Bên cạnh V. Putin ở Điện Kremlin có một "điệp viên người Đức" giúp Tổng thống Nga xử lý nhiều vấn đề kinh tế phức tạp. >> Vì sao Putin không đi Mỹ ? >> Putin, Medvedev và một nước Nga thực sự hùng mạnh! Chân dung Matthias Warnig. Ông chủ của một bộ sưu tập các chức vụ quản lý Trong số các nhà doanh nghiệp cự phú của châu Âu có không ít người là những nhà sưu tập nối tiếng. Mathias Warnig cũng là một nhà sưu tập, nhưng cái mà ông sưu tập không phải là cổ vật, mà là chức vụ quản lý trong các tập đoàn lớn ở Nga. Ngoài chức danh Giám đốc điều hành Nord Stream từ năm 2005, Mathias Warnig có chân trong Hội đồng quản trị Công ty dầu khí Rosneft, Transneft, Ngân hàng Vneshtorgbank Nga và chi nhánh Ngân hàng Dresdner tại Moscow. Gần đây nhất, Mathias Warnig đã thêm vào bộ sưu tập của mình chức vụ thành viên Hội đồng quản trị của nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới - công ty Rusal. Trước khi Warnig xuất hiện ở đây, Rusal nổi tiếng là “chiến trường” của các ông trùm tài phiệt Nga: Oleg Deripaska, Viktor Vekselberg, Vladimir Potanin và Mikhail Prokhorov. Họ chia chác nhau phần lợi nhuận của Mikhail Khodorkovsky, sau khi ông trùm này vướng vào vòng lao lý. Và tất nhiên, không chắc là họ sẽ trung thành với Kremlin. Putin cũng không tin tưởng bất kỳ ai trong số họ. Trong khi đó, xuất khẩu kim loại màu là khu vực duy nhất của nền kinh tế mà “người của Putin” không nắm giữ. Vì vậy, Warnig cần phải đến và thiết lập lại trật tự ở Rusal. “Putin không tin tưởng bất kỳ ai ngoại trừ doanh nhân gốc Đức đầy bí ẩn này. Ông ta được phái đến đó, nơi số phận lợi ích chiến lược quy mô lớn của nước Nga cần được giải quyết thoả đáng" – chuyên gia về kinh doanh năng lượng Nga, giám đốc Diễn đàn chính sách năng lượng của ĐH Cambridge, Pierre Noel lý giải về sự kiện trên. Chính Wargnig đã tham mưu cho Putin xây dựng dự án đường ống dẫn khí dưới biển Baltic. Ông ta còn là người đứng tên phần tài chính giữ quyền kiểm soát của Điện Kremlin với công ty dầu mỏ Yukos của Mikhail Khodorkovsky, và áp đặt trật tự kinh doanh dầu mỏ của Nga. Có lẽ, Vargnig còn nắm giữ một dự án khác có tầm quan trọng đặc biệt đối với lợi ích của Nga, được biết tới với cái tên South Stream. Đây là dự án đường ống dẫn khí dưới Biển Đen ở phía nam của châu Âu. South Stream được kỳ vọng sẽ trở thành thế lực mới của nước Nga có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Châu Âu, trong khi đối thủ cạnh tranh Nabucco được Liên minh châu Âu hỗ trợ, đang ngày càng mất đi sự ủng hộ chính trị do bối cảnh ảm đạm của kinh tế, tài chính Châu Âu sau khủng hoảng. Xuất thân từ điệp viên Sau khi tốt nghiệp trung học, Warnig tham gia Quân đội CHDC Đức và có thời gian phục vụ ngắn hạn tại Trung đoàn Dzerzhinsky. Đây một trong những đơn vị tinh nhuệ của Stasi - Bộ an ninh quốc gia, cơ quan chuyên trách phản gián và tình báo của CHDC Đức. Năm 1975 Warnig chính thức được tiếp nhận vào làm việc tại Tổng cục tình báo Stasi. Năm 1977, Warnig rời quân đội và thi vào Khoa Kinh tế của Trường Kinh tế Berlin mang tên Leuschner. Khi còn học đại học, Warnig được biết đến là sinh viên có thành tích học tập xuất sắc, nhiều tham vọng và cẩn trọng. Ông còn nổi tiếng là người say mê và am hiểu sâu sắc học thuyết kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác. Đổi lại, kiến thức về nền kinh tế thị trường phương Tây Warnig hầu như không có. Chỉ sau khi tham gia Trường đào tạo tình báo Stasi, Warnig bắt đầu nghiên cứu kinh tế phương Tây. Kết thúc khoá đào tạo đặc biệt này ông được nhận mật danh “The Economist” và được phái đi hoạt động ở CHLB Đức. Ban đầu Warnig được phái vào mạng lưới gián điệp công nghiệp quốc phòng với nhiệm vụ thu thập thông tin về ngành công nghiệp sản xuất máy bay quân sự và tên lửa của CHLB Đức và Phương Tây. Tuy nhiên, các sĩ quan chỉ huy tình báo sau đó đã nhận ra rằng chuyên môn của Warnig không phụ hợp để có thể “chui sâu” vào các nhà máy sản xuất tên lửa của đối phương. Và thế là lãnh đạo cơ quan tình báo đã chuyển Warnig sang làm gián điệp kinh tế. Năm 1986, Warnig nhận mật danh mới "Arthur" và được biệt phái hoạt động tại Uỷ ban thương mại CHDC Đức ở Düsseldorf (CHLB Đức). Tại đây Warnig đã thiết lập mối quan hệ mật thiết với một loạt nhân viên trong lĩnh vực ngân hàng, bao gồm cả nhân viên quản lý ở Dresdner Bank AG, một trong những ngân hàng nước ngoài đầu tiên mở chi nhánh tại Liên Xô (năm 1972). Dresdner Bank AG là công ty con thuộc tập đoàn kinh doanh bảo hiểm Allianz AG. Sau đó, nhờ các mối quan hệ của mình Warnig đã được vào làm việc ở Dresdner Bank AG. Với công việc "Arthur" có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin có giá trị. "Arthur" thường xuyên báo cáo về Trung tâm nội dung các cuộc hội đàm bí mật của ngân hàng phương Tây để tiến hành các đòn trừng phạt tài chính đối với khối Đông Âu, cũng như thông tin về các khoản tín dụng bí mật dành cho lĩnh vực công nghiệp quốc phòng. Ngày 22/4/1987, Warnig gửi báo cáo về Trung tâm Stasi ở CHDC Đức thông báo rằng các nước phương Tây đang bí mật thảo luận về Tuyên bố COCOM nhằm cấm vận và ngăn chặn xuất khẩu các mặt hàng công nghệ nhạy cảm cho các nước khối Đông Âu. Thông tin này đến từ một điệp viên là lãnh đạo cao cấp của Dresdner Bank AG được Warnig tuyển mộ. Sau ngày nước Đức thống nhất, một phần báo cáo này của Warnig được liệt vào dạng “bí mật quốc gia” và danh tính của điệp viên cung cấp thông tin đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Trong khi đó, nhờ năng lực tuyệt vời của mình Warnig nhanh chóng tạo dựng được chỗ đứng vững chắc ở Dresdner Bank và được Giám đốc ngân hàng này đánh giá cao. "Thực tế những điệp viên được phái đi CHLB Đức đều là những cá nhân có chuyên môn xuất sắc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Họ đều là những người được đào tạo bài bản và có tầm hiểu biết nhất định về cơ chế thị trường” - nhà văn Nga, cựu sĩ quan tình báo KGB Igor Prelin, giải thích. Chính nhờ những con người ưu tú như vậy, cho nên đến nửa sau thập niên 1980 giới ngân hàng phương Tây không chút mảy may nghi ngờ rằng, chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu sẽ sụp đổ. Và họ không tiếc tiền tuyển mộ những nhân viên xuất sắc từ phương Đông. Gia nhập “mạng lưới của Putin” Thành phố Dresden của nước Đức ngày nay vẫn là một địa điểm du lịch hấp dẫn đối với phần lớn du khách Nga. Người Nga đến đó không chỉ đơn giản là để uống vài vại bia Torah. Đối với nhiều người Nga yêu mến Putin, đó còn là một địa danh lịch sử, bởi Dresden chính là nơi ghi dấu quãng thời gian hoạt động sôi nổi của Putin khi còn là điệp viên KGB. Từ năm 1985 đến 1990 Vladimir Putin là trưởng chi nhánh KGB tại Dresden (CHDC Đức) trong vỏ bọc là Giám đốc Nhà văn hoá hữu nghị Liên Xô – CHDC Đức. Cũng chính tại đây có sự phối hợp hoạt động khăng khít giữa KGB và Cơ quan an ninh Stasi (CHDC Đức). Hai mươi lăm năm trước, có một người Nga thường xuyên ghé vào một quán bar quen thuộc, gọi một cốc bia và chỉ uống hết hai phần ba cốc là đứng dậy. Người đàn ông này chính là một điệp viên cỡ bự của KGB, sau này là Tổng thống Nga Vladimir Putin. Cũng tại quán bar đó, đôi khi xuất hiện một người đàn ông Đức dáng to đậm cùng ngồi uống bia và nói vài câu chuyện rồi họ lại tạm biệt nhau. Người đàn ông đó chính là Warnig, một đồng nghiệp đến từ Stasi. Cuối thập niên 1980, không một ai nghi ngờ rằng hệ thống XHCN Đông Âu đang xuất hiện những vết rạn nứt và mạng lưới điệp viên do Putin xây dựng vẫn đang hoạt động tích cực. Nhiệm vụ của Putin lúc này là tuyển dụng các điệp viên có khả năng nhất của mạng lưới tình báo Đông Âu, đặc biệt là những người đã có tiếp xúc ở phương Tây. Khi hai người quen nhau Putin là Trung tá KGB, còn Warnig mang quân hàm Thiếu tá của Stasi. Sau đó, Warnig đã quyết định gia nhập mạng lưới của Trung tá KGB tại Dresden. Một người bạn Đức của gia đình Putin Đầu những năm 1990, các cư dân của thành phố trên sông Neva không phải là Leningrad của ngày xưa mà đã trở thành St Petersburg của thế giới các băng đảng tội phạm. Mafia là lực lượng cai trị ở thành phố này. Chính quyền dân chủ mới của Thị trưởng Anatoly Sobchak khó có thể kiểm soát bất cứ điều gì. Giữa lúc đó Putin đã về làm việc cho Sobchak, một người thầy cũ của ông ở trường đại học. Putin được giao phụ trách các hoạt động kinh doanh, tài chính, và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Đúng lúc này, một người bạn cũ từ Dresden cũng xuất hiện ở St Petersburg. "Anh ta là một người Đức tốt bụng và trung thực, chúng ta sẽ làm kinh doanh với anh ta" – Putin đã giới thiệu với Sobchak bằng những lời ngắn gọn như vậy về Warnig. Đương nhiên, phần còn lại của St Petersburg lại không hề có thiện cảm với bất kỳ người Đức nào, chưa kể tới những ảnh hưởng từ lịch sử của chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tuy nhiên, Putin đã chiến thắng tất cả. Warnig đã mở chi nhánh của Dresdner Bank tại St Petersburg, và đây là ngân hàng nước ngoài đầu tiên ở Nga. Thành phố lúc này đang cần tiền để mua thực phẩm, và người Đức thì muốn có được một chỗ đứng vững chắc tại một đất nước rộng lớn nhiều tiềm năng, nhưng cũng được ví như một khu rừng rậm hoang sơ đầy nguy hiểm đối với các nhà đầu tư. Những điều bất lợi đó có thể được nhìn thấy bằng mắt, nhưng Warnig vẫn quyết đoán đầu tư vào đây. Sau đó ông là khách thường xuyên của Putin. Năm 1994, chính Warnig đã trợ giúp người vợ của vị Tổng thống tương lai được sang điều trị tại Đức sau một tai nạn xe hơi nghiêm trọng. Vụ tai nạn đó đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Như người ta vẫn thường nói, trong hoạn nạn mới biết bạn bè tốt, và nhờ vậy chúng ta hiểu vì sao một người Đức như Warnig luôn được chào đón ở nước Nga và trở thành cánh tay đắc lực của Tổng thống Vladimir Putin. Ngược lại, Warnig cũng có tình cảm đặc biệt với nước Nga, thông thạo tiếng Nga và luôn trung thành với “người bạn lớn”. Mối quan hệ Nga và Đức trở nên gần gũi hơn nhờ những người như Matthias Warnig “Warnig đã làm quen với hàng trăm quan chức Nga. Đó là phương pháp hợp tác của ông với nước này. Bây giờ Warnig có thể nhận được thông tin về mỗi của dự án luật, về mỗi quyết định sắp được ban hành, trước khi nó được công bố rộng rãi. Đó thực sự là một đặc ân” - Tổng Biên tập trang mạng Forbes (tiếng Nga) Roman Badanin cho biết. Những năm 1990, việc làm ăn lớn thực sự lớn vẫn còn ngoài tầm với của Warnig, đồng thời sân khấu chính trị lớn cũng nằm ngoài khả năng của Putin. Bước ngoặt chỉ đến khi Tổng thống Boris Yeltsin trao cho Putin chức vụ Thủ tướng, và sau đó là Tổng thống Nga. Warnig cũng chuyển tới Moscow cùng “người bảo trợ” của mình. (Nguồn :: BDV ) |
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổng thống Nga. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổng thống Nga. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012
>> 'Điệp viên Đức' ở Điện Kremlin
Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012
>> CNQP Nga tìm ánh hào quang xưa
Khi nói tới việc chấn hưng các nền sản xuất quốc phòng, ông Putin nhấn mạnh nhiều tới việc đầu tư đổi mới các tổ hợp công nghiệp nghiệp quốc phòng (OPK). Ông Putin xuất hiện tại một triển lãm vũ khí và quảng bá cho xe tăng T-90 của nước này. Ảnh: Military.net Giành lại sự dẫn đầu về công nghệ Tổ hợp công nghiệp quốc phòng từng là niềm tự hào của Liên bang Xô Viết, là nơi đây tập trung tiềm năng trí tuệ và khoa học– kỹ thuật vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, từ sau biến cố chính trị 1991, hệ thống này đã chững lại, tích tụ nhiều vấn đề. Thậm chí, xét về tầm vĩ mô, hệ thống đã bỏ qua mấy chu trình hiện đại hoá trong 30 năm trở lại đây . Do đó, một trong những chính sách quốc phòng – an ninh ưu tiên của tân Tổng thống Nga V. Putin là phải khắc phục hoàn toàn sự tụt hậu này. Giành lại sự dẫn đầu về công nghệ đối với toàn bộ phổ công nghệ quân sự cơ bản. Theo tân Tổng thống Nga, các nhiệm vụ cần giải quyết tiên quyết là tăng lên nhiều lần việc cung cấp trang bị kỹ thuật hiện đại và thế hệ mới, hình thành việc nghiên cứu khoa học và công nghệ tiền tiến, nghiên cứu và làm chủ các công nghệ đột biến để phát triển sản xuất các sản phẩm quân sự có khả năng cạnh tranh. Và, cuối cùng, xây dựng trên cơ sở công nghệ mới việc sản xuất các mẫu vũ khí và trang bị kỹ thuật quân sự có triển vọng. Hợp tác quốc tế để kích thích phát triển Ngày nay nước Nga đã gắn bó chặt chẽ vào hệ thống kinh tế thế giới và luôn mở cửa đối thoại với tất cả các đối tác, kể cả về các vấn đề quốc phòng và trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật quân sự. Song nghiên cứu kinh nghiệm và xu hướng ở nước ngoài nói chung không có nghĩa là Nga chuyển sang các mô hình vay mượn và từ bỏ dựa vào sức mình. Ngược lại, để phát triển kinh tế– xã hội ổn định và đảm bảo an ninh quốc gia, theo quan điểm của ông Putin, phải vừa tiếp thu tất cả những gì tốt nhất, tăng cường và ủng hộ sự độc lập khoa học và công nghệ quân sự của nước Nga. Trong đó, mua trang bị kỹ thuật quân sự nước ngoài là “đề tài nhạy cảm”, vốn gây tranh cãi nhiều năm nay. Tuy nhiên, định hướng của nhà lãnh đạo mới của Nga là để nhanh chóng giải quyết những nhiệm vụ cấp bách trong lĩnh vực quốc phòng và, kích thích nhà sản xuất trong nước. “Không một thương vụ mua sắm vũ khí nào có thể thay cho việc sản xuất các loại vũ khí, mà chỉ có thể làm cơ sở để có được công nghệ và tri thức”, ông Putin cho biết. Điều này từng diễn ra trong lịch sử, khi mà các “họ” xe tăng của Liên Xô những năm 1930 được sản xuất ra trên cơ sở xe tăng Mỹ và Anh đưa đến sản phẩm cuối cùng là chiếc xe tăng tốt nhất của Chiến tranh thế giới lần thứ hai T– 34. OPK phải như bông hoa thu hút ong mật và tỏa hương, kết trái Dường như, ông Putin không chấp nhận được một nền công nghiệp quốc phòng không có khả năng, “cứ bình tĩnh đuổi kịp ai đó”, mà phải thực hiện cú nhẩy, trở thành những nhà phát minh và sản xuất hàng đầu. Vì vậy, Tân Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang toàn Nga tuyên bố không chấp nhận việc Quân đội trở thành thị trường tiêu thụ các mẫu vũ khí, công nghệ và công trình nghiên cứu khoa học thiết kế thử nghiệm đã lạc hậu, được nhà nước trả tiền. Đó chính là nguyên nhân vì sao gần đây, Quân đội Nga đưa ra những yêu cầu khắc nghiệt đối với các xí nghiệp quốc phòng và phòng thiết kế. Cũng giống như quan điểm xây dựng Quân đội Nga phải chăm lo cho đời sống quân nhân. Khi nói tới việc chấn hưng các nền sản xuất quốc phòng, ông Putin nhấn mạnh nhiều tới việc đầu tư đổi mới các tổ hợp công nghiệp nghiệp quốc phòng (OPK). “Nhiệm vụ của chúng ta là không phải làm khánh kiệt, mà tăng lên nhiều lần tiềm lực kinh tế của đất nước, xây dựng một Quân đội, một OPK đủ khả năng đảm bảo chủ quyền, sự tôn trọng của các đối tác và nền hoà bình bền vững cho nước Nga. Chúng ta không bao giờ được phép mắc lại thảm hoạ năm 1941, khi mà sự không sẵn sàng đối phó với chiến tranh của nhà nước và quân đội đã phải trả bằng những hi sinh mất mát hết sức to lớn về sinh mạng con người”, ông Putin tuyên bố. Theo đó, nhiệm vụ trong thời kỳ mới phải biến các OPK trở thành đầu tầu kéo theo sự phát triển của những ngành rất khác nhau: luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp hoá chất, điện tử vô tuyến, toàn bộ các công nghệ thông tin và viễn thông, còn sự hiện diện của các tập thể này trên thị trường kết quả nghiên cứu thiết kế cho khu vực dân sự. Ông Putin bắn thử mẫu súng AK hiện đại của Nga. Ảnh: Deathandtaxesmag Thế nhưng, sự phát triển OPK chỉ bằng sức lực của nhà nước hiện đã không hiệu quả, còn trong tương lai trung hạn sẽ là không thể về mặt kinh tế. Do đó, cần phải xúc tiến sự hợp tác nhà nước – tư nhân trong công nghiệp quốc phòng, kể cả đơn giản hoá thủ tục thành lập những ngành sản xuất quốc phòng mới. Về vấn đề này, ông Putin có nhắc tới “lời giải Mỹ”, mà ở đó các nhà sản xuất vũ khí hàng đầu của Mỹ và châu Âu đều không phải là công ty nhà nước. Ông Putin kỳ vọng, việc tổ chức sản xuất mang lại cuộc sống mới, làm tăng khả năng cạnh tranh của vũ khí Nga trên các thị trường vũ khí thế giới, tuy nhiên, phải có chế độ đặc biệt đối với các xí nghiệp tư nhân trong OPK gồm các yêu cầu bảo mật. Trong hình dung của Tổng thống Nga, uy tín của các chuyên ngành kỹ thuật sẽ tăng lên dần, các xí nghiệp thuộc OPK sẽ là trung tâm thu hút thanh niên tài năng – giống như thời Xô Viết– đưa ra những khả năng rộng lớn cho việc thực hiện những ước vọng sáng tạo trong nhiên cứu thử nghiệm, trong khoa học và công nghệ. Một trong những biện pháp hồi sinh nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh mà ông Putin đề cập là phải kiên quyết ngăn chặn tham nhũng trong công nghiệp quân sự và trong các lực lượng vũ trang, kiên trì nguyên tắc không để thoát khỏi bị trừng phạt. “Tham nhũng trong lĩnh vực an ninh quốc gia, thực chất là phản bội tổ quốc”, ông Putin lên án mạnh mẽ. Cụ thể, phải từ bỏ việc đấu thầu kín bởi sự bí mật thái quá đã dẫn đến giảm cạnh tranh, làm tăng giá sản phẩm quân sự, tạo ra siêu lợi nhuận không phải để hiện đại hoá sản xuất, mà rơi vào túi một số thương gia và quan chức riêng lẻ. Việc mua sắm trong lĩnh vực quốc phòng phải được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của xã hội, và việc trừng phạt vì sai phạm trong lĩnh vực đặt hàng quân sự nhà nước phải được xiết chặt. |
Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012
>> Lễ nhậm chức Tổng thống của Putin
Buổi lễ nhậm chức Tổng thống Nga của ông Vladimir Putin vừa kết thúc, sau khi bắt đầu lúc 11h Moscow (tức 14h theo giờ Việt Nam), được tường thuật trực tiếp trên 6 kênh truyền hình Nga.
Buổi lễ diễn ra bên trong và xung quanh điện Kremlin và kéo dài gần hai tiếng. Các hoạt động chính của lễ nhậm chức diễn ra khá đơn giản, hoàn tất trong một giờ. Ông Putin được trao các biểu tượng cho quyền lực Tổng thống như cờ, huy hiệu và một bản Hiến pháp Nga và va ly hạt nhân.
Buổi lễ bắt đầu bằng việc duyệt đội danh dự. Sau đó, ông Putin tuyên thệ ngắn gọn rằng sẽ phục vụ tổ quốc. Ông tuyên bố: “Với quyền lực của Tổng thống Liên bang Nga, tôi xin thề tôn trọng và bảo vệ quyền lợi và sự tự do của nhân dân”. Cuối buổi lễ là 30 loạt đại bác, đánh dấu sự khởi đầu cho nhiệm kỳ mới của ông Putin. Buổi lễ ước tính tốn 26 triệu ruble (tương đương 18 tỉ đồng) với 3.000 quan khách tham dự là các lãnh đạo bộ, ngành, các thống đốc, nhà ngoại giao… Đáng chú ý là có cả sự góp mặt của cựu Thủ tướng Italy Berlusconi, cựu Tổng bí thư Gorbachev... Tham gia buổi lễ, họ được phục vụ rất nhiều cao lương mĩ vị và tất nhiên không thể thiếu rượu vodka, champagne… Tường thuật trực tiếp lễ nhậm chức. Tiểu sử tân Tổng thống Nga Ông Vladimir Putin sinh ngày 7/10/1952 trong gia đình công nhân tại Leningrad (từ năm 1991 đổi tên thành Saint-Peterburg). Từ nhỏ, ông ham thích thể thao và ưa xem những bộ phim về các chiến sĩ tình báo. Năm 1975, ông tốt nghiệp ngành Luật quốc tế tại ĐH Tổng hợp Quốc gia Leningrad. Theo sự phân công ông nhận công tác trong cơ quan an ninh quốc gia. Năm 1984, ông học tập tại Trường Cao cấp của KGB (nay là Trường Tình báo đối ngoại), theo chuyên ngành các nước nói tiếng Đức. Năm 1985, ông công tác tại CHDC Đức cho đến cuối năm 1989, làm Giám đốc Nhà Hữu nghị Xô-Đức ở Dresden. Trở lại Saint-Peterburg, ông Putin thành cố vấn của Chủ tịch Hội đồng thành phố Anatoly Sobchak, người mà ông quen biết khi còn ở trường ĐH. Từ năm 1994 ông Vladimir Putin là phó Chủ tịch chính quyền Saint-Peterburg. Ở cương vị này, ông phụ trách các vấn đề liên quan đến thu hút đầu tư, hợp tác với các công ty nước ngoài và thành lập các công ty liên doanh. Năm 1992 ông rời KGB với hàm trung tá quân dự bị. Tháng 8/1996, ông chuyển đến Moscow, trở thành Phó của ông Pavel Borodin phụ trách công việc trong Phủ Tổng thống Nga, sau đó đứng đầu Cơ quan kiểm soát chính của Phủ Tổng thống Liên bang, thay thế người tiền nhiệm Aleksei Kudrin ở chức vụ này. Tháng 7/1998, ông được chỉ định làm Giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang, đồng thời từ tháng 3/1999 ông trở thành Thư ký Hội đồng An ninh Nga. Đến tháng 8/1999, ông được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chính phủ. Ngày 31/12/1999, sau khi Tổng thống Nga đầu tiên Boris Yeltsin từ chức trước thời hạn, ông Vladimir Putin trở thành Quyền Tổng thống. Ngày 26/3/2000, nhận được sự ủng hộ của 52,94% cử tri Nga, ông Vladimir Putin được bầu làm Tổng thống LB Nga. Ông Putin nhậm chức nguyên thủ quốc gia ngày 7/5/2000. Ngày 14/3/2004 ông Vladimir Putin tái đắc cử Tổng thống Nga nhiệm kỳ thứ 2 với 71,31% số phiếu cử tri. Tháng 4/2008, ông được bầu làm Chủ tịch đảng “Nước Nga thống nhất”. Tuy nhiên ông Putin chưa bao giờ gia nhập đảng. Ngày 7/5/2008 ông kết thúc nhiệm kỳ Tổng thống Nga. Từ ngày 8/5/ 2008 cho đến 6/5/2012 ông Putin là Thủ tướng Chính phủ Nga. Mùa thu 2011 ông Vladimir Putin được đảng “Nước Nga thống nhất” giới thiệu tranh cử Tổng thống. Trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 4/3/2012, ông Vladimir Putin giành chiến thắng với kết quả nhận được 63,6% phiếu bầu của cử tri Nga. Ông Vladimir Putin là Tiến sĩ Kinh tế, thông thạo tiếng Đức và tiếng Anh, Ông Putin là kiện tướng thể thao về võ Sambo và Judo, ưa thích môn trượt tuyết trên núi. Ông Putin kết hôn và có hai người con gái. Thú cưng của gia đình là chú chó labrador được đặt tên là Koni. Đây sẽ là nhiệm kỳ Tổng thống thứ ba của ông Putin trong vai trò Tổng thống. Lần này, nhiệm kỳ Tổng thống của ông Putin sẽ kéo dài 6 năm, thay vì 4 năm như trước kia. Với sự trở lại của "người đàn ông quyền lực nhất nước Nga", nhiều người đặt câu hỏi Vladimir Putin của năm 2012 có gì khác so với hồi 2000-2008? Câu hỏi này chỉ có câu trả lời xác đáng khi thế giới chứng kiến các quyết sách và hành động của ông Putin trong các động thái cụ thể. Tuy nhiên, vẫn có điểm mọi người thấy ngay đó là mối quan tâm đặc biệt của ông Putin đối với châu Á trong chính sách đối ngoại hiện nay của mình. Theo đó, trong nhiệm kỳ tới, Putin chắc chắn sẽ duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc, củng cố vị thế của Moscow tại Trung Á, thu xếp những gì còn lại ở chiến trường Afghanistan sau khi Mỹ rút quân, ngăn ngừa một cuộc chiến hoặc khủng hoảng xảy ra tại bán đảo Triều Tiên, và hòa nhập hơn nữa vào mạng lưới Đông Á đầy sôi động về kinh tế. Cùng lúc đó, ông Putin vẫn rất muốn củng cố vai trò của Nga tại châu Âu, đồng thời, ông không có vẻ gì là sẽ 'nhún nhường' Mỹ và NATO trong kế hoạch đặt hệ thống lá chắn tên lửa tại châu Âu. Loạt bài viết của ông Putin trước kỳ bầu cử có tiêu đề "Nước Nga và thế giới đang biến chuyển" đăng trên tờ Moscow News đã dội một gáo nước lạnh lên những người nào nghĩ rằng ông Putin sẽ có quan điểm mềm mỏng về một số vấn đề quốc tế then chốt trong nhiệm kỳ Tổng thống thứ 3 tới đây. Hệ quả là, một số nhà phân tích tin rằng sau khi Putin trở lại một cách ngoạn mục, họ sẽ lại nhìn thấy một nhân vật vẫn cứng rắn và không thỏa hiệp như vậy trên chính trường quốc tế như hai nhiệm kỳ trước đó của ông - từ năm 2000-2008. |
Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012
>> Kịch bản lễ nhậm chức tổng thống Nga
Cung điện Kremlin đang hoàn tất chuẩn bị lễ nhậm chức của Tổng thống Vladimir Putin diễn ra vào 7/5. Buổi lễ long trọng của người đứng đầu đất nước được lên kịch bản từng chi tiết. Ông Vladimir Putin chuẩn bị nhậm chức tổng thống Nga. Những chiếc kèn đồng của Dàn nhạc tổng thống được đánh bóng. Các chiến sĩ của Trung đoàn cảnh vệ điện Kremlin luyện giọng chuẩn để hô vang “Ura!”; còn những người đầu bếp kiểm tra lại mọi chi tiết trong thực đơn bữa đại tiệc. Trong buổi lễ nhậm chức, tân Tổng thống sẽ đọc lời tuyên thệ sau khi đặt tay lên cuốn Hiến pháp Nga. Chứng kiến trực tiếp sẽ là đông đảo đại diện các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp Nga; cũng như đại diện những tôn giáo lớn, các nhân vật được nhận huân chương nhà nước, lãnh đạo các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức phi chính phủ và báo giới. Yêu cầu trang phục đối với khách mời của buổi lễ nhậm chức tổng thống Nga khá tự do nhưng họ được khuyến nghị chọn màu sắc thanh nhã và điềm đạm. Lời tuyên thệ này ngắn, chỉ gồm 33 từ, khẳng định sẽ bảo vệ quyền lợi và tự do của con người; trung thành, phục vụ nhân dân và bảo vệ chủ quyền, an ninh, sự toàn vẹn của đất nước. Sau khi kết thúc tuyên thệ, Chánh án Tòa án Hiến pháp Nga tuyên bố Tổng thống chính thức nhậm chức, trước khi quốc ca Nga được cử hành, cờ tổng thống được kéo lên trên nóc phủ tổng thống và dàn đại bác bắn chào mừng 30 hồi. Kết thúc buổi lễ, Trung đoàn cảnh vệ sẽ đón chào tân Tổng thống với tư cách vị tổng chỉ huy tối cao. Cũng trong buổi lễ, tân Tổng thống được trao những biểu trưng đặc biệt gồm Cờ hiệu Tổng thống và Huy hiệu Tổng thống in hình quốc huy. Trên mặt sau của Huy hiệu Tổng thống chạm khắc chữ: “Lợi ích, Danh dự và Vinh quang”. Lễ nhậm chức của người đứng đầu đất nước được tổ chức năm lần trong lịch sử nước Nga đương đại. Buổi tuyên thệ đầu tiên là của cố Tổng thống Boris Eltsin diễn ra vào năm 1991. Nhà nghiên cứu chính trị Vladimir Rimsky chia sẻ, dư luận Nga cũng như các nước khác có nhiều ý kiến khác nhau nhưng họ đều thấy sự cần thiết của việc tổ chức nghi lễ đặc biệt này vì nó mang giá trị lớn; để người dân cảm nhận được sự gắn bó, thống nhất với chính quyền, với người giữ chức vụ cao nhất của đất nước. Việc này cũng có ý nghĩa quốc tế, chứng tỏ sự thống nhất của chính quyền và nhân dân. Lo ngại Trung Quốc trỗi dậy, Putin sẽ lập đại kế hoạch châu Á? Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc thực sự khiến giới lãnh đạo Nga không khỏi “ái ngại”, do đó, Tổng thống kế tiếp Vladimir Putin nhanh chóng đưa ra kế hoạch lớn nhằm gắn kết Moscow với khu vực phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới này, Diplomat nhận định. Thách thức đến từ Trung Quốc Trong vài năm gần đây, Nga thành công trong việc nâng cao vị thế của mình tại châu Á. Quan hệ của Moscow với Bắc Kinh và New Delhi rất khăng khít, trong khi quan hệ với Tehran và Bình Nhưỡng vẫn ổn định bất chấp mọi biến động xoay quanh hai quốc gia này.Nga tham gia Hội nghị thượng đỉnh Đông Á – hội nghị được cho là quan trọng nhất bàn về thể chế an ninh đa quốc gia ở khu vực này hồi năm ngoái. Đại diện của Nga cũng thường tham dự vào các cuộc họp và đối thoại của Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng của ASEAN, Đối thoại hợp tác châu Á và các hội nghị quan trọng khu vực mà trước kia họ chưa từng góp mặt. Tuy nhiên, các sáng kiến của Nga vẫn chỉ được coi là các giải pháp tụt hậu, không sáng tạo. Ngoài ra, khu vực phía Đông của nước Nga cũng ít có sự hội nhập về mặt kinh tế với khu vực năng động của Đông Á, trong khi tính năng động của ngoại giao Nga lại bị ghìm chặt trong xung đột với Nhật, mâu thuẫn với Mỹ trong việc cùng nhau tái thiết tại châu Á và đặc biệt là Nga bối rối trước một Trung Quốc đang trỗi dậy, đồng thời chưa tìm ra được một phương thức hợp lý nhất để hạn chế những tác động tích cực đến từ Bắc Kinh. Moscow không khỏi quan ngại trước sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Ảnh: Chinagate. Quả thực, ông Putin chọn Trung Quốc là điểm đến trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên vào cuối 9 vừa qua, khi ông tuyên bố ra tranh cử lần 3. Tuy nhiên, nếu hiểu rằng đây là dấu hiệu cho thấy Nga sẽ tiến gần Bắc Kinh hơn trong những năm tới sẽ là một sai lầm. Thực tế ông Putin không hề theo đuổi các chính sách đặc biệt dựa dẫm vào Trung Quốc trong hai nhiệm kỳ trước của mình. Trong các bài báo hoạch định chính sách hành động của Putin trong chiến dịch tranh cử Tổng thống, ông Putin cũng nêu rõ quan điểm với Trung Quốc. Ông khẳng định hoan nghênh sự trỗi dậy của Trung Quốc. “Trước hết, tôi cho rằng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc không phải là một sự đe dọa, nhưng là thách thức đồng thời mang đến tiềm năng to lớn cho sự hợp tác kinh tế, ví dụ như sử dụng các nguồn đầu tư của Trung Quốc để khôi phục khu vực viễn Đông của Nga”, Thủ tướng Nga cho hay. Ngoài ra, theo ông Putin, Moscow và Bắc Kinh đều đã giải quyết ổn thỏa những vấn đề chính trị nổi cộm trong mối quan hệ song phương, trong đó có vấn đề biên giới gây tranh cãi, đồng thời xây dựng cơ chế hợp tác vững chắc trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. “Tóm lại, Nga cần một Trung Quốc ổn định và thịnh vượng và tôi tin chắc rằng, Bắc Kinh cũng cần một Moscow vững mạnh”, Thủ tướng Putin quả quyết. Tuy nhiên, theo Diplomat, bất chấp những lời lẽ bóng bẩy hoa mỹ dành cho mối quan hệ với Trung Quốc này, ông Putin và nhiều quan chức khác của Nga đều đang rất lo sợ bị Trung Quốc bỏ rơi trên chính trường thế giới. Họ cảm nhận rõ một điều rằng, mọi xu hướng kinh tế, quân sự hay địa chính trị đều đang vận động xoay quanh lợi ích của Bắc Kinh. Trung Quốc từng là đối tác thương mại lớn nhất của Nga, song trong năm 2010, Bắc Kinh không còn cần hầu hết các sản phẩm công nghiệp và công nghệ cao của Moscow nữa. Không chỉ vậy, dân số Nga ngày càng giảm trong khi người Trung Quốc ngày một đông đảo, giàu có và có tầm ảnh hưởng lớn. Nói thẳng ra, người Nga đang hết sức lo sợ trở thành “miếng mồi” cho “người khổng lồ” Trung Quốc. Đại kế hoạch châu Á Nhận thức rõ sự yếu thế này, ông Putin thúc đẩy thành lập một liên minh Âu – Á và nếu được công nhận, Moscow sẽ lại giành được vị thế lãnh đạo trong một khối đa quốc gia gắn kết chặt chẽ từ những nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. Quan trọng hơn, kế hoạch này có thể giúp Moscow thu hẹp ảnh hưởng của Bắc Kinh ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Thực tế thời gian gần đây Tổ chức Hợp tác Thượng Hải SCO do Trung Quốc làm chủ trì đang tìm cách để mở rộng ảnh hưởng kinh tế, an ninh và các hoạt động khác lên các khu vực tương tự giống như Liên minh Âu – Á. Nhiều người Nga hy vọng đại kế hoạch châu Á của ông Putin giúp Moscow đối phó với những thách thức đến từ Bắc Kinh. Ảnh: ripley. Mới đây Nga phải thẳng thừng phản đối các đề xuất của Bắc Kinh nhằm thiết lập một khu vực thương mại tự do cũng như nhiều hoạt động hội nhập kinh tế khác trong khuôn khổ của SCO bởi thực tế, mục đích thực sự của các đề xuất này là nhằm gia tăng ảnh hưởng về kinh tế của Trung Quốc trong khu vực Âu – Á. Theo kế hoạch châu Á này, trước mắt, Nga có thể chấp nhận bán cho Trung Quốc một số vũ khí quan trọng mà Bắc Kinh đang khao khát để tái cân bằng lại cán cân thương mại, thúc đẩy kinh tế. Thông tin xung quanh thương vụ bán máy bay chiến đấu Su-35 cho Trung Quốc là minh chứng cho thấy nỗ lực triển khai đại kế hoạch này của ông Putin. Sau đó, Moscow có thể phối hợp cùng Bắc Kinh trong một số hoạt động nghiên cứu quốc phòng để có thể thăm dò sức mạnh quân sự Trung Quốc hay ít nhất là cùng nhau hạn chế được mối đe dọa từ các vũ khí tối tân của Mỹ. Bên cạnh mục tiêu đối phó với Trung Quốc, ý tưởng Liên minh Âu-Á của ông Putin còn giúp kiềm chế sự hiện diện của Mỹ tại Trung Á sau khi NATO rời Afghanistan. Theo kế hoạch, ông Putin tiếp tục gây dựng quan hệ thân thiện với Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai và các lãnh đạo khác, hứa hẹn với họ rằng Nga sẽ trợ giúp về quân sự và kinh tế, tận dụng căng thẳng giữa họ với NATO. Thêm vào đó, đại kế hoạch châu Á của ông Putin cũng bao gồm cả kế hoạch cải thiện quan hệ với Pakistan. Quan hệ giữa Moscow và Islamabad đã căng thẳng suốt vài thập kỷ qua do Pakistan ủng hộ chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan, hỗ trợ cho Mỹ và Trung Quốc chống lại Nga, cũng như các chính sách đối đầu với Ấn Độ - đồng minh của Nga. Tuy nhiên, ông Putin đã đồng ý có chuyến thăm chính thức tới Islamabad vào tháng 9 tới bởi nhận thức được rằng, củng cố quan hệ với Pakistan có thể mang lại cho Nga một tầm ảnh hưởng lớn hơn tại Afghanistan thời hậu NATO, bao gồm cả việc đối thoại với Taliban cũng như tăng cường đòn bẩy của Nga với Ấn Độ. Như vậy, với một đại kế hoạch liên minh Á – Âu này, ông Putin vừa có thể đối phó những thách thức đến từ Trung Quốc vừa kìm chế được tầm ảnh hưởng của Mỹ. |
Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011
>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 1)
Lực lượng hải quân là lực lượng quân sự hùng mạnh trên biển và đại dương, bảo vệ nhưng lợi ích quan trọng của quốc gia và nhân dân. Học thuyết quân sự mới của Nga về hải quân Ngày 21/4/2000, học thuyết quân sự mới của Liên bang Nga được chuẩn y (*). Trong Học thuyết này, đã đánh giá thực tế tình hình chính trị quân sự trên thế giới và trong từng khu vực, chỉ ra được những nguy cơ tiềm ẩn trong và ngoài nước đang đe dọa quyền lợi chính đáng của dân tộc Nga và nước Nga, trong đó có quyền lợi trên biển và đại dương. Học thuyết quân sự Hải dương được Tổng thống Nga phê chuẩn chính thức có hiệu lực ngày 27/6/2001. Thực tế đã chứng minh, trong giai đoạn phát triển ngày nay xuất hiện nhiều nguy cơ tranh chấp, nhiều khả năng xung đột trên biển và đại dương. Có rất nhiều nguyên nhân sống còn về kinh tế, quân sự và địa chính trị làm nảy sinh những nguy cơ xung đột. Khác với biên giới trên đất liền, danh giới trên biển và đại dương rất khó phân định, Nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng trên đất liền có giới hạn và sẽ cạn kiệt trong vài chục năm tới, không thể kéo dài đến hàng trăm năm. 71% bề mặt của trái đất được bao bọc bởi đại dương. Trong vực sâu của biển ẩn chưa nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng khổng lồ cho sự phát triển tương lai của nhân loại. Nhưng biển và đại dương từ ngàn xưa đã là bãi chiến trường của các hạm đội, các lực lượng hải quân các nước đang phát triển và phát triển. Chân lý đơn gian là muốn phát triển, hãy ra với biển. Có nghĩa là trên biển và đại dương luôn tồn tại những nguy cơ xung đột quân sự và chiến tranh cục bộ. Đồng thời, lực lượng hải quân Liên bang Nga đang từng bước lạc hậu. Tuần dương hạm Slava của Hải quân Nga. Một không gian rất lớn của các đại dương, đấy là vùng nước chung, không thuộc quyền quản lý của bất cứ quốc gia nào. Điều đó đồng nghĩa với việc tài nguyên khoáng sản của khu vực nước chung có thể được khai thác của bất cứ quốc gia nào. Đồng thời, cũng như quá khứ trên đất liền, sẽ có thời điểm chia sẻ quyền lợi đó, nhưng không phải ở trên đất liền mà trên biển và đại dương. Có thể khẳng định rằng, quốc gia nào yếu về hải lực, đương nhiên sẽ không được chia sẻ phần quyền lợi đó. Hải lực ở đây được hiểu là Lực lượng Hải quân về vũ khí trang bị, quân số và nghệ thuật tác chiến trên Không – Biển, khả năng tự vệ của nước đó trong vùng biển mang quyền lợi quốc gia chính đáng của mình. Những vùng biển đó sẽ bị chiếm đoạt hoặc chia sẻ. Trong giai đoạn ngày nay, đã có không ít quốc gia không một giây nào rời mắt khỏi đại dương. Đầu thế kỷ 21 trên các biển, hàng ngày có 130 tàu chiến trong biên chế của 16-20 nước tuần hành. Nhiệm vụ của các tàu chiến này rất khác nhau, nhưng rất nhiều nhóm tàu chiến với vũ khí trang bị, máy bay hải quân, tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình có khả năng tấn công đến 80% lãnh thổ của Liên bang Nga, trong đó có khả năng tấn công 60 – 65% tiềm lực công nghiệp quốc phòng của nước Nga. Đồng thời các đảo của nước Nga đều nằm trong tầm tấn công và đổ bộ của các lực lượng linh thủy đánh bộ. Điều đó có nghĩa là trong cuộc đấu tranh dành quyền lợi trên biển và đại dương, tồn tại và hiện hữu ngày càng sâu sắc nguy cơ đe dọa quyền lợi chính đáng của Nga từ hướng biển. Tính toán một cách đơn giản, lực lượng hải quân Nga đến năm 2015 có khoảng 60 tàu chiến cỡ khu trục và tuần dương sẵn sàng chiến đấu, trong đó có 30 tàu ngầm nguyên tử. Trong đó, chỉ tính riêng lực lượng Hải quân NATO, (chưa tính Trung Quốc) đã có tới 800 tàu chiến, và các hạm đội của Tây Đại tây dương hàng ngày huấn luyện, và thực hiện các nhiệm vụ tác chiến trên các đại dương. Còn Trung quốc đang từng ngày tăng cường lực lượng Hải quân, liên tục tập trận và đã sẵn sàng vươn tới biển xa. Hải đường vận tải chiến lược của Trung Quốc và cũng là chiến lược hải dương của Trung Quốc. Từ những nhận định trên, Liên bang Nga thấy thật sự cần thiết phải xây dựng một hạm đội mới, nhưng một nhiệm vụ cũng khẩn cấp không kém, đó là xây dựng cho lực lượng hải quân Liên bang một chương trình huấn luyện tác chiến biển, đại dương và khả năng lực triển khai, điều hành các chiến dịch và các hoạt động tác chiến Không – Biển. Đối với các hạm đội, chương trình huấn luyện diễn tập đó, theo những tính toán từ những cuộc chiến tranh, những nguy cơ tiềm ẩn hiện tại, và khả năng xảy ra trong tương lai, sẽ bao gồm 3 cấp huấn luyện tác chiến: Cấp chiến lược, cấp chiến dịch và chiến thuật. Xây dựng một hạm đội mạnh và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu để nâng cao nghệ thuật tác chiến trên biển, đại dương không thể tách rời khỏi chiến lược phát triển kinh tế biển, đại dương và đường lối chính trị hải dương của Liên bang Nga, chiến lược phát triển kinh tế biển, đại dương và đường lối chính trị Hải dương bảo đảm quyền lợi của quốc gia và dân tộc Nga. Đương nhiên, trong điều kiện quan hệ quốc tế hiện đại đòi hỏi ưu tiên bảo đảm quyền lợi của các quốc gia bằng những giải pháp hòa bình. Nhưng thực tế đáng tiếc là nhân loại vẫn còn ở rất xa với cách giải quyết những lợi ích của mình bằng con đường hòa bình. Sử dụng vũ lực và chiến tranh như một sự kiện phức tạp và có nhiều góc cạnh khác nhau, bao giờ cũng là cuộc đấu tranh bằng sức mạnh. Hoạt động huấn luyện tác chiến của Hạm đội Thái bình dương Liên bang Nga. Đối tượng của Học thuyết quân sự Hải quân Nga Nhiệm vụ chủ yếu của Hải quân Liên bang Nga, kế thừa của Hải quân Xô viết, như đã được khẳng định bằng các văn bản pháp quy của nhà nước, trong điều kiện thời bình thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ quyền lợi của Quốc gia dân tộc Nga trên các vùng nước chủ quyền và lợi ích, sẵn sàng sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước. Trong giai đoạn mới, lực lượng Hải quân đảm nhiệm thêm nhiệm vụ chống khủng bố và cướp biển trên mặt biển. Trong điều kiện thời chiến, lực lượng Hải quân đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển đất nước, đánh chặn các đòn tấn công từ biển vào các mục tiêu quan trọng của đất nước, đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa hành trình và không quân Hải quân của địch. Đồng thời bẻ gẫy những đòn tấn công từ phía biển của đối phương. Như vậy, mục tiêu tác chiến của Hải quân là tất cả đơn vị chiến đấu của đối phương trên đại dương và trên biển, có vùng nước gắn liền với bờ biển của đất nước hoặc gắn liền với biển của đất nước, các đơn vị chiến đấu có thể là tàu sân bay, tàu ngầm tên lửa, tàu chiến nổi, vũ khí của các đơn vị này có thể tấn công các mục tiêu trên biển hoặc trên đất liền của đất nước hoặc quân đội Liên bang Nga. Lực lượng hải quân Liên bang Nga trong trường hợp bắt đầu chiến tranh, sẽ phải chiến đấu chống lại các lực lượng Hải quân của các quốc gia biển hùng mạnh, có thể phải tiền hành các hoạt động tác chiến chiến dịch như: - Các đòn tấn công tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất của đối phương, các đòn tấn công sẽ tiến hành song song cùng với các đơn vị tên lửa đạn đạo, tên lửa chiến trường, các đòn tấn công tên lửa là đòn đánh chủ đạo của hoạt động tác chiến này. - Tiến hành các chiến dịch tìm kiếm và tiêu diệt các tàu ngầm tên lửa, tàu ngầm tấn công của địch. - Tiến hành các chiến dịch tấn công tiêu diệt các hạm tàu của đối phương trong các vùng nước nằm cạnh bờ, các vùng nước đe dọa các mục tiêu của Hải quân và của hệ thống phòng thủ đất nước và các vùng biển kín bàn đạp tấn công trong đại dương. - Tấn công tiêu diệt các hạm tàu vận tải của đối phương, cắt đứt đường vận tải biển của đối phương. - Tiêu diệt các lực lượng chống tàu của địch, bao gồm cả lực lượng chống tàu nổi và tàu ngầm. - Cùng với lực lượng phòng thủ bờ biển, thiết lập vành đai phòng thủ bảo vệ các căn cứ hải quân, các mục tiêu quan trọng về kinh tế và hệ thống truyền thông, thông tin liên lạc. Để tiến hành các hoạt động tác chiến trên biển và trên đại dương, do tính chất đặc thù của tác chiến không - biển – đại dương, đó là sử dụng và điều hành binh lực và phương tiện hải chiến với phương thức tác chiến hiệu quả nhất. Căn cứ vào những hoạt động tác chiến trên biển, trong lý luận tác chiến không - biển – đại dương, một vị trí vô cùng quan trọng là hệ thống hóa các hoạt động tác chiến liên tục và khả năng bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho các hoạt động tác chiến. Khác với những hoạt động tác chiến trên bộ và trên không, hệ thống các hoạt động sẵn sàng chiến đấu của Hải quân diễn ra thường xuyên liên tục, với cường độ và mức độ sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, không chỉ trong thời chiến mà ngay cả trong thời bình. Đối với lực lượng hải quân hiên đại, rút kinh nghiệm từ thời kỳ Liên Xô, huấn luyện sẵn sàng chiến đầu cường độ cao và thường trực sẵn sàng chiến đấu là hoạt động quan trọng bậc nhất của lực lượng Hải quân thời bình. (*) Sau sự tan vỡ của Liên Xô, trong điều kiện cần thiết của lịch sử, ở Nga đã hình thành học thuyết quân sự Liên bang Nga. Học thuyết quân sự đã được phê chuẩn 2/10/1993. Theo chỉ lệnh của Tổng thống Nga học thuyết có tên: "Những luận điểm cơ bản của Học thuyết quân sự Liên bang Nga". Trong văn bản pháp quy đã được chuẩn y này có rất nhiều điểm được kế thừa từ chủ trương chiến lược quân sự của Liên Xô, được các lãnh đạo các nước XHCN Đông Âu phê chuẩn tại Berlin ngày 29/5/1987 như Học thuyết quân sự của Hiệp ước Vacsava. Học thuyết quân sự 1993 của Liên bang Nga so với học thuyết quân sự khối Vacsava chưa có những thay đổi đáng kể về lý luận của Lực lượng vũ trang, những quan điểm tầm nhìn chiến lược cho sự hoàn thiện và phát triển của quân đội và Hải quân không được đặt ra. Rất đáng tiếc là học thuyết quân sự năm 1987, học thuyết quân sự năm 1993 không hề quan tâm đến chiến lược và nghệ thuật quân sự Hải quân, dù đến tận cuối những năm 1980 vẫn chưa xác định được hướng phát triển chiến dịch và chiến thuật chiến tranh hiện đại của lực lượng hải quân hùng mạnh của Liên Xô. Đến sau năm 1993, với yêu cầu thực tế của việc phát triển lực lượng hải quân thế giới, các nguy cơ từ nhiều hướng đã thúc đẩy một bước đi mang tính chiến lược. Chỉ lệnh của tổng thống Liên bang Nga số 11/1997 đã phê chuẩn chương trình phát triển Hải dương toàn cầu. Trong chương trình đã chỉ rõ những định hướng cụ thể của việc phát triển Lực lượng Hải quân Liên bang Nga vào thế kỷ 21. Ở đây lực lượng Hải quân được xác định là công cụ quan trọng nhất của Liên bang để bảo vệ quyền lợi chiến lược của Liên bang Nga trong mối quan hệ Hải dương toàn cầu: " Lực lương hải quân là lược lượng bảo vệ nhưng lợi ích quan trọng của nhân dân Liên bang Nga và những mục tiêu chiến lược của Liên bang, trong trường hợp khác, là công cụ đập tan mọi âm mưu gây chiến và xâm lược". Chỉ lệnh của Tổng thống Liên bang Nga từ 4/3/2000 đã chuẩn y Chiến lược chính sách Hải dương của Nga. Đồng thời cùng với chỉ lệnh đó, một phần đã đưa ra Chiến lược hải dương trong lĩnh vực các hoạt động của Hải quân đến năm 2010. Những văn bản đó đã chỉ ra mục tiêu phát triển lực lượng Hải quân Liên bang Nga, làm chính xác và cụ thể hơn vị trí nhiệm vụ của Hải quân Liên bang Nga trong Học thuyết quân sự. [BDV news] |
Thứ Năm, 19 tháng 5, 2011
>>Tổng thống Nga ‘vì nước quên thân, vì dân phục vụ'
Ông Dmitry Medvedev vừa khẳng định rằng hiện chưa đến lúc để ông công bố quyết định tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ tới mà cần tiếp tục tập trung hiện đại hóa đất nước. Tổng thống Nga còn cho biết thêm là hiện Nga chưa đạt được đầy đủ các kết quả của công cuộc hiện đại hóa nên ban lãnh đạo phải tích cực làm việc hơn nữa. Ông Dmitry Medvedev chưa công bố quyết định tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ tới. Đồng thời, ông cũng khẳng định rằng Nga sẽ đẩy mạnh phát triển sức mạnh hạt nhân nếu không thể thỏa thuận được với phương Tây về NMD. Ông Dmitry Medvedev nhận xét: “Nếu không cùng nhau tìm ra mô hình hợp tác, thì khi ấy chúng tôi phải thực hiện những biện pháp đáp trả, dù rất không muốn. Khi đó Nga sẽ tăng cường phát triển sức mạnh hạt nhân”. Theo ông, đó là kịch bản rất xấu. “Một kịch bản như vậy sẽ ném chúng ta ngược về kỷ nguyên của chiến tranh Lạnh”, ông Dmitry Medvedev nhận định. Trước đó, nội dung chính trong cuộc họp báo của Tổng thống Nga Dmitry Medvedev tổ chức vào hôm qua là về cuộc bầu cử Tổng thống năm 2012. Các quan sát viên quốc tế dự đoán là ông Medvedev sẽ trả lời câu hỏi về sự tham gia của ông trong cuộc đua giành chức nguyên thủ quốc gia Nga vào năm tới. “Ông Medvedev đang cố gắng chứng tỏ với giới thượng lưu Nga rằng ông cũng là ứng viên thực thụ như ông Putin”, một trong những nhà đầu tư phương Tây làm việc tại Nga nhận xét như vậy với hãng Reuters. Mục tiêu chính của Tổng thống Medvedev là hiện đại hóa nền kinh tế Nga để đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu năng lượng. Như nhận định của giới quan sát, ông Medvedev “đặt cược” vào phát triển công nghệ. Cho đến nay, cả hai ông Putin và Medvedev vẫn tránh trả lời rõ ràng xem liệu họ có ra tranh cử Tổng thống trong cuộc bầu cử vào tháng 3 năm tới hay không. Trong khi đó, đa số người Nga hiện coi ông Vladimir Putin là nhà lãnh đạo hàng đầu trong bộ đôi quyền lực ở Nga. [BDV news] |
Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011
>> Lực lượng vũ trụ của Quân đội Nga
Lực lượng vũ trụ (còn gọi là lực lượng không gian) là một đơn vị riêng biệt của quân đội Nga chuyên trách về các hoạt động quốc phòng trong không gian.
Lực lượng vũ trụ Nga được thành lập trên cơ sở Nghị định số 337 ngày 24/3/2001 của Tổng thống Nga và quyết định của Hội đồng An ninh Nga ngày 6/2/2001 về việc bảo đảm xây dựng, phát triển và hiện đại các lực lượng vũ trang Nga. Biểu tượng của lực lượng vũ trụ. Nhiệm vụ chính của lực lượng vũ trụ Nga bao gồm: Cảnh báo và cung cấp thông tin kịp thời cho chỉ huy quân sự và lãnh đạo tối cao Nga về khả năng xảy ra một cuộc tấn công tên lửa hạt nhân từ bên ngoài; xây dựng, triển khai và điều khiển các nhóm quỹ đạo của các vệ tinh quân sự trong không gian thuộc Nga; Kiểm soát không gian gần trái đất và liên tục thăm dò các khu vực của kẻ thù tiềm năng dưới sự hỗ trợ của các vệ tinh không gian; Sẵn sàng phối hợp với hệ thống phòng thủ tại thủ đô Moscow để bẻ gẫy các cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo. Thành phần của lực lượng không gian Nga gồm: Các hệ thống phòng thủ tên lửa vũ trụ, Các trung tâm thử nghiệm vũ trụ quốc gia như Baikonur, Plesetsk, Svabotdu; Trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm và kiểm soát không gian Titov; Căn cứ điều khiển và vận hành các thiết bị không gian; Trường đào tạo quân sự không gian và các đơn vị bảo đảm, bên cạnh đó lực lượng không gian có biên chế quân số hơn 100.000 người. Sơ đồ hệ thống các vệ tinh thuộc kiểm soát của lực lượng không gian Nga. Vũ khí chính trang bị cho lực lượng này bao gồm các loại vệ tinh trinh sát, các trạm kiểm soát điện tử và tình báo điện tử, hệ thống truyền thông và các hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu gồm khoảng 100 thiết bị, tên lửa các lớp gồm tên lửa hạng nhẹ như Start-1, Kosmos-3M, Cyclone-2, Cyclone-3, Rockot, tên lửa hạng trung như Soyuz U, Soyuz 2, Lightning-M và hạng nặng như Proton K, Proton M. Bên cạnh đó lực lượng không gian Nga còn được trang bị các tổ hợp phương tiện kiểm soát vũ trụ mặt đất tự động như Naku SC, hệ thống chỉ huy Taman Base, Pheasant, hệ thống radar Kama, một hệ thống quang học lượng tử Sazhen-T, một trạm tiếp nhận và thu thập dữ liệu mặt đất Nauca-M 04, trạm radar DON 2H, DTV, Volga, Voronezh M và các tổ hợp quang học điện tử không gian OKNO. Ngoài ra, lực lượng này còn được bổ sung thêm hệ thống phòng thủ tên lửa của thành phố Moscow A-135. Hệ thống này được thiết kế để tiêu diệt các tên lửa hạt nhân tấn công vào thủ đô nước Nga và các khu trung tâm công nghiệp, tiếp đến là việc triển khai 68 tên lửa 53T6 Gazelle được dùng để đánh chặn trong các cuộc tấn công trong không gian có căn cứ chỉ huy ở thành phố Solnechnogorsk. Các căn cứ của Lực lượng Không gian được triển khai trên toàn bộ lãnh thổ của Nga và khu vực biên giới. Ở nước ngoài, Nga cũng triển khai một số căn cứ tại Belarus, Azerbaijan, Kazakhstan, Tajikistan.
[BDV news]
|
Nhãn:
Không quân Nga,
Lực lượng Không gian OKNO,
Lực lượng vũ trụ,
Moscow,
Nga,
Quân đội Nga,
Radar Kama,
tên lửa đạn đạo,
Tên lửa hạng trung,
Tổng thống Nga
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)