Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

>> Việt Nam sắp mua radar VERA mà Trung Quốc mơ ước


Cộng hòa Séc sẽ "hiện đại hóa hàng loạt" trang thiết bị vũ khí của Lục quân, Không quân và có thể bán vũ khí công nghệ cao cho Việt Nam.



Thông tin trên được các trang Ceskatelevize.cz và Natoaktual.cz của Cộng hòa Séc đăng tải sau chuyến thăm tới Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc phòng Alexandr Vondra.

Các nguồn tin dẫn lời Bộ Trưởng Quốc phòng Vondra cho hay, trong chuyến thăm vừa qua, phía Việt Nam đã bày tỏ muốn được Cộng hòa Séc giúp cải thiện năng lực chiến đấu của lực lượng mặt đất và lực lượng không quân."Có thể có những đơn đặt hàng thú vị", Bộ trưởng Quốc phòng Vondra chia sẻ với Natoaktual.

Natoaktual còn dẫn lời của Bộ trưởng Vondra cho hay, các công ty Séc có thể mở văn phòng tại Việt Nam. Một nửa triệu quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, gồm lực lượng lục quân và không quân có thể được Séc giúp đỡ hiện đại hóa.

Quân đội Việt Nam đang sử dụng một số lượng lớn vũ khí và các trang thiết bị kỹ thuật có xuất xứ từ Nga, những vũ khí này đã và đang được Quân đội Séc sử dụng.

Sau các cuộc tiếp xúc với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh, ông Vondra nhận xét: "Việt Nam là một đối tác rất triển vọng, họ có lực lượng quân đội mạnh nhưng cần được hiện đại hóa".

Hai bên đã ký kết biên bản ghi nhớ để tạo ra một khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, truyền thông Séc tiết lộ.

Những lĩnh vực triển vọng

Theo ông Vondra, Séc có thể cung cấp các công nghệ được bảo mật để hiện đại hóa các phương tiện trang bị cho không quân và lục quân Việt Nam.

Việt Nam đang sử dụng hàng nghìn xe bọc thép các loại, gồm xe chiến đấu bộ binh BMP-1 và BMP-2, nhưng đã lỗi thời, cần được thay thế, sửa chữa thiết bị. Séc sẽ giúp hiện đại hoá lực lượng này cho Lục quân Việt Nam.

Ngoài ra, các công ty của Séc có thể tham gia vào việc hiện đại hóa các loại vũ khí nhỏ cho Việt Nam như nâng cấp súng Kalashnikov AK-47 và súng tiểu liên Vzor 58 của Séc (một biến thể của AK-47 có biên chế trong Quân đội Nhân dân Việt Nam) hiện đại hơn.


http://nghiadx.blogspot.com
Các chiến xa bộ binh BMP-1, BMP-2...của Lục quân Việt Nam sẽ được nâng cấp trong thời gian tới.


Natoaktual cũng cho biết, công ty quốc phòng Séc có khả năng hợp tác với Việt Nam về việc chế tạo mặt nạ cho các đơn vị phòng hóa của quân đội

Như vậy, với việc biên bản ghi nhớ về hợp tác kỹ thuật quân sự đã được ký kết giữa Việt Nam và Cộng hòa Séc, trong tương lai gần, cùng với Hải quân và Không quân, Lục quân Việt Nam sẽ được hiện đại hóa với tốc độ nhanh hơn, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Về không quân, Việt Nam đang sử dụng 20 máy bay huấn luyện chiến đấu hạng nhẹ L-39 do công ty Aero Vodochody sản xuất, vì vậy, Séc sẽ dễ dàng cung cấp linh kiện và hiện đại hoá các máy bay loại này.

Còn công ty sửa chữa máy bay Malesice có thể cung cấp phụ tùng, thực hiện sửa chữa và hiện đại hóa các trực thăng dòng Mil và Kamov đang có trong biên chế Không quân Việt Nam.

Vũ khí “công nghệ cao”

Hôm 29/3, Đài truyền hình CT (Séc) loan tin, mục đích chính chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Vondra rất rõ ràng - bán vũ khí của Cộng hòa Séc.

Ngày 29/3, trang mạng Bộ Quốc phòng Séc dẫn lời Bộ trưởng Alexandr Vondra cho biết, Cộng hòa Séc sẽ xuất khẩu sang Việt Nam các vũ khí công nghệ cao. Theo đài CT, nổi trội nhất là VERA, hệ thống radar giám sát thụ động tiên tiến nhất thế giới, có thể phát hiện ra các máy bay tàng hình của Mỹ.



VERA cùng với Tamara và Kolchuga là các hệ thống radar thụ động phát hiện máy bay tàng hình tiên tiến nhất thế giới hiện nay.


Năm 2004, Mỹ từng gây áp lực để Cộng hòa Séc không bán cho Trung Quốc hệ thống này.

“Không có gì ngăn cản việc chúng tôi bán vũ khí công nghệ cao cho Việt Nam. Chúng tôi sẽ giúp Việt Nam có được hệ thống VERA”, Bộ trưởng Vendra nói với đài CT.

Việc ký kết hợp đồng đang được thực hiện, nhưng sẽ mất không ít thời gian, nguồn tin cho hay.

>> Kỉ nguyên máy bay thế hệ 6 đã bắt đầu


"Rất nhiều nước đã tới tấp bước vào vạch xuất phát trong vấn đề nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, Trung Quốc cần sẵn sàng".


Tờ “Phương Đông” ngày 31/3 đăng bài viết của chuyên gia quân sự Trung Quốc Trần Hổ.

Bài viết cho biết, về máy bay chiến đấu thế hệ thứ sáu, rất nhiều người cảm thấy đề tài này đưa ra vẫn còn sớm.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay chiến đấu không gian X-37B của Mỹ


Đến nay, việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 trên toàn cầu phổ biến đều ở trạng thái khắc phục khó khăn về công nghệ.

Có thể thấy, F-35 của Mỹ hiện đang ở giai đoạn nghiên cứu phát triển quan trọng nhất trước khi sản xuất hàng loạt, cần giải quyết một số vấn đề công nghệ cuối cùng nhằm bảo đảm đồng thời với việc nhanh chóng đưa vào sản xuất thì còn phải có khả năng kiểm soát giá thành có hiệu quả.

Ngoài ra, T-50 của Nga còn đang ở giai đoạn bay thử của máy bay thử nghiệm công nghệ.
Còn các nước khác tham gia nghiên cứu chế tạo máy bay thế hệ thứ 5 như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ đều cơ bản dừng lại trên giấy tờ.

Như vậy, máy bay thế hệ thứ 5 hiện nay còn chưa từ nghiên cứu phát triển đi vào trạng thái sản xuất và trang bị toàn diện.

Trên thực tế, thông qua một loạt các thông tin gần đây sẽ thấy rằng, rất nhiều nước đã tới tấp bước vào vạch xuất phát trong vấn đề nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, vấn đề thảo luận nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 đã không thể coi là còn sớm nữa.

Trong một thời gian trước đây, Nhật Bản đã đưa ra ý tưởng nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 “i3”.

Hầu như đồng thời, tờ “Thời báo Tài chính” Đức cho biết, một cơ quan nghiên cứu Ấn Độ kiến nghị nghiên cứu phát triển một loại máy bay chiến đấu kiểu mới bay ở độ cao và tốc độ lớn, tốc độ bay tối đa của nó có thể lên gấp 5 lần tốc độ âm thanh, bay ở độ cao có thể lên tới 10.000 m – đã tiếp cận bên ngoài bầu khí quyển.

Như vậy, loại máy bay chiến đấu tiên tiến này của Ấn Độ chính là một ý tưởng máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.


http://nghiadx.blogspot.com
Ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6 của Công ty Boeing, Mỹ.


Hơn nữa, Mỹ đã thử bay X-47, X-37B, còn Pháp từng đưa ra máy bay chiến đấu không người lái NEURON trong triển lãm hàng không.

Báo Phương Đông viết một loạt thông tin này thực sự đang nhắc nhở Trung Quốc: Rất nhiều nước đã bắt đầu sẵn sàng cho việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6.

Con đường công nghệ của nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6

Hiện nay, con đường công nghệ nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 trên thế giới cơ bản có thể chia làm 2 loại:

Loại thứ nhất là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn. “Máy bay chiến đấu không gian” X-37B chính là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn điển hình.

Đặc điểm lớn nhất của nó là: không gian bay chủ yếu của nó là rìa ngoài bầu khí quyển hoặc là không gian vũ trụ bên ngoài bầu khí quyển. Còn tốc độ của nó có thể đạt gấp mấy lần, thậm chí mười mấy lần tốc độ âm thanh.

Loại thứ hai là máy bay chiến đấu không người lái. X-47 B của Mỹ và NEURON của Pháp thuộc loại này. Đối với máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6, loại máy bay chiến đấu không người lái này và máy bay không người lái trước đây có sự khác biệt rõ rệt: máy bay không người lái trước đây chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ trên chiến trường,

còn nhiệm vụ tác chiến chỉ là một chức năng phái sinh của nó; về phương pháp kỹ thuật, máy bay không người lái trước đây hoặc là kiểm soát mặt đất, hoặc là bay có trật tự, còn máy bay X-47 của Mỹ và NEURO của Pháp hiện nay đều thuộc một trạng thái tự kiểm soát, nói cách khác, mức độ thông minh của chúng đã được cải thiện rất lớn, đây là một đặc điểm điển hình nhất trong phát triển công nghệ máy bay không người lái.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái X-47B của Mỹ.


Máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 của Nhật Bản có đặc điểm riêng

Khi nói đến con đường công nghệ của những máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 này, mọi người có thể sẽ quan tâm: tiêu chuẩn “i3” của “máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6 Nhật Bản” thuộc một trạng thái như thế nào?
Trần Hổ cho rằng, Nhật Bản vẫn đi theo con đường máy bay chiến đấu không người lái. Nhưng, nó lại khác với NEURO của Pháp và X-47B của Mỹ: máy bay không người lái của Mỹ và Pháp nghiêng hơn về tự kiểm soát tác chiến, còn con đường đi theo ý tưởng của Nhật Bản lại có độ khó công nghệ tương đối thấp.

Trên thực tế, nó một trạng thái “kiểm soát không đối không”, tức là Nhật Bản đi trên con đường công nghệ “dùng máy bay chiến đấu có người lái để kiểm soát máy bay chiến đấu không người lái”.

Trong con đường phát triển, do yêu cầu công nghệ đối với bản thân máy bay không người lái khác nhau, cho nên trung tâm nghiên cứu của họ cũng khác nhau.

Mỹ và Pháp đi theo con đường phát triển máy bay không người lái tự chủ tác chiến, do đó họ đã có X-47 và NEURO. Còn Nhật Bản muốn phát triển một loại máy bay chiến đấu không người lái dùng cho “kiểm soát không đối không”. Độ khó công nghệ của trạng thái này không phải ở máy bay không người lái, mà ở máy bay kiểm soát.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay thế hệ thứ sáu "i3" Nhật Bản.

Cho nên, ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6 “i3” do Nhật đưa ra, trọng điểm của nó là nghiên cứu phát triển được máy bay chiến đấu có người lái dùng để kiểm soát máy bay không người lái.


Qua đó, có thể phát hiện, hai con đường công nghệ lớn của máy bay thế hệ thứ 6 còn có thể phân làm hai nhánh trong lĩnh vực máy bay không người lái.

Nếu nói về phân nhánh chi tiết hơn, máy bay chiến đấu không người lái của Pháp và máy bay chiến đấu không người lái của Mỹ cũng có chút khác biệt. X-47 của Mỹ nghiêng hơn về tấn công đối đất, còn NEURO của Pháp thì nghiêng về chiến đấu trên không.

Nói về độ khó công nghệ, máy bay không người lái chiến đấu trên không tự chủ kiểm soát còn khó hơn máy bay không người lái kiểu tấn công tự chủ kiểm soát.
Tình hình nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 thay đổi

Trong thời đại máy bay thế hệ thứ 3 trước đây, trên quốc tế, việc nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu tiên tiến cơ bản phân thành 3 bộ phận lớn:

Bộ phận thứ nhất là Mỹ; bộ phận thứ hai là Liên Xô (Nga hiện nay); bộ phận thứ ba là một số nước phát triển của châu Âu, như Anh, Pháp…

Đến thời đại máy bay thế hệ thứ 5, bố cục nghiên cứu phát triển đã bắt đầu có những thay đổi. Các nước phát triển châu Âu không nghiên cứu phát triển loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5, vì vậy trên thực tế là Mỹ độc tôn, Nga bám gót theo sau.

Còn một số nước châu Á, chẳng hạn Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ cũng tích cực gia nhập hàng ngũ nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 5.

http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay tấn công tàng hình không người lái NEURO của Pháp


Còn đối với máy bay thế hệ thứ 6 đang ở trong giai đoạn nghiên cứu phát triển mang tính ý tưởng hiện nay, sự thay đổi bố cục quốc tế còn rõ ràng hơn trạng thái xuất hiện của máy bay thế hệ thứ 5.


Mỹ vẫn thuộc trạng thái độc tôn: cho dù là máy bay chiến đấu có độ cao và tốc độ lớn hay máy bay chiến đấu không người lái, Mỹ đều có chương trình nghiên cứu phát triển và mô hình nghiên cứu tương ứng.

Còn Nga đến nay vẫn chưa thấy có ý tưởng hoặc chương trình nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6.

Trong các nước châu Âu, mặc dù có NEURO của Pháp, nhưng lại biểu hiện như một trạng thái yếu ớt, bởi vì nó hoàn toàn không thể so sánh được với trạng thái tích cực khi châu Âu nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ ba trước đây.

Trái lại, một số nước châu Á lại tích cực chưa từng có trong việc đưa ra ý tưởng máy bay thế hệ thứ 6:

Nhật Bản đưa ra máy bay “i3”, còn Ấn Độ đưa ra máy bay chiến đấu tiên tiến có độ cao và tốc độ lớn. Trên thực tế điều này cũng phản ánh quyết tâm và tự tin của các nước đi sau trong việc cố gắng bước vào câu lạc bộ hàng không đỉnh cao quốc tế.

Mặc dù hiện nay việc nghiên cứu phát triển máy bay thế hệ thứ 6 vẫn nằm trong giai đoạn thảo luận ý tưởng, nhưng tin rằng đã có thảo luận về ý tưởng này, thời gian máy bay thế hệ thứ 6 thực sự đi vào nghiên cứu phát triển các kiểu loại sẽ không còn quá lâu.

Phương Đông báo viết, nhìn vào chu kỳ nghiên cứu phát triển máy bay chiến đấu tiên tiến hiện nay, trong 20 năm nữa, chúng ta sẽ nhìn thấy máy bay thế hệ thứ 6 bay trên bầu trời.

Cho nên, đối với những nước có tham vọng giành lấy quyền kiểm soát trong tương lai, hành vi hiện tại đúng lúc đã nghiệm chứng được câu nói thịnh hành: không thể thua ngay trên vạch xuất phát.


http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay chiến đấu hạng trung tiên tiến AMCA của Ấn Độ tại Triển lãm hàng không năm 2009.


>> Sức mạnh mới của "thần lửa" Agni-V


Tên lửa Agni-V có phạm vi bao trùm toàn bộ Trung Quốc, nếu phóng thành công, Ấn Độ sẽ bước vào câu lạc bộ tên lửa xuyên lục địa.




http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo Agni-V do Ấn Độ nghiên cứu phát triển.


Ngày 1/4, tờ “Thời báo Ấn Độ” đưa tin, Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng Ấn Độ (DRDO) cho biết, trong 2 tuần nữa Ấn Độ sẽ phóng thử tên lửa đạn đạo Agni-V.

Ngoài ra, Ấn Độ sẽ tiến hành thử nghiệm phóng tên lửa đạn đạo từ tàu ngầm trước năm 2013, vào năm 2014 sẽ xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa, trong mấy năm tới phóng vệ tinh cỡ nhỏ và nghiên cứu phát triển vũ khí laser.
Ngày 31/3, tại “Triển lãm vũ khí trang bị hệ thống an ninh nội bộ và Lục-hải không quân quốc tế năm 2012” (DefExpo2012) ở New Delhi, người phụ trách DRDO V.K.

Saraswat cho biết, Ấn Độ sẽ phóng thử tên lửa xuyên lục địa Agni-V (có tầm phóng 5.000 km, có thể mang đầu đạn hạt nhân) vào trung tuần tháng 4/2012.

Saraswat nói, tên lửa 3 tầng này đã được trang bị con quay laser hình vòng tiên tiến, động cơ tên lửa tích hợp và hệ thống dẫn đường vệ tinh có độ chính xác cao, về công nghệ đã tiếp cận khoa học công nghệ mũi nhọn của Mỹ. Hiện nay, việc phóng thử đã đi vào giai đoạn cuối cùng.

Tờ “Thời báo Ấn Độ” cho biết, một khi tên lửa Agni-V được phóng thành công, Ấn Độ sẽ “bước vào câu lạc bộ tên lửa xuyên lục địa”. Thành viên câu lạc bộ này đến nay chỉ có Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp và Anh.

Đồng thời, tên lửa này có đặc tính linh hoạt khi tác chiến, phạm vi tấn công có thể bao trùm toàn bộ Trung Quốc, điều này rất quan trọng cho việc nâng cao tư thế răn đe hạt nhân cho Ấn Độ.

Bài báo còn cho biết, trong bối cảnh “Trung Quốc phát triển vũ khí chống vệ tinh”, DRDO còn dốc sức cho nghiên cứu “an ninh không gian”, tập trung bảo vệ tài sản vũ trụ của Ấn Độ “tránh bị phá hoại”.

Một số hình ảnh về tên lửa Agni-V của Ấn Độ:


http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012

>> Tìm hiểu máy bay tiêm kích J-10 của Không quân Trung Quốc


Ngày 5 tháng 1 năm 2007 tại Bắc Kinh đã diễn ra một sự kiện, sự kiện này đã được toàn bộ ngành hàng không mong đợi nhiều năm – chính thức công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về một loại máy bay tiêm kích phản lực mới nhất của Trung Quốc (Chengdu J-10) (Phương tây đặt cho tiêm kích này cái tên là Vigorous Dragon).


Trên thực tế, khi gỡ bỏ mọi bức mành bí mật, có thể nhận thấy rằng, J-10 hoàn toàn không phải là kiệt tác của trí tuệ các kỹ sư Trung Quốc như các nguồn tin chính thức của Trung Quốc thông báo, mà hoàn toàn là một sản phẩm được hình thành từ các hoạt động thương mại. Theo thông báo của những sỹ quan đại diện cho lực lượng Không quân Trung Quốc, máy bay tiêm kích mới này có thể thực hiện những nhiệm vụ chiến đấu, thống trị bầu trời không thua kém các máy bay chiến đấu F-16C của Mỹ hoặc Mirage 2000 của Pháp.




http://nghiadx.blogspot.com


Trong đoạn băng video ngày 5 tháng 1 2007 quay lại cảnh những chiếc bay bay Chengdu J-10 bay trong chương trình quảng cáo với những pha nhào lộn ngoại mục, quá trình phóng tên lửa và bay trong đội hình diễu hành. Nhận thấy rõ ràng, nhờ có cấu trúc thiết kế khí động học ở đẳng cấp cao, có trọng tải hợp lý, đồng thời được trang bị động cơ đẩy mạnh, chiếc máy bay tiêm kích đời mới này của Trung Quốc có được khả năng cơ động rất cao, đồng thời có tốc độ cất cánh tối ưu nhất. Với mục tiêu làm giảm trọng lượng, trên máy bay tiêm kích đã ững dụng những công nghệ vật liệu mới nhất, như vật liệu composit tổng hợp, đồng thời lắp đặt nhưng bộ phận và trang thiết bị có cấu trúc nhỏ gọn hợp lý và khối lượng nhẹ.

http://nghiadx.blogspot.com
Dự án Lavi - B2 của Israel


Lịch sử phát triển của Chengdu J-10 được bắt đầu vào khoảng giữa những năm 1980-х , khi nền công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc đối mặt với vấn đề phải có phương án đáp trả tương xứng với việc xuất hiện trong biên chế của lực lượng không quân Liên bang Xô viết loại máy bay MIG – 29 và SU-27.

Thiết kế thế hệ máy bay mới vào năm 1986 được giao cho Viện nghiên cứu hàng không №611 thành phố Thành Đô, đồng thời việc chế tạo máy bay cũng được giao cho công ty chế tạo máy bay Chengdu Aircraft Industrial Company ( CA-IC) cũng nằm tại thành phố này. Trong giai đoạn này dự an được mang mã số " Dự án 8610”. Hiện nay công bố chính thức trên phương tiện thông tin đại chúng rằng nền công nghiệp sản xuất máy bay của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 trên thế giới (sau Mỹ, Nga và Pháp), có khả năng tự chế tạo máy bay chiến đấu hiện đại. Nhưng, những tuyên bố hùng hồn về sự phát triển độc lập của chương trình Chengdu J-10, cũng có nhiều thời điểm tạo ra những chỉ trích gay gắt đối với nguồn thông tin chính thống này. 

Một trong những hòn đá to nhất ném vào khu vườn hàng không của Trung Quốc, đó là sự giống nhau giữa Chengdu J-10 với máy bay tiêm kích của Israel Lavi, nhưng trên phương tiện thông tin đại chúng, thông báo chính thức của Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ điều nay, nhưng sự giống nhau từ phía bên ngoài cả về hinh dáng lẫn kích thước có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Một cách gián tiếp, việc bán một số các công nghệ phát triển máy bay tiêm kích Lavi đã được thừa nhận khi Bộ trưởng Quốc phòng Israel Larry David, trong một cuộc phỏng vấn "Press Assosheyted" thông báo rằng một số công nghệ vẫn đã được chuyển giao cho người Trung Quốc.

Theo tuyên bố của một chuyên gia độc lập thuộc Trung tâm phân tích Hồng Công KANWA Andrew Chan, vào năm 1986, một nhóm chuyên gia trong lĩnh vực hàng không quân sự Israel đã có một thời gian rất dài có mặt ở Thành Đô. Trong giai đoạn đó, chương trình phát triển máy bay chiến đấu Lavi của Israel bị kìm hãm do vấn đề tài chính. Xin nhắc lại là vào nửa đầu những năm 1980-x, hàng không quân sự Israel bắt đầu các nghiên cứu của mình với mục tiêu, sử dụng những công nghệ hàng không tiên tiến áp dụng cho máy bay F16A?B, chế tạo cho lực lượng không quân nước mình máy bay tiêm kích, có những tính năng kỹ chiến thuật hơn hẳn F16 của Mỹ. Giai đoạn đầu tiên của dự án được sự hỗ trợ đáng kể về công nghệ và tài chính từ phía Mỹ, nhưng khi chương trình Lavi đạt đến giai đoạn thử nghiệm, người Mỹ mới hiểu ra rằng, họ đang tự sinh cho mình một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. 

Với lý do lo ngại về khả năng có thể tái xuất loại máy bay này cho các chế độ không thân thiện với các nhà nước châu Âu, nguồn hỗ trợ từ phía Mỹ bị đóng cửa. Mục tiêu của Mỹ là hủy bỏ hoàn toàn dự án của Israel nhằm bảo vệ nền công nghiệp hàng không nước mình. Không có sự ủng hộ tài chính, Israel không tiếp tục phát triển chương trình Lavi và chương trình máy bay tiêm kích này chính thức bị đóng lại vào năm 1987. Chính sự cố này, có thể đã mở ra một lối ngầm, mà qua đó, các giải pháp công nghệ riêng biệt được bán cho Trung Quốc. Khi thiết kế cấu hình khí động học vỏ ngoài của máy bay Chengdu J-10, các kỹ sư hàng không của Israel đã giúp đỡ các chuyên gia Trung Quốc thiết kế hệ thống một loạt các trang thiết bị trên thân máy bay, và đặc biết, giúp đỡ thiết kế hệ thống điện tử điều khiển từ xa máy bay.

Để trả lời, Trung Quốc đã nhận trách nhiệm theo 3 điểm:

1- Không bán máy bay tiêm kích thế hệ mới cho kẻ thù hoặc kẻ thù tiềm năng của Israel.

2- Cho phép Israel toàn quyền sử dụng những giải pháp công nghệ do Trung Quốc phát triển (có sự có mặt của các nhà khoa học Israel).

3- (điều quan trọng nhất) Trung Quốc và Israel là hai đối tác có quyền tương đương nhau trong các hoạt động thương mại bán sản phẩm máy bay tiêm kích đánh chặn cho các nước thuộc thế giới thứ 3.

Đương nhiên, điều khoản cuối cùng của thỏa thuận, theo ý kiến của các chuyên gia, đã mang trong nội dung 1 hiểm họa cho các kế hoạch xuất khẩu máy bay của Mỹ. Và áp lực từ phía Mỹ lập tức tăng lên, từ những năm đầu của thập kỷ 1990-x, sự hợp tác công nghệ quân sự của Israel và Trung Quốc càng ngày càng thu ngắn lại. Trong điều kiện quá khó khăn như vậy, Trung Quốc bắt buộc phải tìm kiếm đối tác mới. Vào năm 1994, kết nối vào chương trình phát triển máy bay tiêm kích J-10 Chengdu một kẻ thù tiềm năng cũ của Trung Quốc, nhưng lại là đối tác chiến lược ngày nay về khoa học công nghệ quân sự - nước Nga. Vì vậy, có thể nói, Chengdu J-10 thật sự là một sản phẩm của sự hợp tác công nghê quốc tế đa phương hóa.

Theo thông báo của tạp chí Nga " Vũ khí xuất khẩu” thời gian chế tạo nguyên mẫu đầu tiên Chengdu J-10 kết thúc vào cuối năm 1993, cất cánh lần đầu tiên vào không trung khoảng giữa năm 1994 và 1996, đồng thời máy bay được lắp động cơ phản lực của Nga. Vào năm 1996 xuất hiện nguyên mấu thứ hai Chengdu J-10 02, nhưng nguyên mẫu này đã bị rơi trong một tai nạn hàng không khi bay thử nghiệm. Cũng vào thời gian này, người Trung quốc đã chế tạo bộ khung máy bay để thử nghiệm độ vững chắc và tin cậy của máy bay. Mẫu thứ 3 được chế tạo và cất cánh vào năm 1998, là chiếc máy bay đầu tiên được trang bị đầy đủ vũ khí. Cũng vào năm đó, các mẫu máy bay thử nghiệm J-10 -04, J-10 05, J-10 06 cũng được lần lượt đưa vào bay thử nghiệm.

Đến cuối năm 2000, các máy bay J-10 bay thử nghiệm được hơn 140 giờ bay, vào năm 2002 Trung Quốc tiếp tục chế tạo thêm J-10 07 đến J-10 09, sau đó là J-10 10 đến J-10 16. Chiếc đầu tiên cất cách vào ngày 28 tháng 7 năm 2002. Vào đầu năm 2003, mười chiếc máy bay này được đưa đến Quân khu Nam Kinh để thử nghiệm thực tế tại đơn vị chiến đấu. vào năm 2005, máy bay J-10 chính thức được biên chế vào lực lượng không quân Trung Quốc. Cũng vào năm đó, đơn vị không quân tác chiến đầu tiên được biên chế máy bay Chengdu J-10 đã sẵn sàng – sư đoàn không quân số 44 đóng quân tại tỉnh Tứ Xuyên. Đên thời điểm hiện tại, lực lượng không quân Trung Quốc có khoảng 70 chiếc máy bay Chengdu J-10. Để cung cấp đầy đủ theo yêu cầu, không quân Trung Quốc, đã có kế hoạch sản xuất khoảng 300 chiếc máy bay J-10A.

http://nghiadx.blogspot.com
Tiêm kích Chengdu J-10A


Khoảng năm 2000, hàng không quân sự Trung Quốc bắt đầu phát triển máy bay hai người lái huấn luyện Chengdu J-10B, vào ngày 26 tháng 12 năm 2003, máy bay hai người lái huấn luyện lần đầu tiên cất cánh. Hiện nay, Trung Quốc dự kiến trên cơ sở máy bay huấn luyện, sẽ chế tạo máy bay tiêm kích ném bom.Viện nghiên cứu không quân №611 kết thức phác thảo dự kiến 2 mấu máy bay J-10 mới, khác các mẫu trước đây khả năng giảm độ phản xạ hiệu dụng nhằm thu nhỏ khả năng phát hiện mục tiêu (mẫu thứ 1 - phần mũi của thân máy bay được thiết kế theo mô hình công nghệ tàng hình steath, đồng thời tăng thêm động cơ, đó là phác thảo mẫu thứ 2 với hai động cơ phản lực). Như vậy rõ ràng rằng Trung Quốc đang lần lượt phát triển mẫu máy bay mới từ mục tiêu ban đầu là chế tạo máy bay có khả năng chiếm lĩnh ưu thế trên không, tiến đến có khả năng sử dụng hiệu quả vũ khí lớp " không trung – mặt đất (nước)”, và trong tương lai gần sẽ phát triển thành máy bay tiêm kích đa nhiệm có sử dụng công nghệ steath để giảm độ phản xạ hiệu dụng, giảm khả năng phát hiện của radar ( khả năng phát hiện ở mức độ thấp).

Chengdu J-10A là máy bay siêu âm một chỗ ngổi một động cơ phản lực tiêm kích, được thiết kế theo mô hình khí động học " Con vịt” với cánh mũi nhỏ có trục quay trọng tâm gắn ở phía trước (canard), hai cánh tam giác với các cánh cản có trục quay phía trước, điểm đặc biệt cho phép máy bay có khả năng cơ động cao hơn. Một cánh đuôi thẳng đứng với cánh cản điều hướng và ống hút không khí có thể điều chỉnh được nằm ở phía dưới bụng máy bay.

Một phần tổ hợp của cánh máy bay hình tam giác, phía gần thân có độ dày tương đối so với độ dày mặt cắt ngang của cánh, giảm dần về phía sau. Độ khoảng 45% sải cánh được gắn kết với phần cánh cản có thể tháo rời, phần cánh cản tháo rời có mặt cắt mỏng hơn và đường uốn cong gấp về phía sau. Bộ phận cánh cản bao gồm có các cánh cản và các ống lót trục xoay cánh cản trên cánh tam giác của máy bay.

http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ kỹ thuật của máy bay Chengdu J-10A


Để đảm bảo ổn định hướng trong những lúc bẻ góc tấn công lớn, phía dưới ông phụt phản lực có hai cánh kiểu vây cá. Thân máy bay được chia làm 3 khoang chính. Khoang phía trước bao gồm cabin cách ly độc lập của phi công, radar mạng pha, buồng thiết bị điện tử, họng hút không khí, phận bụng máy bay trước bánh xe đỡ máy bay, đồng thời được lắp đặt cánh nhỏ phía trước dưới buồng lái. Khoang giữa máy bay được bố trí thùng dầu, các bánh chịu nặng của máy bay và đường hành lang ống dẫn không khí cho động cơ. 

Phía đuôi máy bay lắp đuôi máy bay với cánh điều hướng, 4 nắp đựng dù hãm máy bay, 2 lườn ngang với vây cánh đuôi. Phía trong lắp đặt động cơ phản lực. Bộ ba càng và bánh máy bay được thu vào thân máy bay, càng và bánh phía trước có 2 bánh, 2 càng và bánh phía sau có một bánh đối xứng nhau. Trên các máy bay mẫu và máy bay sản xuất trước khi đưa vào sản xuất dây chuyền càng chịu lực và bánh phía trước được đóng bằng 2 cánh cửa. Trên các máy bay sản xuất dây chuyền có 3 cánh cửa khoang thu càng máy bay, một cánh cửa phía trước và 2 cánh cửa hai bên. Cấu hình của buồng lái phi công chưa từng có trong ngành hàng không Trung Quốc, kiểu giọt nước lồi lên phái trên và được bọc kính trong suốt, đảm bảo cho phi công có góc nhìn 360o khi bay.



http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ chi tiết máy bay tiêm kích Chengdu J-10A


Máy bay tiêm kích Chengdu J-10A được thiết kế phi cân bằng động, do đó có thể đảm bảo khả năng cơ động rất cao. Điều đó đòi hơi hệ thống điều khiển tự động từ xa điện tử với 4 cấp tăng cường dự phòng và máy tính điện tử hiện đại. Hệ thống điện tử thân máy bay, cấu trúc hiện đại của cabin máy bay và hệ thống điều khiển hỏa lực có tính năng kỹ chiến thuật hơn hẳn bất cứ máy bay nào được phát triển bởi công nghiệp hàng không Trung Quốc. Đặc biệt, thông tin về các thông số của chuyến bay và tình hình chiến thuật được hiển thị trên 3 màn hình hiển thị đa chức năng và được chiếu lên bảng chỉ thị nền trên kính chắn gió của mũ phi công. 

Máy bay được trang bị hệ thống dẫn đường GPS/INS, máy tính kỹ thuật số tính toán thông số đường bay và hệ thống cảnh báo thông báo máy bay bị chiếu radar ARW9101. Theo đơn đặt hàng của Trung Quốc, tổ hợp "Fazotron-NIIR" đã chế tạo cho máy bay này radar an ten mạng pha đa nhiệm RP -35 "Pearls". Nhà sản xuất khẳng định, radar có khả năng theo dõi một lúc 24 mục tiêu, đồng thời có thể xác định mục tiêu trên mặt đất. Đồng thời ở Trung Quốc cũng hoàn thành phát triển radar của mình JL-10A (theo một số nguồn tin — «mã số 1473») khả năng phát hiện mục tiêu loại tiêm kích lên đến 100 km, có khả năng theo dõi 10 mục tiêu cùng một lúc và khai hỏa tấn công 4 mục tiêu cùng một lúc. Để phát triển khả năng xuất khẩu sau nay, người Trung Quốc có thể sử dụng radar loại N010 « Beetle 10PD », radar Israel IAI Elta EL/M-2023 và radar của Ý Galileo Avionica Grifo 2000, nhưng hai loại radar nay khó có thể mua được do vấn đề chính trị.

Động cơ đẩy — động cơ phản lực AL-31FN. Theo hợp đồng thứ nhất giữa "Rosoboronexport" và các nhà sản xuất Trung Quốc, vào năm 2002 – 2004 đã chuyển đến 54 động cơ. Sau đó đã ký kết một hợp đồng xuất khẩu thêm 100 động cơ nữa. Tổng số động cơ người Trung Quốc cần khoảng 250 – 300 động cơ. Người Trung Quốc hy vọng rằng, trong thời gian họ nhập khẩu động cơ từ Nga, họ có thể phát triển và thay thế bằng động cơ sản xuất tại Trung Quốc loại WS-10ATai Hang. Vào năm 2006, xuất hiện thông tin về phiên bản Chengdu J-10, có tên là Super 10. Máy bay này được lắp động cơ thế hệ mới AL-31FN –M1 tăng cường lực đẩy tối đa từ 12550 đến 13500 kgf. Theo các nguồn thông tin khác, , Super 10 — là máy bay tiêm kích được lắp động AL-31 với lực đẩy vecto định hướng góc phụt.

Lượng dầu dự trữ trong thân máy bay Chengdu J-10 là 4950 lít. Ngoài ra, dưới cánh và dưới thân máy bay có thể treo thêm các thùng dầu phụ. Để tăng cường bán kính hoạt động và thời gian hoạt động trên không, trên máy bay có lắp thêm thiết bị tiếp dầu trên không. Một trong những mẫu máy bay Chengdu J-10 (J-10 06) được thiết kế theo mẫu này và có thiết bị định vị ống dẫn tiếp dầu trên không. Máy bay đã được thử nghiệm tiếp dầu từ thùng dầu trên máy bay ném bom H-6U (Тu-16) vào năm ngoái tại bãi thử trên sa mạc Gobi.

Vũ khí trang bị lắp đặt trên máy bay Chengdu J-10A bao gồm pháo tự động 2 nòng 23 mm, lắp phía dưới thân trên bộ giá treo súng nhẹ. Theo kết cấu trên thân dễ dàng nhận thấy là loại pháo tự động nổi tiếng đã lắp trên MiG 21 và MiG 23. Máy bay có thể mang tới 4500 kg trên 9 móc treo: sáu cái trên cánh, 2 giá dọc theo ống hút không khí và 1 ở chính giữa thân máy bay. Để chiến đấu trên không với các máy bay tiêm kích đối phương, J-10 có thể mang từ 2 đến 4 tên lửa có điều khiển tầm trung, sử dụng radar dẫn đạn PL-11 (mua lisence từ Ý Aspide Mk.1) hoặc PL-12 (SD-10 hay ShanDian-10) do chính Trung Quốc phát triển. 

Đối với các cuộc cận chiến, sử dụng tên lửa tầm gần PL-8 với đầu tự dẫn hồng ngoại lisence của Israel Python 3, bố trí ở móc treo phía ngoài cùng của cánh máy bay tam giác, Máy bay có thể sử dụng tên lửa của Nga R-73 và R-77, hoặc sử dụng tên lửa của Mỹ "Saydvinder" và "Sparrow". Tấn công các mục tiêu trên mặt đất, máy bay Chengdu J-10A có thể sử dụng bom rơi tự do hoặc bom có điều khiển (có đầu tự dẫn laser) LT-2 và LS-6, hoặc НАР. Trên biển, máy bay Chengdu được trang bị các loại tên lửa chống tầu sử dụng động cơ nhiên liệu rắn YJ-8K và С-801К, hoặc sử dụng tên lửa hành trình chống tầu С-802 động cơ turbin phản lực. Để tiêu diệt các mục tiêu radar tên lửa phòng không, máy bay Chengdu được trang bị tên lửa tự dẫn YJ-9. Trong mọi trường hợp sử dụng các loại vũ khí điều khiển chính xác lớp không đối đất hoặc không đối hải, máy bay Chengdu theo cấu hình hiện nay cần có thêm thiết bị chỉ thị mục tiêu treo trên thân máy bay hoặc được chỉ thị mục tiêu từ máy bay trinh sát, máy bay không người lái hoặc từ mặt đất (mặt biển).

Chương trình Chengdu J-10 tiếp tục phát triển, có cơ sở căn bản từ các mẫu Chengdu J-10 thành công, hàng không quân sự Trung Quốc tiếp tục phát triển mẫu biến thể Chengdu J-10 lắp 2 động cơ đẩy sử dụng trên tầu sân bay. Trong triển lãm hàng không Aero India 2007 có nhắc đến một sự phát triển khác của biến thể Chengdu J-10, thiết kế máy bay tiêm kích, ném bom (Qian Shi-10).

Căn cứ vào những kết quả đạt được theo thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong tương lại rất gần, máy bay tiêm kích Chengdu J-10 sẽ là máy bay chủ lực của lực lượng Không quân Trung Quốc, với số lượng máy bay rất lớn theo dự kiến (động cơ nhập khẩu từ Nga và tự chế tạo). Với cơ số vũ khí biên chế rất đầy đủ và rất đa dạng, có thể tác chiến trong nhiều không gian chiến trường, Chengdu J-10 sẽ tham gia tác chiến trong các lực lượng không quân tiêm kích, không quân hải quân và không quân yểm trợ lục quân.

Thông số kỹ chiến thuật của máy bay tiêm kích Chengdu J-10 :

Kíp lái: 1
Chiều dài: 16,43 m
Sải cánh: 9,75 m
Chiều cao: 5,43 m
Diện tích cánh: 33,05 m
Trọng tải rỗng: 9 800 kg
Trọng tải mang đầy đủ vũ khí: 18 000 kg
Tải trọng cất cánh cực đại: 19 277 kg
khối lượng thùng dầu phụ: 2x 624 lit (4 x165 lit)
Động cơ: 1 động cơ tuốc bin phản lức Saturn-Cradle AL-31FH hoặc Woshan WS-10A «Taihang»
Lực đẩy cực đại: 89,43 kN (7600 kgf)
Lực đẩy khi cất cánh: 122,5 kN (12500 kgf)
Tốc độ cực đại: 2,0 М
Tốc độ hành trình: 1110 km/h
Tốc độ hạ cánh: 235 km/h
Bán kính hoạt động tác chiến: 800 km
Tầm bay xa thực tế: 2 000 km (không tiếp dầu)
Trần bay: 18 000 m
Lực đẩy – tải trong T/W : 0,69 (khi cất cánh với khối lượng là 18000kg)
Vũ khí trang bị
Pháo tự động: 1 x 2 23mm
Giá móc treo: 11 ( 3 giá treo dưới cánh và 5 giá treo dưới thân)
Tải trọng vũ khí trang bị: 7 260 kg các loại vũ khí trang bị: 

Tên lửa: 

Không đối không : PL-8, PL-9, PL-11, PL-12, P-27 và Р-73
Không đối đất – hải: PJ-9, YJ-8K, YJ-9K, 90 mm rốc két НАР
Bom điều khiển (LT-2, LS-6) và bom thả rơi tự do
Tải trọng tác chiến:
Chiếm lĩnh ưu thế bầu trời và đánh chặn:
Tên lửa: 4x PL-11 hoặc PL-12 MRAAM + 2x PL-8 SRAAM + 1x 800 lit thùng dầu phụ.
Tên lửa: 2x PL-11 hoặc PL-12 MRAAM + 2x PL-8 SRAAM + 2x 1 600 lít và 1x 800 lit thùng dầu phụ.
Tấn công các mục tiêu trên mặt đất:
Tên lửa tầm gần 2x PL-8 SRAAM + 6x 250 kg bom + 2x 1 600 л và 1x 800 lit thùng dầu phụ.
Tên lửa tầm gần: 2x PL-8 SRAAM + 2x 500 kg bom điều khiển (LT-2) + 2x 1 600 lít và 1x 800 lit thùng dầu phụ + thiết bị laser chỉ thị mục tiêu.

Nước sử dụng: Trung Quốc và Pakistan

Máy bay tương đương, theo đánh giá của các chuyên gia Trung Quốc Eurofighter Typhoon, Saab JAS 39 Gripen và General Dynamics F-16 Fighting Falcon.

>> VN nên quan hệ tốt với Myanmar ?


(Báo Đất Việt) Với những chuyến thăm ngoại giao gần đây cũng như vai trò Chủ tịch ASEAN 2014, VN sẽ có sự hỗ trợ tốt hơn từ Myanmar trong các vấn đề khu vực, đặc biệt là biển Đông.


Nhận định trên đây được ông Đoàn Xuân Lộc, nghiên cứu sinh tại Học viện Chính sách Toàn cầu London, nêu ra trong một bài viết được đăng trên The Diplomat.


http://nghiadx.blogspot.com
Ông Đoàn Xuân Lộc là người tập trung nghiên cứu về chính trị khu vực Đông Nam Á, quan hệ ASEAN với cường quốc, đặc biệt là Trung Quốc, vấn đề chủ nghĩa khu vực, quan hệ EU-ASEAN.


Dưới đây là nội dung chính của bài viết:

Quan hệ đang nồng ấm

Ngày 20/3 vừa qua, Tổng thống Myanmar, ông Thein Sein đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam. Đón tiếp tại trung tâm chính trị Hà Nội, ông Sein nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ các nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Chuyến thăm diễn ra trong 2 ngày, đánh dấu thời kỳ quan hệ mới với việc hai nước gia tăng, tìm kiếm cơ hội hợp tác, thắt chặt tình hữu nghị. Mối liên kết này đã tăng cường từ nhiều năm qua với việc trao đổi các chuyến thăm cấp cao.

Tháng 6/2011, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng đã tới thăm Myanmar trong 4 ngày. Tiếp sau đó, Tổng tư lệnh mới của Lực lượng vũ trang Myanmar, tướng Aung Hlaing tới thăm Hà Nội vào tháng 11/2011 với việc ký kết thỏa ước hợp tác quốc phòng với Đại tướng Phùng Quang Thanh.

Một tháng sau, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Myanmar để tham dự Hội nghị cấp cao Tiểu vùng sông Mekong lần thứ 4, diễn ra ở thủ đô Napyidaw.

Nối tiếp chuỗi sự kiện này, ngày 12/3/2012, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh đã bắt đầu chuyến công du chính thức tới Naypyidaw; đồng thời 2 tàu khu trục của Hải quân Myanmar có chuyến thăm lịch sử tới cảng Tiên Sa, Đà Nẵng trong 3 ngày.

http://nghiadx.blogspot.com
Sự hiện diện của tàu khu trục Myanmar ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng đánh dấu chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử với hợp tác quốc phòng 2 nước.


Một sự kiện khác là phái đoàn quan chức, doanh nghiệp của TP HCM, dẫn đầu là Bí thư thành ủy Lê Thanh Hải tới thăm Myanmar.

Những hoạt động song phương diễn ra mạnh mẽ cùng thời điểm Myanmar tiến hành cải cách, mở rộng tiềm năng kinh tế, nối tiếp sau những cải cách chính trị.

Chỉ riêng năm 2011, Myanmar đã tiếp nhận khoản FDI kỷ lục: 20 tỷ USD, so sánh với con số ít ỏi 302 triệu USD năm 2010 và 16 tỷ USD trong 2 thập kỷ trước đó cộng lại.

Nếu như các nhà đầu tư đã nhận ra những cơ hội kinh doanh to lớn ở Myanmar, Chính phủ Việt Nam cũng nhận thức và khai thác được giá trị ngoại giao với đất nước hơn 60 triệu dân này.

Trước đây, quan hệ kinh tế nói riêng giữa hai nước giữ ở mức kém phát triển, đặc biệt khi so sánh với những quan hệ tương ứng giữa Việt Nam với các thành viên khác của ASEAN.

Ở phía Việt Nam, nếu như 18,5% hoạt động thương mại diễn ra với các nước ASEAN thì tỷ lệ của Myanmar chỉ chiếm 0,1%. Ở phía đối diện cũng không sáng sủa hơn: Việt Nam chỉ chiếm 0,9 % trong tổng số 45,2 % giá trị trao đổi của Myanmar với các nước trong khối ASEAN.

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi chuỗi các chuyến viếng thăm đều tập trung vào hợp tác kinh tế giữa hai nước. Thành quả đầu tiên là cam kết tăng giá trị thương mại 2 chiều từ 170 triệu USD năm 2010 lên 500 triệu USD năm 2015.

Cải cách từ phía Myanmar: rời xa Trung Quốc

Ngoài ra, việc hợp tác sẽ làm lợi cho cả 2 nước ở mức độ quốc gia và khu vực.

Với Myanmar, chuyến thăm của ông Thein Sein tới Việt Nam, điểm đầu tiên trong chuyến thăm 3 nước gồm cả Lào và Campuchia, là kết quả của mở cửa gần đây, thể hiện một phần quan trọng trong nỗ lực tăng cường vai trò của nước này trên các diễn đàn, ngoại giao khu vực.

Bởi lẽ, dù gia nhập ASEAN từ năm 1997, nước này chưa bao giờ giữ vai trò Chủ tịch trong khối, được xem là “bơ vơ” trong cộng động quốc tế hay thậm chí là mối cản trở trong quan hệ ASEAN với EU và các nước phương Tây.

Tuy nhiên, việc cải cách chính trị đem lại chiếc ghế Chủ tịch ASEAN lần đầu tiên cho Myanmar năm 2014, nước này còn sẽ có cơ hội trong việc tổ chức Hội nghị thường niên của ASEAN và các cuộc gặp quan trọng khác như: Hội nghị bộ trưởng của Diễn đàn khu vực ASEAN hay Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, hai diễn đàn ASEAN+ quan trọng với sự tham gia của một số quyền lực trong khu vực và thế giới. Trong chuyến thăm vừa rồi, ông Thein Sein cũng đã cảm ơn Việt Nam vì ủng hộ đất nước của ông giữa vai trò chủ tịch trong 2 năm.

Hơn nữa, với việc quá lệ thuộc vào Trung Quốc ở nhiều cấp độ như hiện nay, Myanmar cần thiết phải đa dạng hóa các liên kết quốc tế nhằm hạn chế sự thống trị của Trung Quốc. Trên thực tế, người ta thừa nhận rộng rãi, lý do chủ chốt cho cuộc cải cách chính trị hiện tại là tham vọng cân bằng lại sự hiện diện áp đảo của Trung Quốc.

http://nghiadx.blogspot.com
Dù từng là đồng minh chịu nhiều sự phụ thuộc, nhưng việc cải cách chính trị gần đây có ý nghĩa chiến lược với Myanmar trong thực hiện các bước tiến nhằm giảm bớt sự ảnh hưởng của Trung Quốc.


Với ý nghĩa này, dù chưa phải là đối tác kinh tế chính của Myanmar, Việt Nam có thể tiếp thêm cho các nhà lãnh đạo nước bạn một số đòn bẩy trong quan hệ với Bắc Kinh, vì hai nước cùng chia sẻ quan ngại về sự gia tăng sức mạnh, ảnh hưởng của người hàng xóm khổng lồ này.

Rõ ràng, dựa trên những tính toán an ninh, chiến lược mà cả hai nước sẽ cùng phát triển quan hệ song phương. Biểu hiện rõ rệt nhất là việc trao đổi về mặt quốc phòng, an ninh giữa hai nước: chuyến viếng thăm của Đại tướng Aung Hlaing và Hải quân Myanmar.

Chuyến thăm của một Tổng tư lệnh quân đội còn có ý nghĩa khác: nó diễn ra ngay sau khi Myanmar đơn phương đình chỉ dự án Đập Myitsone trị giá 3,6 tỷ USD do Trung Quốc tài trợ. Hơn nữa, thay vì đến thăm Trung Quốc giống như người tiền nhiệm, ông Hlaing đã lựa chọn Việt Nam là điểm công du chính thức đầu tiên khi nhậm chức.

Một điều đáng lưu ý khác, cùng thời điểm với việc 2 tàu chiến Myanmar cập cảng Việt Nam, Bộ trưởng ngoại giao hai nước đã thảo luận về tầm quan trọng của duy trì hòa bình, ổn định ở biển Đông với các tranh chấp sẽ giải quyết theo con đường hòa bình, tuân thủ luật quốc tế. Thông điệp này cũng tái nhấn mạnh trong chuyến thăm của Tổng thống Thein Sein.

Rõ ràng, những thông điệp, thảo luận trên khó khiến Trung Quốc hài lòng. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh tuyên bố về việc, các quốc gia thứ ba không nên dính tới tranh chấp.

Trong bối cảnh đó, việc hỗ trợ với các bước tiến trong giải quyết tranh chấp của Việt Nam từ phía Myanmar, quốc gia không có tuyên bố chủ quyền nào ở biển Đông, có ý nghĩa biểu tượng quan trọng. Điều này càng đặc biệt hơn khi Myanmar từng là đồng minh thân thiết của Trung Quốc.

Do vậy việc tăng vai trò trong quan hệ Việt Nam-Myanmar, kết hợp với vị thế của Myanmar làm Chủ tịch ASEAN từ năm 2014, sẽ tăng cường đáng kể vị thế của Việt Nam trong việc quan hệ với Trung Quốc.

>> Tương quan lực lượng Không quân 1 số nước Đông Nam Á


Aviation Week có bài bình luận về tương quan lực lượng Không quân của một số quốc gia Đông Nam Á với nhan đề “Lựa chọn chạy đua trong khu vực Biển Đông”.


Bài bình luận chỉ ra, hiện nay, ưu tiên Quốc phòng của các nước Đông Nam Á nhằm kiểm soát và bảo vệ lãnh thổ trong khu vực Biển Đông trước những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.

Trước bối cảnh này, các nước này có xu hướng chuyển dịch trong chiến lược từ phòng thủ sang phòng thủ từ xa, tích cực mua sắm, sản xuất các vũ khí tối tân, hạng nặng. Sức mạnh trên biển của mỗi quốc gia được so sánh bằng sức mạnh hải quân và không quân.

Trên chiến trường này, quân số không có nhiều ý nghĩa so với mức độ hiện đại của các loại phương tiện, vũ khí, khí tài chiến tranh và khả năng hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị, vị trí địa lý của các căn cứ quân sự và năng lực hậu cần.

Giờ đây, dường như đang có một cuộc chạy đua đầu tư mua sắm máy bay chiến đấu chủ chốt thế hệ mới định hướng tới năm 2020. Trong đó, tầm quan trọng của máy bay cảnh báo sớm (AEW) và máy bay tác chiến điện tử cũng đang được chú trọng phát triển.

Không quân Singapore


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Singapore.


Những năm gần đây, Singapore tăng cường ngân sách quốc phòng hơn bất kỳ quốc gia nào trong khu vực Đông Nam Á cho máy bay Gulfstream G550s được trang bị hệ thống cảnh báo sớm ELTA đảm bảo thực thi nhiệm vụ.

Trong đó, còn có kế hoạch nâng cấp F-16S lên phiên bản F-16V do Lockheed Martin thực hiện sau triển lãm hàng không đầu năm 2012.

Việc nâng cấp cũng bao gồm cả phát triển hệ thống radar quét điện tử và chủ động vốn dành cho các máy bay F-35 và F-22.

Bên cạnh đó, Lực lượng Không quân Hải quân Singapore cũng có xu hướng phát triển nhằm đảm bảo các nhiệm vụ phòng thủ, tuần tra, gồm trực thăng S-70B Sea Hawk, 5 máy bay tuần tra biển Fokker 50.

Trong giai đoạn này, Singapore thương lượng với Mỹ để mua P-3C Orion, có tầm bay xa 9.000km với vận tốc lên tới 750km/giờ, nếu cần có thể vũ trang thêm bom, tên lửa, thủy lôi… để thực hiện các nhiệm vụ tác chiến.

Ngoài ra, Singapore đang tìm kiếm và mua sắm các máy bay mới, trong đó có máy bay tiếp liệu trên không mới để thay thế cho 4 máy bay tiếp liệu KC-135R đang nằm trong biên chế lực lượng không quân.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay RSAF F-16 của Không quân Singapore.


Theo Aviation Week, Bộ Quốc phòng Singapore đang đàm phán với một số hãng chế tạo hàng không trên thế giới về vấn đề này.

Dự kiến, việc mở gói thầu tìm kiếm máy bay tiếp liệu trên không mới của Không quân Singapore sẽ được thực hiện trong năm 2012 và tới năm 2013, kết quả của gói thầu này sẽ được công bố.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới việc Không quân Singapore cần máy bay tiếp liệu trên không mới là để đảm bảo hậu cần cho các chiến đấu cơ F-15S và F-15SG.

Không quân Thái Lan


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Thái Lan


Thái Lan đang có một máy bay cảnh báo sớm Saab Erieye và chính phủ nước này vừa ký hợp đồng mua thêm 1 chiếc nữa.

Đồng thời, Thái Lan đã nhận được 6 máy bay Saab Gripen 39C/Ds JAS và đang đặt hàng thêm 6 chiếc (lô hàng này sẽ nhận được vào đầu năm 2013 như dự kiến).

Trang bị trên máy bay Gripens gồm radar sử dụng xung doppler Ericsson/GEC-Marconi PS-05/A, tên lửa chống tàu RBS15 và hệ thống tác chiến điện tử EWS 39, đồng bộ với phần mềm do Không quân Thủy Điển cung cấp.

Các giải pháp tác chiến mạng Không quân của Thái Lan cũng được nâng lên cấp độ cao hơn.

Tập đoàn Saab, sở hữu 40% của công ty Thái Avia Satcom, được giao nhiệm vụ phát triển liên kết dữ liệu chiến thuật cấp quốc gia trong đó bao gồm sự tham gia của các máy bay cảnh báo sớm (AEW), Gripens, F-16, máy bay dành cho lực lượng hải quân và tàu hải quân.

Máy báy Saab Erieye làm việc trên liên kết 16 nên có khả năng đồng bộ với các dữ liệu của máy bay F-16 như nước này đang sở hữu, nhưng thuận lợi cho Thái Lan trong việc tạo liên kết dữ liệu quốc gia là khả năng kiểm soát đối với mã hóa.

Ngoài ra, Thái Lan cũng muốn đặt mua thêm 6 máy bay Gripen để nâng cấp phi đội không quân lên thành 18 chiếc. Việc mua các máy bay Gripens nhằm thay thế cho các máy bay Northrop F-5S tại căn cứ Surat Thani vì khả năng liên kết mạng của chủng loại máy bay này.


http://nghiadx.blogspot.com
Thái Lan mới đây đã tiếp nhận thêm 6 máy bay Saab Gripen 39C.


Bên cạnh đó, Thái Lan cũng tiến hành nâng cấp máy bay 18 F-16A/Bs như tích hợp thêm máy quét radar (Northrop Grumman APG-68V9), hệ thống phát hiện đối tượng (bạn - thù) BAE Systems APX-113, hệ thống quản lý tác chiến điện tử Terma ALQ-213 và hệ thống bảo vệ chống lại tên lửa của đối phương BAE ALE-47.

Đồng thời, máy bay F16 phiên bản Thái Lan và Gripens được trang bị thêm tên lửa không đối đất AGM-65 Raytheon Maverick và tên lửa không đối không AIM-120 AMRAAM và AIM-9 Sidewinder.

Không quân Malaysia


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Malaysia.



Malaysia đang có kế hoạch mua thêm máy bay AEW. Đồng thời, nước này cũng đã trang bị thêm radar Erieye Northrop Grumman E-2D gắn trên Embraer EMB-145S.

Ngoài ra, phải kể tới kế hoạch thay thế máy bay chiến đấu RSK MiG-29 tại căn cứ Kuantan (hướng ra Biển Đông) bằng các máy bay Saab Gripen JAS 39C/D, Gripen NG, F/A-18E/F Super Hornet.

Malaysia đã có 8 biến thể Super Hornet. Trên lý thuyết thì nước này không phải mua thêm nhiều máy bay loại này để tạo thành một phi đội, mà chỉ cần nâng cấp các máy Super Hornet.

Tại triển lãm LIMA tại Malaysia cuối tháng 12/2011, Boeing cũng đã công bố một hợp đồng để nâng cấp 8 máy bay Super Hornet cho lực lượng không quân với hệ thống định vị GPS được cải thiện, hệ thống quét xác định đối phương, cũng như hệ thống thiết lập bảo vệ chung (JHCS).

JHCS là cần thiết bởi Malaysia đã mua tên lửa Sidewinder AIM-9X-2. JHCS cho phép phi công thực hiện tìm và khóa mục tiêu cho tên lửa AIM-9X đơn giản bằng cách đưa mục tiêu vào tầm ngắm.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tấn công F/A-18E/F Super Hornet.


Ngoài những dự án quan trọng trên, Malaysia đã tiếp tục nghiên cứu và tự chế tạo các máy bay không người lái, với mục đích tăng cường khả năng hoạt động tình báo, trinh sát, do thám và chiến đấu cho quân đội.

Không quân Indonesia


http://nghiadx.blogspot.com
Biểu tượng Không quân Indonesia.


Indonesia cũng muốn bảo vệ lãnh hải của mình tại Biển Đông.

Nước này đã nhận được 24 máy bay F-16C/Ds của tập đoàn Lockheed Martin, nhưng sẽ phải chi 750 triệu USD để nâng cấp theo các tiêu chuẩn của Block 52. Việc nâng cấp này bao gồm trang bị thêm radar cảnh báo nhận diện đối phương Raytheon ALR-69, cấu hình máy tính thực thi nhiệm vụ, hệ thống quản lý tác chiến điện tử Terma ALQ-213, hệ thống bảo vệ tên lửa BAE ALE-47, hệ thống nhận định tình huống liên kết dữ liệu và khóa mục tiêu.

Ngoài ra, Tư lệnh Không quân Indonesia, Marshal Imam Sufaat, trong tháng 2/2012, cho biết nước này muốn mua thêm máy bay cảnh báo sớm AEW có thể kết nối với các máy bay F-16.

Hiện nay, Indonesia có 3 máy bay trinh sát Boeing 737 -2X9 Surveillers được trang bị các cấu hình radar đa nhiệm.

Ngoài ra, Indonesia đã gửi yêu cầu không chính thức đến Anh để mua 24 máy bay tiêm kích Eurofighter Typhoon. Nếu đề xuất này được chính phủ Anh tán thành thì tổng giá trị của hợp đồng sẽ lên tới 5 tỷ bảng, tương đương 8,1 tỷ USD.

Để thực hiện kế hoạch hiện đại hoá không quân, ngoài những đối tác trên, Indonesia còn đặc biệt quan tâm đến nhà cung cấp truyền thống là Nga. Tháng 9/2010, Indonesia tuyên bố đã mua thêm 6 tiêm kích Su-30MK2.


http://nghiadx.blogspot.com
Tháng 9/2010, Indonesia tuyên bố đã mua thêm 6 tiêm kích Su-30MK2.


Trong tương lai, máy bay tiêm kích của Nga sẽ là lực lượng nòng cốt trong thành phần máy bay chiến đấu của không quân Indonesia.

Tháng 6/2010, Indonesia đã ký thoả thuận tham gia dự án chung với Hàn Quốc chế tạo máy bay tiêm kích tàng hình KF-X thế hệ "4++".

KF-X thế hệ "4++" sẽ được chế tạo bằng cách sử dụng công nghệ tàng hình và theo sự mô tả kỹ thuật, nó có khả năng vượt trội so với máy bay Rafale và Typhoon, tuy nhiên không thể sánh được với tiêm kích F-22 Raptor và F-35 Lightning II.

Với việc tham gia dự án chung với Hàn Quốc, không quân Indonesia dự định sẽ sở hữu 50 máy bay tiêm kích KF-X.

>> 'Rồng lửa' giữ trời Việt Nam


Được mệnh danh là “rồng lửa”, tên lửa S-300PMU1 đang là loại vũ khí tối tân nhất canh giữ bầu trời quê hương. Những chú "rồng lửa" ấy hiện do nhiều sĩ quan Việt Nam còn rất trẻ điều khiển.


10h, đoàn tên lửa phòng không 64 (Đoàn phòng không Hà Nội) nhận lệnh báo động, ngay lập tức toàn đoàn chuyển sang cấp 1 - sẵn sàng chiến đấu.

Ở tất cả vị trí chiến đấu, các hệ thống ăngten, bệ phóng tên lửa tự hành từ từ dựng lên trời đầy kiêu hãnh, trong đó có tổ hợp tên lửa phòng không S-300PMU1. Chỉ chưa đầy năm phút sau khi nhận lệnh, toàn bộ tổ hợp tên lửa phòng không S-300PMU1 đã triển khai xong và sẵn sàng phóng tên lửa đến mục tiêu.

Không bỏ sót mục tiêu

Tại sở chỉ huy trên không, radar phát hiện mọi độ cao 96L6E nhanh chóng phát hiện nhiều tốp mục tiêu đang bay vào khu vực bảo vệ của đoàn. Chỉ huy bắn - đoàn trưởng - thiếu tá Nguyễn Quốc Văn yêu cầu kíp đài radar khẩn trương thiết lập quỹ đạo đường bay, xác định chính xác số lượng kiểu loại, các tham số về phương vị, cự ly, độ cao và vận tốc của mục tiêu để chỉ thị đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa đánh đúng đối tượng.

Đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa 30N6E được ví là “siêu mắt thần”. Bởi đây là đài radar đa kênh - đa chức năng, sử dụng hệ thống ăngten mạng pha xung dopler hiện đại có khả năng phát hiện được các loại mục tiêu chế tạo theo công nghệ “tàng hình” (kể cả mục tiêu có diện tích phản xạ hiệu dụng tới 0,02m2), khả năng chống nhiễu tốt với tất cả các dạng nhiễu tiêu cực và nhiễu tích cực. Các bộ phận trong kíp chiến đấu căng mắt nhìn vào các màn hình và liên tục thao tác. Hàng chục màn hình lớn nhỏ hiển thị liên tục những tham số về tốc độ di chuyển, hướng đi của mục tiêu; về tình trạng sẵn sàng bắn hỏa lực của hệ thống vũ khí khí tài...


http://nghiadx.blogspot.com
Từ trái qua: xe bệ phóng tên lửa tự hành và xe gắp ống phóng bảo quản đạn - Ảnh: Nguyễn Quốc Văn


Đến lúc này, tôi mới cảm nhận chân thực và đầy đủ hơn câu nói của đoàn trưởng Nguyễn Quốc Văn trước đó: “Khi sử dụng S-300PMU1, sĩ quan chỉ huy tác chiến không cầm súng như bộ binh, không lái máy bay như phi công. Chúng tôi chiến đấu qua hệ thống điều khiển, màn hình, các tín hiệu...”.

Cùng lúc đó, ở sở chỉ huy mặt đất, kíp tiêu đồ quản lý vùng trời đang tập trung liên lạc bằng các tín hiệu morse dồn dập đổ về. Trước mặt họ là hai bảng mạng tình báo khu vực và tình báo hỏa lực rất lớn. Cũng thời điểm này trong sở chỉ huy trên không, các sĩ quan liên tục thao tác, báo cáo, nhận lệnh... trong khi nhân viên tiêu đồ đang tập trung đi đường bay theo thông báo của mạng tình báo radar khu vực. Các mục tiêu trên không nhanh chóng được phát hiện, bắt và bám sát từng milimet.

“Mục tiêu đã được bám sát và xác định được đầy đủ các phần tử mục tiêu” - sĩ quan bắt và bám sát mục tiêu báo cáo. “Đoàn quyết tâm tiêu diệt mục tiêu ném bom chiến lược bằng hai tên lửa” - chỉ huy bắn ra lệnh tiêu diệt mục tiêu.

Sau khi xác định mục tiêu đã vào vùng phóng, sĩ quan phóng Nguyễn Thanh Nguyện nhấn nút điều khiển phóng hỏa lực. Hai quả tên lửa rời bệ phóng lao đi với vận tốc 1.900m/giây, tiêu diệt ngay mục tiêu trên không.

Đó là một trong những tình huống tác chiến trên không giả định mà các cán bộ, chiến sĩ của đoàn tên lửa phòng không 64 thường xuyên huấn luyện.

Vài nét về sư đoàn phòng không 361

Đoàn tên lửa phòng không 64 là một trong 13 đơn vị trực thuộc sư đoàn phòng không 361 (Đoàn phòng không Hà Nội). Sư đoàn 361 thành lập ngày 19-5-1965 với nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Hà Nội.

Trong chiến dịch 12 ngày đêm (tháng 12/1972), sư đoàn là lực lượng phòng không chủ lực bảo vệ Hà Nội, bắn rơi 29 máy bay (trong đó có 25 máy bay B52)! Ngày 15/1/1976, sư đoàn đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


“Rồng lửa” hiện đại

Đoàn trưởng Nguyễn Quốc Văn cho biết: “Khi được tiếp nhận và sử dụng S-300PMU1, chúng tôi coi đây là vinh dự lớn và càng nhận thức rõ trách nhiệm sâu sắc của từng người đối với loại khí tài rất hiện đại mà đất nước đã tin tưởng giao cho mình”.

S-300PMU1 có khả năng tiêu diệt tất cả phương tiện tiến công hỏa lực đường không của địch trong hiện tại và cả tương lai, các loại máy bay chiến lược, tên lửa có cánh và tên lửa đạn đạo trong tất cả khu vực hoạt động rộng lớn tới 1.600km2 (trong khi hệ thống tên lửa phòng không Patriot chỉ 300km2).

Với xác suất tiêu diệt mục tiêu rất cao, S-300PMU1 thật sự là ác mộng với đối phương khi tác chiến trên không bởi hỏa lực của nó được coi là mạnh nhất trong hệ thống tên lửa phòng không hiện đại thế giới. Tầm quan sát, phát hiện mục tiêu của tổ hợp này lên đến 300km và tiêu diệt trong cự ly 150km.

Cùng một lúc, S-300PMU1 có khả năng bám sát và tiêu diệt sáu mục tiêu, điều khiển đến 12 tên lửa và quản lý tới 100 mục tiêu. S-300PMU1 có khả năng bắn hạ mục tiêu ở độ cao lên đến 27.000m và thậm chí ở độ cao chỉ 10m. Ngay cả những mục tiêu vận tốc lên đến 10.000km/giờ cũng dễ dàng hóa thành con mồi dưới hỏa lực của S-300MPU1.

Thời gian phản ứng của S-300PMU1 được coi là số 1 hiện nay. Khi đang hành quân, tổ hợp cơ động này có khả năng chuyển sang chế độ sẵn sàng chiến đấu chỉ trong thời gian nhỏ hơn 5 phút (con số này với hệ thống tên lửa phòng không tầm xa đa năng Patriot của Mỹ là 30 phút). Và chỉ mất 40 giây để S-300PMU1 chuyển sang chế độ chiến đấu từ chế độ trực ban.

Toàn bộ hệ thống của đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa đa kênh, đa chức năng 30N6E được đặt trên xe đặc chủng có thể leo dốc 30O, vượt hào 2,5m, lội nước 1,3m, quãng đường hành quân liên tục 500km.

Đặc biệt khi xe hỏng một bánh cho phép treo bánh và tiếp tục hành quân tới vị trí bảo dưỡng đến 40km. radar phát hiện mọi độ cao 96L6E thông minh có các hệ thống thăng bằng tự động. Xe bệ phóng tự hành có khả năng bảo dưỡng đạn tên lửa tại chỗ, có thể mang đạn đi khi hành quân và thời gian di dời chỉ trong 5 phút (với các loại hệ thống phòng không cũ phải mất 60-90 phút!).

Mỗi xe bệ phóng tự hành gồm một chỉ huy và một lái xe kiêm trắc thủ. Thế nên ngay cả “tài xế” của đoàn tên lửa phòng không 64 cũng được đào tạo bài bản ở Nga và tham gia một số khóa huấn luyện khi về nước.



http://nghiadx.blogspot.com
Bên trong phòng điều khiển của sở chỉ huy trên không, tức đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa 30N6E - Ảnh: Nguyễn Quốc Văn


Sức trẻ điều khiển “rồng lửa”

Đến đoàn tên lửa phòng không 64 lần đầu tiên sẽ rất ngạc nhiên khi luôn bắt gặp những gương mặt rất trẻ từ chỉ huy đến sĩ quan. Họ - những con người làm chủ được một trong những hệ thống tên lửa phòng không hiện đại, đôi mắt luôn bừng lên sự tự tin, vững chãi khi trao đổi với các chuyên gia người Nga.

Dù mới chỉ mang quân hàm thiếu tá, anh Nguyễn Quốc Văn đã được tin tưởng giao trọng trách đoàn trưởng. Năm 2009, chàng sĩ quan người Hà Nội có gương mặt rất thư sinh này khi đang là tham mưu trưởng của đoàn đã được cấp trên cho đi đào tạo lớp chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật - chiến dịch tại Học viện Phòng không - không quân. Tháng 9-2011, khi về đoàn tên lửa phòng không 64, Quốc Văn đã bắt đầu chỉ huy buổi diễn tập bắn đạn thật có sự tham gia của S-300PMU1.

Phó đoàn trưởng - tham mưu trưởng Nguyễn Trần Luyện cũng mang quân hàm thiếu tá và 35 tuổi. Đó là chưa kể đội ngũ sĩ quan rất nhiều người thuộc thế hệ 8X, người trẻ nhất mới 24 tuổi. Còn chiến sĩ đa số thuộc thế hệ 9X!

Từ tháng 7/2005, đoàn tên lửa 64 bắt đầu tiếp nhận toàn bộ vũ khí khí tài của tổ hợp tên lửa phòng không S-300PMU1 cơ động từ cảng Hải Phòng về. Sau hai lớp tập huấn do chuyên gia người Nga trực tiếp giảng dạy trong 120 ngày, các cán bộ, chiến sĩ của đoàn đã nắm vững tất cả thao tác sử dụng tổ hợp vũ khí tên lửa phòng không hiện đại bậc nhất thế giới hiện nay trong thực hành chuẩn bị chiến đấu và cả bảo dưỡng kỹ thuật.

Tham mưu trưởng Nguyễn Trần Luyện cho biết: “Từ tháng 10/2006, chúng tôi đã có thể tự huấn luyện chuyển loại toàn bộ cho sĩ quan trẻ”.

“Không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đều cảm thấy rất vinh dự khi được làm việc với loại khí tài hiện đại nhất quân chủng và là một trong những tổ hợp tên lửa phòng không hiện đại thế giới” - sĩ quan phóng Nguyễn Thanh Nguyện 26 tuổi chia sẻ.

Tất cả đều đạt điểm giỏi

Đoàn tên lửa phòng không 64 ra đời ngày 20/9/2005 nhưng trước đó, từ tháng 10-2004 đã diễn ra cuộc tuyển chọn trong toàn sư đoàn phòng không 361 để chọn ra 46 người chuẩn bị tham gia học chuyển loại tên lửa S-300PMU1. Sau hai tháng huấn luyện chuyển loại ở Kim Bài (Hà Nội), tháng 1-2005 họ lên đường sang Nga tham gia một khóa học chuyển loại vũ khí khí tài mới kéo dài sáu tháng.

Thiếu tá Lương Đình Thi - một trong những người từng được cử sang Nga học chuyển loại - cho biết: “Ngoài thời gian tám giờ học một ngày, chúng tôi luôn tận dụng hỏi chuyên gia ngay sau giờ học. Dù chỉ tranh thủ được khoảng 10 phút vì chuyên gia rất bận nhưng đó thật sự là những giây phút rất đáng quý. Tối về anh em còn thức đêm đọc nghiên cứu tài liệu, xem lại những phần chưa hiểu trao đổi với nhau...”.

Kết thúc khóa học, 46 học viên đã tham gia diễn tập bắn đạn thật tại trường bắn Ka-pútrin-iar của Bộ Quốc phòng Nga. Những cán bộ, sĩ quan trẻ Việt Nam đã làm các thầy người Nga thán phục với kết quả diệt mục tiêu, đạt điểm giỏi và đảm bảo an toàn tuyệt đối.

Thứ Ba, 3 tháng 4, 2012

>> Tên lửa đạn đạo tầm gần Scud-B của Việt Nam


Scud là một serie các tên lửa đạn đạo chiến thuật được Liên bang Xô viết triển khai trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và xuất khẩu rộng rãi tới nhiều nước khác trên thế giới. Thuật ngữ này xuất phát từ tên hiệu NATO SS-1 Scud vốn được các cơ quan tình báo phương Tây gán cho loại tên lửa này. Những tên tiếng Nga của nó là R-11 (phiên bản đầu tiên) và R-300 Elbrus (những phiên bản phát triển sau này). Cái tên Scud đã được các phương tiện truyền thông và nhiều thực thể khác dùng để chỉ không chỉ những tên lửa này mà cả nhiều loại tên lửa khác được phát triển tại các quốc gia khác dựa trên thiết kế của người Sô viết. Thỉnh thoảng trên các phương tiện truyền thông đại chúng Hoa Kỳ, Scud được dùng để gọi bất kỳ một tên lửa đạn đạo của bất kỳ một quốc gia nào không phải phương Tây.


Phát triển thời Sô Viết

Thuật ngữ Scud được sử dụng lần đầu tiên trong tên hiệu NATO SS-1b Scud-A, để chỉ loại tên lửa đạn đạo R-11. Tên lửa R-1 trước đó được NATO đặt tên hiệu SS-1 Scunner, nhưng là một bản thiết kế khác hẳn, hầu như copy trực tiếp từ loại V-2 của Đức. R-11 cũng sử dụng kỹ thuật học được từ V-2, nhưng có một thiết kế mới, nhỏ hơn và có hình dáng khác biệt so với V-2 và R-1. R-11 được Makeyev OKB thiết kế và bắt đầu đưa vào sử dụng năm 1957. Cải tiến mang tính cách mạng nhất của R-11 là động cơ, do A.M. Isaev thiết kế. Đơn giản hơn rất nhiều so với thiết kế nhiều buồng của V-2, và sử dụng một van đổi hướng chống dao động để ngăn chặn chugging, nó là nguyên mẫu đầu tiên của những động cơ lớn hơn được sử dụng trong các tên lửa vũ trụ Nga sau này.






http://nghiadx.blogspot.com
Cấu tạo Scud-B


Các biến thể phát triển thêm là R-300 Elbrus / SS-1c Scud-B năm 1961 và SS-1d Scud-C băn 1965, cả hai đều có thể mang hoặc đầu nổ quy ước có sức nổ cao, hoặc một đầu đạn hạt nhân 5 tới 80 kiloton, hay một đầu đạn hóa học (VX nén). Biến thể SS-1e Scud-D được phát triển trong thập niên 1980 có thể mang đầu đạn quy ước có sức nổ mạnh, một đầu đạn fuel-air, 40 runway-penetrator sub-munition, hay 100 × 5 kg quả bom chống cá nhân nhỏ.

Tất cả các mẫu đều dài 11.25 mét (ngoại trừ Scud-A ngắn hơn 1 mét) và có đường kính 0.88 mét. Chúng được đẩy bằng một động cơ duy nhất sử dụng nhiên liệu kerosene và nitric acid với Scud-A, hay UDMH và RFNA (tiếng Nga SG-02 Tonka 250) với các mẫu khác.

Tác chiến

Tên lửa Scud (và cả các biến thể của nó) là một trong số ít các tên lửa đạn đạo đã được sử dụng trong chiến tranh thực tế, chỉ đứng thứ hai sau loại V2 về số lượng sử dụng (SS-21 là loại tên lửa đạn đạo duy nhất khác được sử dụng "trong chiến tranh"). Libya đã trả đũa các vụ tấn công không quân của Hoa Kỳ (Chiến dịch El Dorado Canyon) năm 1986 bằng cách bắn nhiều tên lửa Scud vào một trạm đồn trú bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ tại hòn đảo Lampedusa thuộc Italia lân cận. Các tên lửa Scud cũng đã được sử dụng trong nhiều cuộc xung đột gồm với bên sử dụng gồm cả Liên bang Xô viết và các lực lượng cộng sản Afghanistan tại nước này, Iran và Iraq chống lại nhau trong cái gọi là "Cuộc chiến tranh của các thành phố" trong thời Chiến tranh Iran-Iraq. Tên lửa Scud cũng được người Iraq sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh chống lại các mục tiêu của Israel và liên quân tại Ả rập Saudi.

Hơn mười tên lửa Scuds đã được bắn từ Afghanistan vào các mục tiêu tại Pakistan năm 1988. Một số lượng nhỏ tên lửa Scud cũng được sử dụng trong cuộc nội chiến năm 1994 tại Yemen và bởi các lực lượng Nga tại Chechnya năm 1996 những năm sau đó.

http://nghiadx.blogspot.com
Các quốc gia sở hữu tên lửa Scud-B


Các nước sở hữu hoặc từng sở hữu tên lửa Scud-B gồm: Afghanistan, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bulgaria, Georgia, Kazakhstan, Iran, Iraq, Libya, Ba Lan, Slovakia, Turkmenistan, Ukraina, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Việt Nam, Yemen và Nam Tư. Cộng hòa Dân chủ Congo và Ai Cập đã đặt mua thêm các tên lửa Scud-C thêm vào số Scud-B họ đã có. Syria đã muốn đặt hàng loại Scud-D, và tên lửa Al Hussein của Iraq cũng có tầm bắn tương tự Scud-D. Bắc Triều Tiên cũng có các tên lửa Scud sau các cuộc thử nghiệm tên lửa năm 2006.

Số lượng Scud của VN khoảng 50 quả, mua của Bắc Triều Tiên cùng 2 em tàu ngầm "Ông già gân" giá 100 mil USD. Nhược điểm là độ chính xác kém (khoảng 500m) và Vẹt nhà mình đã cải tiến tầm bắn lên được 500km

Thông số kỹ thuật:

Xuất xứ: Nga
Loại: SRBM
Chiều dài: 11.25 m
Đường kính: 0.88 m
Tồng trọng lượng: 5900 kg
Lượng chất nổ: Một đầu nổ, 985 kg
Đầu nổ: Nuclear 5-70 kT, HE, chemical
Động cơ đẩy: Single-stage liquid
Tầm hoạt động: 300 km
Sản xuất: 1962

Dưới đây là một số hình ảnh về tên lửa Scud-B của Việt Nam được đăng trên báo và các trang mạng Trung Quốc :

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com


>> S-400 Triumf chống lại Antei-2500


Vẫn còn tồn tại nhiều ranh cãi về các hệ thống tên lửa phòng không và phòng thủ tên lửa Nga.

>> Hệ thống tên lửa S-500


Khi mới xuất hiện, không quân từng gây nhiều ầm ĩ đến nỗi một số cái đầu nóng thậm chí đã đề nghị tất cả các binh chủng khác vì không cần thiết. Nhưng thời gian đã cho thấy rằng, đó là những suy nghĩ sai lầm. Ngay sau không quân, các phương tiện phòng không cũng bắt đầu được phát triển và cuối cùng chúng đã trở thành một trong những phương tiện tiến hành chiến tranh và răn đe chủ yếu. Thời kỳ chói sáng trong cuộc chạy đua giữa máy bay và phương tiện phòng không bắt đầu vào thập kỷ 1950. Hồi đó đã ra đời các tên lửa phòng không có điều khiển mà dù mới ở giai đoạn đầu phát triển đã hoàn toàn có khả năng gây ra vô số những khó chịu cho không quân địch.

Điều mọi người đều biết là các vũ khí hạt nhân chiến lược trong những năm đầu tồn tại người tư đã dự định đưa tới mục tiêu bằng máy bay có tầm bay và trọng tải phù hợp. Nhưng sự phát triển vũ bão của tên lửa phòng không và không quân tiêm kích nhanh chóng đòi hỏi các siêu cường phải lấy tên lửa chiến lược làm chỗ dựa.

Nhờ có quỹ đạo bay đường đạn, chúng sẽ hiệu quả hơn nhiều, ngoài ra, tiêu diệt các phương tiện mang phóng này là nhiệm vụ bất khả thi trong những năm 1960 hay 1970. Hơn nữa, không phải tất cả các nhiệm vụ chiến đấu đều có thể giải quyết bằng tên lửa đường đạn tầm xa. Điều đó đã dẫn tới sự xuất hiện của các tên lửa đường đạn tầm trung và tầm ngắn. Với hệ dẫn thích hợp, các tên lửa này cho phép tấn công các mục tiêu ở chiều sâu chiến thuật hoặc chiến dịch mà không chịu rủi ro lớn đối với bệ phóng và kíp chiến đấu.

Liên quan đến máy bay thì do những lý do hoàn toàn dễ hiểu, cùng với thời gian, hướng phát triển máy bay chủ yếu là máy bay chiến thuật. Từ góc độ các nhiệm vụ mà chúng phải đảm nhận, gần như mọi sự sáng tạo mới đều hữu ích. Ví dụ, sự phổ biến rộng rãi vũ khí chính xác cao đã cho phép nâng cao đáng kể hiệu quả các đòn không kích và giảm thiệt hại của không quân. Chẳng hạn, trong chiến dịch Bão táp sa mạc (1991), vũ khí có điều khiển đã được không quân Mỹ sử dụng trong dưới 10% phi suất, còn trong chiến tranh Nam Tư thì hầu như tất cả các tên lửa và bom được sử dụng đều là loại tinh khôn. Thật khó xem thường hiệu quả từ việc đó - ở chiến tranh Vùng Vịnh, người Mỹ mất 2 tá máy bay, còn tổn thất ở Nam Tư chỉ đếm chưa đầy một bàn tay. Tuy vậy, vũ khí có điều khiển chính xác cao có giá đắt hơn bom đạn thông thường, điều này lại được bù đắp bởi giá đắt của bản thân máy bay.

Trở lại với phương tiện phòng không. Đặc điểm chủ yếu của vũ khí hàng không chính xác cao là ở chỗ có thể sử dụng nó từ khoảng cự ly xa. Nhờ đó, máy bay không bắt buộc phải tiến vào khu vực hoạt động của phòng không đối phương, nên giảm được nguy cơ tổn thất máy bay. Như vậy, để đối phó hiệu quả với các quân đội lấy các đòn không kích chính xác làm chỗ dựa, cần phải có hệ thống phòng không có khả năng bắn hạ mục tiêu ở cự ly xa hơn tầm bắn của tên lửa có điều khiển đối phương. Tuy nhiên, không phải tất cả các nước đều dùng phương thức tác chiến như thế. Không ít nước thích xem các cuộc tấn công chính xác ở chiều sâu chiến thuật và chiến dịch là nhiệm vụ của các tên lửa đường đạn tầm trung và tầm ngắn. Vì thế, để đối phó với mối đe dọa đó, hệ thống phòng không còn phải có khả năng bắn hạ cả tên lửa đường đạn. Như vậy, mộ hệ thống tên lửa phòng không lý tưởng phải có khả năng chặn đánh mọi loại mục tiêu có thể xuất hiện bên trên chiến trường.


http://nghiadx.blogspot.com
S-300VМ Antei-2500 (ký hiệu của Tổng cục Tên lửa-pháo binh, Bộ Quốc phòng Nga là 9K81M, Mỹ và NATO gọi là SA-23 Gladiator)


Cần lưu ý là việc sở hữu những vũ khí trang bị đó là cực kỳ quan trọng đối với Nga, bởi lẽ đối phương tiềm tàng có thể mở các cuộc tấn công bằng không quân hay tên lửa tầm trung vào nước Nga hầu như từ mọi hướng. Nguyên nhân chủ yếu là yêu cầu của Hiệp ước Xô-Mỹ về thủ tiêu tên lửa tầm trung và tầm ngắn. Chỉ các tên lửa đó của Liên Xô và Mỹ bị thủ tiêu, còn một số nước khác không tham gia hiệp ước, vẫn tiếp tục chế tạo vũ khí này. Không may là một số nước trong số đó lại có biên giới chung với Nga như Iran, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên. Quan hệ của Nga với các nước này không thể gọi là căng thẳng, song cũng nên lơi lỏng khi có những vũ khí đó ở sát sườn mình. Bởi vậy mà các hệ thống tên lửa phòng bảo vệ lãnh thổ Nga phải có khả năng tiêu diệt cả các mục tiêu khí động lẫn đường đạn.

Trở ngại chính để chế tạo các hệ thống tên lửa phòng không đó là ở các tham số bay khác nhau của mục tiêu. Mục tiêu khí động có tốc độ tương đối thấp, quỹ đạo của nó hầu như luôn nằm ở phương ngang. Trong khi đó, phần chiến đấu của tên lửa đường đạn rơi xuống mục tiêu với tốc độ siêu âm, góc rơi nằm trong khoảng 30-80 độ. Tương ứng là tốc độ phần chiến đấu liên tục tăng, làm giảm đáng kể thời gian cho những hành động phản ứng.

Cuối cùng, phần chiến đấu tên lửa có kích thước nhỏ và bề mặt tán xạ hiệu dụng cũng khá nhỏ nên rất khó bị phát hiện. Và đó là chưa tính đến khả năng tách đầu đạn, sử dụng các phương tiện đột phá phòng không/phòng thủ tên lửa… Vĩ những lý do đó, chỉ những nước phát triển mới có thể xây dựng được hệ thống hỗn hợp phòng không/phòng thủ tên lửa và việc đó cũng khiến họ mất rất nhiều thời gian.

Ví dụ, Mỹ mất gần 13 năm cho chế tạo hệ thống tên lửa phòng không Patriot. Trong suốt thời gian đó, các kỹ sư Mỹ đã làm đơn giản hóa tối đa có thể thiết bị điện tử của tên lửa và bảo đảm hiệu quả tác chiến chống các mục tiêu hiện tại và tương lai. Nhưng mọi nỗ lực vạn năng hóa hệ thống tên lửa phòng không này đã không mang lại kết quả mong đợi. Kết quả là Patriot chỉ bắn hạ được 1/3 số tên lửa Scud. Ngoài ra, Patriot không lần nào đánh chặn được Scud ở tầm xa hơn 13-15 km tính từ bệ phóng. Mà đó là với tên lửa bị bắn hạ (Scud) lạc hậu hơn nhiều tên lửa phòng không (Patriot) tiêu diệt nó. Sau đó, Mỹ đã mấy lần nâng cấp hệ thống Patriot, nhưng họ cũng không thể nâng cao đáng kể hiệu quả tiêu diệt mục tiêu đường đạn của nó. Có lẽ một phần vì thế mà các tên lửa đánh chặn dùng để phòng thủ tên lửa chiến lược của Mỹ đã không dựa trên các vũ khí trang bị hiện có.


http://nghiadx.blogspot.com
S-400 Triumf

Liên Xô trước đây cũng chú trọng vạn năng hóa, song không làm như Mỹ. Sau những nghiên cứu thăm dò ban đầu theo chuyên đề hệ thống tên lửa phòng không S-300, Liên Xô đã quyết định nghiên cứu chế tạo các dòng P và V với tư cách vũ khí phòng không, còn nhiệm vụ tiêu diệt mục tiêu đường đạn được bổ sung chỉ khi có khả năng thích hợp. Những khả năng này như tương lai đã tho thấy là chẳng có nhiều. Thay đổi thành phần trang thiết bị của các hệ thống, bổ sung các tên lửa mới, nhưng vẫn không thể cải thiện đáng kể về khả năng tiêu diệt mục tiêu đường đạn. Đôi khi cũng nghe thấy nói rằng, hệ thống tên lửa phòng không S-400 được chế tạo mới đây, bất kể các tuyên bố của những công trình sư, không thể dùng để phòng thủ tên lửa chiến thuật bởi vì nó có “gốc rễ” từ hệ thống S-300P. Mà hệ thống này như đã nói là chỉ đối phó ngon lành với các mục tiêu khí động. Hệ thống S-500 đang được phát triển cũng sớm bị chỉ thích giống như thế. Xét đến tính bảo mật thông tin về hai hệ thống này thì những phát biểu như vậy có thể coi là quá sớm và cũng có những điều không đúng sự thật. Tuy nhiên, việc kết hợp phòng không và phòng thủ tên lửa chiến thuật không hề đơn giản, trong khi các chi tiết về hoạt động của Tập đoàn Almaz-Antei lại ít hơn mong đợi.

Cũng có ý kiến là lẽ ra nên lấy dòng S-300V làm cơ sở để phát triển các hệ thống mới. Hậu thuẫn cho ý kiến này là những đặc điểm của S-300V được nêu ra: trong thành phần vũ khí của nó có các tên lửa 9М82 ngay từ đầu được thiết kế để tấn công mục tiêu đường đạn. Tuy nhiên, các tên lửa mà 9М82 được thiết kế để đối phó từ lâu đã bị loại khỏi trang bị, còn khả năng của nó đánh chặn các phương tiện tiến công hiện đại hơn thì lại bị nghi ngờ. Tuy vậy, S-300V vẫn là nền tảng tốt nhất cho các hệ thống tên lửa phòng tương lai.

Có thể đồng ý hoặc không đồng ý với ý kiến này. Nhưng chỉ chừng nào sự tranh cãi diễn ra trong khuôn khổ bình thường. Bởi lẽ, đôi khi một số người có liên hệ nhất định với việc chế tạo các hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa Nga đưa ra những phát biểu rất không xác thực. Chẳng hạn, có ý kiến nói rằng “các nhà quản lý từ Bộ Quốc phòng Nga” đơn giản là không hiểu được sự khác nhau giữa S-300P và S-300V vì thế họ bóp chết một nhánh phát triển phương tiện phòng không rất triển vọng. Cuối cùng, mấy tuần trước, một nữ nhà báo có tiếng trên làn sóng của một đài phát thanh có tiếng đã buộc tội S-400 là nửa vời. Logic buộc tội “cao hơn mọi lời khen”: đó là các tên lửa tầm xa hiện đang được thử nghiệm, còn trong trang bị hiện chỉ có các tên lửa tiêu chuẩn. Vì thế, hệ thống này kém cũng như tình trạng công việc ở Tập đoàn Almaz-Antei.

http://nghiadx.blogspot.com


Nhưng dẫu sao cũng vẫn phái chú ý đến các mẫu hệ thống tên lửa phòng không đời mới của dòng V, ví dụ như S-300VМ. Hệ thống này còn được gọi là Antei-2500. Chữ Antei là chỉ nhà thầu chính, còn con số 2500 chỉ tầm bắn tối đa của tên lửa đường đạn mà S-300VМ có thể bắn hạ.

Ưu điểm chính của Antei-2500 mà những người ủng hộ ưu tiên phát triển dòng S-300V nói là hệ thống phát hiện và chỉ thị mục tiêu của nó. Trong thành phần trang thiết bị vô tuyến điện tử của S-300VМ có 2 radar: 1 radar nhìn vòng và 1 radar quan sát có lập trình. Radar nhìn vòng theo dõi toàn bộ không gian xung quanh và trước hết dùng để phát hiện các mục tiêu khí động, còn radar thứ hai quan sát vùng rẻ quạt 90 độ theo phương ngang (góc tà đến 50 độ) và phát hiện mục tiêu đường đạn. Radar quan sát có lập trình của S-300VМ có thể bắt bám đồng thời đến 16 mục tiêu.

Cho đến nay, chưa quân đội nước nào khác có những hệ thống tương tự. Vì thế mà Mỹ từng buộc phải đối phó với tên lửa đối phương theo cách thức rất rắc rối. Chẳng hạn, vụ phóng tên lửa được phát hiện nhờ radar cảnh báo sớm tên lửa tấn công đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ; sau đó thông tin truyền đến sở chỉ huy Bộ chỉ huy phòng không Bắc Mỹ NORAD ở Mỹ, nơi xử lý thông tin thu được và tính toán đưa ra thông tin chỉ thị mục tiêu và chỉ sau đó, thông tin cần thiết mới được truyền đến hệ thống phòng không cụ thể. Antei-2500 có thể độc lập làm tất cả những chuyện đó mà không cần đến các hệ thống bên ngoài.

Vũ khí của S-300VМ gồm 2 loại tên lửa:

- 9М82М có khả năng bay với tốc độ đến 2.300-2.400 m/s và tấn công các mục tiêu đường đạn. Nó có thể tiêu diệt tên lửa đường đạn có tốc độ tối đa hơn 4,5 km/s. 9М82М cũng có thể chặn đánh cả mục tiêu khí động một khi tầm bắn tối đa đạt đến 200 km;

- 9М83М có tốc độ bay đến 1.700 m/s, dùng để tiêu diệt mục tiêu khí động. Tính năng không khác mấy các loại tên lửa trước đó của họ S-300V.

http://nghiadx.blogspot.com

Các tên lửa 2 tầng được chuẩn hóa tối đa và sử dụng các động cơ nhiên liệu rắn. Điều thú vị là phần chiến đấu tên lửa khi phát nổ không văng đều các mảnh tiền chế về tất cả các hướng mà chỉ ở một rẻ quạt tương đối nhỏ. Kết hợp với dẫn tên lửa khá chính xác, điều này nâng cao xác suất tiêu diệt chắc chắn tất cả các loại mục tiêu.

Theo thông tin hiện có, các tên lửa của Antei-2500 sử dụng hệ dẫn kết hợp: tên lửa bay đến điểm do máy móc mặt đất xác định nhờ hệ dẫn quán tính, còn ở giai đoạn cuối, hệ dẫn radar bán chủ động được kích hoạt. Việc điều khiển trực tiếp thực hiện nhờ các cánh lái động học khí phụt. Đó là vì tiêu diệt các tên lửa đường đạn hiệu quả nhất là ở các độ cao mà các cánh lái khí động truyền thống hầu như không có khả năng làm việc. Các cánh lái động học khí phụt được lắp cho cả tên lửa chống tên lửa SM-3 của Mỹ, có khả năng chống các mục tiêu ở ngoài khí quyển.

Bất kể mọi ưu điểm của Antei-2500, không thật hiểu vì sao chính nó được đề xuất trang bị cho hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa Nga. Antei-2500 thuộc dòng V của họ tên lửa S-300. Chữ V có nghĩa là dùng cho lục quân. Còn dòng P được phát triển cho bộ đội phòng không. Do đó, sử dụng S-300V(М) ở chỗ cần dùng S-300P và “con cháu” nó không phải là việc làm hoàn toàn logic, trong đó không tính đến những ưu thế của từng hệ. Tuy nhiên, chẳng có gì ngăn cản sử dụng trong S-400 hay S-500 những kết quả nghiên cứu có được khi phát triển Antei-2500.

Điều đáng chú ý là S-300VМ thực tế là hệ thống đã lạc hậu. Sẽ thay thế nó là S-300V4 nên chẳng có thể trông đợi nhiều từ việc này. Hai tuần trước, quân đội Nga và Tập đoàn Almaz-Antei đã ký hợp đồng cung cấp S-300V4. Các hệ thống đầu tiên sẽ được chuyển giao cho quân đội trước cuối năm 2012. S-300V4 có các tính năng gần như của S-300VМ. Theo thông tin hiện có, sự khác biệt ở một số tham số là do khả năng cải tạo nâng cấp các hệ S-300V cũ lên tiêu chuẩn S-300V4.

Tên lửa mới 40N6Е sẽ làm ngừng cuộc tranh cãi về tính hợp lý đưa S-400 (trước đây gọi là S-300PМ3) vào trang bị. Tên lửa này có tầm bắn tối đa 400 km và độ cao tác chiến tối đa 185 km trong tương lai sẽ có thể chứng tỏ hùng hồn vị thế số 1 của nó và S-400. Nhưng đáng tiếc là việc nghiên cứu chế tạo 40N6Е bị chậm trễ đáng kể nên bị nhiều người chỉ trích. Tên lửa mới sẽ hoàn thành thử nghiệm trong năm nay, sau đó được nhận vào trang bị.

Nhờ 40N6Е, hệ thống S-400 Triumf cuối cùng sẽ có thể bảo vệ nước Nga không chỉ trước các mục tiêu khí động mà cả các mục tiêu đường đạn.

Hy vọng, sau khi tên lửa mới được nhận vào trang bị thì cuộc tranh cãi về số phận hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa Nga sẽ không nói về những nhược điểm của các hệ thống hiện có mà về việc phát triển những hệ thống mới. Bởi vì, hệ thống mới S-500 được hứa hẹn là sẽ ra đời sau 5 năm nữa. 

Nguồn: Ryabov Kirill // TW, 27.3.2012 .
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang