điện tử Terma ALQ-213 và hệ thống bảo vệ chống lại tên lửa của đối phương BAE ALE-47.

Đồng thời, máy bay F16 phiên bản Thái Lan và Gripens được trang bị thêm tên lửa không đối đất AGM-65 Raytheon Maverick và tên lửa không đối không AIM-120 AMRAAM và AIM-9 Sidewinder.

Không quân Malaysia


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Malaysia.



Malaysia đang có kế hoạch mua thêm máy bay AEW. Đồng thời, nước này cũng đã trang bị thêm radar Erieye Northrop Grumman E-2D gắn trên Embraer EMB-145S.

Ngoài ra, phải kể tới kế hoạch thay thế máy bay chiến đấu RSK MiG-29 tại căn cứ Kuantan (hướng ra Biển Đông) bằng các máy bay Saab Gripen JAS 39C/D, Gripen NG, F/A-18E/F Super Hornet.

Malaysia đã có 8 biến thể Super Hornet. Trên lý thuyết thì nước này không phải mua thêm nhiều máy bay loại này để tạo thành một phi đội, mà chỉ cần nâng cấp các máy Super Hornet.

Tại triển lãm LIMA tại Malaysia cuối tháng 12/2011, Boeing cũng đã công bố một hợp đồng để nâng cấp 8 máy bay Super Hornet cho lực lượng không quân với hệ thống định vị GPS được cải thiện, hệ thống quét xác định đối phương, cũng như hệ thống thiết lập bảo vệ chung (JHCS).

JHCS là cần thiết bởi Malaysia đã mua tên lửa Sidewinder AIM-9X-2. JHCS cho phép phi công thực hiện tìm và khóa mục tiêu cho tên lửa AIM-9X đơn giản bằng cách đưa mục tiêu vào tầm ngắm.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tấn công F/A-18E/F Super Hornet.


Ngoài những dự án quan trọng trên, Malaysia đã tiếp tục nghiên cứu và tự chế tạo các máy bay không người lái, với mục đích tăng cường khả năng hoạt động tình báo, trinh sát, do thám và chiến đấu cho quân đội.

Không quân Indonesia


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Indonesia.


Indonesia cũng muốn bảo vệ lãnh hải của mình tại Biển Đông.

Nước này đã nhận được 24 máy bay F-16C/Ds của tập đoàn Lockheed Martin, nhưng sẽ phải chi 750 triệu USD để nâng cấp theo các tiêu chuẩn của Block 52. Việc nâng cấp này bao gồm trang bị thêm radar cảnh báo nhận diện đối phương Raytheon ALR-69, cấu hình máy tính thực thi nhiệm vụ, hệ thống quản lý tác chiến điện tử Terma ALQ-213, hệ thống bảo vệ tên lửa BAE ALE-47, hệ thống nhận định tình huống liên kết dữ liệu và khóa mục tiêu.

Ngoài ra, Tư lệnh Không quân Indonesia, Marshal Imam Sufaat, trong tháng 2/2012, cho biết nước này muốn mua thêm máy bay cảnh báo sớm AEW có thể kết nối với các máy bay F-16.

Hiện nay, Indonesia có 3 máy bay trinh sát Boeing 737 -2X9 Surveillers được trang bị các cấu hình radar đa nhiệm.

Ngoài ra, Indonesia đã gửi yêu cầu không chính thức đến Anh để mua 24 máy bay tiêm kích Eurofighter Typhoon. Nếu đề xuất này được chính phủ Anh tán thành thì tổng giá trị của hợp đồng sẽ lên tới 5 tỷ bảng, tương đương 8,1 tỷ USD.

Để thực hiện kế hoạch hiện đại hoá không quân, ngoài những đối tác trên, Indonesia còn đặc biệt quan tâm đến nhà cung cấp truyền thống là Nga. Tháng 9/2010, Indonesia tuyên bố đã mua thêm 6 tiêm kích Su-30MK2.


http://nghiadx.blogspot.com
Tháng 9/2010, Indonesia tuyên bố đã mua thêm 6 tiêm kích Su-30MK2.


Trong tương lai, máy bay tiêm kích của Nga sẽ là lực lượng nòng cốt trong thành phần máy bay chiến đấu của không quân Indonesia.

Tháng 6/2010, Indonesia đã ký thoả thuận tham gia dự án chung với Hàn Quốc chế tạo máy bay tiêm kích tàng hình KF-X thế hệ "4++".

KF-X thế hệ "4++" sẽ được chế tạo bằng cách sử dụng công nghệ tàng hình và theo sự mô tả kỹ thuật, nó có khả năng vượt trội so với máy bay Rafale và Typhoon, tuy nhiên không thể sánh được với tiêm kích F-22 Raptor và F-35 Lightning II.

Với việc tham gia dự án chung với Hàn Quốc, không quân Indonesia dự định sẽ sở hữu 50 máy bay tiêm kích KF-X.
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang