Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Hà Nội

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hà Nội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hà Nội. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2011

>> Thái độ của Trung Quốc quyết định tình hình biển Đông



Đó là nhận định của ông Minxin Pei, người Mỹ gốc Hoa, sinh ra tại Thượng Hải, Trung Quốc. Ông Minxin Pei là giáo sư làm việc ở Trường Cao đẳng Claremont McKenna, cố vấn cấp cao của Carnegie Endowment for International Peace, một tổ chức phi lợi nhuận tư nhân của Mỹ, chuyên thực hiện việc thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia và thúc đẩy các hoạt động quốc tế của Mỹ.

Dưới đây là bài phân tích của ông Minxin Pei về tình hình biển Đông, đăng trên trang Diplomat:

Trước khi có bài phát biểu nêu rõ “lợi ích quốc gia” của Mỹ tại biển Đông của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, Trung Quốc được xem như là đang nắm thế thượng phong trên biển Đông sau nhiều năm chịu khó đeo đuổi chính sách “ngoại giao quyến rũ” trong khu vực.

Tuy nhiên, việc nghĩ mình đã nắm thế thượng phong đã khiến Bắc Kinh phạm phải những sai lầm ngoại giao “ngớ ngẩn”.

Sự kiện đụng chạm với tàu Hải quân Mỹ, phản đối và “thách thức” sự hiện diện của Mỹ tại châu Á, các hoạt động phá rối đối với các dự án khai thác dầu mỏ trên biển Đông, khiến Washington phải xem xét lại chiến lược của mình tại châu Á nói chung và ASEAN nói riêng.

Các nước có tranh chấp trực tiếp với Bắc Kinh về chủ quyền biển đảo cũng buộc phải xem xét lại các chính sách của mình đối với sự “leo thang” các hành động của Bắc Kinh.

Bài phát biểu của bà Hillary Clinton tại diễn đàn ARF tại Hà Nội vào tháng 7/2010 được xem là một cú “sốc” đối với Bắc Kinh. Điều đó đã góp phần làm thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực.

Phát biểu của Washington đã khiến các quốc gia ASEAN tự tin hơn với những tuyên bố của mình. Còn Bắc Kinh đã tự đặt mình vào thế bị cô lập trong các tranh chấp trên biển Đông.



Tự tin với sự trỗi dậy của tiềm lực quân sự, Trung Quốc đã quên chính sách "dấu mình chờ thời" mà cố lãnh đạo Đặng Tiểu Bình của nước này căn dặn?


Ngoài ra, cần phải kể đến phản ứng “vụng về” trong việc che đậy những mối đe dọa về sự phát triển của quân đội đối với các nước trong khu vực khiến các họ không thể không lo lắng.

Năm 2010, được xem là đỉnh điểm của những sai lầm ngoại giao của Bắc Kinh, một năm tồi tệ đối với chính sách đối ngoại của Bắc Kinh từ năm 1989 đến nay.

Để sửa chữa những sai lầm này, năm 2011, Bắc Kinh đã thúc đẩy một loạt các hoạt động ngoại giao. Thay đổi cách nhìn nhận về sự hiển diện của Mỹ tại châu Á, cải thiện quan hệ với Nhật Bản. Thế nhưng, sự căng thẳng trên biển Đông diễn ra gần đây được xem là một “nút thắt” đối với hình ảnh của Bắc Kinh trên trường quốc tế.

Trong các tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, tranh chấp Việt-Trung diễn ra căng thẳng nhất. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang ở thế yếu đối với luật pháp quốc tế. Căn cứ theo công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Bắc Kinh sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc chứng minh các đảo và bãi đá ngầm tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có liên quan đến thềm lục địa Trung Quốc.

Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn khăng khăng tuyên bố chủ quyền của mình tại đây, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974, và lấy đó làm cơ sở để đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Sự đòi hỏi này chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982. Từ đó, gây ra những sự quấy rối và phá hoại các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam cũng như các đối tác nước ngoài hợp tác với Việt Nam, cũng như các quốc gia khác trong ASEAN.

Rõ ràng, thái độ của Bắc Kinh có ý nghĩa quyết định tình hình tại đây, Bắc Kinh cần thể hiện bản lĩnh của một nước lớn, sự tôn trọng luật pháp quốc tế. Cộng đồng quốc tế đang thể hiện xu hướng ủng hộ các bên yếu hơn trong các tranh chấp biển đảo.

Trước mắt, Bắc Kinh nên tạm dừng các hoạt động tuần tra của mình trên vùng biển tranh chấp để tránh các xung đột có thể phát sinh. Cung cấp các đề xuất cụ thể với các nước trong khu vực để tránh các xung đột tương lai.

Những biện pháp nói trên cần phải được thực hiện một cách đa phương hóa để tiếp thu những sáng kiến ngoại giao từ cộng đồng quốc tế. Đó cũng là cách để khẳng định những đòi hỏi của Bắc Kinh là có cơ sở pháp lý.

Một số ý kiến tại Trung Quốc cho rằng, việc ký kết các quy tắc ứng xử là không cần thiết, đó không phải là một sự lựa chọn mang tính ràng buộc đối với Bắc Kinh. Tuy nhiên, với một quốc gia đã có ý định phát triển quân đội một cách mạnh mẽ, đã gây ra những lo lắng cho cộng đồng quốc tế, những hành động cụ thể hóa cho tuyên bố “trỗi dậy hòa bình” là điều không thể không làm để chứng minh tuyên bố của Bắc Kinh là có cơ sở và đáng tin cậy.



[BDV news]



Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

>> Nguy cơ xung đột Việt-Trung có leo thang?



Sự kiện biểu tình chống chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh hôm Chủ nhật để lại dư âm mạnh mẽ trong dư luận.



Biểu tình hôm 05/06 tại Hà Nội


Hàng trăm người đã xuống đường tuần hành một cách hòa bình để phản đối việc Trung Quốc gây hấn và phá hoại thiết bị tàu khảo sát địa chấn của Việt Nam ngay trong vùng kinh tế đặc quyền (EEZ) của Việt Nam.
Cùng lúc, đại diện của Chính phủ Việt Nam cũng mạnh mẽ đề cập sự kiện này trên các diễn đàn quốc tế.

Hôm thứ Ba 07/06, Trung Quốc đã chính thức phản đối việc mà nước này gọi là "đợt bùng phát" xung quanh tranh chấp chủ quyền ̉ Biển Đông và yêu cầu Việt Nam có hành động xử lý và ngăn chặn những việc làm tương tự.

Liệu hành động của Việt Nam và phản đối của Trung Quốc có dẫn tới một sự leo thang xung đột hay không? BBC đã hỏi chuyện một số học giả và nhà nghiên cứu.

Giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc châu: Bắc Kinh đang theo đuổi chiến lược ngoại giao nâng cấp nhằm tăng cường tuyên bố chủ quyền Biển Đông, chiến lược này luôn luôn mô tả Trung Quốc như là nạn nhân của các nước khác.

Nay mọi chỉ trích đang được Trung Quốc đổ về Hà Nội và Manila, trong khi Trung Quốc tuyên bố chỉ làm công việc "thực hiện" chủ quyền thông qua các hoạt động bình thường.

Hiện tại các tàu hải giám dân sự, chứ không phải tàu hải quân, tham gia các vụ mới rồi. Các tàu này nhằm vào tàu khảo sát dầu khí không có vũ trang của các quốc gia khác. Tuy nhiên theo Philippines thì hồi tháng Hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã bắn cảnh cáo tàu cá của nước này.

Nếu như Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền một cách hung hăng như hiện nay thì hậu quả sẽ là Hà Nội và Manila điều tàu hải quân có vũ trang hộ tống tàu thăm dò. Việt Nam thực tế đã tăng số tàu hộ tống tàu thăm dò Bình Minh 02 sau vụ rắc rối hôm 26/05.

Điều này làm tăng quan ngại và tăng nguy cơ xung đột vũ trang trong khu vực, tuy nhiên tôi vẫn cho rằng hiện khả năng xảy ra đụng độ hải quân là thấp.

TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ: Về sự phản ứng của phía Trung Quốc trước dư luận của người Việt Nam trong và ngoài nước, đánh giá của tôi là không có gì khác so với các lần trước đây. Họ phải nói như vậy thôi.

Biểu lộ của người dân Việt Nam trước các hành động sai trái là tình cảm hết sức chính đáng, với điều kiện sự biểu lộ tình cảm đó tôn trọng luật pháp, không làm gì đáng tiếc để bị lợi dụng gây bất ổn chính trị-xã hội và ảnh hưởng công tác đối ngoại. Tôi theo dõi thì thấy các bạn tham gia biểu tình đã làm được việc đó, tuân thủ luật pháp, không làm xảy ra điều gì đáng ngại.

Có ý kiến cho rằng, Chính phủ Việt Nam đã lên tiếng hết sức mạnh mẽ trong sự kiện tàu Bình Minh 02, thì nhận xét của tôi là những phát biểu chính thức của Nhà nước và các vị lãnh đạo Bộ Quốc phòng là hết sức hợp lý và đúng đắn trước hành động xâm phạm lần này của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

Những gì xảy ra với tàu thăm dò Việt Nam hoàn toàn không ở trong vùng tranh chấp, mà Trung Quốc lại ngang nhiên tuyên bố đây là vùng tranh chấp.

Vậy cho nên, tôi cho rằng, các tuyên bố vừa rồi hết sức hợp lý, đủ mức cần thiết để nói cho Trung Quốc và quốc tế biết là Việt Nam có hoàn toàn đầy đủ cơ sở để bảo vệ chủ quyền. Thêm nữa, trong sự kiện vừa rồi Việt Nam đã hết sức kiềm chế với chủ trương giải quyết hòa bình mọi tranh chấp, để không xảy ra đụng độ, châm ngòi lửa ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định trong khu vực.

Tôi ca ngợi thái độ của Nhà nước chúng tôi trong vụ này.

Những điều cần làm theo tôi là phải tiếp tục tiến hành các hoạt động chính đáng trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Song song cần tiếp tục đấu tranh nếu có vi phạm theo đúng thủ tục luật pháp và thực tiễn quốc tế, sử dụng các công cụ luật pháp để thể hiện quyền của mình.

Đương nhiên Chính phủ cần phải tiếp tục tuyên truyền giải thích tính chất các vụ việc, vi phạm xảy ra và giải pháp ứng xử cho dư luận được biết.

TS Vương Hàn Lĩnh, Viện Luật pháp Quốc tế thuộc ĐH Khoa học Xã hội Trung Quốc: Tôi có được biết về các vụ biểu tình ở Việt Nam hôm Chủ nhật.

Vấn đề Biển Đông gây bức xúc cho cả hai bên, và trên các diễn đàn mạng của Trung Quốc, người dân Trung Quốc cũng tỏ ra rất bất bình trước việc Việt Nam biểu tình.

Tôi cho là nếu không có việc chính phủ bật đèn xanh, thì biểu tình không thể xảy ra được ở Việt Nam. Hãy nhớ sau các cuộc biểu tình cuối năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã cố gắng ngăn chặn biểu tình như thế nào.

Quan điểm của tôi là các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông phải được dàn xếp một cách hòa bình giữa hai nhà nước, thông qua thương lượng. Những cuộc biểu tình như vừa qua sẽ không giúp ích gì cho tiến trình này.


[Vietnamdefence news]



Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011

>> Mỹ cảnh báo Trung Quốc về Biển Đông



Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates hôm 4/6 đã cảnh báo rằng, có những “quan ngại ngày càng gia tăng” về hành động khiêu khích gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông và các vùng biển tranh chấp khác tại châu Á.




Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates Ảnh: Reuters


Gần đây, cả Việt Nam và Philippines đã cáo buộc Trung Quốc hành xử gây hấn ở Biển Đông, làm căng thẳng thêm leo thang ở vùng biển vốn luôn có tranh chấp này.
“Tôi e rằng nếu không có quy tắc của đường đi và phương pháp tiếp cận thống nhất để giải quyết những vấn đề này thì còn sẽ có đụng độ”, ông Gates nói tại Đối thoại Shangri-La, một diễn đàn an ninh cấp cao châu Á.

Khi được hỏi liệu hành động của Trung Quốc có làm xói mòn “câu thần chú” của Bắc Kinh rằng, Trung Quốc đang theo đuổi “sự gia tăng hòa bình”, ông Gates nói: “Tôi không nghĩ rằng tới mức độ ấy”.

Chỉ một tuần trước đây, Việt Nam đã phản đối Trung Quốc “vi phạm nghiêm trọng” luật pháp quốc tế sau khi tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp dầu khí một tàu thăm dò của Việt Nam lúc tàu này tiến hành khảo sát trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam.
Sau đó, Manila đã phản đối Trung Quốc về việc một tàu nước này đã tháo dỡ vật liệu xây dựng ở bãi đá ngầm tại Biển Đông mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Philippines cho rằng, thực sự quan ngại khi Bắc Kinh có thể từ bỏ thỏa thuận từ chín năm trước rằng không bắt đầu xây dựng công trình mới ở khu vực tranh chấp tại Biển Đông.

Trong khi ông Gates bày tỏ quan ngại về các vụ việc liên tục xảy ra gần đây, thì bình luận của ông dường như đã “dịu” hơn so với cách tiếp cận đầy cứng rắn trong năm ngoái của chính phủ Mỹ. Tại hội nghị tương tự vào năm 2010, ông Gates đã kêu gọi Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế. Tháng sau đó, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã khiến Bắc Kinh nổi giận khi trong một chuyến thăm Việt Nam đã tuyên bố, Mỹ có lợi ích quốc gia ở Biển Đông.

Tuyên bố cứng rắn của Mỹ năm ngoái là một phần phản ứng lời kêu gọi của các quốc gia Đông Nam Á về vai trò mạnh mẽ hơn của Mỹ trong khu vực để cân bằng với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington sau đó lại làm dấy lên lo lắng rằng, một cường quốc hải quân hiện thời và một Trung Quốc đang trỗi dậy có thể đi vào một cuộc xung đột ở nước láng giềng của họ.
Hôm thứ Sáu, ông Najib Razak, Thủ tướng Malaysia, cũng nhấn mạnh sự quan ngại về tình hình căng thẳng ở Biển Đông khi kêu gọi một trật tự an ninh mà không ép buộc các nước trong khu vực phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc.

Trong khi đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục cam kết theo đuổi con đường “gia tăng hòa bình”. Học thuyết này bao gồm việc đảm bảo rằng sự gia tăng kinh tế, chính trị và quân sự của Trung Quốc sẽ không đặt ra mối đe dọa nào với các nước khác, và rằng Bắc Kinh sẽ không tìm kiếm vai trò bá quyền.

Ông Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc và là đại biểu cấp cao nhất mà Bắc Kinh cử tới Đối thoại Shangri-La sẽ nhắc lại thông điệp trên khi ông phát biểu ở diễn đàn vào hôm nay (5/6).

Thái độ “dịu hơn” của Washington với Trung Quốc xuất hiện khi hai nước tìm kiếm các cuộc đối thoại quân sự sâu sắc hơn. Hôm thứ Sáu, các đại biểu Mỹ và Trung Quốc đã tiến hành hội đàm song phương mà hai bên mô tả là “khá thân mật”. Tháng trước, ông Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã có chuyến công du kéo dài một tuần lễ tới Mỹ.

Ông Gates, người đang thực hiện chuyến thăm châu Á cuối cùng trước khi rời nhiệm sở vào cuối tháng này, nói tại diễn đàn an ninh cấp cao rằng, Mỹ sẽ vẫn duy trì “cam kết quân sự mạnh mẽ” và tăng cường các cuộc thăm cảng, các thỏa thuận hải quân trong khu vực. Ông cũng bác bỏ những quan ngại về áp lực ngân sách với Lầu Năm Góc khi Mỹ đối mặt với tình trạng thâm hụt tài chính trong khi ngân sách quân sự Trung Quốc lại tăng không ngừng nghĩa là ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực sẽ giảm sút.

Ông khẳng định: “Tôi đặt cược 100 USD rằng, năm năm kể từ bây giờ ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này là mạnh nếu không phải là mạnh hơn như ngày nay”.
[Vietnamnet news]


Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

>> ASEAN nóng vì Biển Đông



Kể từ sau khi Hà Nội bác bỏ quan điểm của Bắc Kinh trong vụ tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông, báo chí các nước trong khu vực nóng lên từng ngày với các bài đưa tin và bình luận.

The Nation, Thái Lan

Sau 15 năm ngoại giao lặng lẽ và kiên nhẫn trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông, các nước Asean và Trung Quốc dường như đã mệt mỏi bởi không đạt tiến triển cũng như một cơ chế phát triển chung. Số lượng các vụ va chạm hoặc xâm nhập tăng lên trong hai năm gần đây. Philippines và Trung Quốc vừa có một tranh cãi ngoại giao lớn hồi tháng ba khi tàu Trung Quốc đụng độ tàu Philippines.



Hải quân trên đảo Trường Sa Đông đang canh giữ vùng biển đảo thiêng liêng của tổ quốc. Ảnh: Nguyễn Hưng.

Tuyên bố về quy tắc ứng xử trên biển Đông ký giữa Asean và Trung Quốc năm 2002 đã có đóng góp phần nào duy trì ổn định trên Biển Đông trong những năm qua, nhưng việc thiếu một cơ chế ràng buộc khiến cho tình hình trong tương lai trở nên khó đoán. Các nước trong Asean đang mong muốn sớm có bộ quy tắc ứng xử làm cơ sở cho việc giải quyết trong hòa bình.

Cuộc tranh chấp mang tính khu vực suốt 15 năm qua đã có bước chuyển quan trọng vào tháng 7 năm ngoái khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nêu ra vấn đề an ninh và tự do hàng hải ở Biển Đông, tỏ ra ủng hộ mạnh mẽ hơn đối với quan điểm của Asean. Đi xa hơn, Mỹ còn đề nghị trợ giúp các bên tìm giải pháp ngoại giao.

Điều này chắc chắn đã khiến Ngoại trưởng Dương Khiết Trì của Trung Quốc không bằng lòng. Trong những năm gần đây Bắc Kinh dường như có xu hướng muốn giải quyết tay đôi với từng bên trong tranh chấp ở Biển Đông, trong khi Asean nghiêng về một tiếng nói chung.

Daily Inquirer, Philippines

Nhật báo hàng đầu của quốc đảo này cho biết các quan chức quốc phòng và giới quân sự cấp cao đang họp bàn cách tăng cường lực lượng quân sự trước những hành động mới đây của Trung Quốc trên biển Đông.

Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin nói, ông muốn Asean có sự tham gia nhiều hơn nữa trong giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. "Chúng tôi muốn nói chung một tiếng nói của Asean".

Gazmin cũng khẳng định Philippines lựa chọn các giải pháp ngoại giao chứ không đối đầu quân sự.

Manila Standard, Philippines

Tổng thống Philippines Benigno Aquino III đã cảnh báo Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt trong chuyến thăm gần đây của ông này tới Manila rằng, bất cứ hành động khiêu khích nào trong khu vực tranh chấp tại Biển Đông có thể kích động cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực.

Ông Aquino hy vọng sẽ nêu vấn đề Biển Đông trong cuộc gặp gỡ với Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah tuần này. "Chúng ta có rắc rối chung đó là vấn đề Biển Đông", Aquino nói.

"Chúng ta cần có một sự thống nhất trong nội bộ ASEAN. Đó sẽ là cách thức chúng ta giải quyết vấn đề ở Biển Đông".

The Edge, Malaysia

Báo này hôm 31/5 dẫn lời của Bộ trưởng Quốc phòng Malaysia Ahmad Zahid Hamidi cho hay, Mỹ muốn làm rõ với các nước Đông Nam Á rằng sự hiện diện của Mỹ chỉ nhằm duy trì sự ổn định trong khu vực giàu tài nguyên này.

"Họ muốn đảm bảo rằng các nguồn tài nguyên cần được chia sẻ và sử dụng cho sự phát triển của các nước liên quan", ông nói sau khi tiếp Tư lệnh hạm đội Thái Bình dương của Mỹ, Đô đốc Robert Williard.

Ahmad Zahid bình luận rằng việc đối thoại giữa các bên liên quan là nhằm ngăn chặn xung đột có thể xảy ra giữa các nước đang cùng tuyên bố chủ quyền các vùng tranh chấp ở Biển Đông.

Bangkok Post, Thái Lan

Bài bình luận của báo này có tiêu đề "Vấn đề cũ, mối đe dọa mới", cho rằng Biển Đông là một trong những khu vực biển nguy hiểm nhất thế giới, bởi ngoài thiên tai còn tồn tại tranh chấp quốc tế.

Sau một thời gian yên tĩnh, những cơn gió mới lại đang quét qua chính trị Biển Đông.

Cần có sự hợp tác xuyên biên giới, và cả may mắn nữa, để tránh xảy ra xung đột.

Japan Times, Nhật Bản

Báo tiếng Anh hàng đầu của Nhật đăng bài bình luận của Michael Richardson, nghiên cứu viên cấp cao của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á với tựa đề "Trung Quốc tăng cường khai thác và hăm dọa".

Richardson viết: "Trung Quốc vừa khánh thành một giàn khoan dầu khí khổng lồ nhằm củng cố cho những tuyên bố về cái gọi là chủ quyền của họ đối với các đảo, vùng nước, đáy biển ở chính vùng biển là trái tim của Đông Nam Á.

Trung Quốc đòi kiểm soát tới 80% biển Đông, xa về phía nam đến tận ngoài khơi các đảo Natuna của Indonesia và bang Sarawak của Malaysia. Nhưng cho đến nay các hoạt động khai thác dầu khí của Trung Quốc chủ yếu ở phía bắc của Biển Đông. Nay, với sức mạnh quân sự tăng lên cũng như cơn khát nhiên liệu cho nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh, họ ngày càng ngang nhiên trong việc khẳng định và thực thi các tuyên bố về chủ quyền trên Biển Đông để tìm cách khai thác tài ngyên.

Giàn khoan dầu khí khổng lồ nói trên ra mắt cuối tháng 5 với sự phô trương thanh thế trên báo chí Trung Quốc. Giàn cho phép Tập đoàn dầu khí hải dương Trung Quốc khoan khai thác ở độ sâu tới 3.000 mét, gấp 6 lần độ sâu của các giàn khoan của các nước láng giêng. Đây là chiếc đầu tiên trong một loạt giàn khoan lớn mà Trung Quốc có kế hoạch xây dựng.

Với độ cao ngang một tòa nhà 45 tầng, giàn khoan khổng lồ này nếu vừa khoan vừa chế biến xăng dầu, nó có thể gây thảm họa môi trường. Người có nguy cơ gánh chịu thảm họa ấy là các quốc gia có tuyên bố chủ quyền chồng lấn với nhau và với Trung Quốc, ở phía nam Biển Đông. Bản thân Trung Quốc sẽ không sao, bởi nó ở quá xa so với vị trí của giàn khoan nên nếu có tràn thì dầu cũng không tới bờ Trung Quốc.
[Vnexpress news]


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

>> Việt Nam: Ứng viên số 1 cho tiêm kích thế hệ 5 T-50



Theo dự báo của chuyên gia quân sự Nga Konstantin Makienko, trong tương lai Việt Nam có thể mua 24-36 máy bay tiêm kích thế hệ 5 PAK FA T-50.

Sự kiện chính của công nghiệp hàng không Nga năm 2010 là việc bắt đầu bay thử nghiệm mẫu chế thử tiêm kích thế hệ 5. Tuy nhiên, thành tựu kỹ thuật tuyệt vời này của các công trình sư, kỹ sư và công nhân Nga bản thân nó không bảo đảm sự thành công của chương trình.



Bộ Quốc phòng Nga đã công bố ý định mua khoảng 50-70 tiêm kích thế hệ 5 trong giai đoạn đến năm 2020. Có lẽ, trong tương lai, số lượng này sẽ tăng lên và con số 150 hay thậm chí 200 chiếc. Nhưng việc mua sắm một số lượng tương đối ít Т-50 không lý giải thỏa đáng cho những khoản đầu tư hàng tỷ của nhà nước và công ty sản xuất vào công tác nghiên cứu phát triển, hiện đại hóa công nghệ và chuẩn bị sản xuất loạt máy bay này. Và vấn đề ở đây không chỉ là ở quan điểm của giới quân sự, vốn ưa thích các giải pháp rẻ tối đa.

Hạn chế cơ bản đối với việc mua sắm cho quân đội Nga là quy mô khiêm tốn của nền kinh tế Nga. Vì thế, yếu tố có tầm cực kỳ quan trọng để phát triển dự án là tìm kiếm một đối tác quốc tế, có đối tác đó sẽ cho phép chia xẻ gánh nặng tài chính của việc phát triển máy bay và tăng khối lượng hợp đồng chắc chắn. Ngoài ra, việc xúc tiến xuất khẩu máy bay T-50 cũng có tầm quan trọng lớn.

Ấn Độ

Yếu tố đảm bảo không thể đảo ngược chương trình Т-50 là việc Ấn Độ, đối tác kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng chiến lược của Nga tham gia chương trình. Ngày 21.12.2010, trong chuyến thăm Ấn Độ của TT Nga Dmitri Medvedev, hai bên đã ký hợp đồng trị giá 295 triệu USD để thiết kế phác thảo biến thể máy bay tiêm kích thế hệ 5 dành cho Ấn Độ. Sự kiện này có thể coi là dấu hiệu chính thức về sự tham gia dự án của Ấn Độ. Ý nghĩa của nó có thể thậm chí còn lớn hơn chuyến bay ra mắt vào tháng 1.2010 của T-50. Nếu ngày 29.1 là bằng chứng thuyết phục về sự chín muồi về kỹ thuật của chương trình thì ngày 21.12 bảo đảm tương lai thương mại và công nghiệp của nó.

Tồn tại sự phụ thuộc giữa sức mạnh kinh tế của một nước và khả năng của quốc gia đó thực hiện một dự án tiêm kích thế hệ 5. Hiện nay, đang thực hiện các chương trình này có Mỹ với GDP 14,3 ngàn tỷ USD, Trung Quốc (8 ngàn tỷ USD), Nhật Bản (4,4 ngàn tỷ USD) và Nga (2,3 ngàn tỷ USD). Ngoài ra, Hàn Quốc cũng tuyên bố tiến hành dự án chế tạo tiêm kích thế hệ 5, hơn nữa còn có tin Indonesia cũng tham gia chương trình của Hàn Quốc. Tổng GDP của hai nước này là 2,3-2,4 ngàn tỷ USD.

Điều rất đáng chú ý là Pháp (GDP 2,1 ngàn tỷ USD) và Thụy Điển (300 tỷ USD), những nước có các trường phái chế tạo máy bay mạnh và độc đáo, cũng như các tiêm kích thế hệ 4 tuyệt vời lại từ bỏ tham vọng chế tạo máy bay thế hệ 5, điều sẽ dẫn tới việc hai đấu thủ này rời khỏi thị trường trong 15-120 năm tới. Dĩ nhiên, điều đó được lý giải một phần ở việc không có nguy cơ quân sự-chính trị, nhưng nguyên nhân chủ yếu việc từ bỏ tham vọng chế tạo máy bay thế hệ 5 là những hạn chế về tài chính và kinh tế. Nói một cách thẳng thắn thì quy mô nền kinh tế hai nước này không đủ lớn để thực hiện những dự án tốn kém đến thế.

Vị thế chính trị-quân sự của Nga đòi hỏi phải có hệ thống máy bay chiến đấu thế hệ 5 của mình. Cần lưu ý là ở Viễn Đông, Nga tiếp giáp với các nước có yêu sách lãnh thổ chính thức (Nhật Bản) hay tiềm ẩn (Trung Quốc) đối với Nga, hơn nữa cả Trung Quốc và Nhật Bản chắc chắn sẽ có tiêm kích thế hệ 5, có thể cả loại hạng nặng. Ở hướng Tây và Nam, một số nước như Ba Lan hay Gruzia đang thi hành chính sách đối ngoại bài Nga, hoàn toàn có thể sẽ được Mỹ cung cấp tiêm kích thế hệ 5 F-35.

Tuy nhiên trong khi có những đòi hỏi bắt buộc về quân sự rõ ràng để chế tạo Т-50, quy mô GDP của Nga lại đang ở ngưỡng thấp nhất cần thiết được xác định để làm việc đó. Quy mô nền kinh tế Nga xét về sức mua hầu như bằng GDP của Pháp, nước vốn gặp rất nhiều khó khăn khi mua sắm ngay cả tiêm kích thế hệ 4 và hơn nữa là không đặt ra nhiệm vụ chế tạo máy bay thế hệ 5. Điều đó thực tế có nghĩa là đơn thương độc mã Nga chắc chắn có khả năng phát triển tiêm kích thế hệ 5, song chưa chắc có thể mua sắm một số lượng đáng kể máy bay này.

Trong khi đó, tổng GDP của Nga và Ấn Độ là gần 6 ngàn tỷ USD và trên nền tảng kinh tế đó thì việc thực hiện dự án chẳng còn khiến ai phải nghi ngờ. Tham vọng quân sự của Ấn Độ tăng thậm chí nhanh hơn khả năng kinh tế và tài chính của họ. Ngay đánh giá bảo thủ nhất về nhu cầu tiêm kích thế hệ 5 của Không quân Ấn Độ cũng là 300 chiếc. Nhưng chắc chắn, số lượng mua sắm thực tế sẽ vượt đáng kể con số này. Xét tới nhu cầu duy trì ưu thế đối với không quân Pakistan và tạo lập sự cân bằng dù là tối thiểu với không quân Trung Quốc, cũng như việc mua sắm biến thể trên hạm của tiêm kích thế hệ 5 FGFA, tổng số các máy bay này trong Không quân và Hải quân Ấn Độ trong suốt vòng đời của chương trình sẽ lên tới 400-450 chiếc.

Các yếu tố thị trường cơ bản

Т-50/FGFA sẽ được đưa ra thị trường không sớm hơn năm 2018-2020. Điều đó có nghĩa là mọi dự báo về triển vọng xuất khẩu máy bay này sang các nước thứ ba, ngoài Nga và Ấn Độ chắc chắn sẽ không chính xác do không thể tiên lượng thế giới lúc đó sẽ ra sao. Nhưng ngay hôm nay đã hoàn toàn có thể nêu ra những yếu tố then chốt quyết định tiềm năng xuất khẩu Т-50/FGFA.

Những yếu tố quan trọng nhất trong số đó sẽ là:

• giá cả của máy bay tiêm kích thế hệ 5 của Nga-Ấn Độ;

• tiến triển của dự án tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc;

• tiến triển của các hệ thống máy bay không người lái;

• các yếu tố cơ bản đối với thị trường vũ khí nói chung, như mức độ xung đột và trạng thái của nền kinh tế thế giới.

Giá cả của máy bay tiêm kích sẽ quyết định khả năng của các nước tương đối nhỏ mua sắm các máy bay này. Hiện nay, dự kiến theo thời giá năm 2010, đơn giá của Т-50 sẽ là 80-100 triệu USD. Trong trường hợp này, máy bay tiêm kích sẽ vừa túi tiền của tất cả các khách hàng hiện nay mua Su-30, sẽ có ưu thế về giá so với F-35 của Mỹ và vẫn có khả năng cạnh tranh đối với máy bay giả định của Trung Quốc. Điều có ý nghĩa nguyên tắc là phải kiểm soát sự tăng giá không tránh khỏi, đây rõ ràng là sẽ là một trong những thách thức chính đối với các nhà thiết kế máy bay. Xét tới yếu tố trang thiết bị điện tử, cụ thể là hệ thống vô tuyến điện tử đa năng tích hợp, sẽ chiếm phần lớn giá cả của máy bay, nên một trong những phương cách giảm giá có thể là chào bán ra thị trường một biến thể tiêm kích với hệ thống avionics giản lược. Ví dụ như một biến thể với một radar ở mũi, không có các anten lưới ở sườn và cánh.

Khối lượng xuất khẩu Т-50 cũng sẽ phụ thuộc vào tiến độ chế tạo tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc. Máy bay của Trung Quốc có khả năng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh thậm chí nguy hiểm hơn là F-35 của Mỹ. Vũ khí Nga chủ yếu đang bán cho các nước có đường lối đối ngoại và quốc phòng độc lập, những nước thường thích mua vũ khí trang bị không phải của Mỹ. Chừng nào Trung Quốc không có các máy bay đáng nể chào bán thì trên thị trường các quốc gia đó, Nga sẽ vẫn có thế gần như độc quyền hoặc chỉ cạnh tranh với châu Âu. Điều dễ hiểu là sự xuất hiện của máy bay thế hệ 5 của Trung Quốc sẽ dẫn tới sự cạnh tranh trực tiếp, thẳng thừng giữa Т-50 và máy bay tương lai của Trung Quốc.

Cuối cùng, quy mô thị trường sẽ được quy định bởi những xu hướng công nghệ mới mà việc phát triển chúng có thể sẽ làm mất vai trò của máy bay chiến đấu có người lái. Hiện nay, rủi ro chủ yếu kiểu này là sự tiến bộ trong lĩnh vực các hệ thống máy bay tiến công không người lái. Hy vọng là đến năm 2020, yếu tố này sẽ không kịp gây ảnh hưởng tiêu cực đối với thị trường tiêm kích có người lái.

Những khách hàng mua sắm Т-50 nhiều khả năng nhất là các nước sở hữu các tiêm kích hạng nặng Su-27/30 của Nga (hiển nhiên là loại trừ Trung Quốc). Nhưng một tin xấu là khi thay thế Su-30, các nước đó sẽ mua Т-50 chắc chắn không phải với tỷ lệ 1 đổi 1 mà may lắm là 1 đổi 1,5.

Các thị trường triển vọng nhất là các nước Đông Nam Á, những quốc gia mà vì lý do chính trị sẽ không thể xem xét mua sắm máy bay Trung Quốc. Trước hết đó là Việt Nam, cũng như Malaysia và Indonesia. Ngoài ra, trên thị trường Malaysia vẫn có khả năng có cạnh tranh với Mỹ, còn Indonesia ngoài khả năng mua sắm máy bay Mỹ còn có kế hoạch tham gia dự án tiêm kích thế hệ 5 của Hàn Quốc. Bất chấp những rủi ro đó, xác suất mua máy bay Nga-Ấn của cả hai nước này vẫn rất cao.

Với độ chắc chắn cao, có thể dự đoán rằng, cả Algeria cũng sẽ trung thành với máy bay Nga. Liên quan đến một khách hàng truyền thống của vũ khí Liên Xô là Libya thì có sự bất định liên quan đến triển vọng định hướng chính trị không rõ ràng của nước này. Do rủi ro cao về thay đổi chế độ chính trị và hủy bỏ dự án cách mạng Bolivar của TT đương nhiệm Hugo Chavez của Venezuela, cũng rất khó dự báo các đơn đặt hàng của nước này sau năm 2020. Trong trường hợp duy trì chính phủ cánh tả ở nước này, Nga sẽ đụng đầu với công nghiệp hàng không Trung Quốc vốn đã giành nhiều thắng lợi ở đây. Cuối cùng, có thể hy vọng rằng, thị trường tự nhiên đối với máy bay Nga sẽ là một số nước cộng hòa hậu Xô-viết, trước hết là Kazakhstan và Belarus.

Các thị trường tiềm năng của Nga như iran và Sirya nhiều khả năng sẽ bị Trung Quốc chi phối. Đáng tiếc là ban lãnh đạo chính trị Nga sau khi hủy bỏ các hợp đồng bán tên lửa chiến dịch-chiến thuật Iskander-E cho Sirya và hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU2 cho Iran lại đang tích cực tiếp tay cho kịch bản đó.

Mặt khác, có thể có những thị trường hôm nay xem ra không thể sẽ mở ra cho Nga sau 10-20 năm nữa. Thái Lan từng suýt nữa mua Su-30. Sau 20-30 năm nữa, tiềm lực kinh tế khổng lồ đang ngủ yên của Myanmar có thể sẽ thức dậy. Đối với Argentina thì việc mua sắm Т-50 sẽ là giải pháp đối phó phi đối xứng tuyệt vời đối với kế hoạch của Brazil mua sắm 36 và trong tương lai là 120 chiếc Rafale của Pháp. Có thể phỏng đoán mãi như thế. Hiện nay, có một điều rõ ràng là liên minh Nga-Ấn nhất định sẽ là một trong 3 đối thủ trên thị trường máy bay tiêm kích thế hệ 5 của thế giới. Điều đó có nghĩa là Nga bảo đảm được vị thế cường quốc công nghiệp hàng không thế giới trong suốt nửa cuối thế kỷ XXI.




[Vietnamdefence news]


Thứ Hai, 4 tháng 4, 2011

>> Mỹ cam kết mở rộng quan hệ với Việt Nam



[BDV news] Trong phiên điều trần tại Quốc hội Mỹ hôm qua, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương Kurt M. Campbell khẳng định, chính quyền Tổng thống Obama cam kết mở rộng quan hệ với Việt Nam cũng như các quốc gia đang lớn mạnh khác tại châu Á-Thái Bình Dương.

Trước Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban đối ngoại Hạ viện, ông Campbell trình bày chiến lược của chính quyền Tổng thống Obama nhằm can dự vào châu Á-Thái Bình Dương, khu vực được coi là tạo ra những cơ hội lớn cho nước Mỹ trên nhiều lĩnh vực, kể cả việc mở rộng thị trường cũng như hình thành các mối quan hệ đối tác chiến lược mới.

Ông Campbell đánh giá Việt Nam là một trong những đối tác ngày càng quan trọng của Mỹ (bên cạnh Indonesia, Malaysia, Mông Cổ, New Zealand, Singapore và Ấn Độ).

Ông khẳng định Việt Nam là một trong 8 đối tác đang tham gia đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương của Mỹ và trong các cuộc gặp tại Hà Nội vào năm ngoái, Ngoại trưởng Hillary Clinton và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thỏa thuận sẽ phát triển hơn nữa mối quan hệ song phương thành mối quan hệ đối tác chiến lược.




Ông Campbell khẳng định, chính quyền Tổng thống Obama cam kết mở rộng quan hệ với Việt Nam.


Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho biết, chính quyền ông Obama cam kết thúc đẩy can dự tại các tổ chức đa phương thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) mà Ngoại trưởng Clinton coi là "điểm tựa cho kiến trúc đang nổi lên của khu vực, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF).

Theo ông Campbell, trong năm nay, Tổng thống Obama sẽ dự EAS tại Indonesia và tập trung vào các bước đi mà tổ chức này thực hiện để thúc đẩy an ninh biển tại khu vực, tăng cường năng lực của các nước trong việc đối phó với các thảm họa thiên nhiên và nhân đạo cũng như việc không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Ngoài ra, Mỹ cũng sẽ làm việc với ASEAN để xác định các biện pháp mà Washington có thể hỗ trợ tổ chức này trong việc thực hiện Kế hoạch hành động. Tổng thống Mỹ cũng sẽ đồng chủ trì hội nghị cấp cao Mỹ- ASEAN.

Ông Campbell cho biết, Mỹ đang tiến hành chương trình ba điểm nhằm can dự thành công vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đó là phê chuẩn Hiệp định tự do thương mại Mỹ-Hàn Quốc, đạt tiến bộ quan trọng trong đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và tổ chức thành công APEC.


Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

>> VN nói cuộc tấn công Libya là 'tiền lệ xấu'






[BBC Vietnamese] Chính phủ Việt Nam bày tỏ quan ngại trước các diễn biến mới nhất ở Libya, trong khi Đảng Cộng sản nói việc liên quân tấn công là "không thể chấp nhận được".




Nhanh không kém nước lớn láng giềng Trung Quốc, vốn đã ngỏ ý "tiếc" về hoạt động quân sự của liên quân phương Tây tại Libya, hôm Chủ nhật 20/03, Chính phủ Việt Nam tuyên bố qua người phát ngôn Bộ Ngoại giao:

"Việt Nam lo ngại sâu sắc trước sự gia tăng căng thẳng và những hành động quân sự mới đây tại Libya với nhiều hệ lụy đối với đời sống của người dân Libya và hòa bình, ổn định ở khu vực."

Trước đó, cũng trong ngày Chủ nhật, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra thông cáo nói nước này luôn phản đối việc "sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".

Bên cạnh Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Nga và một số nước khác cũng đưa ra quan điểm tương tự.

Bắc Kinh bày tỏ hy vọng "Libya sẽ sớm khôi phục ổn định và tránh thương vong cho người dân", đồng thời nhấn mạnh rằng Trung Quốc tôn trọng "độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" của quốc gia Bắc Phi.

Về phần mình, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: "Việt Nam kêu gọi các bên kiềm chế, sớm chấm dứt các hoạt động quân sự, tích cực thúc đẩy đối thoại, tìm kiếm giải pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các quốc gia.”

Cả Bắc Kinh và Hà Nội đều không đề cập tới thỏa thuận ngừng bắn giữa quân đội Libya và phe nổi dậy, mà các binh lính trung thành với Đại tá Gaddafi bị cáo buộc vi phạm.

'Khoác áo bảo vệ nhân quyền'
Trong khi đó, báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm thứ Hai 21/03 chạy bài xã luận chỉ trích chiến dịch quân sự của Anh-Pháp-Mỹ tại Libya là "hành động quân sự khoác áo bảo vệ nhân quyền".

Bài xã luận viết rằng cuộc tấn công vào Libya, "một nước độc lập, có chủ quyền" đang "gây đau thương và chết chóc cho người dân vô tội".

Báo Nhân dân đặt câu hỏi: "Phải chăng đây chỉ là cái cớ để can thiệp tình hình nước này?" và trích dẫn một số phân tích gia nói rằng mục đích cuối cùng của chiến dịch quân sự hiện thời là "thiết lập một chính quyền thân phương Tây, tạo ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực".

Dù với bất cứ lý do nào, việc dùng sức mạnh quân sự tiến công Libya là sự xâm phạm một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Ðây là điều không thể chấp nhận được vì tạo tiền lệ xấu trong quan hệ quốc tế.

Xã luận báo Nhân dân
Bài xã luận cũng nói "dư luận quốc tế tỏ rõ nghi ngờ mục tiêu chiến dịch quân sự" của phương Tây tại Libya.

Báo Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Dù với bất cứ lý do nào, việc dùng sức mạnh quân sự tiến công Libya là sự xâm phạm một quốc gia độc lập, có chủ quyền".

"Ðây là điều không thể chấp nhận được vì tạo tiền lệ xấu trong quan hệ quốc tế."

Phản ứng của Việt Nam được cho là không bất ngờ vì Tripoli lâu nay giữ quan hệ khá mật thiết cả về chính trị và ngoại giao với Hà Nội.

Việt Nam và Libya có cơ chế tham khảo chính trị, cùng chia sẻ nhiều quan điểm chung về tình hình quốc tế, nhất là vai trò của Mỹ và các nước phương Tây.

Cũng là quốc gia 'Xã hội Chủ nghĩa', Libya của Đại tá Gaddafi và Việt Nam cùng phản đối can thiệp của nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực dân chủ-nhân quyền.

Truyền thông Việt Nam cũng cho hay đại sứ quán Việt Nam tại Tripoli vẫn an toàn tuy có thể sẽ sơ tán sang một nước láng giềng nếu bạo lực leo thang.


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang