Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Không quân Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Không quân Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Không quân Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

>> Máy bay chống ‘mắt thần’ khai hỏa



Hiện nay, Nga sở hữu một số lượng lớn vũ khí phục vụ cho chiến thuật chế áp đường không (SEAD/DEAD - Supression/Destruction of Enemy Air Defences ).


Tên lửa Kh-31 (NATO gọi là AS-17 Krypton) được sản xuất với 2 biến thể chính là Kh-31A chống hạm và Kh-31P chống radar. Cả 2 loại tên lửa này đều trang bị động cơ ramjet nhiên liệu lỏng và có thể đạt tốc độ tới 1.000 m/s (gần gấp 3 lần tốc độ âm thanh).


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay Su.


Kh-31P thông thường có tầm bắn 110 km với đầu đạn nổ phá-mảnh nặng 87 kg. Tương tự các vũ khí chống radar cũ của Nga, Kh-31P được trang bị 3 loại đầu tìm khác nhau tương ứng với từng loại băng sóng đặc hữu của radar NATO.

Biến thể nâng cấp Kh-31PK sử dụng đầu đạn cảm ứng thay cho đầu đạn thông thường và gia tăng khối lượng đầu đạn tới 88,5kg, do đó, nó có khả năng tiêu diệt những dàn radar có anten phát sóng cao đến 15m. Với đầu đạn chạm nổ, tên lửa chống radar sẽ nhằm tấn công vào bộ phận phát sóng của radar.

Tên lửa Kh-31PD (giữa) có tầm bắn 250 km với đầu đạn 110kg, trang bị đầu tìm đa băng tần có khả năng chống lại nhiều loại radar

Điểm cải tiến quan trọng nhất của Kh-31PD là tên lửa sử dụng đầu tìm đa băng tần mới có tên Avtomatika L-130 cùng với hệ dẫn quán tính tiên tiến giúp nâng độ chính xác của tên lửa và mở rộng khả năng tiêu diệt nhiều loại radar mới.

Hiện nay, theo công bố của Nga, nhiều loại máy bay có thể mang Kh-31PD như Su-30MKI (Ấn Độ), Su-30 MKM (Malaysia), Su-30 MK2 (Trung Quốc, Việt Nam, Venezuela), Mig-29K/KUB (Ấn Độ) và Su-35, Mig-35 của Nga. Một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Venezuela đã trang bị Kh-31P.



Video máy bay Su phô diễn uy lực. Nguồn: Youtube


Ngoài Kh-31, Nga còn sử dụng các tên lửa chống radar Kh-58 hay Kh-58UShKE hiện đại hơn do Viện Raduga thiết kế.

Tên lửa Kh-58UShKE đang là loại tên lửa chống radar hiện đại nhất trong Không quân Nga với chiều dài ngắn hơn (chỉ 4,2 m, ngắn hơn Kh-31PD tới 1,24 m), cánh đuôi có khả năng gập lại rất thích hợp để lắp trong các khoang trong thân máy bay thế hệ 5 PAK-FA của Sukhoi hoặc trang bị với số lượng lớn cho máy bay tiêm kích-bom đa năng Su-34.

Khác với các tên lửa chống radar cũ chỉ có thể dùng tấn công các dàn radar trên mặt đất của đối phương, Kh-31PD hay Kh-58UShKE với tầm bắn xa, tốc độ cao và đầu tìm tiên tiến còn có khả năng tấn công trực tiếp các máy bay cảnh báo sớm (AWACS) của đối phương ngay trên không. Do đó, năng lực SEAD/DEAD của Nga hiện nay vẫn không kém phần đáng sợ, dù "chưa có dịp" thể hiện như vũ khí Mỹ và phương Tây.

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

>> 'Rồng lửa' từ mặt đất (kỳ 2)



S-300 là hệ thống tên lửa đất đối không cực mạnh, có thể ngăn chặn bất cứ nguy cơ nào đến từ máy bay và tên lửa hành trình của đối phương.


Để đối phó những cuộc tiến công đường không ngày càng tinh vi về tính năng kỹ chiến thuật, Liên Xô đã quyết định phát triển hệ thống phòng không mới có thể đánh chặn các mục tiêu ở bất cứ độ cao và tốc độ nào. Không những thế, nó phải linh hoạt về khả năng triển khai, với hệ thống điện tử tích hợp ứng dụng rộng rãi.

Đa chức năng với nhiều biến thể

Trước đòi hỏi đó, Tổng công ty Almaz đã nghiên cứu và phát triển thành công hệ thống tên lửa đất đối không S-300. Đây là hệ thống vô cùng tinh vi, giúp lực lượng phòng không có thể ngăn chặn các loại máy bay và tên lửa hành trình.

S-300 (SA-20) được coi là hệ thống tên lửa chống máy bay mạnh nhất thế giới, có thể cùng lúc theo dõi khoảng 100 mục tiêu, và bắn hạ các mục tiêu cách xa 150 km ở độ cao 27 km, với thời gian triển khai cực nhanh (chỉ 5 phút).

S-300 là hệ thống đa chức năng với rất nhiều biến thể có công dụng khác nhau: S-300V sử dụng trong lục quân, S-300F dành cho hải quân, và S-300P dùng cho phòng không.

Đây cũng là 3 nhánh chính của “gia phả” họ S-300. Các phiên bản cải tiến được trang bị tên lửa khác nhau, trong khi hệ thống radar cũng được “tân trang” để theo kịp những bước phát triển của chiến tranh điện tử.



http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống S-300PMU-1.

Chỉ sau một năm chính thức được triển khai (1979), các tiểu đoàn S-300PMU đầu tiên đã gánh vác trọng trách bảo vệ bầu trời Moskva, các khu công nghiệp, khu vực quốc phòng, biên giới và ven biển.

Dù chưa một tổ hợp tên lửa S-300 nào khai hỏa trong thực chiến, nhưng nó vẫn được coi là hệ thống phòng không rất có năng lực, được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng. “Điểm đến” của S-300 là các nước Đông Âu, Trung Đông, Trung Quốc, Việt Nam…

“Đại nhảy vọt”

Tên lửa trong hệ thống S-300 được dẫn hướng bằng radar 30N6 Flap Lid, hoặc radar hải quân 3R41 Volna, và được điều khiển bằng radar dẫn đường bán chủ động giai đoạn cuối.

Các phiên bản sau này sử dụng radar 30N6 B hay Tomb Stone. 30N6 A có khả năng đồng thời theo dõi 24 mục tiêu, dẫn 4 tên lửa tới 4 mục tiêu, còn 30N6 B có khả năng dẫn 2 tên lửa, với tốc độ Mach 2.5 và Mach 8.5 cho các biến thể sau này.

Tính năng cùng một lúc dẫn nhiều tên lửa tới nhiều mục tiêu so với khả năng dẫn mỗi lần 3 tên lửa cho 1 mục tiêu duy nhất của SAM-2, thì quả là bước nhảy vọt.

Các đầu đạn tên lửa của S-300 nặng khoảng 100 - 143 kg cho từng loại, tất cả được trang bị một kíp nổ tiếp cận và một kíp nổ tiếp xúc. Để gia tăng tính năng, các tên lửa được phóng thẳng đứng, sau khi rời khỏi bệ phóng mới kích hoạt động cơ để tăng tốc và hướng về mục tiêu.


http://nghiadx.blogspot.com
S-300 khai hỏa.


Phiên bản nguyên thuỷ của S-300 sử dụng tổ hợp radar Doppler sóng liên tục 76N6 để quan sát mục tiêu, và radar 30N6 để quan sát, dẫn hướng.

Đối với S-300 đánh chặn tên lửa đạn đạo hay tên lửa hành trình thì sử dụng radar 64N6 Big Bird có khả năng phát hiện tên lửa hành trình ở khoảng cách 300 km, còn đối với tên lửa đạn đạo là 1.000 km, tương đương tên lửa Patriot của Mỹ.

Là nhánh được biên chế cho lục quân, sử dụng radar kênh 9S32-1, S-300V (SA-12) có khả năng chống lại các mục tiêu trên không với tầm tối đa là 100 km, đầu đạn nặng 150 kg với 7 biến thể từ S-300VM đến S-300VMD.

Được bố trí trên xe bánh xích MT-1, S-300V có tính cơ động cao, băng đồng tốt hơn loại được bố trí trên xe bánh lốp. Trong khi đó, S-300F (SA-N-6) là phiên bản dùng trong hải quân có tên lửa 5V55RM tầm hoạt động 7-90 km.

Radar của tổ hợp S-300F là dạng Top Sail, Top Steer, Top Pair và 3R41 dẫn hướng điều khiển với phương thức bán chủ động giai đoạn cuối.

Phiên bản cuối của hải quân là S-300FM với tính năng kỹ chiến thuật được nâng cao, như tên lửa mới 48N6 có tốc độ Mach 6 (khi áp sát mục tiêu lên đến Mach 8.5).

Ngoài ra, hệ thống dẫn hướng kiểu TVM có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn. Phiên bản này được Trung Quốc mua và trang bị trên tàu khu trục Type 051C. Cả 2 phiên bản của hải quân đều có đầu dò hồng ngoại giai đoạn cuối kiểu như tên lửa Standar của Mỹ.

“Quả đấm thép” của phòng không Việt Nam

S-300P (SA-10) là phiên bản nguyên thuỷ của S-300, bắt đầu được triển khai từ năm 1978. Tổ hợp S-300PT có sử dụng radar quan sát 36D6, radar kiểm soát bắn 30N6 và các bệ phóng 5P85-1, ngoài ra cũng có radar quan sát tầm thấp 76N6. Hệ thống được cải tiến đáng kể với việc sử dụng radar mạng pha và có khả năng tác chiến với nhiều mục tiêu trên cùng một hệ thống kiểm soát bắn.

Tuy nhiên, hệ thống này phải mất hơn một giờ để sẵn sàng khai hoả, và phương pháp phóng nóng thẳng nên bệ phóng rất nhanh bị hư hỏng. Những biến thể của S-300P như S-300PT-1 và S-300PT-1A với tên lửa 5V55KD phóng lạnh và giảm thời gian triển khai xuống còn 30 phút.


http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống S-300PMU-2.


S-300PMU-1 (SA-20) là biến thể của S-300PMU được giới thiệu vào năm 1999, có thể tích hợp được trên tàu hải quân, hoặc tác chiến độc lập. Nó có khả năng tiêu diệt máy bay, tên lửa hành trình chiến lược, tên lửa chiến thuật hiện đại và các mục tiêu trên không với tốc độ lên đến 2.800m/giây so với 2.200m/giây của Patriot. Hiện S-300PMU-1 đang được biên chế trong lực lượng phòng không Việt Nam.

S-300PMU-1 sử dụng hệ thống chỉ huy và điều khiển 83M6E được tích hợp radar quan sát và phát hiện 64N6E, radar kiểm soát phóng, điểm hỏa và dẫn hướng 30N6E1. Tên lửa 48N6E được bố trí trong thùng hình trụ có tốc độ Mach 6 và tốc độ tiếp cận mục tiêu tối đa lên đến Mach 8.5, có trần bắn tối đa 27 km và tầm bắn 5-150 km, xa hơn 1,5 lần so với Patriot, 1,2 với Hồng Kỳ 9 của Trung Quốc. Ngoài ra, S-300PMU-1 có thể sử dụng tên lửa mới 9M96E1 và 9M96E2 có đầu đạn chỉ nặng 24 kg, nhưng khả năng tiêu diệt mục tiêu tốt hơn rất nhiều.

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

>> Chi tiết máy bay huấn luyện Yak-130


Theo TSAMTO (trung tâm phân tích mua bán vũ khí toàn cầu), trong tương lai không xa thì Không quân Nhân dân Việt Nam có thể mua một số phi cơ huấn luyện chiến đấu tiên tiến Yak-130.

>> 6-12 chiếc Yak-130UBS sắp về Việt Nam


Sau đây là một số thông tin cơ bản về Yak-130:

Lịch sử thiết kế

Đầu những năm 1990, chính phủ Xô Viết quyết định phát triển máy bay huấn luyện mới nhằm thay thế các máy bay huấn luyện Aero L-29 và L-39.

Bốn nhà thiết kế máy bay hàng đầu Liên Xô tham gia: Sukhoi với mẫu S-54, Myasischev với mẫu M-200, Mikoyan với mẫu MiG-AT và Yakovlev với mẫu Yak-UTS. Năm 1991, hai mẫu S-54 và M-200 bị đánh trượt chỉ còn lại MiG-AT và Yak-UTS.

Việc phát triển Yak-UTS bắt đầu năm 1991 và hoàn thành nguyên mẫu tháng 9/1993. Cùng năm đó, Yakovlev ký thỏa thuận hợp tác với công ty Aermacchi Italia cùng phát triển phi cơ huấn luyện mang tên Yak/AEM-130 (phiên bản cho Nga sẽ mang tên Yak-130 còn của Italia là M-346). Năm 1999, liên minh Yakovlev – Aermacchi tan vỡ, hai bên tiếp tục độc lập phát triển Yak-130 và M-346.

Tháng 4/2002, Yak-130 đã đánh bại đối thủ MiG-AT để trở thành máy bay huấn luyện chiến đấu tiên tiên cho Không quân Nga.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay huấn luyện chiến đấu tiên tiến Yak-130

Tháng 6/2005, Yak-130 lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng tại triển lãm hàng không Parus. Cùng năm đó, Không quân Nga quyết định ký kết hợp đồng đầu tiên mua 12 máy bay Yak-130. Tháng 2/2010, chiếc Yak-130 đầu tiên chuyển giao cho trung tâm huấn luyện của Không quân Nga tại Lipetsk.

Ngoài Nga, năm 2006 chính phủ Algeria cũng ký kết mua 16 máy bay Yak-130. Năm 2010, Không quân Libya cũng đồng ý mua 6 Yak-130, tuy nhiên trong tình hình chính trị rối ren của Libya hiện tại không rõ hợp đồng có được triển khai hay không.

Và trong tương lai không xa, có thể Không quân Việt Nam sẽ nhận 6 - 12 chiếc Yak-130.

Thiết kế

Phiên bản sản xuất hàng loạt Yak-130 có chiều dài 11,2m, cao 4,76m, sải cánh 9,72m, trọng lượng tối đa khi cất cánh 9.000kg.

Yak-130 có thiết kế cánh cụp tối ưu, được chế tạo bằng hợp kim nhẹ với bề mặt làm bằng sợi các bon. Nó được bảo vệ bằng giáp Kevlar ở các phần trọng yếu như: động cơ, buồng lái và khoang chứa hệ thống điện tử.

Cánh cụp được thiết kế nhằm tận dụng lực nâng của cánh và cánh đuôi đặt thấp hơn cánh chính, làm cho mọi chuyển động của máy bay linh hoạt hơn và giúp phi công có thể lựa chọn góc tấn công lớn.


http://nghiadx.blogspot.com
Yak-130 có thể chịu gia tốc trọng trường +8g tới -3g và hoàn toàn có khả năng thực hiện chuyến bay thao diễn đặc biệt huấn luyện phi công lái chiến đấu cơ thế hệ thứ 4 (MiG-29, Su-27/30, EF-2000…)


Để hạ cánh tại sân bay có đường bay ngắn, máy bay trang bị thêm những bộ phận ở cánh nhằm giảm quãng đường cất cánh. Những cánh tà được lắp ở cánh, có thể chuyển động về phía sau, lên xuống để tạo lực nâng và tạo lực cản khi máy bay hạ cánh.

Khung máy bay có tuổi thọ 30 năm với 10.000 giờ bay hoặc 20.000 lần hạ cánh. Máy bay Yak-130 có thể hoạt động ở đường băng không trải nhựa và đường băng nhỏ không chuẩn bị trước.

Hệ thống điện tử hiện đại

Yak-130 được lắp đặt các hệ thống điện tử hàng không cực kỳ hiện đại để đáp ứng yêu cầu huấn luyên phi công lái chiến đấu cơ thế hệ thứ 4.

Buồng lái của máy bay có hai ghế ngồi dành cho: người dạy và học viên bay. Trong buồng lái được lắp hệ thống điều áp không khí, ghế phóng khẩn cấp NPO Zvezda K-36LT3.5.

Phi công có tầm nhìn toàn diện qua vòm kính máy bay, người ngồi trước có tầm nhìn qua mũi máy bay là -16 độ và người ngồi sau là -6 độ. Máy bay có buồng lái với vòm che làm bằng thủy tinh chống đạn. Cả hai phi công đều được lắp khí tài quan sát đêm và 3 màn hình LCD đa năng (hiển thị thông số kỹ thuật bay, tình trạng vũ khí).

Trong buồng lái còn có kênh liên lạc bên ngoài và nội bộ cùng hệ thống cảnh báo bằng giọng nói.

http://nghiadx.blogspot.com
“Nội thất” buồng lái phi công ngồi trước


Hệ thống điều khiển bay “fly-by-wire” sử dụng để điểu chỉnh độ ổn định và những đặc trưng điều khiển, hệ thống an toàn bay tương tự chiến đấu cơ thế hệ 4 MiG-29, Su-27/30, F-14, F-16, F-18, Mirage 2000, Dassault Rafale, EF-2000 và F-35.

Phi công được phép lựa chọn mô hình phần mềm của hệ thống mô phỏng điều khiển trên máy tính của Yak-130 để chọn bài tập bay. Ngoài ra, phi công lựa chọn kiểu bay trong khi đang bay.

Hệ thống điện tử có thể bỏ ghi nhận những sai lầm của phi công, từ đó đánh giá rút ra kết luận về chuyến bay, điều này giúp ích cho việc luyện kỹ năng bay của phi công.

Thiết bị định vị của Yak-130 gồm laze con quay hồi chuyển và hệ thống định vị toàn cầu GLONSS/NAVSTAR.

Máy bay huấn luyện Yak-130 được trang bị radar Osa hoặc Oca do NIIP Zhukovsky phát triển. Radar theo dõi đồng thời 8 mục tiêu trên không, tiêu diệt đồng thời 4 mục tiêu ở tất cả góc độ.

Radar có phạm vi dò tìm mục tiêu có diện tích phản xạ radar (RCS – Radar Cross Section) 5m2 là 40km ở phía sau và 85km ở phía trước. Radar sẽ tự động khóa mục tiêu trong khi bắt bám là 65km.

Thiết bị đối phó điện tử trên Yak-130 gồm: radar cảnh báo sớm, thiết bị gây nhiễu chủ động, pháo sáng (đánh lừa tên lửa tầm nhiệt).

Vũ khí

Bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, trong điều kiện cần thiết thì Yak-130 có thể đáp ứng vai trò máy bay chiến đấu chiến thuật.

Khối lượng vũ khí mang trên máy bay lên tới 3.000kg (giá treo trên cánh và thân) gồm: tên lửa không đối không dẫn đường hồng ngoại R-73, tên lửa không đối đất dẫn đường bằng laze Kh-25ML, tên lửa chống tăng dẫn đường laze 9K121 Vikhr, bom có điều khiển KAB-500Kr (kết hợp với thiết bị quang điện treo dưới thân máy bay hỗ trợ ném bom).

http://nghiadx.blogspot.com
Yak-130 mang được vũ khí của Nga và Phương Tây sản xuất.


Ngoài vũ khí có điều khiển, Yak-130 hoàn toàn mang được vũ khí không điều khiển gồm: rocket B-8M, B18B, bom loại 50kg/250kg.

Máy bay thiết kế với một pháo GSh-301 cỡ 30mm hoặc GSh-23 cỡ 23mm đặt dưới thân.

Cấu trúc mở thiết bị điện tử hàng không cho phép Yak-130 mang vũ khí của phương tây như: tên lửa không đối không tầm ngắn AIM-9L, Magic 2 và tên lửa không đối đất AGM-65 Maverick.

Động cơ

Các máy bay Yak-130 được sản xuất đều lắp hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy AI-222-25 (lực đẩy 2.500kg mỗi động cơ). Tuy nhiên, đối với phiên bản xuất khẩu thì Yak-130 lắp 2 động cơ DV-2SM.

Máy bay đạt tốc độ cận âm 1.060km/h, trần bay trên 12.000m, tầm bay 2.000km. Quãng đường cần cho cất cánh là 380m (tốc độ đạt 210km/h), hạ cánh là 570m (tốc độ đạt 190km/h). Yak-130 có thể lắp thêm cần tiếp liệu trên không nếu khách hàng yêu cầu.

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

>> 6-12 chiếc Yak-130UBS sắp về Việt Nam



TSAMTO của Nga cho biết, Việt Nam sẽ nhận thêm khoảng từ 6-12 chiếc máy bay huấn luyện cao cấp Yak-130UBS vào năm 2015.



http://nghiadx.blogspot.com
Ngoài chức năng chính là máy bay huấn luyện, Yak-130UBS có khả năng thực hiện các phi vụ tấn công hạng nhẹ một cách xuất sắc (ảnh: Airline.net)

Trong khuôn khổ triển lãm hàng không MAKS-2011, phía Nga đã tiến hành bàn giao máy bay huấn luyện cao cấp Yak-130UBS cho Syria.

Số máy bay được giao lần này nằm trong số các máy bay trước đó dự định chuyển giao cho Libya thì gặp phải lệnh cấm của Liên Hợp Quốc.

Số lượng máy bay huấn luyện được chuyển giao không được tiết lộ, nhưng theo nhận định của TSAMTO số lượng chuyển giao khoảng 12-16 chiếc. Tương lai không quân Syria có thể mua thêm từ 24-36 chiếc Yak-130UBS nữa.

Ngoài hợp đồng cung cấp Yak-130UBS cho Syria, Nga đang thực hiện hợp đồng cung cấp 16 Yak-130 UBS cho Algeria, cùng với một hợp đồng chưa được xác nhận cung cấp 8 Yak-130UBS cho Việt Nam.

Những khách hàng tiềm năng khác của máy bay huấn luyện cao cấp Yak-130UBS bao gồm Venezuela, Belarus, Ukraine và Kazakhstan.

Tổng số lượng xuất khẩu của Yak-130UBS đến trước năm 2040 khoảng 500 chiếc. Trong đó số lượng Yak-130UBS sẽ xuất khẩu cho các khách hàng nước ngoài đến năm 2025 khoảng 300 chiếc.

Riêng Việt Nam sẽ bắt đầu mua loạt thứ 2 nhằm thay thế cho các máy bay huấn luyện L-39 giao hàngvào giai đoạn 2015-2025. Số lượng mua dự kiến từ 6-12 chiếc.

Algeria cũng sẽ mua loạt thứ hai nhằm thay thế cho L-39, giao hàng vào giai đoạn từ 2015-2025 số lượng mua dự kiến khoảng 12-16 chiếc. Belarus khoảng từ 6-12 chiếc giai đoạn 2015-2020.

Trong các nước Đông Nam Á, Malaysia sẽ là nước mua số lượng Yak-130UBS nhiều nhất, số lượng mua từ 18-24 chiếc nhằm thay thế máy bay huấn luyện Mk-128 Hawk, giao hàng giai đoạn từ 2025-2030.

Thái Lan cũng sẽ mua 6-12 chiếc nhằm thay thế cho L-39, giao hàng vào giai đoạn từ 2015-2030. Syria sẽ mua số lượng lớn từ 24-36 chiếc, giao hàng giai đoạn từ 20111-2020.

Ngoài ra còn rất nhiều quốc gia khác nữa sẽ mua, số lượng dao động từ 6-12 chiếc và giao hàng trong giai đoạn từ 2015-2030, chưa tính các khách hàng có thể mua Yak-130UBS không nằm trong danh sách khách hàng tiềm năng.

Tính đến giai đoạn năm 2011-2014, kim ngạch xuất khẩu máy bay huấn luyện đạt giá trị 8,241 tỷ USD. Dẫn đầu là Thụy Sỹ với giá trị xuất khẩu đạt 2,622 tỷ USD, thứ 2 là Anh với giá trị 1,31 tỷ USD.

Hàn Quốc sẽ chiếm vị trí thứ 3 của Trung Quốc trong giai đoạn từ 2003-2010. Giá trị xuất khẩu máy bay huấn luyện của Hàn Quốc giai đoạn 2011-2012 tăng khoảng 187 triệu USD, con số này sẽ tăng lên 215 triệu USD vào giai đoạn 2012-2013. Tổng giá trị xuất khẩu trong giai đoạn này của Hàn Quốc khoảng 805 triệu USD. Thứ 4 là Trung Quốc, tổng giá trị hợp đồng của Trung Quốc trong giai đoạn này khoảng 618 triệu USD.

Nga sẽ đứng vị trí thứ 5 trong thị phần xuất khẩu máy bay huấn luyện với giá trị chiếm khoảng 5,3% tổng kim ngạch, giá trị xuất khẩu đạt 440 triệu USD.



Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

>> Chiến tranh không quân Việt Nam & những bí ẩn được giải mã



Một trong những bí ẩn của cuộc chiến tranh cục bộ tại Việt Nam là cuộc đối đầu giữa hai lực lượng, một lực lượng không quân hùng mạnh nhất thế giới và một lực lượng không quân sinh ra trong khói lửa chiến tranh. Không nói về những khía cạnh chính trị, bài viết cố giải mã những bí ẩn của cuộc chiến tranh có quá nhiều bí ẩn. Ngay cả với những người trực tiếp cầm cần lái và nhấn nút phóng tên lửa.


Bài viết của chuyên gia quân sự độc lập A.I.Trernhusev (А.И.Чернышев)

Ngày 2 tháng 8 năm 1964. Trên vịnh Bắc bộ xảy ra một sự kiện mở màn cho một cuộc chiến tranh khốc liệt. Theo lời phát ngôn của Nhà trắng Mỹ, các xuồng phóng lôi của Hải quân nhân dân Việt Nam đã tấn công 2 tầu khu trục Mỹ là tầu khu trục Maddox và Joy Turner ở ngoài vùng nước tự do hàng hải (Sự kiện nguỵ tạo của Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964). Có thể hiểu rõ ràng rằng, sử dụng lực lượng bộ binh để đáp trả là không thể, vì trong trường hợp tốt nhất sẽ xảy ra chiến tranh dạng "Triều Tiên lần II” với hàng triệu chí nguyện quân Trung Quốc, trường hợp xấu hơn sẽ là cuộc đối đầu trực tiếp với quân đội Liên bang Xô Viết.

Từ suy luận đó, Lầu năm góc quyết định chọn phương án: Sử dụng lực lượng không quân hùng mạnh của Mỹ tiêu diệt tiềm lực quân sự và chính trị của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc không tập ngày 5 tháng 8 năm 1964 vào căn cứ của các xuồng phóng lôi ở Vinh bắt đầu cho Cuộc chiến tranh đường không lần đầu tiên trong lịch sử vào miền Bắc Việt Nam.


http://nghiadx.blogspot.com

F-4B Phantom I


Do không đủ lực lượng và phương tiện chiến tranh được triển khai trong khu vực, trên lãnh thổ của Miền Bắc Việt Nam chỉ có một số lần tập kích. Nhưng người Mỹ đã xây dựng hàng chục căn cứ không quân ở Miền Nam Việt Nam và ở Thái Lan, các căn cứ này chứa khoảng 330 máy bay tác chiến chiến thuật. Bao gồm máy bay tiêm - cường kích F-105. Thunderchief, máy bay F-100 Super Sabre, máy bay tiêm kích đánh chặn F-4C Phantom II.

Để trinh sát, không quân Mỹ sử dụng máy bay RF-101 Voodoo và RF-4C Phantom P. Để bảo vệ sân bay, người Mỹ sử dụng 2 tiểu đoàn máy bay đánh chặn F-102 Delta Dagger, được gọi là loại máy bay vô tích sự nhất trong chiến trường Đông Dương. Ở Vịnh Bắc bộ, người Mỹ thành lập 2 cụm tầu sân bay và tầu chiến, Cụm tầu sân bay Yankee Station sử dụng hơn 200 máy bay cường kích và tiêm kích ở khu vực bờ biển Miền Bắc, Cụm tầu sân bay Dixy Station khu vực bờ biển phía Nam. Các loại máy bay trên boong tầu chủ yếu là F-4B Phantom I, F-8 Crusaider, cường kích А-4 Skyhawk, A-1 Skyraider.

Trong giai đoạn đó, trong lực lượng phòng không, không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có 40 đến 60 máy bay chiến đấu. 25 máy bay tiêm kích J-5В (MIG17 bản copy của Trung Quốc) một số không đáng kể máy bay J-2 (MIG15) bản copy của Trung Quốc, và một số máy bay ném bom IL 28.

Để bảo vệ các mục tiêu quan trọng của các cơ quan điều hành, lãnh đạo cấp nhà nước và các mục tiêu quan trọng, lực lượng PKKQ có trong biên chế một số phân đội pháo phòng không cấp tiểu đoàn, người Mỹ dự đoán là khoảng 1000 khẩu súng cỡ nòng các loại.

Tháng 2 đến tháng 6 năm 1965

Ngày 7 tháng 2 năm 1965, Không quân Mỹ thực hiện chiến dịch Flaming Dart (Mũi lao lửa), chiến dịch không tập đầu tiên trong hàng loạt chiến dịch nhằm tiêu diệt các căn cứ quân sự và kinh tế trên Miền Bắc Việt Nam.

Trong giai đoạn này, các máy bay chiến đấu của Mỹ tiến hành các trận ném bom phá hủy dồn dập, sử dụng các chiến thuật tương đối đơn giản. Máy bay cường kích, nhiều khi đạt số lượng đến 80 chiếc, thực hiện chuyến bay đến mục tiêu, lựa chọn độ cao có lợi nhất (khoảng từ 2500 – 4000m), sử dụng kỹ thuật đơn giản ném bom và phóng tên lửa.

http://nghiadx.blogspot.com

Các kỹ thuật ném bom của không quân Mỹ trong 3 giai đoạn chiến tranh,
trước và sau khi Việt Nam sử dụng không quân.


Số lượng đầu đạn đánh trúng mục tiêu rất thấp, do tâm lý là ném hết bom, phóng hết đạn nhiều hơn đánh trúng mục tiêu. Để tránh phải rơi vào lưới lửa phòng không của các hệ thống pháo phòng không đa cỡ nòng dày đặc, kíp lái hầu hết không hạ thấp độ cao vào vùng nguy hiểm.

Phương thức bảo vệ mục tiêu của không quân Việt Nam khá cổ điển: đánh chặn ở khoảng cách trên đường máy bay đối phương bay đến mục tiêu cần bảo vệ.

Các phi công Việt Nam lái MiG-17 đã thực hiện một chiến thuật rất hiệu quả:

Bay ở độ cao thấp và gần với mục tiêu cần bảo vệ, ngụy trang bằng địa hình trên mặt đất, MiG 17 đợi đội hình máy bay cường kích ném bom của không quân Mỹ. Khi phát hiện mục tiêu, cặp đôi MiG 17 bay ra khỏi ổ phục kích, sử dụng ưu thế hơn một chút về tốc độ ở độ cao thấp (200/300 km/h với độ cao 3000m), cơ động trong đội hình những máy bay cường kích ném bom đang mang nặng vũ khí treo dưới cánh và đánh cận chiến, bắn thẳng vào đối phương ở khoảng cách gần.

Sử dụng chiến thuật này ngày 4/4/1965, bốn chiếc máy bay MiG -17 chống lại 8 chiếc F-105D gần vùng trời Thanh Hóa, đại úy phi công Trần Hanh bay số 1 với phi công bay số 2 đã bắn hạ 2 chiếc F105D Thần Sấm do đại úy phi công James Megnesson và thiếu tá Frank Bennet điều khiển. Đây là 2 chiếc đầu tiên trong số 350 máy bay Mỹ bị không quân Việt Nam bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.

Sau 5 ngày không quân Mỹ dành được một chiến thắng với cái giá khá đắt: 9 tháng 4 năm 1965, lúc 8h40 phút máy bay F-4B Phantom II số hiệu 151403, kíp lái Trung úy T. Murphy và Robert Fagan từ phi đoàn bay tiêm kích số VF-96 từ tầu sân bay USS Ranger CV-61, tham chiến cùng với 4 chiếc máy bay MiG 17. Tên lửa không đối không tầm trung AIM-7 Sparrow bắn trúng 1 máy bay MiG 17.

Bản thân chiếc F 4 Phantom II rơi vào hỏa lực súng máy của Mig bốc cháy và rơi xuống biển, kíp lái mất tích.

Ngày 3 tháng 5 năm 1965, Trung úy phi công Phạm Ngọc Lan trên Mig 17F bắn cháy 1 chiếc A-4 Skyhawk. Ngày 20 tháng 6 năm 1965 vào lúc 18 giờ 25 phút 2 Mig 17F tấn công 4 chiếc máy bay cường kích hải quân А-1Н Skyraider động cơ pittong cánh quạt của không đoàn cường kích VA-25 cất cánh từ tầu sân bay Midway. Một chiếc MiG 17 khi cơ động không thành công đã rơi vào hỏa lực của súng 20 mm của 2 chiếc A-1H (Phi công C. Hartman và K. Johnson).

http://nghiadx.blogspot.com


Trong toàn bộ giai đoạn đầu tính từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1965, theo thông số của Mỹ, Không quân Việt Nam mất 4 chiếc MiG- 17 (hoàn toàn do Hải quân, 3 trong số đó bị bắn rơi bởi F-4B) Mỹ mất 5 máy bay F-105D, 2 máy bay cường kích và 1 F-4.

Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965

Nhờ sự viện trợ tích cực ngày một tăng cường của Liên bang Xô Viết và Trung Quốc, hệ thống phòng không của Miền Bắc Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tháng 7 năm 1965, một hệ thống vũ khí mới xuất hiện, làm thay đổi hoàn toàn tình hình chiến trường, hệ thống tên lửa phòng không S-75.

Ngày 24 tháng 7 năm 1965, tiểu đoàn tên lửa có sự tham gia của cố vấn quân sự Thiếu tá F.Ilinux và cố vấn kíp trắc thủ Việt Nam Thượng úy V. Konstantinov, phóng đạn tiêu diệt 3 máy bay tiêm kích – ném bom F-4C cách Hà Nội 30 – 40 km về phía Đông Nam.

Máy bay bay với tải trọng vũ khí đầy đủ dưới cánh trong đội hình hành tiến. Người Mỹ công nhận bị rơi 1 chiếc F-4, hai chiếc bị thương nặng. Sau 3 ngày, 6 chiếc F-105 liên tục ném bom vào khẩu đội tên lửa, tổn thất tác giả bài viết không có thông số.



http://nghiadx.blogspot.com

Chiến thuật tấn công của MiG 17 phục kích.


Đến ngày 27 tháng 10, không quân Mỹ đã đánh trúng 8 khẩu đội tên lửa S-75 của bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam. Đồng thời không lực Mỹ cũng tổn thất (theo thông số Mỹ cung cấp) là 3 F-105 Thunderchief, 2 F-8 Crusaider, 2 F-4 Phantom II và 1 А-4 Skyhawk. Rất nhiều máy bay khác bị thương tổn nặng nề. Theo thông số do Việt Nam cung cấp, trong giai đoạn này bộ đội tên lửa đã bắn rơi hơn 30 máy bay tiêm kích-ném bom.

Trong những trận đánh khốc liệt, lực lượng cố vấn quân sự Liên Xô cũng hy sinh và bị thương rất nhiều, quá trình vừa chiến đấu vừa học tập, huấn luyện, các trắc thủ Việt nam đã nhanh chóng nắm chắc tính năng kỹ chiến thuật và đã thành công trong điều khiển tên lửa. Trong suốt cả giai đoạn chiến tranh phòng không, các cố vấn quân sự Xô viết luôn sát cánh cùng các cán bộ chiến sỹ lực lượng phòng không – không quân Việt Nam.

Sự tổn thất tăng vọt của các loại máy bay chiến đấu đồng thời trạng thái tâm lý năng nề bao phủ lên lực lượng không quân Mỹ do lưới lửa phòng không dày đặc và sự tham chiến hiệu quả của tên lửa S-75 đã buộc Nhà trắng và Lầu năm góc phải có giải pháp hạn chế. Đồng thời lực lượng không quân Mỹ cũng phải thay đổi chiến thuật tấn công an toàn.

Phi công Mỹ không áp dụng chiến thuật tấn công tầm cao trung bình mà buộc phải thay đổi do tên lửa S-75 tiêu diệt tất cả các máy bay bay ở tầm trung và tầm cao. Máy bay Mỹ buộc phải chọn khả năng đột kích ở tầm thấp và tầm thấp giới hạn.

Các phi công Mỹ đã cố gắng sử dụng sự che khuất của các dãy núi trên địa hình, do đó khả năng phát hiện mục tiêu và bám dính mục tiêu của radar gặp nhiều khó khăn. Sự thay đổi chiến thuật đó đã lập tức ảnh hưởng đến chiến trường không quân.

Các phi công tiêm kích Việt Nam không nhận được những thông tin chính xác, đầy đủ của các phi đoàn máy bay đối phương bay luồn theo sườn núi và sát mặt nước biển. Các ổ phục kích của MiG- 17 trở lên khó khăn hơn, hiệu quả chiến đấu giảm sút trong các cuộc tấn công theo các mục tiêu máy bay Mỹ tự do cơ động.



http://nghiadx.blogspot.com

Chiến thuật tấn công của MiG 17


Nhưng cùng trong thời gian đó, các cuộc không kích của máy bay Mỹ vấp phải hỏa lực dữ dội của pháo phòng không các cỡ nòng và thậm chí súng bắn thẳng như 12,7mm và súng trường.

Đến cuối năm 1965, số lượng pháo phòng không các cỡ nòng của Miền Bắc Việt Nam tăng lên nhanh chóng và vượt con số 2000. Đặc biệt là hỏa lực của pháo phòng không xô viết 57 mm sử dụng radar đường đạn S-60. Hỏa lực pháo 57 có radar dẫn bắn đã phát huy sức mạnh dữ dội của nó khi bảo vệ các mục tiêu trọng yếu như cầu, đường giao thông.

Tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, các chuyên gia quân sự Mỹ nhận ra rằng một nửa số máy bay bị bắn hạ ở Việt nam là do hỏa lực của súng phòng không các cỡ nòng nhỏ như 57mm, 37mm, 14,5mm, 12,7mm và thậm chí súng trường, những loại vũ khí được coi là đã hết khả năng sử dụng trong chiến tranh hiện đại.

Đồng thời, chiến thuật (tầm bay thấp) đã làm giảm đáng kể hiệu quả của các đòn tấn công đường không, do số lượng máy bay trong các phi đội quá nhỏ và đòi hỏi trình độ bay của phi công rất cao.

Tính đến những tổn thất nặng nề của không quân, khi cố gắng tiêu diệt các đơn vị tên lửa, bộ Tổng tham mưu quân đội Mỹ đã ra quyết định áp dụng loại máy bay tác chiến điện tử- máy bay được trang bị thiết bị đặc biệt của không đoàn Wild Weasel . Nhưng máy bay này, thời điểm đầu tiên là F-100F, sau đó là F-105F, đến gần cuối năm 1972 - F-4C và F-105G.

Những máy bay này được trang bị thiết bị phát hiện và chế áp điện tử, sóng của đài phát radar tên lửa, đồng thời sử dụng tên lửa tự dẫn bám theo sóng radar AGM-45 Shrike, sau này hoàn thiện hơn là AGM-78 Standard-ARM giành được quyền chủ động trên không vào ngày 20 tháng 12 năm 1965.

Tính đến ngày 11 tháng 7 năm 1966 bảy máy bay F-100F Wild Weasel đã đánh trúng 9 khẩu đội tên lửa, chỉ có một chiếc bị bắn rơi, 2 chiếc khác đâm vào nhau khi tránh hỏa lực phòng không.

Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1966

Bắt đầu năm 1966 đánh dấu một giai đoạn mới của không quân cả hai bên, ở giai đoạn này, không quân Mỹ sử dụng các phương thức tác chiến kỹ thuật mới và đồng thời không quân và không quân Hải quân Mỹ xuất hiện nhiều loại máy bay tiêm kích mới.

Nhờ có các thiết bị phát hiện, gây nhiễu và chế áp điện tử, không quân Mỹ đã quản lý được tầm bay thấp và có thể tổ chức được các phi đoàn máy bay với số lượng lớn, chọc thủng tuyến phòng không và tấn công ồ ạt các mục tiêu ở tầm trung trong khoảng cách gần mục tiêu.

Cùng với việc nhân được các máy bay MiG-17 từ Liên bang Xô Viết và Trung quốc, từ năm 1966, không quân Việt Nam sử dụng một số máy bay MiG- 17 cải tiến, dù không được phát triển rộng rãi.

Đó là các máy bay MiG-17PF (J-5A) với radar "Emerald" và 3 khẩu pháo HP-23 mm. Theo đơn đặt hàng của Việt Nam, Tiệp Khắc cũng chế tạo mẫu máy bay MiG- 15, trang bị hai khẩu 23mm và tên lửa R-3S ở vị trí của pháo 37mm lắp thiết bị dò tìm hồng ngoại. Sau này, vào năm 1968, Không quân Việt Nam sử dụng MiG 17F với pháo tiêu chuẩn và hai tên lửa tự dẫn R-3S.


http://nghiadx.blogspot.com

Sơ đồ tấn công của máy bay Mỹ và đánh chặn của MiG 17


Sau này, theo các nguồn thông tin không chính thức, tháng 2 năm 1966, không quân Việt Nam tiếp nhận máy bay siêu âm F-6 (MiG -19) sản xuất tại Trung Quốc, có tốc độ cao và trang bị vũ khí mạnh hơn MiG-17. Nhưng không được sử dụng rộng rãi, các hoạt động tích cực của F-6 chỉ bắt đầu vào mùa thu năm 1972 khi chiến tranh trên không đã chấm dứt.

Cú shock thật sự của người Mỹ chỉ bắt đầu khi máy bay MiG- 21 thực sự tham chiến. Từ những năm 1965, Liên bang Xô viết có đề nghị Trung Quốc cho phép triển khai các trung đoàn MiG- 21 ở địa phận Trung Quốc để bảo vệ bầu trời Hà Nội và Hải phòng nhưng bị từ chối.

Máy bay MiG 21 trực tiếp tham gia vào ngày 23 tháng không có kết quả. Ngày 26 tháng 4, không quân Mỹ bắn hạ 1 chiếc MiG 21 đầu tiên. Không quân Việt Nam sử dụng chủ yếu MiG-21PF-V (mẫu số 76-MiG-21PR đã được nhiệt đới hóa, các thiết bị được mạ lớp vật liệu chống rỉ, sau này là MiG-21PFM (Mẫu 94 với ghế phi công kiểu KM-1), trong biên chế của không quân Việt Nam còn có mẫu MiG-21 F-13 ( Mẫu 74 do Tiệp Khắc sản xuất).



http://nghiadx.blogspot.com

Các sơ đồ chiến thuật của MiG 21 khi không chiến với máy bay F-4 Phantom II

http://nghiadx.blogspot.com



Đối thủ quan trọng lúc này của F-4 Phantom II là máy bay siêu âm MiG 21F-13(МиГ-21Ф-13) một phần do Tiệp Khắc sản xuất và MiG 21PF đã được nhiệt đới hóa. Sử dụng radar bám mục tiêu tương tự như máy bay F-4, MiG 21 sử dụng tên lửa có điều khiển và tự dẫn hồng ngoại R-3S hoặc sử dụng các ống phóng rocket không điều khiển S-5.

Bộ tư lệnh không quân và hải quân Mỹ vẫn đặt toàn bộ hy vọng vào máy bay chiến thuật F-4 hiện đại, có vũ khí mạnh, radar điều khiển mạnh, có tốc độ cao và khả năng tăng tốc nhanh cùng với những kỹ chiến thuật chống MiG thành thạo. Về lý thuyết chiến trường, F-4 mạnh hơn MiG-21 nhiều lần.

Nhưng từ khi đối đầu với MiG 21 F-4 mất dần những ưu thế tuyệt đối của nó và bắt đầu chịu các tổn thất nặng nề. từ tháng năm đến tháng 12 năm 1966, lực lượng không quân Mỹ trong các trận đánh trên không đã mất 47 máy bay, phía không quân Việt Nam tổn thất 12 máy bay.

Thông số cơ bản xác định tính cơ động của máy bay tiêm kích là tốc độ bẻ góc, trong đó 85% sự tăng tốc là giảm tải trọng riêng trên cánh, và chỉ có 15% được sử dụng để lấy góc nghiêng. Cơ động là nền tảng của phòng thủ, và phòng thủ tốt là đảm bảo tốt hệ số sống còn trong các trận không chiến.

Tải trọng riêng trên cánh của MiG 21 là 340kg/cm2, còn tải trọng của F-4 là 490kg/cm2. do đó khả năng sống còn của MiG 21 là 0,93 còn của F-4 là 0,83.

Khối lượng tải trọng trên cánh máy bay với tốc độ vòng chậm của máy bay tiêm kích Mỹ, khả năng chịu tải của Phantom so với MiG (6,0 chống lại 8,0 của MiG-21PF) và các góc tấn công của MiG, máy bay F-4 bị bỏ qua. Các chuyên gia không quân Mỹ thừa nhận khả năng bay xoắn lò xo của máy bay Mỹ kém hơn hẳn so với MiG.

Đồng thời, khả năng bay thẳng đúng chiếm độ cao của F-4 cũng kém hơn MiG ( của F-4 là 0,74, của MiG là 0,79). Đồng thời, độ tin cậy bay xoắ ốc của F-4 kém hơn MiG. Khi F-4 đã rơi vào vòng xoắn trôn ốc trên mặt phẳng ngang, các phi công có trình độ trung bình sẽ không thể thoát khỏi.

Theo thông báo của chính bên Mỹ, chỉ riêng năm 1971 do rơi vào vòng xoắn trôn ốc trong các cuộc truy đuổi, Mỹ mất đến 79 Phantom II. Radar của F-4 có khả năng phát hiện mục tiêu rất xa và bám dính, nhưng khả năng chống nhiễu rất kém.

Buồng lái của phi công và hoa tiêu được lắp dầy đặc các bảng điều khiển và nút bấm, công tắc, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của phi công và hoa tiêu. Nhưng F-4 cũng có những điểm nổi trội hơn so với MiG - 21.

Khả năng tăng tốc của F-4 cao hơn, từ tốc độ 600 km/h – 1000 km/h mất 20 s, còn MiG 21 mất 27s. tốc độ cất cánh cao hơn, khả năng nhìn quanh của phi công tốt hơn, sự có mặt của hoa tiêu khi theo dõi bầu trời cũng làm chủ được tình thế, nhanh chóng báo cho phi công biết mối đe dọa từ phía sau.

Đồng thời, lượng vũ khí trên MiG- 21 kém hơn rất nhiều lần so với F-4. Với những máy bay MiG 21 thế hệ đầu tiên, lượng vũ khí ít cộng với radar công suất thấp, không có khả năng chống nhiễu cũng là điểm yếu rất lớn của MiG 21.

Những trận không chiến cho thấy, do nhỏ hơn F-4 về tải trong riêng trên cánh, do đó MiG có khả năng cơ động tốt hơn trên mặt phẳng ngang, đặc biệt trên tầm cao và tầm trung. Các phi công Việt Nam rất dũng cảm lao vào các trận cận chiến. Nhưng máy bay MiG 21 chỉ có 2 tên lửa R-3S, chịu tải trọng rất nhỏ khi phóng ( 1,4 đơn vị) .

http://nghiadx.blogspot.com



Lớn hơn tên lửa không rời khỏi bệ phóng, bộ phận tách tên lửa sẽ khóa an toàn. Chính vì vậy, trong trường hợp cơ động săn đuổi và thoát hiểm, việc phóng R-3S rất khó. Không có súng máy phòng không cũng là điểm rất yếu của MiG 21, sau khi phóng 2 quả tên lửa máy bay MiG không còn vũ khí, và đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến MiG bị tổn thất nhiều.

Trong giai đoạn này, MiG 21 ở Liên Xô có phương án cho MiG 21PF/PFM thêm ổ súng treo GP-9 với pháo GS-23 mm. Súng đại bác GP-9 đã được lắp cho máy bay MiG 21 trong cuộc chiến tranh xung đột Ấn Độ với Pakistan năm 1971. Đồng thời cũng vào thời gian này, súng 23 mm G9 mới được trang bị cho MiG -21 PFM

Với vấn đề này, sau khi Phantom F-4B/D/J khi va chạm với MiG 17 vốn không có súng, đã vội vã trang bị cho máy bay các ổ súng máy treo. Giai đoạn cuối MiG 21 cũng được trang bị thêm súng máy ở cánh, loại máy bay MiG -21M. Đồng thời, MiG có radar tương đối yếu, do đó phụ thuộc nhiều vào các trạm điều khiển mặt đất. Nhưng đồng thời không có radar hạng nặng cũng làm cho máy bay cơ động hơn nhiều.

Vào những năm 1965, trên căn cứ không quân Đà Nẵng để đối phó với MiG 21 đã chuẩn bị một không đoàn máy bay tiêm kích nổi tiếng F-104 S Starfighter. Nhưng chưa kịp xuất kích, phi đoàn này đã cho thấy khả năng không hiệu quả của máy bay và chỉ dùng để tấn công mục tiêu mặt đất, cũng chỉ ở Miền Nam.

Trong 4 tháng đầu tiên của năm 1966, các trận không chiến có 11 máy bay của Mỹ bị rơi, không quân Việt Nam tổn thất 9 máy bay MiG. Tỷ lệ là 1,2:1 ( người Mỹ công nhận là có 6 chiếc) nhưng từ khi đưa MiG 21 vào trận, tỷ lệ tổn thất biến đổi hẳn. Từ tháng 5 đến tháng 12 người Mỹ mất đến 47 chiếc máy bay, trong đó Việt Nam mất 12 chiếc MiG, tỷ lệ đã là 4:1.

Nhận thấy những điểm yếu của MiG 21, các phi công Việt Nam đã áp dụng chiến thuật tấn công tên lửa liên tục, đặc biệt hiệu quả khi đối phương có số lượng đông. Lượng vũ khí tên lửa có trên các đời máy bay sau này (MiG 29, Sukhoi) và những tính năng cơ động đã áp dụng chiến thuật này.

Các máy bay MiG 21 từ ổ phục kích sử dụng tốc độ cao tiếp cận mục tiêu, phóng tên lửa tự dẫn hồng ngoại hoặc bán chủ động dẫn đường radar đuổi theo nhằm vào nguồn nhiệt (lửa) phụt ra từ đuôi máy bay. MiG - 21 phóng tên lửa có điều khiển khi bám đuôi với vận tốc lên đến 1,2 M, sau đó máy bay với vận tốc cao như vậy lướt qua đội hình của đối phương và bẻ cần lái rẽ thoát khỏi trận đánh. Chiến thuật này thông thường phá nát đội hình hành tiến của đối phương buộc các máy bay địch phải cơ động làm mồi cận chiến cho máy bay MiG 17.

Chiến thuật này cũng đòi hỏi trình độ lái vô cùng điêu luyện của phi công chiến đấu, có trình độ điều khiển cao, đồng thời trạm radar dẫn đường cũng phải rất thông minh quyết đoán trong tấn công, đảm bảo tính bất ngờ và khả năng khó bán đuổi của đối phương. Lực lượng không quân Việt Nam thường sử dụng chiến thuật đa tiêm kích, phối hợp giữa MiG 17, 19 và 21.

MiG 17 có tốc độ dưới âm, tấn công buộc máy bay cường kích ném bom phải bay lên phía trên, ở đó MiG 21 đã chờ sẵn, thả thùng dầu phụ và đột ngột cơ động tấn công bằng tên lửa. cũng có những trường hợp máy bay MiG 17 đóng vai trò mồi nhử, F-4 khi tấn công MiG 17 đã tự đưa mình vào tầm tấn công của tên lửa MiG 21.

Về lý thuyết, chiến thuật này không mới, nhưng trên địa hình Việt Nam, với 3 tầng lưới lửa phòng không và số lượng máy bay Mỹ tham chiến thông thường gấp 6 lần hoặc hơn nữa thì đó là một vấn đề quá khó khăn đối với các phi công tiêm kích của Mỹ.

Từ tháng 1 năm 1967 đến tháng 3 năm 1968

Tổn thất ngày một tăng của không quân khiến Mỹ phải có giải pháp khẩn cấp. Phi công tiêm kích, nếu có sỗ giờ bay nhỏ 1500 – 2000 giờ bay, buộc phải quay về các căn cứ đặc biệt để tái huấn luyện.

Chương trình huấn luyện dày đặc và nặng nề có bao gồm cả những chiến thuật cận chiến và cơ động nhanh vốn đã bỏ quên từ lâu nay được khởi động lại với những máy bay mẫu có tốc độ tương đương, đồng thời được áp dụng thêm khả năng tránh và chống lại tên lửa và súng phòng không mọi cỡ nòng. Huấn luyện lại các chiến thuật cơ động tự do, tác chiến cơ động trong đội hình phi đội.

http://nghiadx.blogspot.com


Sau các đợt tập huấn, trình độ bay của phi công cao hơn hẳn, và cũng đã có những kết quả khả quan trong không chiến, nhưng với sức mạnh dữ dội của hỏa lực phòng không, đồng thời các phi công Việt Nam cũng tìm ra cách đánh hiệu quả hơn, theo đề xuất của các chuyên gia quân sự Xô Viêt, các phi đội MiG đánh chặn đối phương trên đường bay hành trình vào mục tiêu, khi máy bay mang nặng vũ khí, tấn công và thoát ly chiến trường, buộc máy bay Mỹ phải ném bom sớm và hạ thấp độ cao, dành trận địa cho tên lửa và pháo phòng không các cỡ nòng.

Không quân Mỹ chuyển sang đánh phá các sân bay quân sự của Việt Nam. Nhằm chặn khả năng xuất kích của máy bay MiG, mục tiêu chủ yếu là đường băng và các khu vực kho tàng quân sự.

Mặc dù không quân Mỹ đã rất cố gắng, nhưng tổn thất trên bầu trời Việt Nam tiếp tục tăng. Nếu tuần cuối cùng của tháng 7, 11 máy bay bị bắn hạ, thì tuần đầu tiên của tháng 8 là 13, và sau đó con số 2 máy bay bị bắn rơi một ngày đã trở thành chuyện bình thường trong truyền thông.

Theo những thông số của Bộ Tư lệnh quân chủng phòng không không quân Việt Nam, năm 1967 trong các trận không chiến đã hạ 124 máy bay Mỹ và tổn thất 60 máy bay MiG, theo công báo của không lực Mỹ phía Việt Nam tổn thất 76 máy bay, không quân Mỹ hạ 59, số còn lại do không quân Hải quân Mỹ bắn hạ.

Như vậy, tỷ lệ tổn thất 2:1 được lập ra trong thời kỳ đầu của chiến tranh, lại được thiết lập lại, điều đó khẳng định sự thay đổi thường xuyên về chiến thuật của cả hai bên tham chiến. Với mỗi một phương thức tác chiến mới của không quân Mỹ, lực lượng PKKQ Việt Nam lại nhanh chóng tìm ra giải pháp nhằm khống chế ưu thế trên không của đối phương.

Tháng 6 năm 1971, người Mỹ lại ném bom miền Bắc lần thứ II

Ngày 16 tháng 4 hai chiếc MiG 21MF (đã cải tiến, có thêm pháo GS 23mm) tham chiến cùng với 12 Phantom II, 2 máy bay MiG bị bắn rơi.

Ngày 27 tháng 3 Phi đoàn F4 gặp phi đội 2 chiếc MiG 21 và không chiến, F4 bị bắn hạ một chiếc.

Ngày 6 tháng 5, phi đội F-4 tập kích phi đội MiG 21 đang chuẩn bị tấn công máy bay cường kích A-7. một chiếc MiG 21 bị trúng tên lửa. Cũng trong ngày hôm đó, một phi đoàn F-4 không chiến với phi đội 4 chiếc MiG 21. Một chiếc MiG 21 bị tấn công bởi 6 quả tên lửa, nhưng phi công tránh thoát, sau đó anh quay lại tham chiến và bị tấn công thêm 3 quả tên lửa, máy bay bị thương nặng, nhưng phi công nhẩy dù được.

Ngày 8 tháng 5 Không quân Mỹ bắt đầu chiến dịch Linebacker I, kéo dài đến 23 tháng 10. Trận đánh lớn nhất của không quân Việt Nam là ngày 10 tháng 5 khi không quân Việt Nam thực hiện 64 lần xuất kích, triển khai 15 trận đánh và bắn rơi 7 máy bay F-4. Ngược lại, không quân Việt Nam cũng mất 2 MiG-21, 2 MiG-17 và 1 J-6.

Trong một trận không chiến vào 10 tháng 5 Phi đoàn MiG 17 xuất kích để giải tỏa một sân bay quân sự đang bị không kích. MiG 17 bí mật bay với độ cao thấp, ẩn nấp theo địa hình tiếp cận đối phương và ngay trong lần cận chiến đầu tiên bắn hạ 1 máy bay F-4. Phi đội 2 MiG-17 quần chiến với 4 máy bay F-4 và bị bắn hạ một chiếc.

Nhưng khi F-4 và MiG 17 lăn xả vào vòng xoáy truy đuổi nhau thì từ sân bay đang bị phong tỏa xuất kích 2 MiG 21, nhanh chóng chiếm độ cao, ở khoảng cách 2 km MiG 21 phóng R-3S bắn hạ 2 F-4 với 2 tên lửa.


http://nghiadx.blogspot.com

Sơ đồ tác chiến của MiG 21



Ngày 11 tháng 5 hai máy bay MiG – 21, bay làm mồi nhử kéo 4 chiếc F-4 vào ổ phục kích của 2 chiếc MiG 21 bay ở độ cao thấp, MiG triển khai tấn công và 3 tên lửa tiêu diệt 2 máy bay F-4.

Ngày 13 tháng 6, một phi đoàn MiG21 đánh chặn một nhóm F-4 Phantom II. Lao vào giữa đội hình, 2 máy bay MiG 21 đã làm đội hình chiến đấu của F-4 tan vỡ, các máy bay Phantom hoảng loạn cơ động. Hai máy bay MiG còn lại phóng tên lửa hạ 2 chiếc F-4.

Ngày 18 tháng 5, Không quân Việt nam đã 26 lần xuất kích và triển khai 8 trận đánh, bắn rơi 4 máy bay F-4, phía Việt Nam không có tổn thất. Trong một trận đánh cùng ngày, 2 máy bay MiG 21 đánh chặn một phi đội F-4, chỉ huy trưởng phi đội, đại úy Ngự khi quay nửa vòng xoáy đã phóng tên lửa tiêu diệt một F-4.

Mùa hè năm 1972, tần suất hoạt động của không quân Mỹ giảm xuống. Ngày 12 tháng 6 phi đoàn máy bay Phantom đụng độ với 2 máy bay MiG 21 và bị rơi một chiếc, ngày tiếp sau lại có hai cuộc không chiến giữa F-4 và MiG 21, không quân Mỹ mất thêm 2 chiếc F-4 nữa. Phía Việt nam không có tổn thất.

Như vậy mùa xuân và mùa hè năm 1972, có 360 máy bay Mỹ tham chiến trên chiến trường miền Bắc và 96 máy bay của không quân hải quân, đại đa số là máy bay F-4 mẫu nâng cấp cuối cùng. Chống lại khối lượng vũ khí khổng lồ này là 187 máy bay không quân Việt Nam MiG 17, MiG 21 và J-6. Trong số đó chỉ có 71 máy bay có khả năng tác chiến, trong đó có 31 MiG 21.

Vào tháng 12 năm 1972, không quân Mỹ tiến hành chiến dịch tấn công ồ ạt trên toàn bộ miền Bắc, tập trung vào các thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác Linebacker II, nhằm mục đích đạt được mục tiêu chính trị trên bàn hội nghị Pari.

Để đạt được mục tiêu tàn phá các trung tâm kinh tế, quân sự của Miền Bắc Việt Nam, không quân Mỹ đã sử dụng hầu hết máy bay chiến lượng B-52 ở châu Á Thái Bình Dương.

Kế hoạch chuẩn bị một chiến dịch lớn với số lượng máy bay khổng lồ đã không giữ được bí mật, lực lượng Phòng không – Không quân Việt Nam đã chuẩn bị cho Không quân Mỹ một đòn đánh quyết liệt. Các máy bay MiG 21 đã được cất giấu trong những sân bay dã chiến và được ngụy trang kỹ càng. Sẵn sàng xuất kích bằng bộ hỗ trợ tăng tốc bằng thuốc phóng.


http://nghiadx.blogspot.com

Sơ đồ tấn công sân bay của máy bay Mỹ



Tháng 9 năm 1972, duy nhất có một trận không chiến có sự tham gia của cố vấn quân sự, phi công Xô Viết. Trên máy bay MiG 21US huấn luyện 2 chỗ ngồi, không được trang bị vũ khí, phi công tiêm kích Việt Nam và cố vấn quân sự Xô Viết thực hiện chuyến bay huấn luyện thường xuyên.

Ở tầm xa 8km cách sân bay họ nhận được thông báo về một tốp F-4 đang tiếp cận ở độ cao thấp. Lúc đó MiG 21 còn lại 800 lít dầu. Thực hiện kỹ thuật thùng trượt, đội bay thoát khỏi đòn tấn công tên lửa thứ nhất, sau đó F-4 liên tục tấn công bằng tên lửa 2 lần liên tiếp, nhưng MiG US với kỹ thuật xoáy vít đã thoát khỏi, tên lửa bay trượt mục tiêu, lần thứ 3 F-4 lại tiếp tục tấn công và cũng không thu được kết quả.

Nhưng những lần cơ động đó đã tiêu hao toàn bộ lượng dầu còn lại của MiG 21. Quyết định thông minh cuối cùng là nhẩy dù, khi MiG 21 lấy độ cao thì động cơ chết máy, 2 phi công bung dù khi chiếc MiG 21US anh dũng trúng tên lửa trong lần tấn công thứ 4. Đội bay Việt Xô tiếp đất an toàn.

Trong 12 ngày chiến dịch Linebacker II trong 8 trận không chiến, người Mỹ đã triệt để sử dụng kỹ thuật gây nhiễu tích cực, kỹ thuật này đã gây rất nhiều khó khăn cho các phi công MiG 21, do không ít lần trên màn hình radar vũ khí của MiG21 hoàn toàn bị tín hiệu nhiễu phủ kín, các phi công Việt Nam phải bắn bằng kính ngắm thường và sử dụng tên lửa tự dẫn hồng ngoại, nhưng khi sử dụng tên lửa tự dẫn hồng ngoại, tầm bắn bị giảm sút và khoảng cách phóng cũng không chính xác.

Đây cũng là điểm yếu nhất của MiG 21 về radar bám và theo dõi mục tiêu. Dù vậy, trong 8 trận không chiến, không quân Mỹ cũng bị mất 7 máy bay, trong đó có 4 F-4. Đồng thời Không quân Việt Nam cũng mất 3 chiếc MiG 21. Dù với lực lượng phi công đã được huấn luyện kỹ về các chiến thuật chống MiG-21, đồng thời với chiến thuật áp dụng nhiễu dày đặc và bay đêm. Người Mỹ vẫn bị tổn thất nặng nề.


http://nghiadx.blogspot.com

MiG 21 tấn công (Mô phỏng 3D)


Để phục vụ cho mục tiêu chiến lược, biết được tâm lý sợ MiG 21 và tên lửa SAM S75 của phi công Mỹ, các máy bay MiG 21 thực hiện chiến thuật không tham gia vào không chiến tay đôi, các máy bay MiG được lệnh đánh chặn từ xa, bất ngờ tấn công phóng tên lửa phá đội hình đối phương (không cần kết quả) sau đó thoát ly chiến trường và trở về sân bay, buộc các máy bay tiêm kích ném bom nặng nề F-4 phải hạ độ cao cho hỏa lực phòng không dày đặc trên mặt đất. Mặc dù chiến thuật như vậy, nhưng MiG 21 vẫn chiến ưu thế về tốc độ và khả năng cơ động trong những tầm bay trung bình và thấp trước F-4E và F-4J.

Ngày 22 tháng 12 năm 1972, đánh chặn cuộc tấn công của máy bay Mỹ, phi đội 2 chiến MiG 21 cất cánh, trong không chiến, một MiG bị bắn hạ. Ngày 23 tháng 12, phi đội 4 chiếc MiG 21 cất cánh và bắn hạ 1 F-4, ngày 27 phi đội MiG 21 lại cất cánh và không chiến với phi đoàn F-4, 2 F4 bị bắn rơi. Ngày 27 tháng 12, 2 máy bay MiG 21 trực chiến trên sân bay Nội Bài, theo thông báo của radar mặt đất phát hiện một phi đoàn F 4. MiG 21 bay ở độ cao thấp 300 m so với mặt đất, bí mật tiếp cận mục tiêu, tăng tốc và lấy độ cao.

Mục tiêu được phát hiện bằng mắt thường ở khoảng cách 8 km, sau khí xin lệnh tấn công, MiG 21 bất ngờ tiếp cận mục tiêu, F-4 không kịp triển khai đội hình phòng thủ, MiG 21 đã áp sát và phóng tên lửa diệt 1 F4. Chỉ huy đội bay khi quay về phát hiện thêm 2 F4 đáng bám phi công số 2, bằng 1 kỹ thuật cơ động điêu luyện số 1 đã phá đội hình đối phương, cắt số 2 khỏi tốp F4.

Vòng xoáy hỗn chiến xảy ra giữa từng đôi MiG và Phantom II, kết quả số 1 thoát khỏi truy đuổi của F-4 hạ cánh an toàn, số 2 khi thực hiện xoáy trôn ốc lên cao đã bắn hạ thêm một F-4, nhưng máy bay cũng bị thương nặng do tên lửa Sidewinder nổ gần với ống xả phản lực. Phi công Việt Nam nhảy dù an toàn.

Trong đợt không kích của B-52, do sợ MiG 21 tấn công, F-4 đã đóng vai trò mục tiêu giả và phục kích, phi đội F-4 bay với tốc độ hành trình và đội hình đi sát với nhau. Trên màn hình radar mục tiêu tương tự như mục tiêu B-52, khi MiG tấn công, F-4 sẽ bay tản ra, cơ động tấn công MiG.

Trong các tài liệu của không quân Việt Nam không có nguồn tài liệu nào ghi lại một trận đánh như vậy. Nhưng 2 máy bay B-52 đã bị MiG-21 bắn hạ, một chiếc bị phi công anh hùng Phạm Tuân bắn hạ ở tầm bắn 2000 m. một chiếc bị phi công anh hùng Vũ Quang Thiều bắn trong tầm bắn gần, máy bay đã lao vào điểm nổ. anh hùng phi công Vũ Quang Thiều hy sinh.

Trong cả năm 1972, giữa không quân Mỹ và không quân Việt Nam xảy ra 201 trận không chiến. Phía Việt Nam mất 54 máy bay, trong đó có 36 máy bay MiG 21 và 1 máy bay huấn luyện MiG 21 US. Phía Mỹ thiệt hại 90 máy bay trong đó có 74 máy bay F-4 và 2 máy bay trinh sát RF-4C. Riêng MiG 21 diệt 67 máy bay đối phương.

http://nghiadx.blogspot.com


Chiến thắng kỳ lạ cuối cùng của người Mỹ trong cuộc chiến tranh không quân ở Việt Nam là máy bay F-4J Phantom II cất cánh từ tầu sân bay MidWay, chỉ huy trung úy Victor Covalevski bằng một tên lửa Sidewinder bắn hạ một máy bay MiG 17, nhưng cũng sau hai ngày, chính chiếc F-4J này cũng bị bắn hạ trên bầu trời Việt Nam, nó cố lết ra biển và rơi, 2 phi công được cứu thoát.

Như vậy, tỷ lệ 2/1 gần như được giữ suốt cuộc chiến tranh trên không giữa không quân Mỹ và không quân Việt Nam. Từ góc độ kỹ chiến thuật, có thể nhận thấy rằng: Mặc dù liên tục thay đổi chiến thuật và phương thức tác chiến, vũ khí trang bị, với những phi công dày dạn kinh nghiệm và có số lượng giờ bay hơn rất nhiều lần, nhưng không quân Mỹ cũng không thể tiêu diệt được lực lượng không quân Việt Nam, mà còn bị tổn thất nặng nề, với không gian thu hẹp của chiến trường Miền Bắc Việt Nam, với gần 4000 máy bay bị tổn thất, có thể nói. Người Mỹ đã thua trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam.

Nguyên nhân:

Phi công Mỹ phải chiến đấu trên 2 mặt trận: Vừa phải chống lại những phi công MiG điêu luyện, vừa phải chống lại những khiếm khuyết kỹ thuật của F-4 nặng nề. Nếu phi công được huấn luyện cho phương thức tác chiến năng động, cơ động, nhưng lại phải điều khiển một máy bay kém cơ động.

Đó là một vấn đề, F-4 chỉ có khả năng né tránh một cuộc công kích do quá nặng nề, mà không có khả năng phản kích do máy bay MiG 21 nhẹ hơn, góc ngoặt và khả năng tăng tốc cao hơn để chiếm vị trí thuận lợi cho tấn công.

Trong điều kiện hộ tống máy bay ném bom đến mục tiêu cần đánh phá, nhiệm vụ đặt ra đã làm cho F-4 không có khả năng chủ động tác chiến tự do, cơ động và hỗn chiến cùng với máy bay đối phương, mà chỉ có khả năng chống trả và phòng ngự thụ động.

Khi xuất hiến nhóm tiêm kích "topgun” Tình hình chiến trường có thay đổi, nhưng sức mạnh của tên lửa S-75 và lưới lửa phòng không mặt đất dày đặc đã khóa khả năng tác chiến của những phi công có trình độ chiến thuật cao. Do đó, với sự phối hợp giữa đài radar trinh sát dẫn đường, tên lửa phòng không và pháo phòng không với không quân đã tăng khả năng tác chiến của không quân Việt Nam nhiều lần.

Các phi công Việt Nam đã thành công trong việc áp đặt cách đánh đối với phi công Mỹ, kế hoạch phục kích và tấn công đã buộc không quân Mỹ vào thế phòng thủ bị động, khi chuyển sang tấn công cũng thụ động và kém linh hoạt hơn.

Mặc dù tỷ lệ tổn thất của máy bay Mỹ so với tỷ lệ tổn thất của MiG khá cao 2:1 nhưng rõ ràng khả năng tổn thất sẽ giảm hơn nếu những phi công Việt Nam có số giờ bay cao hơn, kinh nghiệm tác chiến cao hơn và sử dụng triệt để tính năng kỹ chiến thuật của MiG 21.


http://nghiadx.blogspot.com
Sơ đồ hoạt động tác chiến của không quân Việt Nam


Bài học kinh nghiệm: Cuộc chiến tranh trên không phận Việt Nam để lại nhiều dấu ấn đặc biệt, lực lượng không quân còn non trẻ của Việt Nam đã thành công trong việc đối đầu với lực lượng không quân hùng mạnh, dày dạn kinh nghiệm của Mỹ.

Có nhiều vấn đề còn phải bàn cãi, nhưng nếu lực lượng không quân Việt Nam có được sự đầy đủ về vũ khí trang bị và phương tiện chiến tranh, kinh nghiệm tác chiến cũng như thời gian huấn luyện tác chiến, thì tổn thất của người Mỹ trong cuộc không chiến này sẽ không dừng lại ở tỷ lệ 2/1 và chỉ có 2 B52 bị MiG 21 tiêu diệt trên bầu trời Hà Nội.

Không chiến ở Việt Nam đã khẳng định: tốc độ, sức cơ động với chiến thuật thông minh, nắm chắc tính năng kỹ chiến thuật của phương tiện, đồng thời với sự chỉ huy năng động, sáng tạo, đồng bộ chặt chẽ từ ban chỉ huy cấp chiến lược, chiến dịch đến sự tuân thủ tuyệt đối của người phi công với người chỉ huy trực tiếp của mình quyết định sự thành bại trên chiến trường.

Sức mạnh của lực lượng không quân trong không chiến phần lớn phụ thuộc vào sự phối kết hợp các phương tiện hỏa lực, phương tiện trinh sát, cảnh báo sớm và khả năng khai thác tuyệt đối tính năng kỹ chiến thuật của phương tiện bay, đồng thời là sự năng động, sáng tạo, trình độ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của phi công trên cánh bay. Phối kết hợp chặt chẽ giữa các thành viên trong đội bay và tuân thủ mệnh lệnh.

Trong chiến tranh hiện đại, những máy bay tiêm kích đa dụng như F 16, F18, MiG 29, SU 30MK có rất nhiều điểm mạnh, hệ thống radar công suất lớn, tên lửa không đối khống có khả năng tấn công từ tầm rất xa, súng máy rất mạnh, tính cơ động rất cao. Nhưng cuộc không chiến dường như không phải đơn thuần là cuộc đối đầu về kỹ thuật.

Và còn là cuộc đối đầu vể năng lực tác chiến, kỹ năng cơ động tấn công và phòng thủ, đặc biệt là kỹ năng phát hiện mục tiêu trong mọi điều kiện thời tiết, tránh tên lửa không đối không và các kỹ xảo bay phức tạp, cận chiến và thoát hiểm.

Dù chiến tranh đã qua đi rất lâu, nhưng phân tích những bài học kinh nghiệm của các cuộc không chiến, những kỹ năng mà phi công cả hai bên thực hiện trong cuộc đối đầu không cân sức, những chiến thuật mà hai bên thực hiện, những chiến thắng và tổn thất vẫn là bài học quan trọng trong chiến tranh hiện đại.


Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

>> Quân đội Việt Nam huấn luyện đổ bộ đường không



Trung đoàn không quân trực thăng 917 phối hợp với các đơn vị bạn hoàn thành bài tập đổ bộ đường không trên nóc nhà cao tầng.


Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện năm 2011, Trung đoàn không quân trực thăng 917 - Sư đoàn không quân 370 vừa phối hợp với các đơn vị bạn kết thúc nội dung huấn luyện đổ bộ đường không trên nóc nhà cao tầng.

Kết thúc nội dung huấn luyện, trung đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thực hiện đúng chương trình, kế hoạch đề ra, đảm bảo an toàn tuyệt đối, đồng thời nâng cao năng lực, trình độ của phi công trong thực hiện các bài bay phức tạp.

Dưới đây là chùm ảnh huấn luyện:


http://nghiadx.blogspot.com
Thực hiện kỹ thuật treo tại chỗ trên nóc nhà cao tầng.




http://nghiadx.blogspot.com
Lực lượng đổ bộ rời máy bay tiếp cận nóc nhà cao tầng.



http://nghiadx.blogspot.com
Tiếp đất an toàn.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiếp nhận lực lượng đổ bộ tham gia huấn luyện.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiếp cận nóc nhà cao tầng.


http://nghiadx.blogspot.com
Phi công thực hiện bài bay huấn luyện.


[BDV news]


Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

>> Ukraina thử nghiệm An-178 vào năm 2013



Tổ hợp khoa học - kỹ thuật hàng không Antonov của Ukraine sẽ bắt đầu thử nghiệm máy bay vận tải quân sự tương lai An-178 vào năm 2013.

Máy bay được phát triển trên cơ sở máy bay dân sự An-158 (An-158 được phát triển trên nền tảng máy bay An-148 bằng việc mở rộng thân). Ngoài ra, công ty đã bắt đầu thiết kế một máy bay vũ trang tuần tra ven biển trên cơ sở máy bay dân sự An-168.

Việc phát triển máy bay vận tải An-178 đã được tổ hợp thông báo vào tháng 2/2010. Máy bay mới sẽ dần thay thế các máy bay An-26, An-32 và An-72 đã lỗi thời (máy bay An-26 đang sử dụng trong Không quân Việt Nam). Đến thời điểm hiện tại, sự tiến triển của chương trình máy bay An-178 chưa được tiết lộ.

Vào đầu tháng 4/2010, Tổ hợp “Antonov” đã đề nghị phía Ấn Độ cùng hợp tác phát triển An-178, nhưng chính phủ Ấn Độ đã không thực hiện bất kỳ quyết định cụ thể nào.


An-178 phát triển dựa theo khung thân An-158.

Rất nhiều các đặc tính kỹ thuật của máy bay vận tải tiềm năng này vẫn chưa được biết. Theo các chuyên gia thì khả năng máy bay sẽ chở được khoảng 15-18 tấn hàng và có giá trị vào khoảng 20-25 triệu USD.

Trong tháng 4/2010, An-158 thực hiện chuyến bay đầu tiên. Trước cuối năm 2010 dự kiến sẽ hoàn thành tất cả các bài bay kiểm tra cấp giấy chứng nhận.

Thị trường của An-178 có thể được khoảng 700-800 máy bay trong vòng 10-12 năm tới (trước khi kết thúc năm 2010 thì đơn đặt hàng cho An-158 đã là 60 chiếc).

Theo Giám đốc Trung tâm Phân tích chính sách và kinh tế Kava Alexander, các đối thủ cạnh tranh gần nhất của An-178 là C-295 Casa nhưng chúng đắt hơn 30-40% so với máy bay của Ukraine.

[BDV news]


Thứ Hai, 4 tháng 7, 2011

>> Chuyện chưa kể về việc đào tạo phi công Việt Nam




Khẩu lệnh từ đài chỉ huy phát ra: bây giờ là 6h20 phút, đơn vị C10 bắt đầu bay… Hiệp đồng la bàn, ghi thời gian…80 cất cánh.


Từng chiếc L39 lướt nhanh trên đường băng rồi nghiêng mình cất cánh bay vút lên bầu trời xanh.

Trước đây, khu đất nằm phía Nam sân bay Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) này chỉ có rừng dương, cát trắng và vài con đường trải nhựa loang lổ do chế độ cũ xây dựng từ trước 1975.

Từ tháng 5/2003, nơi đây đã được cải tạo thành trung tâm đào tạo phi công chiến đấu của Đoàn C10 (Trường Sĩ quan Không quân), đơn vị từng làm cho “thần sấm”, B-52...của Mỹ phải khiếp đảm.

Thiếu tá Hoàng Anh Tuấn, Chủ nhiệm Chính trị C10, cho biết, lúc đơn vị mới chuyển từ Nha Trang (Khánh Hòa) ra đây, nhiều người cũng hơi lo lắng vì khí hậu khắc nghiệt, nắng gió, nhưng trước quyết tâm và sức chịu đựng dẻo dai của những người lính dám chinh phục cả bầu trời, cái khó, cái khổ rồi cũng lùi bước.

Vừa xây dựng cơ sở vật chất vừa làm nhiệm vụ huấn luyện, đến nay Đoàn C10 đã trải qua 8 khóa đào tạo, huấn luyện sĩ quan phi công chiến đấu ở cơ sở mới và đều đạt chất lượng cao, bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Cân nặng của phi công chính là vàng ròng


Trở về sau chuyến bay đơn.


Thượng tá Phạm Văn Sáng, người đã có thâm niên lái máy bay chiến đấu với hơn 2.000 giờ bay, Đoàn phó Quân huấn C10 cho biết, cùng với đảm bảo về tiêu chuẩn chính trị, người có ước mơ trở thành phi công lái máy bay chiến đấu được kiểm tra sức khỏe nghiêm ngặt từ lúc còn là học sinh trung học phổ thông.

Sơ tuyển vòng 1 chủ yếu khám về ngoại hình, chiều cao, cân nặng…, những đòi hỏi sơ đẳng nhất đối với một phi công. Nhiều chi tiết tưởng như nhỏ nhặt nhưng cũng có thể bị loại ngay từ đầu như: thuận tay trái, mắt một mí, gan bàn chân dày….

Ở vòng 2, quá trình khám còn gắt gao hơn. Ngoài hàng trăm danh mục kiểm tra về 12 bộ dây thần kinh, các loại chuyên khoa nội, ngoại, chụp, chiếu, soi… thí sinh còn phải ngồi ghế quay kiểm tra chức năng tiền đình.

Tiếp đó là ngồi buồng khí áp trong trong môi trường thiếu ô-xy giống như trên độ cao 300-500 mét. Nếu qua được 2 lần kiểm tra sức khỏe nghĩa là thí sinh có đủ điều kiện dự thi.
Tuy nhiên, thi đỗ vào Trường Sĩ quan Không quân mới chỉ là “đặt được một chân” vào khoang lái máy bay.

Để đào tạo một phi công chiến đấu phải mất 5 năm. Trong trong thời gian huấn luyện, học viên phải trải qua những bài học, bài tập, rèn luyện thể lực đặc biệt, chấp hành giờ giấc kỷ luật hết sức nghiêm khắc.

Trong đó, 2 năm đầu chỉ rèn luyện thể lực, học chính trị và lý thuyết, bước sang năm thứ 3 mới tập bay, từ đơn giản đến phức tạp. Có không ít trường hợp (20-30%) học viên đã qua năm thứ tư, bay thuần thục loại L39, nhưng không bay nổi Mig-21 nên bị loại.

“Trên thế giới, theo tính toán của các nhà chuyên môn, để đào tạo được một phi công chiến đấu phải chi phí khoảng 1 triệu USD. Còn ở Việt Nam: giá trị của một phi công được tính bởi số vàng cân nặng đúng bằng trọng lượng cơ thể anh ta”, đồng chí Sáng cho biết.

Thần kinh thép và…

Khát khao lớn nhất của học viên Trường Sĩ quan Không quân là được bay đơn. Tuy nhiên, dù là “bay đơn” hay “bay kép” (có người ngồi cạnh hướng dẫn), để thực hiện một chuyến bay, công tác chuẩn bị (hiệp đồng, biểu diễn, luyện tập buồng lái… và kiểm tra kết quả công tác chuẩn bị) là hết sức quan trọng và phải được tiến hành trước đó một ngày.

“Vì điều kiện làm việc một mình trên không nên đòi hỏi các phi công phải có thần kinh thép và bản lĩnh chính trị vững vàng, sức lực phải dẻo dai, bền bỉ, xử lý tình huống thông minh, nhanh nhạy. Đặc biệt, khi đã bước lên máy bay thì phải gác bỏ mọi thứ buồn phiền, ưu tư trong cuộc sống (nếu có), tập trung cho chuyến bay an toàn, không để một sơ suất nào xảy ra dù là nhỏ nhất”, anh Sáng nói.

Tuy chuẩn bị rất kỹ, nhưng những sự cố bất ngờ thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Theo anh Sáng, trong các tình huống khẩn cấp, thì việc đang bay mà máy bay bị chết máy là khó khăn nhất, yêu cầu phải hạ cánh ngay.

Năm 2001, một phi công trẻ của Quân chủng trong một lần bay huấn luyện đã gặp phải sự cố một động cơ bị hỏng. Nhờ bình tĩnh, dũng cảm, phi công này đã đưa máy bay về hạ cánh an toàn, bảo vệ được khối tài sản lớn của Nhà nước, dù anh hoàn toàn được phép nhảy dù.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp vì để bảo đảm an toàn về tính mạng và tài sản của nhân dân, khi gặp sự cố những người lính phi công đã chấp nhận hy sinh. Đó là trường hợp thượng tá Nguyễn Văn Vinh, Chỉ huy trưởng và thượng úy Đặng Hồng Vinh, Phó Phi đội trưởng Phi đội 2, đơn vị C31. 14 giờ ngày 12/11/2009, khi đang bay khí tượng, thì máy bay bị trục trặc kỹ thuật. Hai phi công cố gắng tăng nhanh tốc độ để đưa máy bay về trạng thái bình thường, nhưng do độ cao thấp, tốc độ nhỏ và phải điều khiển máy bay tránh khu dân cư, hai anh đã anh dũng hi sinh.

Hàng năm, cả nước có trên dưới 3.000 thí sinh đăng ký dự tuyển phi công lái máy bay quân sự, nhưng chỉ khoảng 1/20 trong số đó qua được vòng 2 để dự thi vào Trường Sĩ quan Không quân. Sau đó, tiếp tục loại, chỉ chọn được khoảng 1/3 trong số dự thi vào học chính thức.

Riêng năm 2011 này, chỉ tiêu tuyển phi công lái máy bay quân sự (hệ đại học chính quy) trong cả nước là 75 (cho cả 3 chuyên ngành phi công phản lực, phi công trực thăng và phi công vận tải).

Dẫu con đường trở thành phi công, nhất là phi công phản lực gian nan, gian khổ như vậy, nhưng vẫn không ngăn nổi khát vọng chinh phục bầu trời của của nhiều bạn trẻ. Hàng năm số lượng thanh niên đăng ký khám tuyển phi công vẫn không ngừng tăng lên.

[BDV news]


Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

>> Sự đối đầu giữa MiG-21 và F-4 trong chiến tranh Việt Nam




Cuộc chiến tranh ở miền Bắc Việt Nam đã trở thành cuộc đối đầu trên không lớn và bi thảm nhất sau năm 1945. Hai bên đã đưa hàng chục máy bay các loại để tham chiến. Tuy nhiên, gánh nặng chính của cuộc đối đầu trên không giữa là máy bay MiG-21 và Phatom. Tác giả Vladimir Ilyin trong bài “MiG-21 chống lại Phatom” đăng trên website Topwar.ru có đôi điều lý giải về thất bại của máy bay Mỹ trước MiG-21 của Nga trong chiến tranh tại Việt Nam.

MiG-21 kém F-4?

F-4 Phantom II (Con Ma ) là một loại máy bay tiêm kích-ném bom tầm xa siêu âm hai chỗ ngồi hoạt động trong mọi thời tiết được hãng McDonnell Douglas thiết kế chế tạo vào năm 1958 trước tiên cho Hải quân Hoa Kỳ.

F-4B ở trên vùng trời Việt Nam. (Ảnh: Wikipedia)


Vận tốc bay tối đa của F-4 là 2.260km/h, trần bay thực tế 16.600-17.900m, tầm bay xa thực tế không có thùng dầu phụ là 2380km

F-4 được trang bị radar mạnh, cũng như vũ khí có một không hai như 4 quả tên lửa đối không tầm ngắn AIM-9 Sidewinder và 4 tên lửa AIM-7 Sparrow tầm trung gắn trên thân.

Các phiên bản nâng cấp của F-4 có khả năng mang các loại tên lửa đối không: AIM-120 AMRAAM, AAM-3, IRIS-T, Skyflash. Có đến 8.480kg (18.650 lb) vũ khí gắn trên 9 đế trên cánh và thân, bao gồm bom thông thường, bom chùm, bom dẫn đường bằng laser, rocket, tên lửa đối đất, tên lửa đối hạm, vũ khí hạt nhân.

Phantom II đã được dùng trong quân đội Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1996, và là máy bay tiêm kích ưu thế trên không chủ yếu cũng như là máy bay chiến đấu ném bom chính của Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến trong Chiến tranh Việt Nam. F-4 cũng được trang bị cho quân đội của nhiều nước khác, và cho đến năm 2001 vẫn còn hơn 1.000 máy bay F-4 đang được sử dụng ở 11 nước trên toàn thế giới.

Đối thủ chính của Phantom trong chiến tranh Việt Nam – máy bay tiền tuyến MiG-21 cũng được chế tạo vào năm 1958. Khác với máy bay Mỹ, máy bay MiG-21 của Nga có tầm hoạt động ngắn. Tải trọng cất cánh thông thường của các biến thể được sử dụng trong chiến tranh Việt Nam – dưới 8 tấn và có tầm bay xa nhỏ đáng kể - khoảng 1500km. Tuy nhiên, những đặc điểm bay còn lại của MiG-21 không hề thua kém đối thủ Mỹ: vận tốc bay tối đa – 2175-2300km/h, trần bay thực tế - 18000-19000m. Thành phần vũ khí của MiG-21 cũng yếu hơn đáng kể so với Phantom của Mỹ: - 2 (sau đó là 4) tên lửa không đối không tầm trung R-3S (Vympel K-13) tự dẫn bằng tia hồng ngoại cũng như 1 pháo 23 hoặc 30mm (trong hàng loạt biến thế không được trang bị pháo này).



Rõ ràng, MiG-21 và F-4 là những máy bay rất khác nhau, được chế tạo để thực hiện những nhiệm vụ cũng khác nhau.


Chiến tranh tạo ra những anh hùng

F-4 tham gia chiến tranh Việt Nam và là máy bay chiến đấu cuối cùng của Mỹ trong thế kỷ 20 tạo nên "Át" (phi công bắn rơi được từ 5 máy bay địch trở lên): Trong chiến tranh Việt Nam, Không quân có 1 phi công và 1 sĩ quan hệ thống vũ khí, và Hải quân có 1 phi công và 1 sĩ quan theo dõi radar (RIO: Radar Intercept Officer) đạt danh hiệu "Át".

Những chiếc F-4C của Không quân Hoa Kỳ ghi được chiến công không chiến đầu tiên trước một chiếc MiG-17 của Bắc Việt Nam vào ngày 10 tháng 7 năm 1965, sử dụng tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder. Ngày 24 tháng 7 năm 1965, một chiếc Phantom thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 47 tạm thời bố trí tại Việt Nam đã trở thành chiếc máy bay Hoa Kỳ đầu tiên bị tên lửa đất-đối-không (SAM) bắn hạ, và vào ngày 5 tháng 10 năm 1966 một chiếc F-4C thuộc Không đoàn Tiêm kích Chiến thuật 8 trở thành chiếc máy bay phản lực Hoa Kỳ đầu tiên bị bắn hạ bởi tên lửa không-đối-không do một chiếc MiG-21 bắn ra.

Phải công nhận rằng, cuộc cạnh tranh của máy bay MiG và Phatom trên bầu trời Việt Nam đã kết thúc với thất bại hoàn toàn thuộc về phía máy bay của Mỹ: trong suốt thời gian chiến tranh từ năm 1966 đến 1972, 54 chiếc MiG-21 đã bị tiêu diệt bởi chiến đấu cơ F-4, cũng trong giai đoạn này, “20 chiếc MiG-21 đầu tiên” đã tiêu diệt được 103 chiếc Phantom. Ngoài ra, khi mất một máy bay Phatom cũng đồng nghĩa với việc 2 phi công bị chết hoặc bị bắt làm tù binh.

Vì vậy, việc máy bay MiG-21 của Nga bắn trúng F-4 của Mỹ được giải thích không phải lỗi của các nhà chế tạo mà là Mỹ thiếu chiến đấu cơ chuyên môn hóa hạng nhẹ có khả năng đối đầu ngang hàng với MiG-21 của Nga.

Kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng rất nhiều đến ngành chế tạo máy bay quân sự ở Mỹ cũng như ở Liên Xô. Mỹ đã đáp trả thất bại của Phantom trong những trận chiến trên không bằng việc chế tạo máy bay có tính cơ động cao thế hệ 4 – F-15, F-16 được cho là hơn hẳn MiG-21 trong những trận chiến cơ động gần.

Tuy nhiên, sau khi chiến tranh tại Việt Nam kết thúc, sự cạnh tranh giữa MiG và Phatom trên bầu trời vẫn chưa chấm dứt. MiG-21 và F-4 lại đối đầu trên kênh đào Suez, trên bầu trời Sinai, ở châu thổ sông Nile, và Syria năm 1973, ở Lebanon vào cuối thập niên 70 – đầu thập niên 80, vào những năm 80-88 của cuộc chiến tranh Iran – Iraq.

[BDV news]


Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

>> Không quân Việt Nam nhận tiếp 4 Su-30МК2




Nga đã bàn giao cho Việt Nam lô đầu tiên gồm 4 tiêm kích Su-30МК2 trưởng đoàn Rosoboronoexport tại triển lãm Le Bourget Sergei Kornev cho biết.




Su-30MK2 Flanker-G


Theo Trung tâm phân tích mua bán vũ khí thế giới TsAMTO, đây là lô máy bay đầu tiên được chuyển giao theo hợp đồng mua 8 Su-30МК2 ký đầu năm 2009 trị giá gần 400 triệu USD. Hợp đồng này không bao gồm vũ khí hàng không.

Đầu tháng 2.2010, Nga và Việt Nam đã ký hợp đồng thứ hai mua bán 12 Su-30МК2 và vũ khí hàng không, trị giá gần 1 tỷ USD. Nga sẽ bàn giao số máy bay theo hợp đồng này cho Việt Nam vào năm 2011-2012. Cũng theo hợp đồng này, Việt Nam sẽ nhận được vũ khí hàng không và phụ tùng cho cả lô máy bay này lẫn 8 Su-30МК2 đặt mua trước đó.

Việt Nam bắt đầu ráo riết mua vũ khí trang bị không quân của Nga từ giữa thập niên 1990 sau thời gian dài suy giảm hợp tác kỹ thuật quân sự song phương. Năm 1995, Việt Nam mua của Nga lô đầu tiên gồm 6 Su-27 (5 Su-27SK, 1 Su-27UBK) trị giá 150 triệu USD. Đầu năm 1997, Hà Nội mua lô thứ hai gồm 6 Su-27 (5 Su-27SK, 1 Su-27UBK).

Trong số các thương vụ thực hiện trước đó, có hợp đồng nâng cấp 2 tiêm kích MiG-21bis.

Năm 1996-1998, hãng KnAAPO và công ty Sukhoi đã nâng cấp 32 máy bay tiêm kích-bom một chỗ ngồi Su-22М4 và 2 máy bay huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi Su-22UM3. Hiện nay, 53 máy bay tiêm kích-bom Su-22М4/Su-22UM3 đang là chủ lực của lực lượng máy bay tiến công của Không quân Việt Nam.

Tháng 12.2003, Rosoboronoexport đã ký hợp đồng bán cho Việt Nam 4 Su-30МК, giao hàng năm 2004. Đây là mẫu cơ sở Su-30МК được cải tiến thích ứng các yêu cầu của Không quân Việt Nam. Tính cả giá Su-30МК kiểu cơ sở, vũ khí hàng không, phụ tùng và những cải tiến cần thiết theo yêu cầu của Việt Nam, hợp đồng trị giá gần 120 triệu USD.

Nga đang xúc tiến máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130 vào thị trường Việt Nam. Xét đến việc Việt Nam mua thêm Su-30МК, công ty Sukhoi đang đàm phán xây dựng tại Việt Nam một trung tâm bảo dưỡng kỹ thuật cho các máy bay Su.



[Vietnamdefence news]


>> Báo Nga: Việt Nam đầu tư mạnh cho phòng không




Việt Nam sẽ đầu tư mạnh cho mua sắm và hiện đại hóa hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa giai đoạn 2011-2014.
Hãng tin Armstrade (Nga) cho biết: Kế hoạch hiện đại hóa lực lượng phòng không Việt Nam đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng thông qua, cùng với hải quân, không quân sẽ là những lực lượng được ưu tiên hàng đầu cho kế hoạch tiến thẳng lên hiện đại hóa.

Theo đó, Việt Nam sẽ đầu tư mạnh cho việc mua sắm các hệ thống tên lửa phòng không tầm trung, các hệ thống phòng không tầm xa nâng cấp của hệ thống S-300, cùng với một vài hệ thống tên lửa phòng không thế hệ mới của Nga, đồng thời, nâng cấp các hệ thống tên lửa phòng không được chuyển giao từ thời Liên Xô.



Dàn tên lửa S-300 của Việt Nam được nhập khẩu từ Nga: Cự ly phát hiện là 300 km, diệt mục tiêu cự ly gần là 5 km, cự ly xa là 150 km, độ cao 27.000 m và thấp nhất là 10m.
Trung tâm phân tích mua bán vũ khí toàn cầu TSAMTO của Nga nhận định rằng, việc ký kết các hợp đồng mua sắm hệ thống tên lửa phòng không mới sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2011-2014.

TSAMTO cũng đưa ra bản nhận định về thị trường vũ khí của Nga giai đoạn 2011-2014. Trong đó tập trung nhấn mạnh đến thị trường tên lửa phòng không của Nga. Theo đó, giai đoạn 2011-2014, Nga sẽ bán ra toàn cầu khoảng 254 đơn vị tên lửa phòng không các loại, với giá trị khoảng 5,1 tỷ USD dù các đơn hàng cung cấp 16 hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Tor-M1 cho Libya và các hợp đồng xuất khẩu tên lửa cho Syria, Yemen bị gián đoạn bởi những bất ổn chính trị và lệnh cấm của Liên Hợp Quốc áp đặt lên các quốc gia này. Trong thời gian tới các hợp đồng này nhiều khả năng sẽ không thực hiện được. Bù lại Nga đã có thêm các thị trường mới như Brazil, Arab Saudi.

Cùng với đó là kế hoạch hiện đại hóa lực lượng phòng không của Venezuela, Algeria, Ấn Độ, Georgia. Đặc biệt là kế hoạch hiện đại hóa lực lương phòng không của Việt Nam.

Trong danh sách các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa xuất khẩu, S-300/S-400 của Nga cùng với Patriot PAC-3 và THAAD của Mỹ sẽ là hai đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường vũ khí phòng không thế giới.

TSAMTO cũng đánh khá cao những nỗ lực tham gia thị trường xuất khẩu của hệ thống tên lửa FT-2000 biến thể xuất khẩu của hệ thống HQ-9 do Trung Quốc sao chép từ S-300 của Nga. Giá cả chính là điểm mạnh của hệ thống tên lửa do Trung Quốc sản xuất.

Cùng với nỗ lực giới thiệu hệ thống tên lửa phòng không Aster-30 của châu Âu, hiện tại FT-2000 của Trung Quốc cùng với S-300 của Nga, Patriot PAC-3 của Mỹ, Aster-30 của châu Âu đang tham gia đấu thầu cho chương trình cung cấp hệ thống tên lửa phòng không tầm xa cho Thổ Nhĩ Kỳ.

Dù có sự sụt giảm về giá trị, song giai đoạn 2011-2014, Nga tiếp tục dẫn đầu thế giới trong việc xuất khẩu các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa. Vị trí thứ 2 thuộc về Mỹ, trong giai đoạn 2011-2014, Mỹ sẽ xuất khẩu khoảng 103 hệ thống tên lửa phòng không với giá trị 6,5 tỷ USD. Như vậy, Nga sẽ dẫn đầu thế giới về số lượng xuất khẩu trong khi đó Mỹ sẽ dẫn đầu về giá trị xuất khẩu.

[BDV news]


Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

>> Việt Nam sắp có máy bay trinh sát, tuần tra biển



Tuần tra hàng hải đường không có ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh tình hình biển Đông ngày càng diễn biến theo chiều hướng phức tạp.


Tuần tra hàng hải đường không là một bộ phận không thể thiếu đối với đảm bảo an ninh hàng hải và khả năng tác chiến của hải quân các nước trên thế giới.

Đối với các nước lớn trên thế giới, từ lâu tuần tra hàng hải đường không có vai trò mang tầm chiến lược. Các nước như Nga, Mỹ liên tục phát triển những năng lực mới cho các loại máy bay tuần tra hàng hải.

Theo đó, các máy bay này có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng lúc, tuần tra đảm bảo an ninh hàng hải, chống cướp biển, buôn lậu, phát hiện và xử lý sớm các tàu thuyền lạ xâm nhập lãnh hải.

Các máy bay trinh sát thực hiện phát hiện, định vị và tiêu diệt tàu chiến của đối phương điển hình có máy bay tuần tra hàng hải P-8 Poseidon, P-3 Orion của Mỹ, IL-38, Tu-142F của Nga.

Đây là các loại máy bay có tầm hoạt động xa, khả năng bao phủ một vùng rộng lớn từ trên cao, nhanh chóng có mặt tại các điểm nóng, đối phó hiệu quả với các tình huống bất ngờ.

Hiểu rõ được vai trò của tuần tra hàng hải đường không trong tình hình biển Đông đang diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Quân đội Nhân dân Việt Nam đang từng bước phát triển lực lượng tuần tra hàng hải đường không.

Năm 2010, lần đầu tiên Việt Nam ký kết một hợp đồng mua bán máy bay với các nước phương Tây. Hợp đồng mua bán 6 máy bay thủy phi cơ lưỡng dụng DHC-6 Twin Otter series 400 đã được ký kết với Tập đoàn Viking Air Canada.



DCH-6 có khả năng hoạt động linh hoạt cả trên biển lẫn trên đất liền. Việc trang bị loại máy bay này sẽ mở ra năng lực mới cho đảm bảo an ninh hàng hải của nước ta.


Dự kiến, công việc giao hàng sẽ được bắt đầu trong giai đoạn từ 2012-2014, phía Tập đoàn Viking Air Canada sẽ hỗ trợ công tác đào tạo phi công tại Canada. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ký một hợp đồng mua 3 chiếc máy bay trinh sát hàng hải CASA C-212 từ Tây Ban Nha.

Sự kiện này đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lộ trình thành lập lực lượng Không quân Hải quân Quân đội Nhân Dân Việt Nam nói riêng và Quân đội Nhân dân Việt Nam nói chung, không chỉ thể hiện Quân Đội Nhân Dân Việt Nam có trang bị kỹ thuật đa dạng mà còn mở ra một hướng xây dựng lực lượng tác chiến đa dạng, đảm bảo an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh quốc tế ngày một phức tạp.

Đặc điểm kỹ thuật DHC-6

DHC-6 một loại thủy phi cơ lưỡng dụng linh hoạt cao, có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng lúc. Tuần tra đảm bảo an ninh hàng hải, theo dõi thời tiết, chụp ảnh hiện trường, đánh dấu vị trí trên biển, cứu hộ cứu nạn trên biển, vận tải hàng hóa và hành khách.

Máy bay này có khả năng cất hạ cánh trên đường băng rất ngắn, có thể cất hạ cánh trên biển và trên đất liền. Đặc biệt hữu ích trong các tình huống cứu hộ hay chi viện lực lượng cho các đảo, nơi có đường băng thường rất ngắn.

Thủy phi cơ lưỡng dụng DCH-6 được trang bị hệ thống điện tử hàng không hiện đại, tích hợp radar thời tiết hiển thị đa màu sắc, radar đo độ cao, máy ảnh tích hợp, hệ thống định vị toàn cầu GPS, hệ thống điều khiển và liên lạc vô tuyến hàng hải Loran-C và hệ thống thả phao đánh dấu vị trí trên biển.



Buồng lái của DCH-6 được trang bị các thiết bị điện tử hiện đại.


Ngoài thiết bị điện tử tích hợp sẵn, thủy phi cơ DCH-6 có thể mang theo các thiết bị phụ trợ bên ngoài, hoặc bên trong khoang theo yêu cầu của phía khách hàng.

Thủy phi cơ DCH-6 series 400 được trang bị 2 động cơ phản lực cánh quạt PT-6A35 hiệu suất cao, tốc độ trung bình khoảng 300km/giờ. Hệ thống điều áp của máy bay được thiết kế với khả năng hoạt động tại độ cao 4,2km mà không cần oxy hỗ trợ.

Máy bay có khả năng hoạt động tại độ cao tối đa là 8,5 km, tầm hoạt động 1.248km với thùng nhiên liệu phụ trợ, 896km với lượng nhiên liệu tiêu chuẩn. Khi được nạp đầy vào bình nhiên liệu, DCH-6 có khả năng hoạt động liên tục trong 6 giờ.

Phi hành đoàn của DCH-6 gồm có 2 người, khoang máy bay có thể chứa 18-20 hành khách hoặc hàng hóa tùy theo yêu cầu nhiệm vụ

Thông số cơ bản: Dài 15,77 mét, sải cánh 19,81 mét, cao 5,94 mét, trọng lượng rỗng 3365 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 5670kg, tải trọng hàng hóa 1135kg.
[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang