Cuối tháng 1.2011, hãng Antara (Indonesia) dẫn nguồn Tham mưu trưởng Hải quân Indonesia đưa tin nước này dự định thử nghiệm tên lửa chống hạm Yakhont trong tháng 2.2011.
Vụ bắn thử nhằm vào một (một số) tàu thanh loại sẽ diễn ra trong tháng 2. Do tình hình địa-chính trị căng thẳng trong khu vực, Indonesia đã dự định thử nghiệm toàn diện kho vũ khí hải quân, kể cả các tên lửa chống hạm có “tầm quan trọng chiến lược” Yakhont có tầm bắn và tốc độ lớn hơn mọi loại vũ khí khác mà hạm đội Indonesia hiện có. Theo báo chí Indonesia, 6 tàu frigate của Hải quân Indonesia được trang bị mỗi tàu 8 tên lửa Yakhont, 10 tàu corvette được trang bị mỗi tàu 4 tên lửa Yakhont. Việc lắp đặt tên lửa dường như hoàn toàn do xưởng đóng tàu PT PAL ở Surabaya thực hiện. Giá mỗi quả Yakhont ước khoảng 1,2 triệu USD. Tham mưu trưởng Hải quân Indonesia cũng cho biết, nước này đã quay lại nghiên cứu khả năng mua 2 tàu ngầm. Hai ứng viên có khả năng nhất là các tàu ngầm của Nga và Hàn Quốc. |
Chủ Nhật, 20 tháng 2, 2011
>> 16 tàu chiến Indonesia trang bị tên lửa Yakhont
Thứ Sáu, 18 tháng 2, 2011
>> Việt Nam chưa chủ trương tham gia các cuộc tập trận quốc tế
Việt Nam sẵn sàng tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc khi điều kiện cho phép, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cho biết.
|
Thứ Ba, 8 tháng 2, 2011
>> Việt Nam kêu gọi Campuchia, Thái Lan kiềm chế
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao - bà Nguyễn Phương Nga: Việt Nam lo ngại sâu sắc về xung đột tại khu vực đền Preah Vihear
Thường dân Thái Lan tránh đạn lạc dưới ống cống được gia cố. Còn bên phía Thái Lan, Phó Thủ tướng Suthep Thaugsuban ngày 7/2 nêu rõ Thái Lan muốn đối thoại hòa bình với Campuchia. Chính phủ Thái Lan hy vọng hai bên có thể giải quyết các căng thẳng hiện nay mà không cần tới sự can thiệp của bên thứ ba. Căng thẳng biên giới giữa Campuchia và Thái Lan nay không chỉ giới hạn ở khu vực Preah Vihear mà đã lan sang khu vực biên giới thuộc tỉnh Oddar Meanchey. Tư lệnh lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia (RCAF) đóng tại cửa khẩu O’ Smach thuộc tỉnh Oddar Meanchey, cho biết quân đội Thái Lan đã tăng thêm quân tới khu vực biên giới này trong hai ngày 5-6/2 và số quân Thái Lan hiện nay lên tới 700 người. Hôm nay (7/2), trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước xung đột xảy ra trong những ngày vừa qua tại khu vực đền Preah Vihear trên biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước ta, bà Nguyễn Phương Nga nêu rõ: “Cùng là thành viên của ASEAN, Việt Nam lo ngại sâu sắc về xung đột tại khu vực đền Preah Vihear trên biên giới giữa Campuchia và Thái Lan. Việt Nam kêu gọi hai bên kiềm chế tránh để sự việc diễn biến phức tạp, giải quyết vấn đề thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hiến chương Liên hợp quốc và trên tinh thần hữu nghị, đoàn kết ASEAN, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, và hợp tác ở khu vực và trên thế giới”. |
Thứ Tư, 2 tháng 2, 2011
>> Đồng 2 USD có thực sự quý và hiếm?
Từ trước đến nay, nhiều người sẵn sàng trả mức giá cao hơn nhiều so với giá trị thực tế của tờ 2 USD để sở hữu đồng tiền nổi danh là “thần hộ mệnh” này. Tuy nhiên, bên cạnh những giai thoại tiếng tăm cũng có không ít “sự thật phũ phàng” về tờ tiền mà người sở hữu nó không biết. Đồng 2 USD vẫn được phát hành như các đồng tiền khác. Đồng 2 USD được in lần đầu vào năm 1862, với tư cách là giấy bạc của Chính phủ Mỹ (loại tiền giấy đầu tiên của Mỹ, do Bộ Tài chính phát hành). Sau đó, khi giấy bạc của Chính phủ Mỹ không còn được lưu hành thì tờ tiền này được in với tư cách là giấy bạc của Cục dự trữ liên bang. Số lượng tờ 2 USD mới được in ấn giảm mạnh hồi những năm 1950, khi các tờ tiền ở những mệnh giá khác nhau được chuyển sang in ở kích cỡ nhỏ hơn. Đến năm 1976, tờ 2 USD được thiết kế và in lại giống như ngày nay. Khi tờ tiền với mẫu mã mới được phát hành, người dân hết sức ngạc nhiên và xem đó là đồ sưu tập hơn là một phương tiện lưu thông như dự định của Bộ Tài chính. Nguyên nhân chính là các cửa hàng không có nhu cầu sử dụng tờ 2 USD trong công việc hàng ngày của mình. Vì nhu cầu hạn chế này, số lượng tờ 2 USD được in ấn giảm dần. Ngày nay, tờ 2 USD cũng không thường xuyên được in lại theo số series mới như các đồng tiền khác. Đồng tiền này được in theo nhu cầu. Vì vậy, rất nhiều người lầm tưởng tờ 2 USD không còn được lưu hành. Theo Bộ Tài chính Mỹ, họ nhận được rất nhiều thư từ của người dân hỏi rằng tại sao đồng 2 USD không còn được lưu thông nữa. Bộ Tài chính phải liên tục khẳng định rằng, tờ 2 USD vẫn là một tờ tiền được chính thức lưu hành trong hệ thống tiền tệ của Mỹ. Tuy nhiên, được “chính thức lưu hành” chỉ có nghĩa là tờ tiền đó chưa bị chính thức thu hồi để tiêu hủy mà thôi, chứ không có nghĩa là được thực sự sử dụng trong trao đổi, mua bán hàng ngày của người dân. May mắn ‘sánh vai’ cùng xui xẻo Chính mức in ấn đồng tiền này quá thấp dẫn đến việc người dân ngày càng ít biết đến nó và do đó tạo ra rất nhiều “truyền thuyết” về đồng tiền này ở mọi nơi. Theo quan niệm của người phương Đông, số 8 biểu tượng cho sự tài lộc, số 2 cũng biểu tượng cho may mắn và hạnh phúc. Số 2 là cặp số chẵn biểu hiện cho đôi nên luôn mang lại may mắn, có người phù trợ bên cạnh. Đó là lý do vì sao người phương Đông cũng thích sưu tầm tờ tiền mệnh giá 2 USD như vậy. Trong suy nghĩ của nhiều người Mỹ, đồng tiền 2 USD mang lại nhiều ý nghĩa hơn là một đồng tiền. Tờ 2 USD có sự khác biệt so với các đồng USD ở chỗ, mặt sau của nó có hình 42 vị Tổng thống các đời của nước Mỹ. Nhiều người cảm thấy điềm lành đến với mình khi họ nhận được tờ 2 USD. Vì thế, họ quan niệm rằng, để thoát khỏi điềm xấu thì phải xé một góc của tờ tiền và giấu nó vào trong túi. Dù không thực sự hiếm và cũng chưa ai kiểm chứng rõ ràng về sự may mắn hay xui xẻo của tờ 2 USD, đồng tiền này vẫn được ưa chuộng và được coi là món quà giá trị. Ngân hàng Việt Nam cũng hiếm đồng 2 USD Bà Trần Bích Quân, Giám đốc truyền thông, Ngân hàng An Bình, cho biết, theo thông lệ thì các ngân hàng rất ít khi nhập tiền lẻ USD về để phục vụ nhu cầu lì xì Tết của khách. Còn với ngân hàng An Bình thì từ trước đến nay chưa hề có dịch vụ đổi tiền lẻ USD cho khách vào dịp cận Tết, mà chỉ có đổi tiền lẻ VND. “Theo tôi được biết thì lâu lắm rồi ngân hàng không có tờ 2 USD lưu hành. Tiền USD mệnh giá nhỏ nhất tại ngân hàng hầu như chỉ là 10 USD”, bà Quân nói. Bà Quân cũng cho hay, nguồn cung tiền lẻ USD ngày thường cũng luôn trong tình trạng khan hiếm, nói gì đến ngày Tết. Thông thường khách tới mua USD thường thích các tờ mệnh giá lớn như 50 USD, 100 USD. Một trong những nguồn USD lớn của ngân hàng là từ các doanh nghiệp xuất khẩu, mà nguồn USD từ các doanh nghiệp này hầu như không có tiền lẻ. Hầu hết các ngân hàng đều khẳng định không có dịch vụ đổi tiền 2 USD cho khách lì xì Tết, vì đồng tiền này khá khan hiếm. Chị Nguyễn Thị Bích Vân làm nhân viên giao dịch cho Ngân hàng Đại Á cũng thừa nhận rất ít khi gặp tờ 2 USD. Còn một nhân viên giao dịch của Ngân hàng Techcombank trên đường Hoàng Văn Thái cho biết, ngày thường, ngân hàng chỉ đổi tiền USD cho khách khi họ là doanh nghiệp xuất nhập khẩu, còn nếu khách hàng cá nhân thì chỉ khi họ đi du lịch nước ngoài (đã có vé máy bay) hay đi chữa bệnh ở nước ngoài (khi có giấy chứng nhận từ bệnh viện). Còn khách hàng cá nhân đổi USD với mục đích lì xì Tết thì không được chấp nhận, dù họ cần tiền mệnh giá bé hay lớn. Theo giải thích của tiến sĩ Lê Trọng Nhi, chuyên gia tài chính ngân hàng, từng làm việc nhiều năm ở Mỹ, ngay cả dân Mỹ hiện cũng xem đồng 2 USD là đồng tiền hiếm và không ít người thường sưu tập hay giữ làm kỷ niệm, càng khiến đồng tiền này ít được lưu thông hơn. Ở Việt Nam hiện nay cũng vậy, nếu ai may mắn được sở hữu đồng 2 USD thì họ cũng có xu hướng cất giữ, khiến tờ 2 USD ngày càng hiếm. |
Thứ Ba, 1 tháng 2, 2011
>> Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Việt Nam không chạy đua vũ trang
Thời gian gần đây, vấn đề bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, diễn biến an ninh khu vực từ cuộc hội nhập sâu rộng của đất nước vào đời sống quốc tế… đã trở thành những chủ đề thảo luận sôi nổi của đông đảo giới trẻ Việt Nam. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Thanh niên Công tác đối ngoại quốc phòng đã được đặt ra ngay từ những năm đầu đổi mới, đến nay đã gần 20 năm, trong đó chúng ta đã phát triển từng bước vững chắc, hiệu quả nhằm phục vụ nhiệm vụ quốc phòng quân sự của đất nước. Tuy nhiên năm 2010 có ý nghĩa rất đặc biệt khi Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động. Với sự phát triển chung của đất nước, vị thế, vai trò của quân đội cũng được nâng cao và công tác đối ngoại quốc phòng đã đạt được những thành tựu nổi bật. Có thể nói 2010 là năm hội tụ kết quả của gần 20 năm phát triển đối ngoại quốc phòng từ khi bắt đầu đổi mới. Cụ thể, chúng ta đã tái bản Sách trắng Quốc phòng với nội dung đáp ứng được sự phát triển của tình hình cũng như yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới. Sách trắng Quốc phòng lần này có 2 điểm nổi bật: Thứ nhất, có độ công khai, minh bạch cao, thể hiện sự tự tin và minh bạch của đất nước về quốc phòng; Thứ hai, chúng ta đã trình bày rõ ràng chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, trên tình hình độc lập tự chủ, bảo vệ Tổ quốc dựa trên sức mình là chính, sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước để xây dựng khu vực hòa bình ổn định, đóng góp cho sự phát triển chung của thế giới. Với chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, chúng ta đã tăng cường quan hệ hợp tác song phương, nhất là các nước bạn bè cũ, các nước láng giềng; chủ động tham gia các diễn đàn đa phương như ARF, ADMM, Shangri-la…Trên các diễn đàn này, chúng ta chủ động trình bày chính sách quốc phòng của đất nước, thể hiện mong muốn hòa bình và giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình; mong muốn khu vực ổn định và phát triển; công khai, minh bạch, chủ động đề xuất các biện pháp giải quyết những khác biệt như tranh chấp lãnh thổ, các thách thức an ninh phi truyền thống… Những thành tựu trong đối ngoại quốc phòng của chúng ta đã tăng cường xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác trong khu vực, hạn chế và từng bước đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và xung đột vũ trang. Đây là kết quả rất quan trọng nhằm đạt được mục tiêu của chiến lược quốc phòng là bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực. Bên cạnh đó, nhờ tăng cường hợp tác mà sức mạnh quốc phòng Việt Nam được tăng cường, không chỉ thể hiện qua việc tăng cường sức mạnh quân sự mà là sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đối ngoại quốc phòng đã góp phần nâng cao vị thế của quân đội và của đất nước, qua đó tăng cường thế trận quốc phòng bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Thành tựu quan trọng nhất là đối ngoại quốc phòng đã góp phần bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước thông qua kết hợp giữa quốc phòng và ngoại giao, thực hiện chiến lược tối ưu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc mà không cần đến chiến tranh. Năm qua, vấn đề biển Đông được đề cập trong nhiều diễn đàn quốc tế. Theo Thứ trưởng, chúng ta nhận thức như thế nào về việc bảo vệ được chủ quyền nhưng vẫn giữ được hòa hiếu trong giải quyết vấn đề này? Tàu hải quân Việt Nam. Ảnh minh họa Vấn đề đặt ra là chúng ta giữ hòa bình bằng cách nào, nhất là khi xử lý các vấn đề tranh chấp trên biển Đông? Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta, kế sách bảo vệ Tổ quốc thứ nhất là đánh thắng, thứ hai là không đánh mà thắng. Chính sách quốc phòng của chúng ta hiện nay đang nhằm vào cái không đánh mà thắng. Trước hết cần kiên trì chủ trương xử lý các vấn đề trên biển Đông bằng các biện pháp quốc tế. Tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng, đặc biệt là các nước đang có tranh chấp. Không thể bàn về lợi ích một cách bình đẳng, cùng có lợi nếu không có quan hệ hòa hiếu, hiểu biết lẫn nhau. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước hết chúng ta phải công khai, minh bạch chủ quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam và khẳng định quyết tâm bảo vệ những lợi ích đó. Bên cạnh dó cần tích cực xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Chúng ta không chủ trương sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực với các nước khác, nhưng chúng ta cũng không thể đàm phán với hai tay không mà phải khẳng định có đủ khả năng và đủ quyết tâm bảo vệ Tổ quốc khi bị xâm lược. Khi đó mới có thể ngồi vào bàn đàm phán một cách bình đẳng và tự tin. Thời gian qua, việc Việt Nam nâng cấp, trang bị vũ khí liệu có khả năng tạo ra dư luận về cuộc chạy đua vũ trang mới đang tiềm ẩn trong khu vực không, thưa Thứ trưởng? Việc hiện đại hóa quân đội nhằm đáp ứng các nhu cầu phòng thủ theo lộ trình phù hợp với nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam, thể hiện tinh thần hòa bình, tự vệ trong chính sách quốc phòng của nước ta. Thời gian qua, Việt Nam đã mua sắm một số vũ khí hiện đại như máy bay chiến đấu có tính năng ưu việt hệ thống tên lửa phòng không mạnh, các tàu tuần tiễu tàu ngầm hiện đại… nhưng Việt Nam không chạy đua vũ trang, chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước. Chúng ta đã công khai, minh bạch chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, trong đó khẳng định việc mua sắm vũ khí trang bị là một vấn đề hết sức bình thường, trên cơ sở khả năng kinh tế phát triển đến đâu, chúng ta mua sắm trang bị đến đó. Tuy nhiên, đối với khu vực, chạy đua vũ trang thực sự là một nguy cơ cần đề phòng và ngăn chặn. Trong những năm gần đây, ngân sách quốc phòng của các nước trong khu vực đều tăng, có những nước tăng nhanh hơn bình thường, Việc mua sắm vũ khí, trang thiết bị quân sự phản ánh chiến lược quốc phòng quân sự của các nước. Khi chúng ta trang bị các loại vũ khí, thiết bị quân sự có tính chất phòng thủ, tự vệ là chính, phù hợp với tiềm lực kinh tế của mình thì không thể gọi là chạy đua vũ trang. Ngược lại, khi một nước mua sắm vũ khí, trang bị quân sự một cách bất thường, có tính năng tấn công tầm xa, vươn ra ngoài phạm vi địa lý thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình, chắc chắn sẽ gây lo ngại từ các nước khác và có thể dẫn đến chạy đua vũ trang. Ở đây cũng cần nhấn mạnh là chỉ có một số ít các nước trên thế giới có khả năng và tham vọng để thực hiện những việc như vậy. Việc các cường quốc cùng quan tâm và muốn can dự vào Châu Á – Thái Bình Dương, Đông Á, Đông Nam Á sẽ đặt các nước trong khu vực, đặc biệt là những nước nhỏ, trước những vấn đề gì trong việc giữ vững chủ quyền của mình? Việc các nước lớn cùng quan tâm và muốn can dự vào khu vực, trước hết chứng tỏ được vị thế và giá trị địa chiến lược, địa chính trị, địa kinh tế, môi trường ổn định và tiềm năng phát triển lớn của khu vực, và cùng với nó vị thế, vai trò của từng nước trong khu vực cũng được nâng lên. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực sẽ tranh thủ đươc sự hổ trợ về tiềm lực đầu tư, kinh nghiệm, tri thức từ các nước lớn trong điều kiện các bên cùng có lợi để một mặt đối phó với các thách thức truyền thống và phi truyền thống. Việc các cường quốc cùng quan tâm và muốn can dự vào Châu Á – Thái Bình Dương tạo thuận lợi cho các nước đang phát triển trong khu vực bảo vệ độc lập và chủ quyền. Trước hết, sự tham gia của các cường quốc thể hiện xu thế chính của khu vực và thế giới là hòa bình, ổn định, hợp tác, trong điều kiện như vậy, các nước nhỏ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và chủ quyền hơn. Mặt khác, với sự tham gia của nhiều cường quốc nhưng không nước nào chiếm ưu thế áp đảo nên vai trò, vị thế của các nước nhỏ tăng lên, tính bình đẳng trong quan hệ quốc tế được nâng cao, có tác dụng tích cực trong bảo vệ độc lập và chủ quyền. Việc các nước nhỏ tập hợp trong ASEAN có thế giữ vai trò chủ đạo trong các thể chế khu vực như ADMM+, ARF, EAS… là những ví dụ điển hình. Tuy nhiên, xu thế này cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước nhỏ, đang phát triển. Nếu các nước này không vững vàng thì dễ bị lôi về một phía; dễ mất độc lập, tự chủ. Mặt khác, sự can dự của các cường quốc đòi hỏi các nước nhỏ phải tỉnh táo trong quan hệ với các đối tác nhất là các cường quốc trên những vấn đề mà các bên có quyền lợi mâu thuẫn nhau. Như vậy, việc các cường quốc can dự vào khu vực tạo ra cả cơ hội và thách thức để phát triển, bảo vệ chủ quyền của các nước nhỏ trong khu vực. Để nắm bắt các cơ hội và vượt qua thách thức, các nước nhỏ phải giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế, hơn thế nữa cần tăng cường hợp tác với nhau và với các cường quốc để bảo vệ các lợi ích chung theo nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Đối với Việt Nam, điều quan trọng nhất để có thể tận dụng các thuận lợi này là kiên định đường lối độc lập tự chủ trong quan hệ đối với từng nước, đồng thời tham gia giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong mọi mô hình hợp tác khu vực. Trong đó độc lập tự chủ là quan trọng nhất, Việt Nam không ngả về bên nào, không cùng với nước nào chống nước kia, không tham gia vào những “trò chơi quyền lực” của các nước lớn. Xin cảm ơn Thứ trưởng! 12/2009: Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng, khẳng định chính sách quốc phòng của Việt Nam là không đe dọa hoặc sử dụng sức mạng quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược. 5/2010: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất với 8 nước đối tác, đối thoại gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Liên Bang Nga, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand được tổ chức tại Hà Nội. Vấn đề giữ vững hòa bình, ổn định tại biển Đông theo tuyên bố ứng xử trên biển Đông (COC), không dùng vũ lực, đàm phán hòa bình để giải quyết trên cơ sở Công ước về Luật biển quốc tế năm 1982 được các nước ủng hộ. 6/2010: Tại Hội nghị An ninh châu Á không chính thức lần thứ 8 tại Singapore (Đối thoại Shangri–la 8) với sự tham dự của lãnh đạo và học giả của 27 quốc gia và tổ chức thế giới, Đại tướng – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh khẳng định chủ trương và nỗ lực thúc đẩy ngoại giao quốc phòng, góp phần vào nhận thức chung vì một khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và phát triển trên một nền an ninh hợp tác vững chắc. 8/2010: Lần đầu tiên đối thoại quốc phòng Việt – Mỹ. Hai bên đã thảo luận các vấn đề song phương về quốc phòng, truyền thống tăng cường hợp tác trong khắc phục hậu quả chiến tranh, cứu hộ cứu nạn, ứng phó với thiên tai trên biển và đất liền… Một điểm mới trong hợp tác song phương là Mỹ sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc tìm kiếm quân nhân Việt Nam mất tích trong chiến tranh… 11/2010: Đối thoại chiến lược – an ninh Việt – Trung. Quân đội hai nước thống nhất tiếp tục đẩy mạnh giao lưu, trao đổi, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, đào tạo, hợp tác hải quân, biên phòng, thiết lập đường dây nóng giữa hai bộ quốc phòng. 12/2010: Hội nghị Nhóm Công tác quan chức quốc phòng cao cấp các nước ASEAN mở rộng (ADSOM + WG) triển khai các sáng kiến hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ ADMM+. |
Thứ Tư, 26 tháng 1, 2011
>> J-20 ám ảnh Đông Nam Á
Trung Quốc có nhiều chiến lược cũng như sự chuẩn bị về trang bị để vươn ra ngoài chuỗi đảo thứ hai Dù có nhiều lời chê nhưng J-20 vẫn tạo ra sự e ngại trong cộng đồng quốc tế, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, nơi có những vấn đề chưa được giải quyết với Trung Quốc. |
Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011
>> Vì sao Trung Quốc xây đường sắt cao tốc qua Việt Nam?
Sự hình thành của “Con đường tơ lụa sắt” Tại Hội nghị các bộ trưởng Giao thông - Vận tải ASEAN lần thứ 6 ở Brunei hồi tháng 10/2000, các nước trong khu vực và Trung Quốc đã thông qua tuyến đường đi qua bảy nước. Theo đó, tại Việt Nam sẽ có hai đoạn nằm trong dự án hệ thống đường sắt cao tốc. Một là tuyến nối TP.HCM với Lộc Ninh sang Campuchia, có chiều dài khoảng 130km, đang được nghiên cứu xây dựng theo khổ đường sắt 1m, có 12 ga, với điểm đầu là ga Dĩ An ở Bình Dương và điểm cuối là ga biên giới Hoa Lư. Dự kiến tổng mức đầu tư khoảng 3.918 tỷ đồng. Tuyến đường sắt thứ hai là Vũng Áng - Mụ Gia, Hà Tĩnh với Lào. Tuyến này có chiều dài khoảng 119km, khổ đường 1m, với 12 ga, 7 hầm và 24 cầu, tổng mức đầu tư khoảng 4.523 tỷ đồng. Hệ thống đường sắt cao tốc nêu trên có tổng chi phí trên 3 tỷ USD sẽ băng ngang qua lãnh thổ Việt Nam. Trong giai đoạn đầu tiên, sẽ được khởi công từ giữa năm 2011, tuyến đường này sẽ nối thủ phủ Nam Ninh của tỉnh Quảng Tây với thành phố Bình Hương của tỉnh Giang Tây, ở gần biên giới Trung - Việt. Kế hoạch lớn của ASEAN là hy vọng hệ thống đường sắt cao tốc sẽ tạo ra một tuyến đường nhiều hướng vươn tới Trung Quốc. Trong bối cảnh những nền kinh tế châu Á mong muốn hợp tác thương mại với các nước trong khu vực nhiều hơn là với phương Tây để phát triển kinh tế trong tương lai, thì đây là một kế hoạch lớn có thể biến khu vực ASEAN thành một trung tâm kinh tế có khả năng vận chuyển dễ dàng. Mục đính chính của “Con đường tơ lụa sắt” Tờ China Daily dẫn nguồn tin từ Ủy ban Cải cách Phát triển, cho biết tuyến đường sắt cao tốc trên là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Nam Ninh trong 5 năm tới, sẽ làm tăng lượng trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Với mục đích chính là nâng cao khả năng giao thương giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, Bắc Kinh cũng đặt nhiều hy vọng vào việc củng cố vị thế ở khu vực này. Trang mạng FastCompany nhận định Bắc Kinh thông báo tin xây dựng tuyến đường sắt cao tốc vào thời điểm Trung Quốc và Nhật Bản đang tranh giành ảnh hưởng trong khu vực, đặc biệt là đối với Việt Nam. Báo này cũng cho rằng trong bối cảnh Hội nghị cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vừa kết thúc, rõ ràng là Trung Quốc muốn duy trì vị trí thống lĩnh của mình trong khu vực, cho dù không phải là thành viên chính thức của hiệp hội này. |
Chủ Nhật, 23 tháng 1, 2011
>> Thực hư quanh chuyện dỡ cột mốc cũ ở biên giới Việt - Trung
Bài viết liên quan đến việc Trung Quốc đào cột mốc biên giới Việt - Trung theo Công ước Pháp - Thanh (1887) đã gây xôn xao dư luận trong thời gian qua. |
Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2011
>> Việt Nam có thể mua tiêm kích thế hệ 5 năm 2018
Tiêm kích thế hệ 5 T-50 PAK FA của Nga bay thử Việt Nam là ứng cử viên sáng giá nhất mua tiêm kích thế hệ 5 T-50/FGFA khi máy bay này được xuất khẩu. |
Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2011
>> Mỹ ngỏ ý mời Việt Nam tham gia tập trận CARAT
Việt Nam muốn tham gia cuộc diễn tập CARAT của Mỹ hay không là tùy thuộc vào nhu cầu của mình, đô đốc Patrick M. Walsh cho biết. |
Thứ Năm, 20 tháng 1, 2011
>> Việt Nam nhân tố quan trọng ở Châu Á
Việt Nam đã dùng nhiều nỗ lực của mình không chỉ để đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ và các nước châu Á, mà còn để bảo vệ lãnh thổ quyền lợi của mình trước Trung Quốc ? |
Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011
>> Hải quân, không quân Việt Nam sẽ 'tiến thẳng lên hiện đại hóa'
Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định, binh chủng hải quân, không quân, thông tin liên lạc… sẽ được đầu tư để tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc. - Thưa Bộ trưởng, có ý kiến cho rằng, để quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, thay vì xây dựng quân đội theo hướng “từng bước tiến lên chính qui, hiện đại” thì một số binh chủng trong quân đội cần phải “tiến thẳng lên hiện đại”. Quan điểm của Bộ trưởng như thế nào về vấn đề này? Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh. Nếu chỉ có trang bị hiện đại mà con người chưa hiện đại, trình độ không đáp ứng yêu cầu, không làm chủ, khai thác tối đa trang thiết bị hiện đại thì không đáp ứng yêu cầu. Việc xây dựng một số binh chủng, lực lượng trong quân đội tiến thẳng lên chính qui, hiện đại được xác định thế nào trong kế hoạch của Bộ Quốc Phòng thưa Bộ trưởng? Trong nghị quyết của Đảng bộ Quân đội đã xác định rõ, phải xây dựng lực lượng hải quân, phòng không không quân, trinh sát điện tử…đi thẳng lên hiện đại. Kèm theo đó là có kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đầu tư về mặt trang bị, con người, đào tạo… và có lộ trình phù hợp với khả năng tài chính của đất nước. - Trả lời báo chí, một quan chức Bộ Quốc phòng cho biết, ngân sách quốc phòng của ta hiện chiếm khoảng 1,8% GDP. Theo Bộ trưởng, số tiền chi cho ngân sách quốc phòng như vậy có đáp ứng yêu cầu phát triển của quân đội trong tình hình mới? - Theo tôi như vậy đã là một sự cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước. Nếu vượt quá khả năng đó sẽ rất khó cho ngân sách. Chúng ta còn phải lo rất nhiều thứ như an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo… nên như vậy đã là sự cố gắng. - Bộ trưởng có bình luận gì về thông tin báo nước ngoài cho rằng, ngân sách quốc phòng của ta năm qua khoảng 2 tỷ USD? - Cái đó thì rõ rồi, ngân sách năm nay là 52.000 tỷ đồng, khoảng hơn 2 tỷ USD. - Xin cảm ơn Bộ trưởng! Thiếu tướng Phí Quốc Tuấn, Tư lệnh Bộ tư lệnh Thủ đô: |