Quân phòng vệ Nhật Bản được xem là lực lượng quân sự đáng gờm, sở hữu nhiều vũ khí hiện đại hàng đầu trên thế giới. >> Tiềm lực quân đội Nhật Bản Thủy phi cơ trinh sát U-2 của Nhật |
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
>> Tìm hiểu kho vũ khí khủng của Quân đội Nhật Bản
Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013
>> Lời đáp trả của Ấn Độ với căn cứ khổng lồ TQ
Chậm nhưng chắc, một căn cứ hải quân tương lai mới của Ấn Độ đang thành hình ở bờ biển phía Đông của nước này. Căn cứ hải quân chiến lược này, với chủ trương đối phó với Trung Quốc, sẽ bao gồm các hầm ngầm boongke để bảo vệ các tầu ngầm hạt nhân khỏi bị các vệ tinh do thám của đối phương dò xét và các cuộc tấn công của kẻ thù. >> Độc chiêu khống chế Trung Quốc của Ấn Độ Căn cứ Hải quân của Ấn Độ trong tương lai Các nguồn tin từ New Delhi cho biết, trong mấy tháng qua đã diễn ra một loạt các cuộc họp và trao đổi sôi nổi giữa Văn phòng thủ tướng và Bộ Quốc phòng nhằm cụ thể hóa “Kế hoạch mở rộng” một căn cứ hải quân ở gần Rambilli gọi là “Dự án Varsha” trên bờ biển Andhra – cách bộ tổng chỉ huy hải quân miến Đông Visakhapatnam 50 Km – trong thập kỷ tới. Dù hiện nay vẫn còn quá sớm để nói về Dự án Varsha, nhưng một số giới phân tích cho rằng đây là một câu trả lời đối với việc Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân khổng lồ tại Yalong, một điểm cực nam của đảo Hải Nam, nơi đón tiếp các tầu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) lớp Shang của Trung Quốc và các tầu ngầm trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tầm xa (SSBN). Mặc dù việc cắm đất và các công việc phát triển hạ tầng khác cho căn cứ đã được tiến hành cách đây vài năm nhưng sắp tới một loạt các công trình quan trọng như đường ngầm, kho tàng, nhà xưởng và khu ở sẽ được sớm khởi công. “Hiện việc thu hồi thêm đất để diện tích căn cứ có tổng diện tích 20 km2 đang được tiến hành, cùng với một ngân sách dài hạn cho khu căn cứ đang được lên kế hoạch”. Một nguồn tin cho biết. Nỗ lực này trùng khớp với chính sách tổng thể nhằm tăng cường triển khai lực lượng ở khu vực biển phía đông với nhiều tầu chiến mới, máy bay và máy bay trinh sát không người lái cũng như xây thêm các căn cứ quân sự tiền phương (FOB) và các căn cứ luân phiên (OTR) nhằm đối phó với việc Trung Quốc tăng cường sự hiện diện trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương (IOR). Tiếp cận hải quân nhằm bảo vệ toàn bộ tuyến bờ biển dài của Ấn Độ và theo dõi những tuyến đường biển thương mại trọng yếu trên Ấn Độ Dương là thiết yếu đối với các lợi ích của Ấn Độ. Giá trị chiến lược của việc triển khai lực lượng ngoài khu vực quần đào Andaman đang được xem xét dưới góc độ răn đe trước sự mở rộng ảnh hưởng mạnh mẽ từ phía Trung Quốc. Chương trình SSBN của Ấn Độ dự kiến sẽ tạo bước ngoặt sau khi kết thúc các cuộc chạy thử nghiệm trên biển của tầu sân bay Arihant, 6.000 tấn, và sẽ được biên chế trước tầu sân bay Visakhapatnam. Tầu sân bay Arihant và ba tầu ngầm SSBN hộ tống sẽ hoàn thiện chương trình trang bị vũ khí hạt nhân trên ba trụ cột của Ấn Độ khi các tầu ngầm hạt nhân lớp ‘K’ được trang bị các tên lửa đạn đạo cũng như các tầu chiến tiền phương có căn cứ mới ở đây. Hải quân Ấn Độ đang lên kế hoạch đưa vào hoạt động ít nhất là ba tầu ngầm trang bị tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân và sáu tầu ngầm trang bị tên lửa hạt nhân về lâu dài để củng cố sức mạnh răn đe hạt nhân một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, sau khi biên chế tầu ngầm hạt nhân Chakra, 8,140 tấn, với hợp đồng thuê 10 năm của Nga năm ngoái, Ấn Độ hiện đang thương lượng với Nga để thuê một tầu ngầm tương tự chạy bằng năng lượng hạt nhân lấy tên là Akula II. Dự án Varsha trong những năm tới dự kiến sẽ xây dựng căn cứ hải quân trên bờ biển bang Karrnataka sẽ tạo cho Ấn Độ có thêm chiều sâu cả về chiến lược lẫn linh hoạt trong triển khai quân tại khu vực biển phía tây chống lại Pakistan. Trong khi căn cứ Karrwar sẽ giải tỏa cho cảng Mumbai, căn cứ mới xây dựng sẽ giải tỏa cho cảng Vizag ở phía đông. Hiện Karwar có thể đón tiếp 11 tầu chiến lớn và Ủy ban an ninh nội các (CCS) đã chuẩn y khoảng 2 tỷ USD để mở rộng giai đoạn 2A nhằm bảo đảm căn cứ có thể neo đậu 32 tầu chiến cỡ lớn và tầu ngầm trước năm 2018-19. Karwar sẽ được xây dựng làm căn cứ chính cho tầu sân bay Vikramaditya đang được tân trang từ tầu sân bay Đô đốc Gorshkov của Nga và sẽ được bàn giao cho Ấn Độ vào cuối năm nay với giá 2,33 tỷ USD. Căn cứ cũng sẽ đón thêm 6 tầu ngầm lớp Scorpene của Pháp đang được đóng mới tại nhà máy đóng tầu Mazagon với giá khoảng 4 tỷ USD. (From Bao Đat Viet) |
>> Việt Nam sẽ có thêm 2 tàu Gepard năm 2016-2017
Nhà máy đóng tàu Zelenodolsk của Nga sẽ xây dựng 2 chiến hạm Gepard 3.9 cho Việt Nam theo dự án 11661E chỉnh sửa. Việc khởi đóng chiếc thứ nhất được thực hiện vào tháng 6/2013, sau đó tiếp tục khởi đóng chiếc thứ hai. >> So sánh Molniya Việt Nam và Houbei 022 của Trung Quốc Tổng Giám đốc nhà máy đóng tàu Zelenodolsk, ông Renat Mistakhov trả lời hãng ITAR-TASS tại Triển lãm quốc tế LIMA 2013 cho biết: "Việc khởi công đóng chiếc tàu thứ nhất của Việt Nam theo hợp đồng sẽ được thực hiện vào tháng 6/2013, sau đó sẽ tiếp tục khởi công đóng chiếc thứ hai. Thời hạn chuyển giao những chiếc tàu này cho Việt Nam dự kiến là trong năm 2016 và 2017". HQ-011 và HQ-012 của Hải quân Việt Nam Độ rẽ nước của Gepard-3.9 là 2.100 tấn, chiều dài 105m, rộng 13,7m, tầm hoạt đông ở vận tốc 10 hải lý/h khoảng 5.000 hải lý, tốc độ tối đa hơn 30 hải lý/h (hơn 56km/h), thủy thủ đoàn 103 người, thời gian tối đa cho một chuyến đi là 20 ngày đêm. Tàu được trang bị các hệ thống tên lửa chống hạm URAL và các hệ thống tên lửa phòng không, pháo, các vũ khí chống hạm, chống ngư lôi khác. Ngoài ra, tàu cũng được trang bị các máy bay trên boong loại KA-28 hoặc KA-31. Mỗi tàu cũng có một nhà chứa đối với một máy bay loại này. Trước đó, năm 2007, nhà máy Zelenodolsk cũng đã khởi đóng 2 tàu Gepard-3.9 khác cho Việt Nam và đã được chuyển giao cho Việt Nam vào năm 2011. Tàu hộ tống thuộc dự án 11661E loại Gepard-3.9 chuyên thực hiện các nhiệm vụ tìm kiếm, theo dõi, chống các mục tiêu nổi, ngầm, trên không; thực hiện các nhiệm vụ hộ tống, tuần tiễu và bảo vệ khu vực kinh tế. Cũng trong buổi triển lãm, Tổng giám đốc Nhà máy đóng tàu Vưmpel, ông Oleg Belkov thông báo rằng, chiếc đầu tiên trong 6 chiếc tàu tên lửa Molniya (Tia chớp) thuộc dự án 12418 hiện đang được xây dựng tại Việt Nam theo sự cấp phép của Nga, sẽ được bàn giao cho khách hàng vào cuối năm 2013. "Chiếc thứ hai hiện đang nằm trong xưởng và chiếc thứ ba thì đang chuẩn bị đóng". Nhà máy đóng tàu Vưmpel đã giúp Việt Nam trong việc xây dựng hàng loạt các tàu tên lửa Moniya thuộc dự án 12418. Nhà máy sản xuất và cung cấp cho Việt Nam các bộ phận và chi tiết đồng bộ để phía Việt Nam có thể lắp ghép 06 chiếc tàu tên lửa Moniya thuộc dự án 124118 đầu tiên, phù hợp với tiến độ đã được ấn định. Việc sản xuất các tàu này được diễn ra dưới sự giám soát kỹ thuật từ phía Cục thiết kế hàng hải Trung ương Almaz tại Saint-Peterburg và nhà máy đóng tàu Vưmpel. Việt Nam dự định đóng tất cả 10 tàu tên lửa loại này, trong đó 06 chiếc nằm trong một hợp đồng xây dựng. Nhà máy Vưmpel bắt đầu cung cấp các bộ phận, linh kiện cho 06 chiếc tàu này của Việt Nam từ năm 2010 trong khuôn khổ các hợp đồng và công việc này sẽ được tiếp tục cho tới năm 2016. Tàu tên lửa Molniya. Theo báo Vzgliad, Nga đang lên kế hoạch mở rộng hợp tác quân sự với Việt Nam từ đầu tháng 3/2013. Như vậy, Việt Nam đã thể hiện sự ưu tiên đối với việc sử dụng các cảng của mình cho việc qua lại và sửa chữa, bảo dưỡng tàu biển của Nga. Theo đó, thỏa thuận về vấn đề này giữa hai nước có thể sẽ được ký kết trong năm nay. Ngoài ra, Nga thực tế đang xây dựng hạm đội tàu ngầm cho Việt Nam. "Trong năm nay, những nỗ lực chung của hai nước sẽ mở ra một trang mới trong lịch sử của Hải quân Việt Nam - đó là sự xuất hiện của hạm đội tàu ngầm". Hai bên thậm chí còn bàn về việc mở rộng đào tạo các chuyên gia cho Việt Nam trong các nhà trường quân đội của Nga. Sau các cuộc đàm phán của Bộ trưởng Quốc phòng hai nước, thông tin Việt Nam sẽ tiếp tục mua vũ khí của Nga đã được đề cập. |
>> Tàu ngầm Kilo 636MV của Việt Nam khác gì của Trung Quốc và Ấn Độ
Tàu ngầm lớp Kilo được sử dụng chủ yếu trong nhiệm vụ tuần tra và trinh sát, tác chiến chống tàu ngầm và tàu mặt nước, bảo vệ các căn cứ hải quân, khu vực duyên hải và các tuyến đường trên biển. >> Sức mạnh tàu ngầm Kilo và các biến thể Tàu ngầm Kilo 636 đang được đóng cho Việt Nam Tàu ngầm lớp Kilo được sử dụng chủ yếu trong nhiệm vụ tuần tra và trinh sát, tác chiến chống tàu ngầm và tàu mặt nước, bảo vệ các căn cứ hải quân, khu vực duyên hải và các tuyến đường trên biển. Hiện nay, loại tàu ngầm động cơ Diezen này đang được rất nhiều nước sử dụng. Hiện nhà máy đóng tàu Zvezdochka của Nga đã bắt đầu chạy thử tàu ngầm động cơ Diezen S-63 Sindhurakshak lớp Kilo thuộc kế hoạch cải tạo, nâng cấp tàu ngầm lớp Kilo mang tên 877EKM của Hải quân Ấn Độ (loại tàu này có tên gọi Ấn Độ là Sindhughosh). Tàu ngầm Sindhurakshak lớp Kilo 877EKM của Ấn Độ được đóng tại nhà máy đóng tàu Admiralty ở St.Petersburg trong vòng 3 năm, từ 1995 - 1997 và là chiếc tàu ngầm 877 EKM thứ 9 được đóng cho Hải quân Ấn Độ. Sau 15 năm nó lại được cải tiến, nâng cấp lên tầm hiện đại hơn. Zvezdochka là nhà máy nổi tiếng của Nga, chuyên đóng mới và sửa chữa các tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm động cơ diezen. Hiện tại, Sindhurakshak là chiếc tàu ngầm thứ 5 thuộc Project 877 EKM hoàn tất quá trình sửa chữa và hiện đại hóa tại nhà máy đóng tàu Zvezdochka. Hải quân Ấn Độ đã ký hợp đồng hiện đại hóa con tàu này vào tháng 6 năm 2010, sau vài lần chạy thử thành công trên biển, tàu sẽ được bàn giao cho hải quân Ấn Độ vào cuối năm nay. Từ năm 1997 trở lại đây, nhà máy này đã lần lượt cải tạo, nâng cấp hiện đại 4 tàu ngầm Kilo trong kế hoạch 877EKM của hải quân Ấn Độ, bao gồm: S-58 Sindhuvir hoàn tất năm 1999, S-57 Sindhuraj hoàn thành năm 2001, S-55 Sindhughosh hoàn thiện năm 2005 và S-62 Sindhuvijay bàn giao vào năm 2007. Nội dung nâng cấp các tàu này không chỉ là duy tu để nâng cao tuổi thọ của tàu ngầm mà còn hiện đại hóa vũ khí, trang bị, đặc biệt là nâng cao khả năng tác chiến chống tàu ngầm và tên lửa hành trình. Tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Nga Sindhurakshak có chiều dài 72,6m, lượng giãn nước 2300 tấn khi nổi và 3900 tấn khi lặn dưới nước. Nó sử dụng động cơ Diezen công suất 5.900hp, nó có thể đạt vận tốc 19 hải lý/h khi lặn và 11 hải lý/h khi nổi; hoạt động được dưới độ sâu 300m, tối đa 350m khả năng hành trình liên tục 45 ngày, thủy thủ đoàn 52 người. Tàu được trang bị 6 ống phóng với 18 quả ngư lôi loại 533mm, 6 quả nạp sẵn trong ống phóng và 12 quả dự trữ trong hệ thống nạp tự động. Ngoài ra, nó cũng được dùng để rải lôi với cơ số tối đa 24 quả thủy lôi DM-1. Các loại ngư lôi dành cho Kilo gồm: ngư lôi chống ngầm TEST-71MKE (đầu đạn thuốc nổ mạnh 205kg), 53-65KE (đầu đạn nặng 200kg, tầm bắn 40km, xuyên sâu xuống mặt nước 500m) và ngư lôi nhanh nhất thế giới VA-111 Shkval. Sau khi nâng cấp, Sindhurakshak sẽ sử dụng hệ thống thông tin vô tuyến CCS-MK, và hệ thống Sonar USHUS do Ấn Độ tự sản xuất. Tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Ấn Độ Hiện nay Việt nam và Trung Quốc cũng có tàu ngầm lớp Kilo, Việt Nam sử dụng tàu ngầm 636MV, còn Trung Quốc sở hữu 636MK. 3 loại tàu thuộc lớp Kilo này có sự khác biệt nho nhỏ về hình dạng, kích thước và sự tương đồng về phần lớn các tính năng. Nhưng 877EKM sau nâng cấp sẽ có một số điểm ưu việt hơn, đây cũng là những vấn đề hết sức quan trọng trong tác chiến tàu ngầm. Trong 3 loại, hệ thống sonar của Trung Quốc là kém nhất. Tàu ngầm lớp Kilo của Trung Quốc Tàu ngầm Kilo 636MK của họ trang bị hệ thống sonar MGK 400E. Trong khi đó, tàu ngầm Kilo 636 MV lại được lắp đặt hệ thống sonar MGK 400E loại cải tiến. Hai hệ thống sonar này có cùng cự ly thám trắc, nhưng hệ thống sonar MGK 400E loại cải tiến được trang bị bộ xử lý tín hiệu tốc độ cao nhiều công năng và có mức độ số hóa cao hơn. Trước đây, Sindhurakshak dự định sử dụng thế hệ sonar MGK-400 nhưng Ấn Độ đã tự lực phát triển loại Sonar USHUS được cho là tiên tiến hơn cả 2 loại trên. Hệ thống động lực cực êm giúp tàu gần như tàng hình trước hệ thống Sonar của đối phương, còn hệ thống Sonar USHUS giúp tàu có thể phát hiện tàu địch ở khoảng cách xa hơn gấp 4 lần, nhỉnh hơn một chút so với 2 loại 636MK và 636MV. Tàu còn được trang bị hệ thống thông tin vô tuyến tiên tiến CCS-MK với 2 dải sóng dài và sóng ngắn (khi lặn sử dụng sóng dài, khi nổi dùng sóng ngắn) và thông tin vệ tinh với nhiều chế độ truyền dẫn số liệu khác nhau, cho phép tàu có nhiều sự lựa chọn về mặt thông tin liên lạc. Về vũ khí, 877EKM ngang ngửa với 636MV của Việt Nam và vượt trội hơn so với 636MK của Trung Quốc. Các tàu ngầm Kilo của Trung Quốc sử dụng tên lửa hành trình đối hạm 3M-54E, chưa có thông tin chính thức về loại tên lửa này trên tàu Kilo Việt Nam. Nếu Việt Nam cũng chỉ được trang bị tên lửa 3M-54E thì không thể sánh được với biến thể có khả năng chống hàng không mẫu hạm trên Kilo Ấn Độ. Tên lửa 3M-54E1 có tầm bắn xa hơn (300km so với 220km) 3M-54E, nhưng điểm quan trọng nhất của nó là đầu đạn nặng gấp đôi (400kg), có khả năng đánh bị thương thậm chí đánh chìm hàng không mẫu hạm. Hơn nữa, 636MK của Trung Quốc không có tên lửa hành trình đối đất 3M-14E vì Nga từ chối xuất khẩu sang Trung Quốc và chỉ trang bị cho các tàu ngầm Ấn Độ, Việt Nam và Algieria. Đây là loại tên lửa đối đất cực kỳ lợi hại, một đòn tiến công tàng hình từ dưới mặt nước, rất khó bị phát hiện và đánh chặn. Ở khu vực Đông Nam Á hiện nay, không một loại tàu ngầm của nước nào có khả năng tấn công đối đất như 877EKM của Ấn Độ và 636MV của Việt Nam. Có thể nói, sau khi nâng cấp, tàu Kilo 877EKM sẽ có tính năng tốt nhất so với các tàu ngầm khác thuộc lớp Kilo. (Bài viết đã được sửa hình ảnh so với nguồn gốc: Báo giáo dục VN) |
Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013
>> Khám phá sức mạnh "xe tăng bay" huyền thoại Mi-24
40 năm hoạt động, trực thăng chiến đấu Mi-24 vẫn được tin dùng ở hàng chục quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. >> Top 10 trực thăng hàng đầu thế giới (Kỳ 1) >> Trực thăng quân đội Mỹ trong tương lai Sức mạnh khủng khiếp của Mi-24 trong cuộc chiến tranh Liên Xô - Afghanistan : |
Nhãn:
Trực thăng Mi-24,
Trực thăng Nga
>> Thật giả vụ Nga bán vũ khí cho Trung Quốc
Cách diễn đạt cùng những trích dẫn sai lầm của các cơ quan truyền thông Trung Quốc dẫn đến việc phát tán “tin vịt” mang tầm cỡ quốc tế. >> Theo báo Nhật : Nga - Trung rút cuộc vẫn đối đầu ! Theo Đài tiếng nói nước Nga, phóng sự của đài truyền hình Trung Quốc CCTV về việc ký kết các hợp đồng lớn giữa hai nước Nga - Trung trong lĩnh vực vũ khí trước chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình đến Moscow chỉ chứa những sự kiện đã được biết từ lâu. Tuy nhiên, việc sử dụng cách diễn đạt không rõ ràng trong nội dung phóng sự, cùng những trích dẫn sai lầm của các cơ quan truyền thông đã dẫn đến việc phát sinh “tin vịt” mang tầm cỡ quốc tế. Thực tế, việc ký kết bản ghi nhớ về hiểu biết lẫn nhau đã được biết đến từ các phương tiện truyền thông Nga vào cuối năm ngoái. Các vấn đề kỹ thuật quân sự hầu như không bao giờ được các nguyên thủ quốc gia hai nước đưa ra thảo luận. Ảnh minh họa. Vào thời điểm đó, một số tờ báo Nga đã công bố một số chi tiết của giao dịch, mà mới đây cũng xuất hiện trong phóng sự của đài CCTV. Chỉ có việc gắn kết những cuộc đàm phán với các chuyến thăm cấp cao là sai lầm rõ rệt. Trong thực tế của mối quan hệ Nga - Trung, những dự án cụ thể trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật – quân sự hầu như không bao giờ được các nguyên thủ quốc gia của hai nước đưa ra thảo luận. Các nhà lãnh đạo chỉ đề ra những phương pháp tiếp cận chung cho các vấn đề hợp tác. “Trong chuyến thăm và tại các cuộc hội đàm giữa Tổng thống Nga và Chủ tịch Trung Quốc, chủ đề hợp tác kỹ thuật – quân sự nói chung không được bàn đến”, nguồn tin cơ quan hợp tác kỹ thuật – quân sự Nga nói với Itar-Tass. Sau khi ký kết biên bản ghi nhớ, công việc chuẩn bị hợp đồng tiếp theo nằm trong tay các công ty liên quan của Nga và Trung Quốc, cũng như Bộ Quốc phòng và các cơ quan chuyên môn khác của hai nước. Họ có rất nhiều công việc phải làm như thỏa thuận giá cả, điều kiện giao hàng, các yêu cầu cụ thể về sản phẩm, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, dịch vụ sau bán hàng… Những việc này có thể sẽ kéo dài trong nhiều năm. Các cuộc đàm phán này chủ yếu mang tính chất kỹ thuật, và chỉ có thể được thực hiện bởi các chuyên gia có trình độ. Việc kết nối chúng với các nhà lãnh đạo chính trị là hoàn toàn không phù hợp. Những quyết định quan trọng chủ chốt trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung đã được Ủy ban liên chính phủ về Hợp tác Kỹ thuật Quân sự thành lập năm 1992 thông qua. Bộ trưởng Quốc phòng của Nga và Trung Quốc là đồng chủ tịch của Ủy ban và các cuộc họp được tổ chức thường niên (thường vào tháng 10) luân phiên tại Moscow và Bắc Kinh. Chính trong những phiên họp của Ủy ban có thể mong đợi những tin tức mới trong hợp tác kỹ thuật quân sự Nga - Trung. Các cuộc đàm phán Trung - Nga về hợp đồng Su-35 và Amur 1650 còn trong giai đoạn sơ khởi. Ảnh minh họa “Trong khi đó, các cuộc đàm phán về máy bay Su-35 và tàu ngầm Amur-1650 (biến thể xuất khẩu của tàu Lada) vẫn còn trong giai đoạn sơ khởi và không có bảo đảm nào về việc chúng sẽ được hoàn thành trước thời điểm cuộc họp kế tiếp của Ủy ban”, chuyên gia về các vấn đề quốc phòng Vasily Kashin nhận định. Trái với những thông tin của đài truyền hình CCTV, những hợp đồng này sẽ không phải là những thỏa thuận lớn đầu tiên cung cấp vũ khí cho Trung Quốc trong 10 năm qua. Xuất khẩu sản phẩm quân sự của Nga sang Trung Quốc chưa bao giờ dừng lại hoàn toàn. Ví dụ như chỉ đến năm 2010 mới hoàn tất hợp đồng lớn cung cấp cho Trung Quốc 15 tiểu đoàn hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU2. Hiện tại đang tiến hành thực hiện hợp đồng cung cấp cho Trung Quốc 10 máy bay vận tải Il-76 từ hàng dự trữ của Không quân Nga. >> Trung Quốc sẽ có tàu ngầm thế hệ 4 từ Nga ? Khi được hỏi về thông tin do đài truyền hình quốc gia Trung Quốc (CCTV) đưa ra hôm nay về việc Nga đã ký thỏa thuận cung cấp 4 tàu ngầm Lada và 25 tiêm kích Su-35 cho nước này, đại diện của cơ quan hợp tác kỹ thuật quân sự Nga tuyên bố, thỏa thuận cung cấp vũ khí này không được ký. “Các vấn đề có liên quan đến hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Nga và Trung Quốc đã không được đưa ra thảo luận trong chuyến thăm này”, ông này cho biết. Thông tin này có nghĩa là hợp đồng mua bán tàu ngầm Lada và Su-35, mà truyền thông Trung Quốc nêu ra là không chính xác. Đây không phải lần đầu tiên truyền thông Trung Quốc đưa thông tin “sai lệch” liên quan tới hợp đồng mua bán vũ khí với Nga. Trước đó, Trung Quốc từng đưa tin nước này đã ký thỏa thuận mua dây chuyền sản xuất máy bay ném bom chiến lược siêu thanh Tu-22M3 của Nga. Tuy nhiên, đại diện của Nga đã lên tiếng bác bỏ thông tin hợp đồng Tu-22M3. (Tổng hợp) |
>> Điểm khác biệt của Gepard 3.9 Việt Nam và Gepard Nga
Tàu chiến lớp Gepard đóng cho Hải quân Nga có nhiều điểm khác về hệ thống vũ khí cách bố trí so với Gepard 3.9 của Việt Nam. >>Việt Nam sẽ có thêm 2 tàu Gepard 3.9 Clip giới thiệu về Tatarstan (691) và Dagestan (693) : |
Nhãn:
11661E Gepard-3.9,
Chiến hạm Gepard 3.9 Đinh Tiên Hoàng,
Gepard 3.9 Đinh Tiên Hoàng,
Gepard 3.9 Việt Nam,
HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ
Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013
>> Hệ thống phòng không tầm thấp của Việt Nam trong tương lai
Ngoài hệ thống phòng không tầm thấp tự hành ZSU 23-4 đã có trong trang bị, nguồn tin quân sự Nga cho biết Việt Nam đã cử quân nhân đi đào tạo chuyển loại các hệ thống phòng không cấp chiến thuật cực kỳ hiện đại của Nga là Panshir, Tor và Buk... >> Vityaz - Hệ thống phòng không tầm trung tương lai của Nga >> Tìm hiểu "Ba ngón tay Thần chết" Hệ thống pháo tên lửa tự hành ZSU 23-4 M4 có hệ thống điều khiển hoả lực bằng radar và ZSU 23-4MS có hệ thống điều khiển hoả lực bằng radar và bằng thiết bị quang học kết hợp. Đây là hệ thống phòng không tầm thấp, bổ sung hữu hiệu vào hệ thống lưới lửa phòng không đã có tầm xa và tầm trung. Loại vũ khí này hết sức thích hợp với việc phòng không điểm hoặc phòng không cấp chiến thuật. ZSU 23-4 M4 cải tiến có thể bắn các máy bay chiến đấu và máy bay trực thăng bay ở độ cao từ 25-2.500m. Trong khi ZSU 23-4 MS có thể bắn các mục tiêu này với độ cao từ 0-1.500m. Trong cả hai trường hợp, các mục tiêu trên không bay với tốc độ 500m/giây có thể bị tiêu diệt từ cự ly 2.500m. Xác suất tiêu diệt mục tiêu trên không cũng được tăng lên đáng kể. Cùng với việc nâng cao tính năng kỹ chiến thuật, các tính năng tác chiến khác cũng được cải tiến: 1. Thiết bị kiểm tra tình trạng hoạt động của tổ hợp thông tin vô tuyến (RDC) và tình trạng hoạt động của toàn bộ hệ thống cũng được lắp đặt. 2. Thiết bị huấn luyện được lắp đặt cho phép người điều khiển radar có thể được huấn luyện tác chiến trong môi trường có sử dụng thiết bị chống nhiễu điện tử mạnh mà không cần đến mục tiêu máy bay thật trong huấn luyện cơ bản. Hệ thống ZSU 23-4 cải tiến hiện đã được U-li-a-nôp-xcơ phát triển hoàn thiện và sẵn sàng sản xuất khi có yêu cầu. ZSU 23-4 M4. Hệ thống ZSU-23-4 cải tiến được trang bị SAM Hệ thống này được trang bị thêm các tên lửa đất đối không. Trong thử nghiệm, ít nhất là có một hệ thống ZSU-23-4 cải tiến được trang bị hai thiết bị phóng tên lửa, mỗi thiết bị có hai tên lửa đất đối không "bắn và quên" được lắp đặt hai bên thân xe, phía sau tháp pháo. Hai thiết bị phóng tên lửa này do Kolomna - nhà thầu chính đối với tất cả hệ thống SAM mang vác cá nhân của Nga - thiết kế, chúng có một nguồn điện bên trong, bộ nguồn này có thể phóng tới 4 tên lửa mới phải thay thế. Các tên lửa được sử dụng là Igla (9K38) hoặc Igla-1 (9K310). Trong chế độ bắn chính/thông thường, các tên lửa SAM được sử dụng để bắn mục tiêu với tầm bắn xa trong khi pháo 23mm dùng để bắn các mục tiêu trên không ở cự ly gần cũng như có thể tiêu diệt các mục tiêu mặt đất khi cần. Một xe ZSU-23-4 mẫu 1965 trong lần duyệt binh ở Mátxcơva ZSU-23-4 Do SSTCARA của Ucraina cải tiến Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Súng pháo của U-crai-na (SSTCARA) đã phát triển hệ thống cải tiến từ hệ thống pháo phòng không tự hành ZSU 23-4 được thiết kế và chế tạo tại Nga, hệ thống cải tiến này hiện đang được chào bán rộng rãi. Những thông tin chi tiết về ZSU 23-4 được nêu cụ thể trong phần hệ thống cải tiến của Nga và các nước thuộc Liên Xô trước đây. Theo ước tính, tổng số hệ thống pháo phòng không tự hành ZSU 23-4 hiện có khoảng 6.000-7.000 chiếc trên toàn thế giới. Việc sản xuất đã được tiến hành vào khoảng năm 1983 và đến nay có khoảng hơn 25 nước sử dụng hệ thống ZSU-23-4. ZSU 23-4 được trang bị bốn pháo AZP-23mm làm nguội nòng bằng nước, tốc độ bắn loạt từ 800 đến 1.000 phát/phút/nòng. Tầm bắn hiệu quả đối với mục tiêu máy bay khoảng 2.300m. Hệ thống điều khiển bắn trên xe gồm một radar phát hiện và bám mục tiêu "Gun Dish" lắp trên tháp pháo, hệ thống kính ngắm, máy tính, hệ thống ổn định tầm hướng. Trong lần đầu tiên được đưa vào sử dụng, hệ thống ZSU 23-4 tỏ ra có hiệu quả cao, tuy nhiên, hiện nay hệ thống này có một số hạn chế về tác chiến chiến thuật ví dụ như tầm bắn ngắn và hệ thống radar lỗi thời làm hạn chế khả năng bắn trúng mục tiêu. SSTCARA của U-crai-na đã thay radar "Gun Dish" bằng một hệ thống radar mới bề ngoài giống với hệ thống radar được sử dụng trong hệ thống pháo điều khiển từ xa 30mm được SSTCARA phát triển trong thời gian gần đây để ứng dụng cho một số hệ thống. Đến thời điểm cuối năm 2000, hình như việc cải tiến hệ thống này vẫn còn trong giai đoạn chế thử mẫu. Phía trên radar là một hệ thống sensor có lẽ bao gồm một camera ngày/đêm và một thiết bị đo xa laser để cung cấp thông tin cho hệ thống điều khiển hoả lực, có lẽ là hệ thống điều khiển hoả lực cũng đã được cải tiến. Để giảm chiều cao của hệ thống khi di chuyển, toàn bộ hệ thống sensor và các tên lửa có thể được hạ thấp xuống. Lắp phía trên hệ thống radar và sensor là một dàn phóng tên lửa gồm 6 quả tên lửa đất đối không hoạt động theo nguyên lý "bắn và quên". Các tên lửa này là tên lửa Kolomma KBM Igla (SA-18 "Grouse") của Nga. Tên lửa Igla có tầm bắn xa nhất là 4.500m khi bắn đón, độ cao lớn nhất đối với các mục tiêu máy bay phản lực khi bắn đón khoảng 2.000m. Trong chế độ bắn thông thường, các tên lửa được sử dụng để bắn các mục tiêu từ cự ly xa, còn pháo 23mm dùng để bắn các mục tiêu trên không gần hơn và mục tiêu mặt đất (thứ yếu). Theo SSTCARA, ZSU 23-4 cải tiến có thể tiêu diệt các mục tiêu cả khi đứng yên và khi di chuyển, kiểu bắn trong khi di chuyển thường được ưa thích hơn. Ưu điểm chính của hệ thống cải tiến là có thể bắn cùng lúc nhiều mục tiêu hơn, tầm bắn xa hơn, xác suất diệt mục tiêu cao hơn và gần như có thể hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Cùng với việc cải tiến hệ thống vũ khí, hệ thống thân xe cũng được cải tiến, thân xe cải tiến giống với loại thân xe sử dụng trong hệ thống phòng không Kub (SA-6 "Gainful") của Nga. Hiện nay SSTCARA đã hoàn thành giai đoạn nghiên cứu cải tiến và sẵn sàng sản xuất khi có yêu cầu. Pháo phòng không tự hành ZSU-23-4M5 SHILKA cải tiến của Minotor service enterprise Hệ thống pháo phòng không tự hành (SPAAG) ZSU 23-4 23mm do Nga thiết kế là một trong những loại pháo 23mm được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Do khó khăn về ngân sách quốc phòng, ngày càng có nhiều nước, trong đó có các nước châu Âu, Trung Đông và châu Á (các nước sử dụng ZSU 23-4 nhiều nhất), có nhu cầu cải tiến các hệ thống ZSU 23-4 theo chuẩn mới, thay vì mua các hệ thống SPAAG mới. Việc cải tiến ZSU-23-4 được Bê-la-rut tiết lộ lần đầu tiên là vào năm 1999, khi 1 trong 6 mẫu pháo cải tiến đầu tiên lần đầu tiên được đưa ra triển lãm tại Abu Dubai. Thị trường lớn nhất của loại pháo cải tiến này là Trung Đông, trong đó Ai Cập có nhu cầu cải tiến 117 hệ thống hiện đang có trong trang bị. Việc cải tiến ZSU 23-4M5 đã được tiến hành bằng việc liên doanh giữa nhà máy Minotor Service Enterprise, Công ty cổ phần Peleng của Bê-la-rut và Nhà máy cơ khí U-li-a-nôp-xcơ của Nga. U-li-a-nôp-xcơ đồng thời cũng chào bán các gói cải tiến cho pháo ZSU 23-4 của riêng mình. Trong liên doanh này, Minotor Service Enterprise chịu trách nhiệm tổ hợp hệ thống, còn Peleng phát triển hệ thống quang học. Một số thành phần cải tiến cũng được sử dụng trong pháo ZSU 23-4 cải tiến của U-li-a-nôp-xcơ. Trong kiểu ZSU23-4M5 cải tiến cơ bản, 4 nòng pháo 23mm AZP-23M làm nguội nòng bằng nước được giữ nguyên. Tầm bắn hiệu quả đối với mục tiêu trên không cũng như mục tiêu mặt đất là 2.500m. Tổng cơ số đạn 2.000 viên. Khi nòng được làm nguội bằng nước, số phát bắn liên tục tối đa cho phép là 150 viên/nòng (sau khi bắn với số lượng đó, cần phải tạm dừng bắn để làm nguội nòng). Tuy nhiên, một trong những phương án cải tiến có thể được áp dụng là lắp thêm các ống phóng tên lửa đất đối không (SAM) hoạt động theo nguyên lý "bắn và quên". Trong kiểu bắn thông thường, tên lửa SAM được sử dụng để bắn các mục tiêu ở cự ly 5.000m, còn đạn 23mm dùng để tiêu diệt các mục tiêu ở các cự ly gần hơn. Để tăng hiệu quả tổng thể của hệ thống ZSU-23-4, tháp pháo đã được cải tiến rất nhiều, bao gồm việc trang bị thêm một radar cải tiến, một hệ thống máy tính số hoá mới, hệ thống bám số hoá (DIFS), hệ thống định vị mục tiêu quang học 3 kênh (OLS), tự động hoá một số hệ thống trên tháp pháo, hệ thống cảnh báo laser, hệ thống vô tuyến cho lái xe (phía trước là màu, phía sau là đen trắng), hệ thống lái xe hiện đại, máy phát điện xoay chiều mới, cơ cấu truyền động cải tiến và hệ thống chống mìn cho khoang lái. Việc tổ hợp các hệ thống điện tử và các hệ thống phụ trợ khác cho phép giảm số người trong kíp xe ZSU-23-4M5 từ 4 xuống còn 3 người. Tầm phát hiện mục tiêu của radar là 12km và cự ly xa nhất mà radar có thể bám được mục tiêu là 10km. Radar được chế tạo từ các thiết bị bán dẫn và sử dụng phương pháp đo xa số hoá, đồng thời khả năng chống nhiễu cũng được tăng lên. OLS có 3 kênh: kênh ngày (sử dụng vào ban ngày) có camera vô tuyến, kênh thụ động sử dụng vào ban đêm có camera vô tuyến và thiết bị đo xa laser. Hệ thống này cho phép có thể bám mục tiêu cả trong điều kiện ngày lẫn đêm mà không cần radar phải hoạt động. Kênh ngày hoạt động trong dải sóng 0,5 đến 0,8mm và có thể phát hiện được mục tiêu từ cự ly 8.000m, bám được mục tiêu trong phạm vi 7.500m. Camera vô tuyến phía trước là camêra màu, camêra phía sau là đen trắng. Kênh đêm hoạt động trong dải sóng 8-12mm và có thể phát hiện được máy bay F-16 từ cự ly 20.000m và nhận dạng được nó trong phạm vi 10.000m. Thiết bị đo xa laser bước sóng 1,06mm có thể đo chính xác trong phạm vi 7.000m và chuyển thông tin về mục tiêu thu được tới máy tính điều khiển hoả lực. Tần suất/tốc độ cập nhật dữ liệu của camera kênh ngày và kênh đêm và của thiết bị đo xa là 25Hz. Tính năng này làm tăng khả năng sống còn của hệ thống, bởi vì các thiết bị cảnh báo radar của mục tiêu (máy bay) không thể phát hiện ra hệ thống, do đó nó không thể bị tiến công bởi các tên lửa chống bức xạ phóng từ trên không. Hệ thống cảnh báo laser bao gồm các sensor lắp ở các góc của thân xe và được nối với hệ thống cảnh báo trung tâm lắp trong tháp pháo. Một dãy các ống phóng lựu đạn khói nguỵ trang cỡ 81mm, kích hoạt bằng điện, đặt ở bên phải cả phía trước và phía sau thân xe. Các tấm chắn được lắp thêm vào hai bên thành xe, cũng một tấm chắn được đặt phía dưới phần mặt vát thân xe để ngăn bụi bẩn bắn lên. Một thùng chứa đồ được lắp thêm vào phía sau xe. Một thiết bị huấn luyện đa năng được trang bị cho phép huấn luyện kíp xe bằng cách sử dụng các mục tiêu mô phỏng trong môi trường có nhiễu hoặc không có nhiễu, theo các chế độ quan sát, phát hiện, bám mục tiêu. Hệ thống phòng không Panshir Tổ hợp pháo tên lửa phòng không Panshir-1C trên các thân xe. Tổ hợp tên lửa- pháo phòng không Pansir-C1 "Панцирь-С1" là tổ hợp phòng không tầm thấp, có nhiệm vụ bảo vệ phòng không chống lại các mục tiêu có diện tích nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng về quốc phòng hoặc kinh tế chính trị quốc gia trong mọi điều kiện thời tiết và trong mọi điều kiện chiến tranh điện tử, khả năng tác chiến ngày đêm. Tính năng kỹ chiến thuật của tổ hợp bảo đảm tác chiến có hiệu quả với mọi mục tiêu máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng, tên lửa hành trình và các loại bom đạn tấn công có độ chính xác cao từ trên không. Tổ hợp Pansir-C1 đã vượt qua thử nghiệm quốc gia. Tổ hợp Pansir-1 đã có đơn đặt hàng của UAE ( Các tiểu vương quốc Arap thống nhất) và Syria Hệ thống tên lửa Buk và Tor Hệ thống tên lửa Buk-M2 ЗРК "Бук-М2" là hệ thống tên lửa tầm trung của cấp sư đoàn bộ binh cơ giới hoặc quân binh chủng hợp thành. Quá trình hiện đại hóa và nâng cấp tên lửa đã nâng tầm bắn của tên lửa từ 32 km lên đến 45 km. Tổ hợp tên lửa chiến trường Buk-M2 Tầm cao tên lửa từ 22km lên đến 25 km và tốc độ bay của tên lửa từ 830 m/s lên đến 1100m/s. Trong cùng một lúc, một tiểu đoàn tên lửa chiến trường có thể phóng đồng thời từ 6 – 24 rãnh đạn. Tổ hợp tên lửa chiến trường Tor-M2. Hệ thống tên lửa tầm gần Tor-M2 ЗРС "Тор-М2" là hệ thống tên lửa trang bị cho tiểu đoàn pháo phòng không nằm trong đội hình trung, lữ đoàn bộ binh cơ giới hoặc hợp thành. So với các thông số kỹ chiến thuật như chiều sâu và chiều rộng cũng như tầm cao tên lửa, thời gian phóng tên lửa và cơ số tên lửa gấp 2 lần só với Tor và Tor – M1. Hệ thống có khả năng tiêu diệt mọi mục tiêu trên không với tốc độ bay đến 900m/s trên tầm bắn từ 1-20 km, tầm bay cao của mục tiêu là 0,01 – 100 km. Một xe tự hành tên lửa có khả năng tấn công cùng một lúc 4 mục tiêu. |
Nhãn:
Hệ thống phòng không,
Hệ thống phòng không Panshir,
Hệ thống ZSU-23-4,
Phòng không tầm thấp,
Tổ hợp tên lửa Buk-M2,
Tổ hợp tên lửa Tor-M2
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)