Thực tế việc quân đội Mỹ tiến hành “đàm phán” với Taliban lại cho thấy rằng “Mỹ không hề tính đến chiến thắng” trong cuộc chiến ở đất nước Nam Á này. Kỳ 2: Không tìm chiến thắng? Trong 10 năm qua, Mỹ đã điều hàng trăm nghìn quân tới tham chiến tại Afghanistan với mục tiêu bảo vệ các lợi ích của Mỹ, làm cho thế giới an toàn hơn trước những kẻ khủng bố, nhưng thực tế có nhiều bằng chứng cho thấy điều ngược lại. Giờ đây, khi Tổng thống Mỹ Obama tuyên bố rút dần quân đội và dừng tham chiến tại đất nước này vào năm 2014, một câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp là Mỹ đã giành chiến thắng hay thất bại trong cuộc chiến này? Một bước tiến, hai bước lùi Nhân dịp 10 năm cuộc chiến Afghanistan, các phương tiện truyền thông phương Tây đã tiến hành phỏng vấn rất nhiều người Afghanistan, từ dân thường, quan chức chính phủ, các cựu thành viên và thành viên Taliban hiện thời, để tìm hiểu thực trạng về cuộc sống người dân ở đây. Và sự tương phản giữa những nhận xét lạc quan của quan chức Mỹ và thực tế cuộc sống của người dân Afghanistan rất rõ ràng. Tất nhiên là có những dấu hiệu của sự tiến bộ - quan trọng nhất là trường học đã được mở cửa trở lại. Hơn 6 triệu học sinh đã được đến trường với 1/3 là học sinh nữ - điều không thể có dưới thời Taliban. Các phương tiện truyền thông cũng đua nhau phát triển với khá nhiều nhật báo, tuần báo và có 10 kênh truyền hình đang hoạt động. Lính Mỹ bị thưong do bom cài ven đường của Taliban. Nhưng với người dân Afghanistan, 1 thập kỷ qua có 1 bước tiến và 2 bước lùi. Asif Khan đang ngồi trên một tấm chăn cáu bẩn trong một rạp xem phim bỏ hoang với vẻ rất tuyệt vọng. Ông không thể tìm việc làm cho đứa con lớn của mình vì không có tiền đút lót. Ông cũng không thể chi trả tiền đồng phục, sách bút cho 9 đứa con gái tới trường. Với hy vọng cuộc sống sẽ thay đổi sau khi Taliban bị lật đổ, ông đã kéo cả gia đình từ Pakistan về nước. Nhưng giờ đây ông ngậm ngùi thừa nhận: “Tôi chẳng có hy vọng nào nữa!”. Shahira Saidy, một cô gái 20 tuổi tại Kandahar, sống bằng nghề dạy học. Mẹ cô rất lo lắng mỗi khi cô ra khỏi nhà vì mới đây có 2 cô gái bị giết trên đường đến lớp. Shahira nói cô không biết là sợ ai nhất: Taliban, những người già trong bộ tộc, hàng xóm hay những chủ cửa hàng. Rất nhiều người ghét việc phụ nữ đến trường. Thầy, cô giáo và cha mẹ thường nhận được những lời đe doạ, bằng điện thoại hoặc thư tay. Shahira lo sợ rằng, với việc sự trở lại của Taliban, cơ hội các bé gái được đến trường sẽ ngày càng hẹp đi. Tiếng nói của dư luận Mỹ Tất nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Mỹ đều không thừa nhận thất bại trong cuộc chiến ở Afghanistan. Kế hoạch rút quân mà Tổng thống Obama gần đây phát biểu trước Quốc hội Mỹ lại hoàn toàn khác với những cam kết của ông trước đây 2 năm. Khi tăng 33.000 quân cho chiến trường Afghanistan vào năm 2009, Tổng thống Obama từng bảo đảm rằng, sẽ rút số quân này sau 18 tháng, song đến tháng 7 vừa qua, số binh sĩ Mỹ rời khỏi Afghanistan chỉ có khoảng 10.000 người, ít hơn nhiều so với kế hoạch. Trong bài phát biểu của mình, ông Obama vẫn lớn tiếng ca ngợi “binh sĩ Mỹ tại Afghanistan đã giáng những đòn mạnh mẽ vào Taliban, kiểm soát được các căn cứ của chúng, làm cho Afghanistan ngày càng ổn định hơn”. Song ông cũng không thể không thừa nhận rằng, “quân đội Mỹ ở Afghanistan đang phải đối mặt với những thách thức to lớn”. Cuộc gặp giữa TT Mỹ Obama (phải) và TT Afghanistan (trái) tại New York hôm 20/9. Tờ Văn Hối (Hongkong) số ra ngày 31/7 vừa qua đưa tin, có tới gần 70% người Mỹ được hỏi cho rằng “cuộc chiến ở Afghanistan không đáng để tiếp tục”. Một cuộc nghiên cứu do chương trình tin tức của đài CBS thực hiện mới đây, cũng cho thấy có hơn một nửa số người Mỹ được hỏi ý kiến không coi cuộc chiến tranh tại Afghanistan là thành công. Còn trong tác phẩm In the Graveyard of Empires phát hành gần đây, Seth Jones - nhà phân tích chính trị thuộc RAND Corporation, giáo sư ĐH Georgetown và Naval Postgraduate School chỉ ra, cuộc chiến của Mỹ tại Afghanistan chỉ mang lại tổn thất bởi nhiều yếu tố, từ việc các căn cứ quân sự Al-Qaeda nằm tại Pakistan (chứ không phải ở Afghanistan) đến căn bệnh tham nhũng với di chứng nghiêm trọng trong bộ máy chính quyền sở tại Afghanistan, từ vấn đề tôn giáo đến truyền thống sắc tộc phức tạp của nước này… Tất cả cho thấy một sự lượng định chuẩn xác để có thể đưa ra một chiến lược chuẩn xác cho Afghanistan là điều không dễ. Bí mật đàm phán với Taliban Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai mới đây tiết lộ, quân đội Mỹ đã tiến hành đàm phán chính thức với Taliban. Sau vụ việc này, Đại sứ Mỹ tại Afghanistan Karl Eikenberry đã chỉ trích ông Karzai không biết “giữ mồm”. Tuy nhiên, tờ Văn Hối cho biết, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates cũng từng xác nhận quân đội Mỹ đã tiến hành đàm phán với Taliban. Theo tiết lộ của báo chí phương Tây, Mỹ đã thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp với những tay chân thân tín của thủ lĩnh Taliban Mullah Omar và đã tiến hành ít nhất 3 cuộc đàm phán với Taliban, lần đầu tiên ở Qatar và hai ở Đức. Đại diện phía Mỹ tham gia đàm phán với Taliban là các quan chức Chính phủ và cơ quan tình báo, trong khi đại diện cho Taliban là một thân tín của Omar. Phong trào phản đối sự có mặt của quân đội Mỹ ở Afghanistan, Iraq tăng cao. Các quan chức quân sự tham gia đàm phán cho biết vấn đề lớn nhất hiện nay không phải là “có cần đàm phán hay không”, mà là “đàm phán như thế nào”, “làm thế nào để tiến hành đàm phán mang tính thực chất với kẻ thù”. Mỹ xưa nay thường che giấu các cuộc đàm phán, song nay không thể không nói ra, điều này cho thấy “đàm phán” đã trở thành lựa chọn tất yếu mà quân đội Mỹ đang tìm kiếm để thoát khỏi vũng lầy cuộc chiến Afghanistan. Quân đội Mỹ đồn trú tại Afghanistan hiện đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan đầy khó khăn, cuộc chiến kéo dài đã 10 năm mà vẫn chưa giành chiến thắng, trong khi việc đàm phán với Taliban đồng nghĩa với việc tuyên bố với toàn thế giới rằng quân đội Mỹ đã thất bại. |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Afghanistan. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Afghanistan. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 11 tháng 10, 2011
>> Cuộc chiến Afghanistan: 10 năm nhìn lại (kỳ 2)
Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2011
>> Cuộc chiến Afghanistan: 10 năm nhìn lại (kỳ 1)
Sau 10 năm chiếm đóng Afghanistan, tiêu tốn hàng trăm tỷ USD, thiệt mạng gần 1.800 binh lính, “bế tắc” là cụm từ miêu tả thực trạng Afghanistan hiện nay. Kỳ 1: "Afghanistan hóa" chiến tranh Ngày 7/9/2011 là tròn 10 năm ngày Mỹ phát động cuộc chiến tại Afghanistan. Osama bin Laden, nhân vật được coi là chủ mưu các cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9 đã bị tiêu diệt, Mỹ vẫn chưa thể tuyên bố “nhiệm vụ đã hoàn thành” tại Afghanistan. Mới đây, Tổng thống Mỹ Obama đã tuyên bố rút khỏi Afghanistan 33.000 quân - vốn là lực lượng đã được triển khai trong đợt tăng quân hồi năm 2009. Mỹ và NATO đang trong tiến trình chuyển giao trách nhiệm gìn giữ an ninh lại cho các lực lượng Afghanistan trước năm 2014. Theo các con số thống kê, trong 10 năm qua, Mỹ đã chi tới hơn 400 tỷ USD cho cuộc chiến, gần 1.800 binh sĩ Mỹ tử trận. Thế nhưng Mỹ và liên quân quốc tế vẫn không thể triệt tận gốc lực lượng nổi dậy Taliban. Chính quyền của tổng thống Karzai, lực lượng Mỹ và liên quân dường như chỉ nắm được quyền kiểm soát một số thành phố lớn, phần còn lại của đất nước vẫn nằm trong tay các chỉ huy quân sự ở địa phương hoặc quân nổi dậy Taliban. Và, dường như Mỹ đang tính đến một kế sách “xưa như trái đất” là "Afghanistan hóa" chiến tranh. Một trực thăng Chinook bị bắn hạ hồi tháng 8 vừa qua khiến 22 đặc nhiệm Mỹ thiệt mạng. Dân Afghanistan bất mãn… Ban đầu, người dân Afganistan đã tỏ ra phấn khởi trước sự sụp đổ nhanh chóng của chính quyền Taliban, bởi họ quá chán ngán với chế độ hà khắc này, nền kinh tế kiệt quệ, nghèo khổ và đất nước bị cô lập. Sau 10 năm, Afghanistan đã có một số thay đổi đáng kể trong phát triển kinh tế, giáo dục, chăm sóc y tế tại những thành phố lớn. Thế nhưng cuộc sống của người dân không mấy được cải thiện, bạo lực vẫn tràn lan, hàng chục ngàn dân thường thiệt mạng trong các cuộc giao tranh. Thêm vào đó, tệ nạn tham nhũng trầm trọng, hàng trăm tỷ USD viện trợ của phương Tây (riêng Mỹ đã chi 444 tỷ USD) chi tiêu không hợp lý đã làm xói mòn lòng tin của người dân Afghanistan vào nhà nước hiện nay. Cho dù ở Thủ đô Kabul đã xuất hiện những tòa nhà cao tầng hiện đại, song đại đa số người dân Afghanistan lại coi 140.000 binh sĩ của NATO, dưới sự chỉ huy của Mỹ, là quân xâm lược, là lực lượng chiếm đóng đã không thực hiện được những lời hứa mang lại hòa bình và phồn vinh cho đất nước này. Theo nhận định của Tổ chức Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế, công bố hồi 7/2011, sau một thập niên viện trợ ồ ạt cho Afghanistan, cộng đồng quốc tế đã thất bại trong việc xây dựng Afghanistan thành một nước ổn định về chính trị và có thể đứng vững được về kinh tế. Người Mỹ mệt mỏi Sau sự kiện 11/9, người dân Mỹ ủng hộ mạnh mẽ hành động quân sự tại Afghanistan. Nhưng cuộc chiến hao tiền tốn của kéo dài tới 10 năm, cộng thêm cuộc chiến tranh Iraq, cướp đi sinh mạng của gần 4.500 người Mỹ, đã khiến cho người dân Mỹ trở nên mệt mỏi. Những cuộc thăm dò mới đây cho thấy hầu hết người dân Mỹ tỏ ra bi quan nhất về các mục tiêu của Mỹ tại Afghanistan và ủng hộ một cuộc rút quân nhanh chóng hơn. Ông Brian Becker, Điều phối viên liên bang của liên minh Answer, cho biết nhóm này sẽ tổ chức các cuộc biểu tình ở thủ đô Washington và các thành phố khác của Mỹ để đánh dấu kỷ niệm 10 năm chiến tranh. Thông điệp mà họ muốn đưa ra là: chiến tranh Afghanistan không thể kéo dài được nữa. “Cuộc chiến đó không chỉ là những hy sinh bằng máu của các quân nhân Afghanistan và Mỹ, nó còn làm kiệt quệ nền kinh tế Mỹ vào một thời điểm chúng ta phải áp dụng các biện pháp cắt giảm ngân sách nghiêm trọng và các chương trình xã hội thiết yếu đang phải đóng cửa”, ông Becker nói. Sau chuyến thị sát Afghanistan tháng 8/2009, nghị sỹ Jim McGovern bày tỏ “rất bi quan” trước thực trạng Afghanistan và thậm chí không biết nên diễn tả nó như thế nào. Dường như đó cũng là một trong những lý do khiến cho Quốc hội Mỹ ngày càng hoài nghi khả năng thành công cho vấn đề Afghanistan. Theo Los Angeles Times, Quốc hội Mỹ có kế hoạch cắt giảm ngân sách tài trợ cho chương trình đào tạo quân đội - cảnh sát Afghanistan từ gần 13 tỉ USD/năm xuống còn dưới 6 tỉ USD/năm vào năm 2014. Taliban trở lại Theo phân tích của nhiều chuyên gia quốc tế, Mỹ và liên quân đã quá chủ quan sau khi giành được thắng lợi một cách dễ dàng trên chiến trường Afghanistan trong giai đoạn hậu năm 2001. Thế nhưng, kể từ năm 2005, tàn quân Taliban bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ, biến Afganistan thành một cuộc xung đột đẫm máu mới. Từ năm 2007, số lượng binh sỹ Mỹ thiệt hại ngày càng tăng. Chỉ tính riêng trong năm 2010, đã có 711 lính Mỹ thiệt mạng. Theo Liên hợp quốc, trong 8 tháng đầu năm 2011, các vụ bạo động đã tăng 40% so với cùng thời kỳ năm 2010. Một vấn đề nữa là chương trình trợ giúp Chính phủ Afghanistan xây dựng lực lượng an ninh - quân đội riêng trong 10 năm qua của Mỹ và NATO dường như vẫn là con số không. Afghanistan hiện có 134.000 cảnh sát và 82.000 lính địa phương nhưng họ được trang bị nghèo nàn và không được huấn luyện tốt. Đại uý Moqim, người trực tiếp tham gia chương trình này, phát biểu: "Chúng tôi vẫn ở con số không. Họ không biết chấp hành mệnh lệnh, vô kỷ luật và chẳng bao giờ có thể trở thành cảnh sát thực thụ!". Việc đàm phán với một số phần tử Taliban "ôn hòa" như kêu gọi mới đây của Washington dường như bất khả thi trong tình hình hiện tại, bởi quân nổi dậy đang ở thế mạnh. Bằng chứng rõ ràng nhất là vụ ám sát người chịu trách nhiệm đàm phán với quân Taliban - Burhanuddin Rabbani. (>> chi tiết) Thêm vào đó, giữa chính quyền Hamid Karzai và các đồng minh phương Tây cũng xuất hiện những rạn nứt khi ông Karzai phàn nàn nhiều dân thường thiệt mạng trong các chiến dịch quân sự của NATO, còn phương Tây chỉ trích sự tham nhũng và sự bất lực của chính quyền sở tại. Chính vì thế, nhiều người cho rằng việc chuyển giao để Afghanistan tự đảm trách an ninh quốc gia sau 2014 chẳng khác nào “một sự đánh cược đầy rủi ro”. |
Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011
>> Mỹ 'câu giờ' ở Trung Á để kiềm chế Trung Quốc
Tuy buộc phải tuyên bố bắt đầu rút quân ra khỏi Afganistan từ tháng 7.2011, thực tế Mỹ và NATO còn nhiều dự định để duy trì ảnh hưởng tại Trung Á. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Mỹ đã nhanh chóng nhảy vào Trung Á. Tuy buộc phải tuyên bố bắt đầu rút quân ra khỏi Afganistan từ tháng 7.2011, thực tế Mỹ và NATO còn nhiều dự định để duy trì ảnh hưởng tại khu vực này, kiềm chế các đối thủ chính trên thế giới và khu vực. Bài viết này phân tích một số nét của chính sách đó: Ông Jimes Appaturie, đại diện đặc biệt của Tổng thư ký NATO về các nước Nam Kavkaz và Trung Á, ngày 22/6/2011 đến thăm Dushanbe, thủ đô Tajikistan, trong 2 ngày. Chuyển thăm của ông trùng về thời gian với vòng tham khảo ý kiến thứ ba về dự thảo hiệp định mới về hợp tác trong các vấn đề biên giới giữa Tajikistan và Nga đang diễn ra ở thủ đô nước này. Rất ít khi có sự trùng lặp các cuộc hội đàm và thăm viếng về các vấn đề quân sự. Tuy nhiên, bộ Ngoại giao Tajikistan quả quyết với “Báo Độc lập” (Nga) rằng chuyến thăm của Jimes Appaturie là theo kế hoạch và “tình cờ trùng với việc bắt đầu vòng tham khảo ý kiến Nga– Tajikistan lần thứ ba về biên giới”. Theo nguồn tin của “Báo Độc lập”, “Moscow và Dushanbe đã chuẩn bị ký hiệp định quy định khuôn khổ hợp tác song phương về các vấn đề biên giới, và không loại trừ là trong những ngày tới hiệp định sẽ được ký kết”. Các cố vấn Nga, vẫn như trước đây, sẽ giúp phụ đạo và huấn luyện đội ngũ sĩ quan cấp thấp tuyển từ các quân nhân Tajikistan. Nguồn tin này cho “Báo Độc lập” biết “vấn đề đưa lính biên phòng Nga canh giữ biên giới Tajikistan – Afghanistan không được bàn đến, vì hiện Tajikistan vẫn đảm nhiệm được việc này”. Đồng thời nguồn tin này không loại trừ “vấn đề biên giới sẽ được bàn đến trong cuộc gặp của đại diện NATO với ban lãnh đạo nước cộng hoà”. Điều này liên quan đến tình hình quân sự – chính trị ở Afghanistan, trong đó có các tỉnh phía Bắc có biên giới với Tajikistan vẫn rất căng thẳng. Đây là chuyến thăm đầu tiên của ông Jimes Appaturie đến Tajikistan trên cương vị đại diện đặc biệt của Tổng thư ký NATO về các nước Nam Kavkaz và Trung Á từ khi ông giữ chức này tháng 12 năm ngoái. Trước đây, vào tháng 5/2011, ông đã đến thăm Kyrgyzstan và Kazakhstan và nhận được sự đảm bảo của các nước này ủng hộ các lực lượng của liên minh Bắc Đại Tây dương (NATO) ở Afganistan. Theo các chuyên gia Nga, Mỹ bản chất của việc "rút quân khỏi Afghanistan" là đưa quân tiến sâu vào khu vực Trung Á, phía bắc Afghanistan. Đổi lại, quan chức Mỹ đã hứa với Astana hỗ trợ tiến hành cải cách quân đội, còn đối với Bishkek giúp củng cố đường biên giới và tiềm năng của các đơn vị biên phòng của nước này, cũng như hỗ trợ sửa chữa lớn các kho tên lửa và pháo binh của bộ Quốc phòng Kyrgyzstan. Tajikistan mong muốn nhận được những ưu ái không kém hơn của NATO. Trước đây liên minh đã giúp Tajikistan bố trí trang bị lại cho đường biên giới với Afghanistan, củng cố các đồn biên phòng, xây dựng cầu dài 1km qua sông Pyanj, cũng như huấn luyện quân nhân ở đây phá các bãi mìn, ngăn cản vận chuyển trái phép chất ma tuý. Tất cả những việc này không phải vì những động cơ vị tha – mà bởi vì NATO chuyển hàng phi quân sự qua lãnh thổ Tajikistan sang Afghanistan. Còn từ năm 2001 Không quân Pháp đã đóng quân (5 máy bay Mirage) ở sân bay Dushanbe. Các chuyên gia cho rằng, mong đợi hợp tác với NATO của Tajikistan không được như mong muốn – chính quyền ở Dushanbe muốn được nhiều hơn. Đó là: Khối Bắc Đại Tây dương triển khai ở đây căn cứ quân sự giống như căn cứ của họ ở nước Kyrgyzstan láng giềng, điều này có thể giúp ngân sách của chính quyền Tajikistan. Nhất là sân bay quân sự Aini đang "vô chủ" có thể dành cho các đơn vị của NATO trong khuôn khổ các chiến dịch ở Afghanistan. Tổng thống Mỹ Barak Obama, tuy đã hứa rút quân Mỹ ra khỏi Afghanistan trước năm 2014 xem ra lại càng sa lầy ở đây. Theo tin đài “Tiếng nói Hoa Kỳ”, đến 22/6/2011 ông Obama sẽ công bố việc rút quân Mỹ và trình bày kế hoạch chuyển giao lãnh thổ nước này cho giới quân sự Afghanistan trước năm 2014. Trong khi đó, ông Aleksandr Knhyazev, cộng tác viên cao cấp của Viện Đông phương học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, tin rằng Mỹ và NATO sẽ không thực hiện kế hoạch rút quân ra khỏi Afganistan, mà là chuyển quân đến các tỉnh phía Bắc của nước này và tiến vào các nước Trung Á. Ông Knhyazev nói với “Báo Độc lập”: “Theo tôi được biết, Kabul và Washington đang đàm phán về việc thiết lập các căn cứ quân sự thường xuyên của Mỹ trên lãnh thổ Afghanistan. Theo ông, Mỹ (và phần nào đó NATO) chỉ định rút khỏi miền Nam, nhưng giữ lại một số căn cứ quan trọng: Shindand trên hướng sang Iran, Kabul nhằm duy trì ảnh hưởng đối với chính quyền, Kandahar do có tầm quan trọng chiến lược. Còn các lực lượng trên bộ chủ yếu sẽ được chuyển đến phía Bắc Afghanistan và các nước Trung Á, trước hết– đến Tajikistan và Kyrgyzstan. Chuyên gia này nhận định, người ta tiến hành mọi việc để thực hiện kế hoạch này: không chỉ là xây dựng căn cứ rất lớn có cơ sở hạ tầng rất mạnh ở phía Bắc Afghanistan, mà cả chuẩn bị “cơ sở chính trị” đối với dư luận xã hội tại chỗ. “Có thể nói về tổng thể, người Mỹ đang tăng cường sự hiện diện trong toàn khu vực. Có nhiều dấu hiệu, kể cả các dấu hiệu về sinh hoạt, chứng tỏ người Mỹ đến đây lâu dài. Mỹ muốn duy trì sự đứng chân ở khu vực Trung Á để kiềm chế Nga, Iran và đặc biệt là Trung Quốc. Ngay ở Tajikistan cũng không hiếm các trường hợp các đơn vị Mỹ đầy đủ trang bị vượt qua đưòng biên giới. Aleksandr Knhyazev nói với “Báo Độc lập”: “Ở thành phố Batken của Kyrgyzstan đã sẵn sàng mọi thứ để triển khai căn cứ quân sự mới của Mỹ. Tôi đã tận mắt trông thấy mọi thứ và có thể xác nhận: Hoa Kỳ đang củng cố thế đứng chân ở Trung Á”. Như vậy, có thể dự đoán rằng Washington sẽ nỗ lực triển khai các công trình, căn cứ quân sự mới ở các nước trong khu vực. Sau khi chiếm lĩnh các vị trí then chốt ở Trung Á, Mỹ sẽ thực thi nhiệm vụ nữa họ sẽ có thể cùng một lúc kiềm chế một cách có hiệu quả ba quốc gia lớn: Trung Quốc, Nga và Iran. Mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở đây xem ra trước hết là Trung Quốc. Điểm tựa thích hợp hơn cả là vùng Murgavski của Tajikistan có biên giới với Trung Quốc. Aleksandr Knhyazev cho rằng “đây là địa điểm tốt nhất để đặt căn cứ trinh sát điện tử để phủ sóng một vùng lãnh thổ khá lớn”. [BDV news] |
Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011
>> Phát hiện kẻ thù qua “con mắt” của UAV
Trong cuộc tập trận của Lục quân Mỹ tại bãi tập Dugway, đã thử nghiệm thành công hệ thống không thám HART của công ty Northrop Grumman. Lần đầu tiên, những khả năng của các phương tiện quan sát không người lái khác nhau đã được hợp nhất thành một tổ hợp đòi hỏi sự tham gia ít nhất của người lính và nâng cao đột biến khả năng nắm tình hình của binh sĩ. Hệ thống HART (Heterogeneous Airborne Reconnaissance Team), ở chế độ tự động, điều khiển các loại máy bay có người lái và không người lái khác nhau, các sensor của chúng và sau đó theo yêu cầu thì cung cấp cho người lính bộ binh luồng tin video, dữ liệu ảnh và thông tin khác. Nói một cách khác, toàn bộ sự đa dạng của máy bay từ các máy bay trinh sát “chiến lược” có người lái E-8 JSTARS cho đến máy bay không người lái (UAV) hạng nhẹ Raven được hợp nhất vào một mạng ảo. Người lính trên chiến trường không cần gánh vác công việc điều khiển UAV hay các sensor, mà chỉ cần từ máy tính xách tay gửi yêu cầu tới HART và hầu như nhận được toàn bộ thông tin thời gian thực chẳng hạn về các vị trí của đối phương ở sau ngọn đồi. HART cung cấp cho binh sĩ những khả năng thực sự hiếm có để tạo bức tranh 3 chiều chiến trường khi mà bất cứ người lính nào cũng có thể lập tức tận dụng những thông tin chi tiết về bất cứ điểm nào trong không gian. HART Đồng thời duy trì hoạt động với đến 50 máy bay và xử lý tới 50 yêu cầu. HART cho phép không chỉ xem truyền trực tiếp từ phương tiện trinh sát trên không mà còn nhanh chóng nhận được thông tin địa lý cần thiết, điều giúp loại trừ gần như hoàn toàn ưu thế am hiểu địa hình của mình của đối phương. Bao vây, vu hồi, phục kích sẽ hầu như bất khả thi đối với những người lính sử dụng hệ thống HART. Hiển nhiên là để làm việc đó cần phải giành được ưu thế trên không và triển khai các UAV và máy bay trinh sát có người lái. Trong cuộc tập trận, phần mềm và thiết bị của hệ thống HART đã có thể tự hoạt điều khiển một số hệ thống UAV chiến thuật, trong đó có các UAV Shadow, Raven, Hunter và Bat. HART cũng có khả năng làm việc với các UAV cỡ lớn như Global Hawk, Predator, Х-47В và trực thăng không người lái Fire Scout. Một trong những phẩm chất chủ yếu của HART là nó không phụ thuộc vào phương tiện mang và không đòi hỏi bất kỳ sự sửa đổi nào đối với máy bay, trạm điều khiển UAV hay máy tính của binh lính. Điều đó cho phép triển khai hệ thống trong thời gian cực ngắn. Dự định, các cấp chỉ huy phân đội nhỏ sẽ được trang bị các thiết bị đầu cuối của HART. Họ sẽ có thể nhận được toàn bộ thông tin từ UAV mà hiện nay chỉ có người điều khiển UAV có được. Ngoài ra, nhờ có thiết bị đầu cuối, sẽ có thể yêu cầu quan sát một khu vực nhất định, trong khi người chỉ huy không cần quan tâm đến việc điều khiển UAV vì nó sẽ làm việc hoàn toàn tự hoạt. Phần mềm của HART có khả năng thực hiện các chức năng chính của trinh sát viên: tuần tra khu vực ấn định, phát hiện các đối tượng khả nghi, tập trung vào chúng, theo dõi sự di chuyển của chúng. Chương trình HART giải quyết được một trong những khó khăn chính trong sử dụng UAV cỡ nhỏ. Vấn đề là ở chỗ, trong các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, quân đội Mỹ đã vấp phải khó khăn khi sử dụng các UAV nhỏ gọn Raven. Được phóng lên từ bàn tay, chúng thường bị hỏng, còn những người lính thì cố sử dụng chúng để quan sát liên tục địa hình (tức là làm vai trò của UAV hạng nặng Predator), điều đó không đúng với chức năng của các UAV có thời gian bay ngắn này. Kết quả là các UAV thường không được sử dụng hoặc hỏng, không thể hoạt động, còn binh sĩ lại cố gắng theo khả năng sử dụng các sensor của các máy bay trinh sát lớn hơn và đắt tiền hơn. HART sẽ gỡ bỏ gánh nặng khai thác và điều khiển UAV này khỏi các cấp chỉ huy và cho phép hoàn toàn tập trung vào nhiệm vụ chính của mình. [Vietnamdefence news] |
Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011
>> Quân đội Mỹ 'khoe' một loạt siêu vũ khí
Hải quân Mỹ sẽ trang bị đại bác laser có thể làm chảy thép trong vài giây, tàu tuần tra dưới nước hoạt động liên tục 60-70 ngày, tàu ngầm và trực thăng chiến đấu không người lái. Đô đốc Hải quân Mỹ Gary Roughead cho biết, các nhà khoa học công tác tại Phòng nghiên cứu Hải quân Mỹ nghiên cứu sâu về công nghệ Laser để chế tạo ra súng đại bác bắn đạn năng lượng điện từ với tốc độ nhanh gấp 5 lần tốc độ âm thanh (trong không khí khô ở nhiệt độ 20 độ C, vận tốc âm thanh là 343,2 m/giây, tương đương 1.236 km/giờ), làm nóng chảy lớp thép dày trong vòng vài giây. Các nhà khoa học nói rằng, đến năm 2020, tàu chiến Mỹ có thể được trang bị đại bác laser có năng lượng ở mức kilowatt, thậm chí megawatt. Theo ông Gary Roughead, việc phát triển đại bác laser cho tàu chiến, đặc biệt là hàng không mẫu hạm trị giá hàng tỷ USD, rất hữu ích vì tàu có thể đến gần bờ biển hoặc tàu đối phương mà không bị tên lửa đối phương bắn hạ. Đại bác Laser chỉ cần gắn vào máy phát điện của tàu, không phải nạp đạn nên dễ dàng đánh chặn tên lửa đang bay tới. Quân đội Mỹ đang tích cực nghiên cứu chế tạo đại bác Laser. Song song với việc phát triển công nghệ vũ khí laser, Quân đội Mỹ tiếp tục tăng cường phát triển sức mạnh hải quân bằng việc nghiên cưu chế tạo loại tàu có khả năng hoạt động dưới nước trong vòng 60-70 ngày, được phóng đi từ tàu chiến đấu ven biển hoặc tàu khu trục, có khả năng hoạt động xa khoảng 13.000km mà không phải quay lại tàu mẹ. Loại tàu ngầm không người lái này được lắp nhiều loại vũ khí hoặc bộ cảm biến, có nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo, rà phá thủy lôi, tấn công tàu có người lái của đối phương… Tàu ngầm không người lái của Hải quân Mỹ hiện nay chủ yếu được dùng để gỡ thủy lôi và hoạt động trong cự ly ngắn tối đa 222km. Đặc biệt Hải quân Mỹ coi trọng nhất loại máy bay chiến đấu X47B bay thử hồi tháng 2/2011 và có thể được sử dụng rộng rãi từ năm 2018. X47B có thể hạ cánh, cất cánh từ tàu sân bay. Ngoài ra, BAMS - một loại máy bay giám sát tầm xa, sẽ phục vụ Hải quân Mỹ từ năm 2015. Fire Scout, loại trực thăng không người lái tương tự của Mỹ, có nhiều bộ cảm biến cũng như camera đã được sử dụng để theo dõi những kẻ buôn lậu ma túy ở châu Mỹ Latinh và mới đây hoạt động trên chiến trường Afghanistan. [BDV news] |
Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011
>> Pakistan đồng ý trả xác trực thăng bí ẩn
Thượng nghị sỹ John F. Kerry cho biết Mỹ đã chính thức yêu cầu và Pakistan đồng ý sẽ trao trả phần đuôi chiếc trực thăng quân sự của Mỹ bị nạn trong cuộc tấn công tiêu diệt bin Laden. Động thái giảm căng thẳng quan hệ Ông Kerry coi đây là một phần trong “một loạt những bước đi cụ thể” nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ hai nước. Trước đó, Thượng nghị sỹ Kerry nói rằng quan hệ của Mỹ với Pakistan đang ở trong “giai đoạn quan trọng” sau khi bin Laden bị giết và việc Pakistan trao trả cho phía Mỹ phần đuôi còn lại của chiếc trực thăng là một trong những kết quả cụ thể nhằm giảm thiểu căng thẳng. Quan hệ hai nước đã tích tụ những căng thẳng từ lâu và trở nên tồi tệ sau khi đặc nhiệm Mỹ giết bin Laden trong thành phố quân sự của Pakistan. Ông John Kerry trả lời phỏng vấn trong cuộc họp báo tại Pakistan. Pakistan đã tự ái và diễu cợt hành động của Mỹ vì không được thông báo trước về cuộc tấn công, trong khi các quan chức Mỹ đã công khai đặt câu hỏi liệu các quan chức Pakistan có thông đồng với bin Laden. Là Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ, ông Kerry đã tìm cách giảm nhẹ những cáo buộc này, nói rằng việc ông đến Pakistan để "điều chỉnh lại" mối quan hệ, chứ không phải để phán xét xem Pakistan có chứa chấp khủng bố hay không. Ông cũng cho biết đã thảo luận một số điểm còn tranh cãi, bao gồm tin cáo buộc Pakistan đã hỗ trợ cho quân nổi dậy Afghanistan đóng trên đất của mình. “Môi hở răng lạnh” dù còn nhiều mâu thuẫn Trong mấy ngày qua, giới chức quân sự và dân sự Pakistan tỏ bất bình quanh vụ tấn công bin Laden, điều mà họ gọi là vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Pakistan. Quốc hội Pakistan cũng thông qua một nghị quyết lên án vụ đột kích, yêu cầu CIA chấm dứt các vụ không kich bằng UAV và dọa sẽ chấm dứt các tuyến đường tiếp tế của NATO qua đất Pakistan. Vì vậy trong chuyến thăm, ông Kerry phải nhấn mạnh với lãnh đạo của Pakistan rằng bí mật xung quanh cuộc hành quân vào Abbottabad không phản ánh sự bất tín của Mỹ. Do suýt thất bại trong vụ bắt bin Laden ở Afghanistan năm 2001, Mỹ quyết định bằng bất kỳ giá nào cũng phải tránh tiết lộ trong lần này, thậm chí, chỉ một số quan chức cấp cao của Mỹ được thông báo trước về cuộc đột kích này. Trong bản thuyên bố chung Kerry nói ông đảm bảo với phía Pakistan rằng Mỹ “không có ý đồ nào” về kho vũ khí hạt nhân. Tuyên bố chung cũng không đả động gì đến các cuộc không kích của máy bay không người lái mà Pakistan ngầm cho phép nhưng công khai phản đối. Trong những ngày tới, một số quan chức cấp cao của Nhà Trắng sẽ đến thăm Islamabad để thảo luận “một lộ trình” mà kết quả sẽ quyết định cho chuyến thăm Pakistan của Ngoại trưởng Hillary Clinton. Ông Kerry loại bỏ khả năng quan hệ hai nước có thể bị đổ bể. Ông Kerry cho rằng quan hệ Mỹ - Pakistan đi xuống là “con đường rất nguy hiểm cho mọi người – nguy hiểm cho Pakistan, nguy hiểm cho lợi ích của Mỹ, nguy hiểm cho các dân tộc ở nước này và của khu vực này”. Mỹ đang sử dụng Pakistan như trung gian tiếp tế chủ yếu cho Quân đội Mỹ tại Afghanistan. Nếu cắt đứt quan hệ với Pakistan, Islamabad có thể sẽ bất ổn và kho vũ khí hạt nhân của Pakistan có thể rơi vào tay các phần tử Hồi giáo cực đoan. Trong khi đó, Pakistan cần viện trợ của Mỹ giúp trang bị cho quân đội và chống đỡ nền kinh tế đang chao đảo của mình. Bất chấp tâm lý chống Mỹ đang lan rộng ở Pakistan, nước này vẫn muốn quan hệ với một siêu cường. [BDV news] |
Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011
>> Tàu sân bay Trung Quốc được chăm sóc bởi UAV Mỹ
Mỹ đang chế tạo máy bay không người lái trên tàu sân bay để tăng khả năng đối phó với sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Các quan chức Mỹ đặc biệt giữ bí mật về nơi họ sẽ đưa các máy bay không người lái vũ trang này vào sử dụng, nhưng một sỹ quan cấp cao Hải quân nói với hãng AP rằng một số sẽ được triển khai ở châu Á. Phó Đô đốc, Tổng chỉ huy Hạm đội 7 của Mỹ ở Thái Bình dương, Scott Van Buskirk cho biết: "Những máy bay không người lái này sẽ đóng môt vai trò mật thiết trong các chiến dịch của chúng tôi tại khu vực trong tương lai”. Mỹ đang sử dụng rộng rãi các loại máy bay không người lái trên đất liền trong cuộc chiến ở Afghanistan, nhưng phải mất vài năm nữa Mỹ mới chế tạo được các loại máy bay không người lái trên biển. UAV có khả năng tác chiến trên biển, cất/hạ cánh trên tàu sân bay có thể thay đổi tư duy tác chiến của không quân hải quân Mỹ, đối phó hiệu quả với sự ra đời của tên lửa đạn đạo diệt tàu sân bay và các tàu sân bay của Trung Quốc. Đầu năm 2011, công ty Northrop Grumman lần đầu cho bay thử UAV tác chiến trên biển, nhưng thử nghiệm diễn ra trên đất liền. Các nhà phân tích quân sự thống nhất nhận định rằng: Máy bay không người lái có khả năng ngăn chặn những bước tiến gần đây của Trung Quốc, đặc biệt là tính năng hoạt động như một tên lửa "diệt tàu sân bay của nó”. Patrick Cronin, nhà phân tích về An ninh mới của Mỹ làm việc tại Washington đánh giá: “Hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc là mối đe dọa lâu dài mà Mỹ phải chuẩn bị ở khu vực châu Á - Thái Bình dương, và các loại máy bay tự động – trên không hay trên biển – ngày càng trở nên quan trọng để chống lại những mối đe dọa tiềm tàng”. Tuy Quân đội Trung Quốc còn lâu mới xây dựng được một lực lượng hùng mạnh như Mỹ, nhưng Bắc Kinh đang không ngừng phát triển tiềm lực không quân, hải quân và tên lửa có khả năng thách thức vị trí độc tôn của Mỹ ở Thái Bình Dương, cũng như khả năng bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng cùng các đồng minh của Mỹ như Nhật và Hàn Quốc của Washington. Trung Quốc khăng khăng cho rằng họ không có ý đồ tấn công và chỉ bảo vệ những lợi ích của họ như các tuyến hàng hải cũng quan trọng đối với nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của mình. Nhưng ở đó có một vài điểm nóng, nhất là vấn đề Đài Loan và một loạt các đảo nhỏ mà cả Trung Quốc và các nước châu Á khác đang đòi chủ quyền. UAV mới được Mỹ kỳ vọng sẽ mở rộng năng lực tác chiến của các hạm đội vốn đã rất hùng mạnh trên đại dương. Việc Hải quân Mỹ theo đuổi chương trình UAV tác chiến trên biển là sự thừa nhận nhu cầu phát triển vũ khí và những chiến lược mới không chỉ nhằm đối phó với Trung Quốc mà với cả một bối cảnh quốc phòng đầy thách thức nói chung ở khu vực. Các chuyên gia nói rằng máy bay không người lái có thể được triển khai trên bất cứ 11 tàu sân bay nào hiện có của Mỹ, và không phải được chế tạo để làm đối trọng riêng với Trung Quốc… Nhưng những thông tin về tiến bộ trong công nghệ tên lửa của Trung Quốc dường như đã làm cho việc chế tạo thêm khẩn trương hơn. Tên lửa “diệt tàu sân bay” DF 21D của Trung Quốc được thiết kế phóng từ đất liền với độ chính xác đủ tiêu diệt một tàu sân bay đang hoạt động trong tầm 1.500km . Tuy thông tin này chưa được kiểm chứng, nhưng các nhà phân tích nhấn mạnh rằng không một nước nào trên thế giới có một vũ khí như vậy. Hiện, những máy bay tiêm kích hiện tại của Hải quân Mỹ chỉ có thể tấn công các mục tiêu trong tầm 900km, nằm trong tầm kiểm soát của tên lửa của Trung Quốc. Ngược lại, các máy bay tiêm kích không người lái không phải tiếp thêm nhiên liệu có bán kính hoạt động là 2.789km, có thể hoạt động trong vòng 50-100 giờ - so với tối đa là 10 giờ của các máy bay có phi công. Công ty Northrop Grumman có hợp đồng 635,8 triệu USD để chế tạo 2 máy bay không người lái trong 6 năm và sẽ có thêm vốn nếu khả thi. Một mẫu nghiên cứu X-47B đã bay thử 29 phút tại sân bay quân sự Edwards tại California tháng 2/2011. Các chuyến bay thử trên tàu sân bay dự kiến sẽ được tiến hành trong năm 2013. Các công ty máy bay khác như Boeing và Lockheed cũng tham gia vào cuộc chơi. Công ty General Atomics Aeronautical Systems – nhà chế tạo máy bay không người lái Predator được sử dụng tại chiến trường Afghanistan – đã tiến hành các thử nghiệm trong hầm gió vào tháng 2/2011. Một số chuyên gia cảnh báo rằng các máy bay không người lái cho đến nay vẫn chưa được thử nghiệm trên tàu sân bay, đồng thời nhấn mạnh rằng những tiến bộ của Trung Quốc vẫn chưa hoàn toàn làm cho tàu sân bay hết vai trò. Vào những năm đầu của thập kỷ này Không quân và Hải quân Mỹ cùng hỗ trợ một dự án phát triển máy bay không người lái trên tầu sân bay nhưng năm 2005, Không quân Mỹ đã rút khỏi dự án, chỉ còn hải quân tiếp tục cung cấp tài chính cho việc nghiên cứu khả thi. Đô đốc Gary Roughhead, Tổng chỉ huy các hoạt động Hải quân Mỹ đánh giá mục tiêu hiện tại là lực lượng này có được các máy bay ném bom không người lái trước năm 2018 là “quá chậm”. "Nghiêm túc mà nói, chúng ta cần ý thức sự khẩn thiết phải có các máy bay đó. Vì nó làm thay đổi cơ bản tư duy của chúng ta về không lực hải quân”, Đô đốc Roughhead nói. [BDV news] |
Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011
>> Chó nghiệp vụ của Mỹ & những chuyện ít biết
Mỗi con chó nghiệp vụ của Mỹ "ngốn" 20.000 USD phí đào tạo nhưng số lượng những chiến binh đặc biệt trong quân đội tinh nhuệ nhất hành tinh này không ngừng tăng. Chó đã chiến đấu bên cạnh binh sĩ Mỹ suốt hơn 100 năm nay, từ nội chiến Mỹ, qua 2 cuộc đại chiến thế giới tới chiến tranh xâm lược Afghanistan, Iraq. Ngày nay, có khoảng 2.800 chú khuyển đang phục vụ trong biên chế quân đội Mỹ tại khắp các chiến trường ở Iraq và Afghanistan. Trong chiến dịch tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden, một chú khuyển ưu tú nhất đã sát cánh cùng với 79 lính đặc nhiệm Mỹ. Trong chiến dịch đó, chú chó cũng tham chiến và là vũ khí đáng sợ đặc nhiệm SEAL. Dưới đây là một số hình ảnh về những chú chó nghiệp vụ trong Quân đội Mỹ: Một lính Mỹ cùng với người bạn 4 chân thuộc lực lượng đặc nhiệm số 10 nhảy ra khỏi một trực thăng CH-47 Chinook trong chiến dịch diễn tập Emerald Warrior. Câu trả lời dành cho câu hỏi làm sao một chú chó có thể đột nhập vào căn cứ của bin Laden có thể khiến nhiều người ngạc nhiên: nhảy từ trực thăng. Chú chó này cùng những lính đặc nhiệm Mỹ đã đột nhập vào dinh cơ của bin Laden từ trực thăng MH-60s. Chó thường nhảy dù cùng người huấn luyện. Trong ảnh, lính đặc nhiệm Mike Forsythe thuộc đội SEAL và chú chó Cara nhảy từ độ cao 10 km. Đại đội thủy quân lục chiến số 8 đợi máy bay trực thăng vận tải trong chiến dịch Khanjar ở tỉnh Helmand. Theo huấn luyện viên Mike Dowling: “Bộ óc của loài chó tràn ngập những tín hiệu khứu giác”. Trên thực tế, một con chó bình thường có khoảng 225 triệu tế bào mùi trong mũi – gấp 40 lần so với con người. Trang bị tới tận răng: Chó quân sự không còn bị coi là “dụng cụ phụ trợ” như trong các cuộc chiến cách đây vài chục năm. Ngày nay, chúng được trang bị những thiết bị bảo hộ chuyên dùng như Doggle (bảo vệ mắt), áo giáp, áo cứu sinh, mặt nạ phòng độc, áo trang bị GPS tầm xa… Vũ khí: Không phải mọi chó nghiệp vụ đều được huấn luyện để tiêu diệt đối thủ. Tuy nhiên, những chú chó nào đạt được điểm cao trong các kỳ huấn luyện cơ bản sẽ được tham gia những chương trình đặc biệt. Quá trình này tập trung vào kiểm soát sự hung giữ và tìm kiếm kẻ địch trong nhà hoặc ngoài trời, tự động tấn công kẻ địch chỉ khi bị tấn công, dừng tấn công ngay khi nhận được lệnh. Trong ảnh, một lính Mỹ đang huấn luyện chó tấn công tại tỉnh Kandahar, Afghanistan. Giữa chó nghiệp vụ cùng người huấn luyện luôn tồn tại một mối quan hệ gắn bó sâu sắc. Mối quan hệ này được xây dựng dần dần qua quá trình huấn luyện công phu. Loài chó không chỉ là một vũ khí tấn công đáng sợ, chúng còn là những người bảo vệ rất trung thành. Khi binh nhất Carlton Rusk bị bắn bởi lính bắn tỉa Taliban lúc đang đi tuần, Eli – chú chó dò bom của Rusk đã ngồi lên người của Rusk và tấn công bất cứ ai lại gần anh. Rusk đã hy sinh vì vết thương quá nặng còn Eli được giải ngũ sớm để về sống cùng gia đình Rusk. Trong ảnh, trung sỹ Erick Martinez thường bế chú chó Argo II của anh trên vai. Bài tập này giúp nâng cao sự tin tưởng, lòng trung thành và khả năng phối hợp ăn ý. Khứu giác là vũ khí lợi hại nhất mà loài vật thân thiết nhất với con người sở hữu. Thậm chí, ngày nay người ta sử dụng chó để phát hiện ra một số căn bệnh ung thư hiếm gặp. Trong chuyến công du châu Á của ông Obama vào năm 2010, 30 chú chó ưu tú nhất đã đi theo hộ tống Tổng thống Mỹ. Chúng được ở trong khách sạn 5 sao, đi trên những chiếc xe sang trọng nhất và có hẳn thợ may riêng để đảm bảo có được vẻ ngoài bắt mắt nhất. Chi phí nuôi dưỡng và huấn luyện một chú chó phát hiện bom lên tới khoảng 20.000 USD. Trong ảnh, Trung sỹ Matthew Templet và chú chó phát hiện bom Basco đang dò tìm chất nổ trong khu làng bỏ hoang Haji Ghaffar. Mỹ và các đồng minh đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc chiến tại Afghanistan khi càng ngày quân Taliban sử dụng càng nhiều bom, mình tự chế. Vào tháng 10/2010, Mỹ đã công bố kế hoạch 6 năm và 19 tỷ USD dành cho phát triển công nghệ dò phá bom mìn. Những thiết bị tối tân nhất hiện nay của quốc gia này có độ thành công khoảng 50%, trong khi chó – người bạn lâu năm nhất của con người có độ chính xác cao hơn tới 30%. Trong 2 năm trở lại đây, cuộc chiến chống lại bom, mìn tự chế ở Afghanistan và Iraq đã khiến số lượng chó tham gia quân đội tăng đáng kể. Thủy quân lục chiến Mỹ có khoảng 170 chú chó dò bom, nhưng số lượng này sẽ lên tới 600 vào tháng 9/2012. Đại đội Charly thư giãn cho hai chú chó dò bom Books và Good tại trại lính Huskers ở ngoại ô Marija, Helmand. [BDV news] |
Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011
>> Mỹ đột kích chỉ huy Al-Qaeda
Phi cơ không người lái của Mỹ hôm qua tấn công nhằm tiêu diệt một chỉ huy cao cấp của Al-Qaeda tại Yemen nhưng bất thành, chỉ ít ngày sau vụ biệt kích bắn chết trùm tổ chức khủng bố này là Bin Laden.
Anwar al-Awlaki đang chỉ huy chi nhánh của al Qaeda trên bán đảo Ảrập. Ảnh: AP. BBC dẫn lời Bộ Quốc phòng Yemen cho biết, máy bay Mỹ bắn tên lửa vào một chiếc xe hơi chở hai người đàn ông tại tỉnh Shabwa. Giới chức Mỹ thì tiết lộ với kênh truyền hình CBS rằng mục đích của vụ oanh kích là tiêu diệt Anwar al-Awlaki, một trong những thủ lĩnh có ảnh hưởng nhất trong Al-Qaeda. Nhưng cảnh sát Yemen xác định al-Awlaki không ngồi trong chiếc xe. Hai người đàn ông thiệt mạng vì tên lửa bắn là anh em ruột và đều là chỉ huy cấp trung của mạng lưới Al-Qaeda. Các nguồn tin khác cho biết, máy bay không người lái bắn 3 tên lửa vào chiếc xe của al-Awlaki ngày 5/5, nhưng không trúng. Sau đó ông ta đổi xe cho hai anh em và họ đã bị giết trong cuộc tấn công hôm qua. Hồi tháng 5/2010, máy bay Mỹ từng bắn vài quả tên lửa vào một xe hơi vì tưởng al-Awlaki ngồi trong đó, song người thiệt mạng là một phái viên của tổng thống Yemen. Tháng 9 cùng năm, Ngoại trưởng Yemen tuyên bố những vụ tấn công bằng phi cơ không người lái của Mỹ sẽ không được phép thực hiện nữa. Anwar al-Awlaki sinh tại Mỹ là một giáo sĩ cấp tiến người Yemen được coi là "gian ác" hơn cả trùm khủng bố Osama bin Laden mới bị tiêu diệt. Hiện ông ta đứng đầu chi nhánh Al-Qaeda trên bán đảo Ảrập và là chi nhánh thực hiện nhiều vụ khủng bố nhất của Al-Qaeda. Trước đó vài ngày, biệt kích Mỹ đã âm thầm từ Afghanistan sang đột kích khu nhà tại thị trấn Abbottabad của Pakistan, tiêu diệt Osama bin Laden, mà không thông báo cho giới chức nước chủ nhà. Sau đó Mỹ đưa xác Bin Laden ra biển Ảrập để thuỷ táng và không cho công bố các bức ảnh liên quan. Vụ đột kích đang gây chia rẽ mối quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Pakistan.
[BDV news]
|
Nhãn:
Afghanistan,
Al-Qaeda,
Anwar al-Awlaki,
Ảrập,
bbc,
Bin Laden,
Mỹ,
Obama,
Pakistan,
Thị trấn Abbottabad,
Trùm khủng bố,
UAV,
Yemen
Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2011
>> Trung Quốc: 'Chiến tranh nhân dân đã lỗi thời'
Theo quan điểm thống nhất chung của giới lãnh đạo Trung Quốc, một quốc gia mạnh không thể tồn tại mà không có một quân đội hùng mạnh và hiện đại.
Theo Chính phủ Trung quốc, khái niệm chiến tranh nhân dân đã không còn khả năng bảo vệ vững chắc nên an ninh quốc gia cũng như đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, khái niệm này so với thời đại chiến tranh công nghệ cao hiện nay đã trở nên lỗi thời và không đáp ứng được các yêu cầu bảo vệ đất nước. Hiện nay trong biên chế của lực lượng vũ trang Trung quốc có tới 2.300.000 binh sỹ. Hàng năm chính phủ Trung Quốc đã dành một khoản ngân sách khổng lồ chi cho hiện đại hoá quân đội trong đó tập trung cho huấn luyện binh lính và trang bị vũ khí hiện đại, với mục tiêu “sẵn sàng đương đầu với bất kỳ các cuộc tấn công quy mô lớn và nguy cơ đe doạ đến nền anh ninh quốc gia, chủ quyền của trung Quốc”. Chính phủ Trung Quốc muốn hướng đến phát triển một quân đội hiện đại, trước những nguy cơ đe doạ bằng chiến tranh công nghệ cao, không chỉ là các loại vũ khí siêu hiện đại phá huỷ trực tiếp mà cả những cuộc chiến tranh mạng, chiến tranh kỹ thuật số. Trung Quốc cho rằng những nguy cơ đó mới đáng lo ngại vì vậy đòi hỏi phải có một lực lượng được đào tạo tinh nhuệ về chiến tranh vũ trụ, tập trung đào tạo lực lượng hải quân, lực lượng vệ tinh - định vị, và đặc biệt là lực lượng chiến tranh mạng. Để đáp ứng với yêu cầu này, Chính phủ Trung Quốc cho rằng cần phải xác định cả các nhiệm vụ cụ thế khác của từng lực lượng trong quân đội, cần phải xác định nhiệm vụ nhất quán không chỉ sẵn sàng chiến đấu trên chiến trường quân sự mà còn trong cả lĩnh vực chính trị. Ngoài ra, lực lượng vũ trang hiện đại của Trung Quốc cũng đặt ra kế hoạch sẵn sàng đẩy lui và xoá sổ các âm mưu khủng bố, ý đồ phá hoại cũng như các hoạt động lật đổ để bảo vệ sự ổn định và hòa hợp của xã hội. Trước nguy cơ gia tăng xung đột trên thế giới, Trung Quốc đã đẩy nhanh hiện đại hoá quân đội. Mới đây, chính phủ Trung Quốc đã công bố sách trắng quốc phòng, phê chuẩn nguồn ngân sách khổng lồ chi cho việc hiện đại hoá quân đội Trung Quốc với việc tăng thêm 12,7 % chi phí ngân sách quân sự. Theo đó, ngân sách quân sự hiện có của Trung Quốc vào khoảng 601 tỷ nhân dân tệ tương đương khoảng 66 tỷ euro. Một con số đáng kinh ngạc, khiến nhiều quốc gia phải sửng sốt. Theo giới chuyên gia phân tích quân sự trên thế giới, với con số này, Trung Quốc đã đứng vào vị trí thứ hai trên thế giới về ngân sách chi cho các hoạt động quân sự trong năm 2011. Trong đó, 1/3 ngân sách sẽ được chi cho việc đào tạo binh lính và mua sắm trang thiết bị vũ khí hiện đại cũng như đầu tư chế tạo vũ khí. Ngoài tập trung phát triển quân sự, Trung Quốc còn bổ sung chi phí hỗ trợ các nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc, cũng như hỗ trợ cuộc chiến chống cướp biển. Trong những năm gần đây, lực lượng hải quân của Trung Quốc đã tích cực tham gia vào các hoạt động chống cướp biển Somalia. Hoạt động này đã giúp quân đội Trung Quốc tích luỹ thêm kinh nghiệm, nâng cao khả năng chiến đấu. Cụ thể, vào tháng 12/2010 hải quân của Trung Quốc đã gửi 7 tàu chiến để hộ tống an toàn 3.139 tàu chở hàng. Trung Quốc luôn theo dõi mọi diễn biến tại các điểm nóng trên toàn cầu. Tình hình đang diễn ra cũng khiến Trung Quốc lo ngại. Trung Quốc có thể mất hàng loạt hợp đồng với các quốc gia tại các khu vực này lên tới 20 tỷ USD. Những gì đang diễn ra tại Bắc Phi và Trung Đông khiến Trung Quốc ngày càng giành nhiều sự quan tâm cho việc phải đẩy nhanh hiện đại hoá quân đội. Theo Tổ chức quốc tế Heritage Foundation, trong tháng 12/2010, lượng tài chính của Trung Quốc đổ vào các nước thuộc thế giới Arab ước tính khoảng 37 tỷ USD, ở các quốc gia châu Phi lên tới 43 tỷ USD, tại Tây Á - 45 tỷ USD, còn ở Đông Nam Á - 36 tỷ USD, ở khu vực Thái Bình Dương - 61 tỷ USD và ở châu Âu - 34 tỷ USD. Rõ ràng, việc bảo vệ các kênh đầu tư thương mại trong bối cảnh xung đột và khủng hoảng chính trị leo thang tại những điểm nóng này cũng nằm trong phạm vi và nhiệm vụ quốc phòng mà sách trắng của Trung Quốc đề cập đến. Việc Trung Quốc đầu tư mạnh cho quân sự khiến nhiều quốc gia phải lo ngại. Sự khác biệt chính trong lần công bố Sách trắng quốc phòng lần này là đề cập đến các nhân tố xấu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng phát triển quốc phòng của Trung Quốc, điều này cũng khiến Trung Quốc lo ngại về gia tăng các nguy cơ rủi ro cho nền an ninh Trung Quốc. Song song là sự xuất hiện ngày càng nhiều đối thủ cạnh tranh quân sự trên thế giới. Nhiều nước đang tích cực theo đuổi và áp dụng chiến lược toàn cầu, mở rộng phạm vị chiến trường ra cả không gian và các vùng cực. Trung Quốc cũng tỏ ra lo ngại bởi sự hiện diện của Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và hàng loạt các động thái tăng cường liên minh quân sự và can thiệp vào các vấn đề an ninh khu vực với nhiều vẫn đề như cuộc xung đột ở hai miền Triều Tiên cho đến tình hình tại Afghanistan… Với những thực tế này, Trung Quốc cần phải xây dựng một “vũ khí” riêng. Mới đây, Trung Quốc liên tục tiền hành nghiên cứu chế tạo và thử nghiệm các loại vũ khí tối tân và trang bị thêm nhiều máy bay hiện đại, tàu hỗ tống, tàu ngầm và tàu khu trục, hơn nữa còn tăng cường công tác đào tạo huấn luyện binh lính, tăng cường số quân. Mặc dù Trung Quốc công bố sách trắng quốc phòng khá kín đáo tuy nhiên cũng thông qua đây Trung Quốc cũng muốn thị uy sức mạnh quân sự, tạo ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế, và ngầm cảnh báo với một số nước đang đối đầu với Trung Quốc.
[BDV news]
|
Nhãn:
Afghanistan,
Chiến tranh nhân dân,
Chính phủ Trung Quốc,
Đặng Tiểu Bình,
Hải quân Trung Quốc,
Quân đội Trung Quốc,
Sách Trắng Quốc phòng,
trung quốc,
việt nam
Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011
>> Bin Laden bị giết vì 'low tech'
Lực lượng đặc nhiệm Mỹ cho rằng, việc xa lánh công nghệ cao đã dẫn đến kết cục bi thảm của Osama Bin Laden.
Trong thế giới hiện đại, khi mà điện thoại và internet là một phần không thể thiếu của bất cứ ai thì bin Laden lại đi ngược lại xu hướng này, quyết định tránh xa tất cả các thiết bị truyền thông công nghệ cao. Thậm chí, việc liên lạc của Osama Bin Laden với thế giới bên ngoài đều thông qua những người đưa thư truyền thống. Phía Mỹ cho rằng, chính điều này đã dẫn đến sự thất bại của bin Laden. Bởi lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã lần theo những người đưa thư và đã tìm ra nơi trú ẩn của Osama Bin Laden. Một khía cạnh khác, những người đưa thư dù có trung thành đến mấy thì cũng rất khó lòng mà che giấu thông tin trước các “độc chiêu” của CIA. Nhiều năm truy đuổi Osama Bin Laden, Mỹ cho rằng ông ta luôn sống trong các điều kiện khó khăn và thiếu thốn. Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn ngược lại, Bin Laden sống trong các biệt thự sang trọng nằm sâu bên trong các căn cứ ở Pakistan và Afghanistan. Ảnh chụp vệ tinh khu biệt thự của bin Laden. Các ngôi biệt thự này đều không có bất kỳ phương tiện truyền thông nào liên lạc với bên ngoài, chính điều này đã tố cáo ông ta. Sự vắng mặt của các thiết bị truyền thông trong một ngôi biệt thự sang trọng như vậy là cả một sự bất thường đối với tình báo Mỹ. Tại nơi ấn nấp trong những ngày cuối đời của bin Laden, đội đặc nhiệm SEAL không tìm thấy điện thoại hay phương tiện truyền tín hiệu internet. Trong khi Osama Bin Laden từ chối và xa rời các thiết bị công nghệ cao, thì phía Mỹ lại dùng tất cả những thiết bị công nghệ cao tinh vi nhất để tìm kiếm và theo dõi. Ngày 2/5, Lầu Năm Góc đã công bố các bức ảnh vệ tinh chụp nơi ẩn náu của Osama Bin Laden. Các bức ảnh cung cấp một cách chi tiết sơ đồ xung quanh, chiều cao chính xác của các bức tường, cách bố trí an ninh. Trong khi đó lực lượng bảo vệ của Osama Bin Laden hoàn toàn không hay biết gì về việc bị lọt vào tầm ngắm. Khi biết thì đã quá muộn. Tân Giám đốc CIA Leon Panetta cho biết: “Chúng tôi đã vận dụng đầy đủ khả năng của chúng ta, thu thập thông tin tình báo từ cả hai phương thức. Từ con người và từ máy móc kỹ thuật cao, cùng với những phân tích khắt khe nhất của các chuyên gia hàng đầu”. Mỹ sử dụng tất cả các thiết bị hiện đại nhất để tìm kiếm và theo dõi bin Laden và các thành viên trong tổ chức Al Qeada. Trong khi đó, một số nhà phân tích đặt ra giả thuyết: Nếu Osama Bin Laden cũng sử dụng các thiết bị truyền thông công nghệ cao, thì khả năng Mỹ tiêu diệt được ông ta là bao nhiêu. Nếu lực lượng của bin Laden cũng sử dụng các thiết bị truyền thông công nghệ cao, hoàn toàn có thể tạo ra các mục tiêu giả để đánh lừa các phương tiện giám sát công nghệ cao của Mỹ. Việc sử dụng các thiết bị truyền thông công nghệ cao cũng giúp cho việc phát hiện ra vị trí của mình đang nằm trong tầm ngắm. Các phương tiện liện lạc bằng vô tuyến có thể thông báo kịp thời một khi mục tiêu bị lộ. Các thiết bị giám sát công nghệ cao như camera quan sát ngày/đêm, cảm biến phát hiện chuyển động hoàn toàn có thể phát hiện sớm bất kỳ sự xâm nhập trái phép. Song tất cả các thiết bị trên đều vắng mặt trong các khu trú ẩn của Osama Bin Laden, ông ta chỉ tin tưởng vào con người. Đúng là điều này đã giúp cho Osama Bin Laden lẩn trốn trong gần một thập kỷ qua, đó có thể gọi là một thành công. Song đó cũng là một thất bại, khi bin Laden không có các phương tiện để đối phó lại các thiết bị giám sát công nghệ cao của Mỹ.
[BDV news]
|
Thứ Tư, 4 tháng 5, 2011
>> Obama theo dõi vụ Bin Laden như thế nào
Những tiến bộ trong công nghệ quân sự giúp Tổng thống Barack Obama cùng các quan chức cao cấp Mỹ không bỏ lỡ giây nào trong điệp vụ tiêu diệt trùm mạng khủng bố Al-Qaeda, từ khoảng cách xa nhiều nghìn km.
Tập trung đông đủ tại Phòng tình huống nằm sâu bên trong Nhà Trắng, ông Obama cùng những phụ tá thân cận nhất theo dõi toàn bộ vụ tấn công tại Pakistan gần như theo "thời gian thực". Các thông tin thuyết minh cho chiến dịch được đích thân giám đốc CIA thực hiện. Nhóm biệt kích SEAL của hải quân Mỹ sử dụng những máy quay nhỏ gắn trên mũ, để truyền hình ảnh vụ tấn công về trung tâm chỉ huy của tổng thống Mỹ tại Washington và trụ sở Cục tình báo trung ương (CIA) tại Virginia. Khi họ rời các máy bay trực thăng để đột kích ngôi nhà của Bin Laden, các camera tối tân cũng bắt đầu hoạt động. Toàn bộ quá trình hình ảnh được truyền từ thị trấn Abbotabad ở Pakistan về Phòng Tình huống ở Nhà Trắng để Tổng thống Obama có thể theo dõi. Đồ họa: Telegraph Các hình ảnh được truyền đi từ những máy quay này tới đơn vị xử lý đặt trên một trong những chiếc trực thăng tham gia chiến dịch, khi ấy đang lượn vòng bên trên khu nhà của kẻ trùm sò Al-Qaeda. Sau đó, hình ảnh được truyền từ đây lên một vệ tinh của Mỹ, trước khi được đưa về Washington và Virginia. Công nghệ truyền dẫn hình ảnh được phát triển cho mục đích quân sự vào năm 2008 này, hoạt động tương tự như cách mà Skype sử dụng cho hệ thống điện thoại Internet rất phổ biến hiện nay. Một phiên bản bảo mật cao của công nghệ này được Bộ Tư lệnh tác chiến đặc biệt Mỹ (USSOCOM) mua lại để sử dụng trong nhiều điệp vụ và cuộc tấn công tối mật ở Afghanistan. Ban đầu, người ta cho rằng Tổng thống Obama theo dõi được các hình ảnh trực tiếp truyền về từ Pakistan. Tuy nhiên, Giám đốc CIA Leon Panetta sau đó xác nhận rằng có một độ trễ nhỏ trong việc truyền hình ảnh, và điều này góp phần làm tăng sự căng thẳng tại Phòng Tình huống ở Nhà Trắng và trụ sở CIA. "Khi nhóm biệt kích bắt đầu tấn công khu nhà của Bin Laden, có một khoảng thời gian chừng 20 tới 25 phút chúng tôi thực sự không biết chính xác điều gì đang xảy ra ở đó. Đó là những giây phút căng thẳng vì phải chờ đợi thông tin. Nhưng cuối cùng Đô đốc William McRaven đã liên lạc và cho biết rằng ông nhận được mật danh Geronimo truyền đi từ nhóm biệt kích", giám đốc CIA kể lại. Khi những người tại Nhà Trắng và trụ sở CIA được xem những hình ảnh chậm hơn ít phút so với những gì thực tế xảy ra qua các màn hình lớn, một không khí căng thẳng và hồi hộp bao trùm. Tổng thống Obama ngồi gần màn hình, với một bộ đồ bình thường và đôi mắt chăm chú theo dõi mọi diễn biến. Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton thậm chí còn hồi hộp hơn, khi đưa tay lên che nửa mặt trong suốt thời gian xem những hình ảnh được truyền về từ một nơi cách xa tới hơn 11.000 km. Giám đốc CIA Panetta bình luận trực tiếp chiến dịch tiêu diệt bin Laden từ tổng hành dinh tại Langley, Virginia. Ông sử dụng mật danh Geronimo để chỉ trùm khủng bố. Khi Bin Laden bị tiêu diệt với một viên đạn găm vào phía trên mắt trái, Panetta xác nhận "Geronimo EKIA", có nghĩa là "Geronimo, kẻ thù vừa bị tiêu diệt trong khi kháng cự". Tổng thống Obama và những người thân cận theo dõi các hình ảnh được truyền về từ Pakistan. Ảnh: Telegraph Sau khi chiến dịch hoàn tất, việc Tổng thống Obama trực tiếp theo dõi từng diễn biến tại Pakistan từ Nhà Trắng mới được báo chí loan báo. Thực tế là để có 40 phút tấn công chóng vánh và hiệu quả, người Mỹ đã phải chuẩn bị vô cùng công phu. Nhóm biệt kích SEAL của hải quân Mỹ nhận được lệnh bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc tấn công bất ngờ để lùng bắt một mục tiêu mang mật danh Geronimo (theo tên chiến binh thổ dân Mỹ huyền thoại). Họ thậm chí đã tiến hành hai cuộc tập dượt với một hình nộm giống hệt Bin Laden trong một căn cứ quân sự. Tổng cộng có 79 lính biệt kích SEAL tinh nhuệ nhất được điều động tham gia điệp vụ tại Pakistan, cùng với 4 trực thăng, trong đó có hai chiếc làm nhiệm vụ hỗ trợ. Nhóm biệt kích trú tại một căn cứ của Mỹ tại Jalalabad, Afghanistan, và chỉ vượt qua biên giới để vào Pakistan vào buổi tối theo giờ địa phương. Cuộc đột kích chóng vánh đã tiêu diệt trùm khủng bố khét tiếng Osama bin Laden cùng một số người khác làm nhiệm vụ bảo vệ y. Trong một phát biểu sau khi vụ tấn công kết thúc, Tổng thống Mỹ Obama nói: "Công lý đã được thực thi". Để có được câu nói ngắn gọn này, Mỹ đã sử dụng những công nghệ tối tân nhất hiện nay và hơn một thập kỷ kiên trì theo dấu Osama bin Laden.
[Vnexpress news]
|
Nhãn:
Afghanistan,
Al-Qaeda,
bang Virginia,
Barack Obama,
Biệt kích SEAL,
Bin Laden,
CIA,
Hilary Clinton,
Langley,
Mật danh Geronimo,
Nhà Trắng,
Pakistan,
USSOCOM
>> Bí mật biệt đội bắn hạ Bin Laden
Những biệt kích được giao nhiệm vụ tiêu diệt Osama bin Laden được tuyển chọn từ lực lượng đặc nhiệm SEAL thuộc hải quân Mỹ, đơn vị vốn được coi như huyền thoại của quân đội nước này.
Hơn 20 biệt kích Mỹ được trực thăng thả xuống gần bức tường cao 4,5 mét bao quanh khu trú ẩn của Bin Laden tại Abbottabad, phía tây bắc Pakistan. Họ nhanh chóng tiếp cận ngôi nhà cao 3 tầng nằm giữa khu đất được bảo vệ chặt chẽ và lần lượt tiêu diệt 5 người bên trong, gồm Osama bin Laden bằng viên đạn vào đầu. Các tay súng bảo vệ trùm Al-Qaeda bắn trả dữ dội nhưng tất cả biệt kích Mỹ tham gia chiến dịch đều không có ai bị thương. Kỹ năng chiến đấu tốc độ cao và chính xác đến từng chi tiết của biệt kích SEAL thể hiện qua việc trong thời gian ngắn, họ vừa tiêu diệt các mục tiêu vừa thu thập tất cả ổ đĩa máy tính, đĩa DVD và các tài liệu trong khu nhà rồi rút đi êm thấm cùng với xác của Osama bin Laden. Theo quan điểm của giới chức quân sự Mỹ, chiến dịch tiêu diệt Bin Laden mang mật danh Geronimo nói trên không thể diễn ra hoàn hảo hơn. Điều này đã phản ánh quá trình chuẩn bị chi tiết và kỹ năng chiến đấu cao của lính biệt kích SEAL, những người được tin tưởng giao nhiệm vụ mang tính lịch sử. Hai lính biệt kích SEAL. Ảnh: Navy. Biệt đội tinh nhuệ của SEAL Biệt đội ST6 (SEAL Team Six), có tên gọi chính thức là Nhóm phát triển kỹ năng tác chiến đặc biệt của hải quân, hay còn gọi là DevGru, đã được giao nhiệm vụ tiêu diệt Bin Laden. ST6 gồm những thành viên có thành tích chiến đấu dày dạn và được tuyển chọn kỹ lưỡng từ lực lượng đặc nhiệm SEAL, chuyên được huấn luyện cho những chiến dịch thuộc hàng tối mật của Mỹ. SEAL, tổ chức mẹ của biệt đội ST6, là một phần của Sở chỉ huy tác chiến đặc biệt hải quân Mỹ. Đây cũng là đơn vị hải quân trực thuộc Sở chỉ huy các chiến dịch đặc biệt của quân đội Mỹ (US Special Operations Command). Biệt kích SEAL thường xuyên triển khai chiến dịch trên khắp thế giới nhằm bảo vệ các lợi ích của Mỹ. Tổng cộng có 2.500 thành viên trong lực lượng SEAL và họ lấy tên gọi này vì có môi trường hoạt động cả trên biển, trên không và trên đất liền. Nhưng SEAL vẫn có kỹ năng nổi trội hơn cả trong các chiến dịch trên biển và họ được biết đến nhiều nhất trong quân đội Mỹ vì chiến thuật này. Các sứ mệnh của SEAL có thể đa dạng từ chiến đấu, chống khủng bố đến giải cứu con tin. Một cựu thành viên kỳ cựu của SEAL có tên Don Shipley nói với BBC: "Để trở thành thành viên của SEAL, bạn cần phải có tố chất vượt trội như khả năng quan sát, trí thông minh cao hơn bình thường và sức chịu đựng ghê gớm". Lực lượng đặc nhiệm này cũng nổi tiếng vì tiêu chuẩn lựa chọn và huấn luyện khắt khe bậc nhất trên thế giới, với tỷ lệ ứng viên bị loại trong quá trình đào tạo là 80 đến 85%. Stew Smith, một cựu thành viên SEAL trong suốt 8 năm cung cấp thông tin cho những ai muốn gia nhập biệt đội này. Anh cho biết trong 6 tháng đầu huấn luyện, các thành viên phải trải qua nhiều kỹ năng khó, đặc biệt là kỹ thuật tấn công cơ bản dưới mặt nước (Buds). Kỹ năng này gồm một giai đoạn hành động kéo dài liên tục trong 120 tiếng, bao gồm cả bơi, chạy, vượt chướng ngại vật, lặn và định vị mục tiêu. Khoá huấn luyện Buds mới đây của SEAL đã loại tới 190 trong tổng số 245 người được tuyển mộ ban đầu. Sau khi trải qua giai đoạn đào tạo này, những người còn trụ lại được sẽ chính thức trở thành thành viên của biệt đội hải quân Mỹ. Nhưng họ vẫn cần thêm 12 tháng huấn luyện chung với các đồng đội, trước khi có thể được giao nhiệm vụ, theo lời Stew Smith. Biệt kích SEAL hoạt động cả trên biển, trên không và trên bộ. Ảnh: Navy. Đơn vị tiền thân của SEAL có từ Chiến tranh thế giới thứ II là lực lượng chuyên phá huỷ mục tiêu của đối phương do hải quân Mỹ tổ chức, với kỹ năng chiến đấu đặc biệt là đổ bộ tấn công từ tàu. Lực lượng này từng tham gia cuộc tiến chiếm Bắc Phi năm 1942. Sự phát triển của SEAL đi tới bước ngoặt kể từ sau sự kiện Tổng thống Mỹ John Kennedy công bố gói kinh phí trị giá 100 triệu USD, nhằm tăng cường sức mạnh các đơn vị đặc nhiệm của nước này trong những năm 60 của thế kỷ trước. Sau đó biệt kích SEAL đã được tung vào hàng loạt các chiến trường từ Việt Nam, Grenada tớ Panama. Trong những năm gần đây, lực lượng SEAL thường xuyên tham gia các sứ mệnh tại chiến trường Afghanistan và Iraq. Tuy nhiên, vai trò của biệt đội này trong vụ tiêu diệt trùm khủng bố Al-Qaeda Osama bin Laden sẽ là chương mới trong lịch sử đặc nhiệm Mỹ, do biệt đội tinh nhuệ nhất của SEAL là ST6 thực hiện.
[BDV news]
|
Nhãn:
Afghanistan,
Bắc Phi,
Biệt đội ST6,
Biệt kích Mỹ,
Iraq,
Lực lượng đặc nhiệm SEAL,
Mật danh Geronimo,
Osama bin Laden,
Quân đội Mỹ,
SEAL Team Six,
Trùm Al-Qaeda
Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011
>>'Người thừa kế' của Bin Laden
Anwar al-Awlaki, đồng thời là một học giả Hồi giáo ở Yemen được truyền thông phương Tây giới thiệu là một trùm khủng bố toàn cầu.
Kỳ 1: "Trùm khủng bố" sinh ra trong lòng nước Mỹ CIA đã phải dùng đến cụm từ “kẻ thù nguy hiểm nhất với nước Mỹ hiện nay” khi nhắc đến Anwar al-Awlaki. Người cha danh giá Anwar al-Awlaki là người Mỹ gốc Yemen, sinh ngày 22/04/1971 tại Las Cruces, New Mexico, trong một gia đình tri thức. Cha Anwar al-Awlaki, Nasser al-Awlaki, là một nghiên cứu sinh Yemen đến Mỹ do đạt được học bổng Fulbright. Năm 1971, ông Nasser bảo vệ thành công luận văn Thạc sỹ tại ĐH New Mexico. Bốn năm sau, ông được cấp bằng Tiến sỹ của ĐH Nebraska và tham gia giảng dạy, nghiên cứu ở ĐH Minnesota cho tới năm 1977. Đến năm 1978, ông đưa cả gia đình trở về quê hương Yemen. Năm ấy, Anwar al-Awlaki đã được 7 tuổi. Ông Nasser al-Awlaki, cha đẻ của trùm khủng bố Anwar al-Awlaki, trong một cuộc phỏng vấn do đài CNN thực hiện vào tháng 02/2010. Ảnh: CNN. Sau khi trở về quê hương, ông Nasser tham gia giảng dạy ở ĐH Sana'a. Đây là một trong những ngôi trường lớn nhất Yemen, được thành lập vào năm 1970 ở thủ đô Sana'a. Hiện tại, ĐH Sana’a có tới 14.000 sinh viên, có nhiều phần tử cực đoan theo học ở đây như John Walker Lindh, có biệt danh “American Taliban”. Ở quê nhà, ông Nasser thăng tiến rất nhanh và trở thành hiệu trưởng của ĐH Sana’a vào năm 2001. Ông còn nắm giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trong 2 năm, và là cố vấn kinh tế cho Tổng thống Yemen trong 4 năm. "Trùm khủng bố" sinh trưởng ở Mỹ Sinh ra ở Mỹ, sống ở đó tới năm 7 tuổi và có giọng Mỹ rất đặc trưng nhưng điều làm al-Awlaki tự hào lại là dòng máu Yemen chảy trong huyết quản. Trở về quê hương vào năm 1978, thời niên thiếu của al-Awlaki gắn liền với những bài giảng của kinh Koran và giáo lý đạo Hồi. Có xuất thân danh giá nên al-Awlaki không phải quan tâm tới việc mưu toan cho cuộc sống như nhiều đứa trẻ cùng trang lứa. Anwar al-Awlaki theo học trường Azal Modern và hưởng thụ những chế độ đãi ngộ giáo dục tốt nhất. Trong thời gian này, al-Awlaki dành nhiều thời gian để nghiên cứu về đạo Hồi. Năm 1991, al-Awlaki ta trở lại Mỹ để theo học chương trình kỹ sư xây dựng tại ĐH Colorado, bằng học bổng của Chính phủ Yemen và sử dụng visa dành cho sinh viên nước ngoài (dù có quốc tịch kép: Yemen và Mỹ). Nếu sử dụng quốc tịch Mỹ khi đăng ký các chương trình giáo dục tại đây thì al-Awlaki sẽ được hưởng những chính sách đãi ngộ tốt hơn nhưng al-Awlaki ta kiên quyết không sử dụng ưu thế này. Các nhà phân tích suy diện hành động này cho thấy al-Awlaki ý thức rất rõ về gốc gác Yemen, đạo Hồi của mình và có ý Mỹ. Sinh ra ở nước Mỹ nhưng Anwar al-Awlaki luôn tự hào về gốc gác Yemen của mình. Ảnh: Telegraph. Ban đầu, al-Awlaki miễn cưỡng theo học ở nước Mỹ chỉ để làm vừa ý cha mình, nhưng chính chuyến trở lại nước Mỹ này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của al-Awlaki sau này. Trong thời gian học đại học, bằng tài hùng biện và sức thu hút mạnh mẽ, al-Awlaki nhanh chóng dành được sự tín nhiệm từ nhiều sinh viên đến từ thế giới Hồi giáo học tại Mỹ. Thậm chí, al-Awlaki được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội Sinh viên Hồi giáo (MSA) ở Mỹ. Anwar al-Awlaki và những lãnh đạo của MSA luôn tránh đụng chạm đến các vấn đề chính trị, thay vào đó họ quan tâm nhiều hơn đến việc thay đổi hình ảnh tiêu cực của thế giới Hồi giáo trong mắt người Mỹ. Tuy nhiên, trên cương vị chủ tịch MSA, al-Awlaki đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều thành phần cực đoan và những tư tưởng cực đoan dần định hình trong suy nghĩ của ông ta. Mùa hè năm 1993, al-Awlaki đã tới Afghanistan và tham gia một khóa đào tạo với các thành viên lực lượng “thánh chiến” Mujahedin, những người từng chiến đấu với quân đội Liên Xô trong giai đoạn 1979-1988. Chính thời gian này, ngay trong lòng nước Mỹ, một con người đang cố gắng kết nối thế giới Hồi giáo với phương Tây lại được "vun đắp" tư tưởng cực đoan, được "nhào nặn" trở thành "trùm khủng bố", người "kế tục" Binladen, theo cách gọi của phương Tây. Chính Anwar al-Awlaki luôn tự hào mỗi khi nhắc khoảng thời gian này trong cuộc đời mình.
[BDV news]
|
>> Osama bin Laden, những lần "chết giả"
Kể từ sau sự kiện 11/9/200 khi Trung tâm thương mại thế giới tại New York bị khủng bố đánh sập cướp đi sinh mạng của gần 3.000 người, Bin Laden là cái tên luôn nằm ở dòng đầu tiên trong danh sách những kẻ khủng bố nguy hiểm nhất do FBI phát hành và truy nã ráo riết.
Phần thưởng 25 triệu đô la Chính phủ Mỹ dành để trao cho cá nhân hoặc tổ chức nào đó cung cấp thông tin để bắt giữ Osama đến nay vẫn còn để ngỏ. Nơi trú ẩn của Bin Laden vẫn còn là một dấu chấm hỏi lớn cho tới ngày 1/5/2011, tờ The New York Times đưa tin Osama bin Laden thực sự đã bị tiêu diệt trong một đợt truy kích của quân đội Mỹ gần Islamabad ở Pakistan. ADN thi thể của người chết đã được đối chiếu với ADN của em gái hắn và được khẳng định đúng là của Bin Laden. Bin Laden thực sự còn sống hay đã chết? Tuy nhiên, thế giới thông tin này bằng sự thận trọng bởi đây không phải là lần đầu tuyên bố như vậy được đưa ra bởi nơi trú ẩn thực sự của Osama vẫn chưa được biết chính xác. Rất nhiều phương tiện truyền thông đã đưa các tin tức khác nhau liên quan đến những tin đồn khác nhau về nơi trú ẩn của hắn, và các bằng chứng cáo buộc cái chết giả của Bin Laden. Những cái chết giả Thông tin đầu tiên về nơi trú ẩn của Osam xuất hiện tháng 12 năm 2001 và đến nay đã thay đổi rất nhiều địa điểm khác nhau, nhưng được biết nơi trú ẩn chính của hắn vẫn là khu vực núi non nằm giữa biên giới Afghanistan và Pakistan. Tin Osama chết giả lần đầu tiên được phát hành hồi tháng 12/2001 bởi các quan chức Pakistan trích dẫn lời một lãnh đạo Taliban được cho là đã tham gia đám tang của Osama rằng Bin Laden đã chết vì viêm phổi mà không được chạy chữa trong lúc chạy trốn. Thi thể hắn đã được chôn cất tại vùng núi ở phía đông nam Afghanistan. Tuy nhiên, những kẻ che giấu hắn vẫn im lặng và sau đó không lâu, người ta lại thấy hình của hắn xuất hiện trong một đoạn video được gửi lên mạng internet. Nhưng nhiều người vẫn tin rằng Obama thực sự đã bị chết trong năm 2001 và các đoạn băng video sau này là các bằng chứng giả. Tháng 7 năm 2002, CNN trích dẫn lời Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai cho rằng Osama bin Laden "có thể đã chết" sau nhiều tháng không thể thu thập được tin tức gì về hắn. Ông Karzai cho rằng Osama có thể đã chết hoặc bị thương nặng ở đâu đó. Tháng 12 năm 2007, trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện vài tháng trước khi chết, bà Bhutto đã vô tình thừa nhận rằngOsama bin Laden đã chết và "một người đàn ông đã giết chết Osama bin Laden". Các hoạt động khủng bố điển hình Ngày 8 tháng 11 năm 1990, FBI đã đột kích nhà của El Sayyid Nosair ở New Jersey, một thành viên al-Qaeda đã phát hiện rất nhiều bằng chứng về âm mưu khủng bố, bao gồm cả kế hoạch cho nổ tung tòa nhà chọc trời thành phố New York, đánh dấu sự phát hiện đầu tiên về âm mưu khủng bố của al-Qaeda bên ngoài các nước Hồi giáo. Bin Laden tiếp tục lên tiếng công khai chống lại chính phủ Ả Rập đã chứa chấp quân đội Mỹ và hắn đã bị trục xuất. Hắn sống lưu vong ở Sudan, vào năm 1992, nhờ có thỏa thuận với Ali Mohamed. Những năm 1990, al-Qaeda dưới sự lãnh đạo của bin Laden đã tổ chức các cuộc thánh chiến tại Algeria, Ai Cập và Afghanistan, trong đó nổi tiếng nhất là vụ "thảm sát Luxor" ngày 17/11/1997 khiến 62 dân thường thiệt mạng. Năm 1997, Liên minh Bắc đe dọa tàn phá Jalalabad và Bin Laden đã từ bỏ Nazim Jihad chuyển các hoạt động về Tarnak Farms ở phía Nam. Nỗ lực của hắn được đền đáp bằng cuộc tấn công thành phố Mazar-e-Sharif ở Afghanistan bằng cách gửi hàng trăm chiến binh Ả Rập giúp Taliban sát hại 5.000-6.000 người Hazaras. Ngày 11/9/2001, khi một nhóm không tặc gần như cùng một lúc cướp bốn máy bay hành khách hiệu Boeing đang trên đường bay nội địa trong nước Mỹ. Nhóm không tặc lái hai phi cơ lao thẳng vào Tòa Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Manhattan, Thành phố New York – mỗi chiếc đâm vào một trong hai tòa tháp cao nhất, cách nhau khoảng 18 phút. Trong vòng 2 giời, 2 tòa tháp đổ sập khiến 2.974 người thiệt mạng, 24 người mất tích và 19 tên không tặc tử vong.
[Bee news]
|
Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011
>> Mỹ điều 'thần chết' giám sát Trung Quốc
Các UAV MQ-9 Reaper và RQ-1 Predator được điều từ Iraq và Afghanistan tới châu Á - Thái Bình Dương để giám sát các hoạt động quân sự của Triều Tiên, Trung Quốc.
Kế hoạch tăng cường số máy bay không người lái đến khu vực này nhằm đảm bảo khả năng giám sát trên không của Hải quân Mỹ đang đồn trú tại khu vực. Một báo cáo của Lầu Năm Góc cho biết, các UAV này sẽ được rút từ chiến trường Iraq và Afghanistan, Pakistan để thực hiện nhiệm vụ trên. Hiện tại, chưa rõ sẽ có bao nhiêu chiếc UAV được điều động đến khu vực châu Á. Lầu Năm Góc đang có kế hoạch xây dựng mạng lưới UAV trên toàn thế giới tăng cường thêm 33 chiếc RQ-1 Predator (Thú ăn thịt) và 32 chiếc MQ-9 Reaper (Thần chết), cùng với đội ngũ nhân viên hỗ trợ lên đến 12.000 người, kế hoạch này tiêu tốn khoản ngân sách lên đến 5 tỷ USD. Đơn giá cho mỗi chiếc RQ-1 Predator khoảng 5 triệu USD, còn MQ-9 Reaper khoảng 10,5 triệu USD. Các UAV này có thể hoạt động liên tục trong 24 giờ, với tốc độ tối đa khoảng 740km/h. Ngoài chức năng giám sát, cung cấp thông tin tình báo, các UAV này còn được vũ trang các tên lửa không đối đất chính xác, có thể tiêu diệt các mục tiêu trong tình huống khẩn cấp. Dự kiến số UAV được điều động tới đây sẽ đóng quân tại các căn cứ ở Hàn Quốc và Okinawa của Nhật Bản. Năm 2010, Mỹ đã điều động máy bay không người lái RQ-4 Global Hawk đến căn cứ trên đảo Guam. Cùng với các UAV giám sát toàn cầu RQ-4, MQ-9 Reaper và RQ-1 Predator sẽ nâng cao năng lực giám sát các hoạt động quân sự tại khu vực châu Á. Một số nhà phân tích cho rằng, việc điều động thêm các UAV đến khu vực này, Mỹ đang muốn kiểm soát chặt chẽ các hoạt động quân sự, đặc biệt là các hoạt động của Hải quân Trung Quốc.
[BDV news]
|
Nhãn:
Afghanistan,
châu Á - Thái Bình Dương,
Hải quân Trung Quốc,
Iraq,
Lầu Năm Góc,
Mỹ,
RQ-1 Predator,
Thần chết,
Triều Tiên,
trung quốc,
UAV,
UAV MQ-9 Reaper
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)