Tên lửa đường không ALARM (Air-Launched Antiradar Missile) được trang bị đầu tự dẫn radar thụ động dùng để tiêu diệt các phương tiện radar điều khiển hệ thống phòng không của đối phương, trong đó có cả trạm radar của các tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa.
Tên lửa chống radar ALARM do công ty Matra BAe Dynamics và Texas Instruments theo yêu cầu N 1228 của Không quân Anh dùng để thay các dòng tên lửa AS.37 Martel và AGM-45 Shrike đã quá cũ hiện trong biên chế. ![]() Tên lửa ALARM được coi là "sát thủ" của các loại radar hiện đại Các hoạt động nghiên cứu được tiến hành từ năm 1977 đến năm 1980. Hợp đồng chế tạo được ký vào tháng 6/1983, lần phóng đầu tiên được tổ chức vào cuối năm 1988. Tên lửa ALARM trải qua các giai đoạn thử nghiệm tại thao trường China Lake (Mỹ) trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến năm 1990 và được đưa vào biên chế năm 1991. ALARM được tích hợp trong hệ thống vũ khí của máy bay tiêm kích – ném bom Tornado, máy bay tiêm kích Harrier, máy bay cường kích Hawk và trực thăng đa nhiệm Lynx. ![]() Thiết bị phóng tên lửa ALARM Tên lửa ALARM được chế tạo theo sơ đồ khí động học thông thường với 4 cánh nhỏ ở phần trước thân. Thân tên lửa được chia thành một vài khoang, gồm đầu tự dẫn radar thụ động, khối điều khiển (khối đưa ra nhiệm vụ bay), hệ thống điều khiển quán tính, đầu nổ phi tiếp xúc, đầu đạn, động cơ tên lửa nhiên liệu rắn, khoang lái và dù. Đầu tự dẫn radar thụ động dải rộng do công ty Marconi Defence Systems sản xuất, có anten dải rộng 4 hướng hình xoắn cố định. Theo thông tin từ nhà sản xuất, đầu tự dẫn có độ tin cậy và độ bền cao trước nhiều biện pháp chế áp do đối phương sử dụng. Vỏ bọc anten được chế tạo từ vật liệu tổng hợp mới, có tính ưu việt hơn so với vỏ bọc anten làm từ gốm. ![]() ALARM được trưng bày trong triển lãm vũ khí Ưu điểm rõ nét nhất của tên lửa ALARM là khả năng sử dụng trong chế độ bay theo chương trình lập sẵn. Khi động cơ ngừng hoạt động, tên lửa dần hạ thấp độ cao bằng cách sử dụng vòm dù và bắt đầu sục sạo radar - mục tiêu. Đầu tự dẫn của tên lửa có độ nhạy cao và bảo đảm dẫn hướng theo phát xạ vô tuyến, phù hợp với các vùng búp sóng bên của giản đồ hướng anten radar. Trạm radar hiện đại có tia chính hẹp và cường độ búp sóng bên của giản đồ hướng thấp. Điều này cho phép xoay anten theo mặt phẳng nằm ngang. Ở giai đoạn cuối, quỹ đạo của tên lửa АLARM thực tế là quỹ đạo thẳng đứng, cho phép sử dụng để dẫn hướng tên lửa đến trường phát xạ búp sóng thẳng đứng của giản đồ hướng anten radar – mục tiêu và giảm các sai số dẫn hướng vì sự phản xạ lại các tín hiệu từ địa hình. Nếu mục tiêu ngừng phát xạ thì tên lửa vẫn giữ hướng với sự hỗ trợ của hệ thống điều khiển quán tính trên khoang. Hệ thống điều khiển tên lửa quán tính được chế tạo trên cơ sở module đo đạc, bảo đảm đo các tham số cơ động góc và tuyến tính theo 3 trục. Trước khi phóng tên lửa, hệ thống điều khiển quán tính liên tục nhận thông tin từ hệ thống dẫn đường của máy bay mang tên lửa. Trong thành phần khối điều khiển gồm bộ xử lý kỹ thuật số Zilog Z800 có nhiệm vụ bảo đảm xử lý các tín hiệu từ đầu tự dẫn radar thụ động… giải quyết các nhiệm vụ hiển thị mục tiêu và thiết lập mệnh lệnh chỉ huy. Bộ xử lý bảo đảm tái lập trình hóa các nhiệm vụ tác chiến. Phần mềm được viết bằng mã CORAL. ![]() ALARM được tích hợp vào hệ thống vũ khí của máy bay tiêm kích Khối điều khiển bảo đảm hiển thị mục tiêu bằng cách so sánh với tính liên tục xung của radar từ cơ sở dữ liệu và phụ thuộc vào loại mục tiêu để đưa ra độ cao nổ của đầu đạn trên mặt đất. Thuật toán chức năng này chuyên dùng để phá hủy radar phát hiện các mục tiêu bay thấp, mà cột anten của nó được nâng lên cao với sự hỗ trợ của tháp chuyên dụng. Thông thường, theo lập trình đầu đạn sẽ nổ ở tầm khu vực mạng anten hoặc cabin điều khiển radar. ![]() Máy bay tiêm kích Tornado GR.1 chuẩn bị phóng tên lửa ALARM Đầu đạn tác chiến của ALARM là đầu đạn nổ mảnh do công ty MBB chế tạo, được trang bị các thành phần tiêu diệt hạng năng làm từ vonfram, chuyên dùng để tiêu diệt mạng anten, khối điện tử và kíp radar. Động cơ hành trình 2 chế độ nhiên liệu rắn do công ty Bayern-Chemie chế tạo, được bố trí ở khoang giữa của tên lửa. ALARM có 3 chế độ làm việc, phụ thuộc vào loại thiết bị mang mà có thể lập trình trước khi bay hoặc được đưa ra trực tiếp trong quá trình bay. ![]() Tên lửa ALARM có 3 chế độ làm việc Không quân Anh lần đầu tiên sử dụng tên lửa ALARM vào năm 1991 trong thời gian chiến tranh ở Vịnh Ba Tư, khi đó các tên lửa này vẫn chưa được đưa vào biên chế, bởi việc thử nghiệm ở giai đoạn đầu chiến sự đã không thành công. Tại khu vực vịnh Ba Tư, Không quân Hoàng gia Anh có 9 chiếc máy bay tiêm kích – ném bom Tornado GR.1 được trang bị tên lửa ALARM. Các máy bay này cất cánh từ Tabuk đến Arab Saudi. Trong cuộc chiến NATO chống Nam Tư năm 1999 đã sử dụng 6 tên lửa ALARM. Tuy nhiên, thông tin về hiệu quả của loại tên lửa này khi đó không được công bố. |
Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011
>> Tên lửa ALARM - "Thần chết" đối với các loại radar hiện đại
>> Sức mạnh tổ hợp Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS trên hạm của Mỹ
Tổ hợp pháo phòng không Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS được phát triển bởi chi nhánh Pomona thuộc công ty General Dynamics của Mỹ từ cuối những năm 1960 thế kỷ trước.
Tổ hợp lần đầu tiên thử nghiệm vào năm 1973, bắt đầu sản xuất hàng loạt năm 1978, đến năm 1980 được đưa vào trang bị. ![]() Tổ hợp trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS là hệ thống vũ khí tự động, cho phép tự động sục sạo, phát hiện mục tiêu ở các dải bắn cho trước, đánh giá mức độ nguy hiểm của mục tiêu, lựa chọn các mục tiêu nguy hiểm nhất, đánh chặn, bám và xác định các tham số cơ động của mục tiêu, tiến hành khai hỏa, tự động hiệu chỉnh bắn trong chu trình khép kín, ngăn chặn hỏa lực và đánh chặn mục tiêu mới. ![]() Tự động sục sạo và phát hiện mục tiêu Tổ hợp gồm 2 tiểu hệ thống đa năng, được chế tạo theo kết cấu module (bệ pháo và tiểu hệ thống radar điều khiển hỏa lực). 5 module (pháo М61А1 với hộp đạn kèm theo, giá xoay với cơ cấu dẫn hướng và chân giá, bệ súng, anten radar với cơ cấu trợ dẫn, giá để hộp máy tính điện tử cá nhân) được lắp đặt trong một khối gọn cao 4,7m chiếm diện tích 5,5m2 trên trên boong tàu. Trong thành phần tổ hợp còn có tiểu hệ thống điều khiển từ xa với bảng điều khiển và thiết bị hiển thị, được lắp đặt ở vị trí trắc thủ. ![]() Có thể ngẩng với một góc 85 độ Pháo 6 nòng 20mm М61А1 của công ty General Electric được chế tạo theo sơ đồ đa nòng với khối nòng có thể xoay liên tục khi bắn. Pháo và module anten được lắp đặt trên giá xoay được làm từ nhôm lá có khả năng dẫn động và dẫn hướng trên 2 mặt phẳng. Radar xung hiệu ứng dople làm việc trong dải tần sóng vô tuyến 2cm. Máy thu phát của radar được kết nối với 2 anten ở các vị trí khác nhau. ![]() Khả năng bắn đến tầm cao 1.470m Anten cao được sử dụng khi radar làm việc trong chế độ phát hiện mục tiêu trong khu vực cho trước, còn anten thấp sử dụng khi radar làm việc trong chế độ theo dõi và hiệu chỉnh bắn. Sau khi mục tiêu nguy hiểm nhất bị phát hiện với sự hỗ trợ của máy tính điện tử cá nhân, mục tiêu này bị chặn bắt bằng kênh phát hiện và truyền kênh theo dõi đến anten, cho phép xác định chính xác tọa độ góc và vận tốc cơ động. ![]() Hiện nay tổ hợp này được trang bị cho tàu chiến hiện đại của nhiều nước trên thế giới Trên cơ sở các dữ liệu này, máy tính điện tử cá nhân của tiểu hệ thống điều khiển hỏa lực tính toán điểm ngắm bắn và truyền mệnh lệnh chỉ huy đến cơ cấu dẫn hướng pháo. Khi mục tiêu tiếp cận phạm vi tiêu diệt giới hạn tiến hành tự động khai hỏa. Trong những năm 1990, tổ hợp Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS đã được lắp đặt trên hơn 404 tàu hải quân của các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, Canada, Hy Lạp, Nhật Bản, Đài Loan... Các đặc tính cơ bản: Loại vũ khí: pháo tự động 6 nòng Kích thước: 20x12mm Nguyên tắc làm việc của hệ thống tự động: dẫn động từ bên ngoài Tốc độ bắn: 3.000 phát/ phút Góc ngẩng tối đa: 85 độ Vận tốc dẫn hướng trên mặt phẳng đứng: 92 độ/s Vận tốc dẫn hướng trên mặt phẳng ngang: 126 độ/s Thời gian phản ứng: 2-3s Cự ly bắn hiệu quả: 1,47km Khả năng đạt đến tầm cao: 1.470m Loại đạn: OFZ, Z-T, BPS-T Trọng lượng đạn: 0,102kg Trọng lượng bệ phóng: 5,42 tấn Xem tổ hợp Mark 15 Vulcan Phalanx CIWS tiêu diệt mục tiêu: |
>> Bộ ba khu trục hạm tên lửa chủ lực của Hải quân Nhật Bản
Lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản được đánh là một trong những lực lượng hải quân lớn nhất thế giới và lớn thứ hai ở châu Á. Quân số thường trực của quân phòng vệ khoảng 46.000 người với 110 tàu các loại. Nổi bật trong các loại tàu của lực lượng này là bộ ba khu trục hạm sau:
Khu trục hạm Asagiri Khu trục hạm Asagiri được phát triển trên cơ sở khu trục hạm Hatsuyuki, được trang bị 4 động cơ tuabine khí Spey SM1A công suất 54.000 mã lực. Vũ khí gồm 2 ống phóng tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon, 1 ống phóng Mk29 với 8 tên lửa đối hạm ASROC, 1 ống phóng Mk112 với 8 tên lửa đối hạm ASROC, 1 bệ pháo 76mm OTO Melara, 2 tổ hợp pháo phòng không 20mm 6 nòng Mk15 Vulcan Phalanx, 4 súng máy 12,7mm, 2 thiết bị phóng ngư lôi 3 ống 324mm Type 68 với ngư lôi chống ngầm Mk46 Mod5, trực thăng chống ngầm HSS-2B Sea King hoặc SH-60J Sea Hawk. ![]() Khu trục hạm Asagiri Trong thành phần thiết bị vô tuyến điện gồm trạm radar phát hiện các mục tiêu trên không OPS-14C или OPS-24, trạm radar phát hiện các mục tiêu mặt nước OPS-28C, trạm radar điều khiển hỏa lực Type 2-22, trạm trinh sát kx thuật vô tuyến và tác chiến điện tử NOLR-6C, OLR-9C và OLT-3, trạm thủy âm OQS-4A, trạm thủy âm với anten kéo SQR-18A, hệ thống chế áp thủy âm AN/SLQ-25 Nixie. Khu trục hạm chủ lực Asagiri đã được đưa vào trang bị tháng 3/1988. Đến năm 1991, có tất cả 8 khu trục hạm loại này được sản xuất. Khu trục hạm Murasame Khu trục hạm Murasame dùng để bảo vệ các đội tàu mặt nước, đổ bộ, các vùng hải phận và giải quyết các nhiệm vụ chống ngầm. Thân tàu được thiết kế với việc sử dụng các thành phần công nghệ tàng hình, có thể hấp thụ sóng vô tuyến. Tàu được trang bị 2 động cơ tuabine khí LM-2500 với công suất 43.000 mã lực và 2 động cơ tuabine khí Spey SM1C công suất 41600 mã lực. ![]() Khu trục hạm Murasame Vũ khí gồm 2 bệ phóng tên lửa đối hạm SSM-1B, 1 bệ phóng thẳng đứng Mk48 với 64 tên lửa phòng không có điều khiển Sea Sparrow, bệ pháo 76mm OTO Melara, 2 tổ hợp pháo phòng không 6 nòng 20mm Mk15 Vulcan Phalanx, 2 thiết bị ngư lôi 3 ống phóng 324mm Type 68 với tên lửa đối hạm Type 89, trực thăng chống ngầm SH-60J. Trong thành phần thiết bị vô tuyến điện có trạm radar phát hiện mục tiêu trên không OPS-24, radar phát hiện mục tiêu mặt nước OPS-28D, 2 radar điều khiển hỏa lực. 1 trạm radar trinh sát kỹ thuật vô tuyến OPN-7B và OPN-11B, 1 radar dẫn đường URN-25, 1 máy thu của hệ thống dẫn đường vệ tinh, 1 trạm thủy âm OQS-5, 1 trạm thủy âm với anten kéo OQR-1, hệ thống tự động điều khiển tác chiến OYQ-6(7), tổ hợp tác chiến điện tử NOLQ-2, hệ thống chế áp thủy âm AN/SLQ-25 iếc.Nixie. Tàu này được đưa vào biên chế tháng 3/196 và dự kiến sẽ đóng tất cả 6 chiếc. Khu trục hạm Kongo Khu trục hạm Kongo dùng để phòng không và chống ngầm, bảo vệ các đội tàu nổi, đổ bộ và chống lại các tàu nổi của đối phương. Các thành phần của nó tương tự các thành phần của tàu khu trục Arleigh Burke của Mỹ. Kongo được trang bị 4 động cơ tuabine khí LM-2500 với công suất lớn. ![]() Khu trục hạm Kongo Vũ khí gồm 2 bệ phóng tên lửa đối hạm RGM-84 Harpoon, 2 bệ phóng thẳng đứng Mk41 với cơ số đạn 90 tên lửa phòng không có điều khiển Standard SM2MR và tên lửa chống ngầm ASROC, 1 pháo 12,7mm OTO Melara, 2 tổ hợp pháo phòng không 20mm 6 nòng Mk15 Vulcan Phalanx. 4 súng máy 12,7mm, 2 thiết bị phóng ngư lôi 3 ống phóng 324mm Mk32 Mod14 với ngư lôi chống ngầm Mk46 Mod5, trực thăng chống ngầm SH-60J Sea Hawk. Thiết bị vô tuyến điện gồm trạm radar phát hiện mục tiêu trên không SPY-1D, trạm radar phát hiện mục tiêu mặt nước OPS-28C, 3 trạm radar điều khiển hỏa lực SPG-62 và 1 Mk2/21, 1 trạm radar dẫn đường URN-25, các trạm radar trinh sát kỹ thuật vô tuyến và tác chiến điện tử NOLR-6C, OLR-9C, OLT-3… Tàu được đưa vào biên chế năm 1993 và đến năm 1998 đã đóng tất cả 4 chiếc loại này. |
Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2011
>> Tên lửa vượt gấp 13 lần vận tốc âm thanh
Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật của Nga đang triển khai nghiên cứu và phát triển một loại tên lửa siêu thanh mới có khả năng vượt gấp 12-13 lần vận tốc âm thanh.
![]() Thiết bị bay thử nghiệm siêu âm Cold của Liên Xô. Theo tiết lộ của Thiết kế trưởng tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến lược Boris Obnosov, nhiệm vụ tiếp theo của họ trong thời gian tới sẽ là đẩy mạnh phát triển nghiên cứu và chế tạo tên lửa siêu âm. Dự kiến, trong năm nay, tập đoàn này sẽ bắt đầu triển khai các công đoạn đầu tiên trong nghiên cứu và phát triển tên lửa siêu âm tại xưởng chế tạo vũ khí của họ tại Dubna. Trước kia, Liên Xô cũng đã từng đưa ra dự án chế tạo tên lửa siêu âm mang động cơ phản lực-khí thuận dòng. Để phục vụ cho dự án này, vào năm 1970 Liên Xô đã nghiên cứu và chế tạo thành công một thiết bị bay thử nghiệm mang tên Cold dựa trên tổ hợp tên lửa phòng không S-200. ![]() Mô hình thiết bị bay siêu âm Cold-2 của Nga. ![]() Trong quá trình thử nghiệm bay, thiết bị bay siêu âm này đã đạt tới tốc độ 5,2 M (tương đương gần 6.000 km/h). Hiện nay, Nga lại tiếp tục thúc đẩy và phát triển dự án này với một cái tên mới là Cold-2. Dự án Cold-2 dự kiến sẽ được triển khai nghiên cứu tại Viện chế tạo hàng không Trung ương mang tên Baranov. Sản phẩm đầu tiên của dự án này sẽ là thiết bị bay siêu âm có tên gọi Ygla. ![]() ![]() Tên lửa siêu âm là X-51A Waverider của Mỹ. ![]() ![]() FHVT-2 của Mỹ. |
>> Tổ hợp tên lửa phòng không Tracked Rapier của Anh
Tổ hợp tên lửa phòng không tự hành bánh xích Tracked Rapier (TRLV - Tracked Rapier Launch Vehicle) ban đầu được chế tạo bởi công ty Matra BAe Dynamics theo đơn đặt hàng của quân đội Iran.
Nhưng năm 1979, Chính phủ mới của Iran đã hủy bỏ đơn đặt hàng này. Chính vì vậy, dựa trên các kết quả đánh giá thử nghiệm Bộ Tư lệnh Quân đội Anh đã thông qua quyết định mua 50 tổ hợp Tracked Rapier. Việc chuyển giao lô hàng đầu tiên được thực hiện năm 1983. Xe cơ sở của Tracked Rapier là xe vận tải cải tiến bánh xích M548 do Mỹ sản xuất. Xe được trang bị cabin bọc thép đủ cho 3 người ngồi. Ở phía đuôi xe bố trí khối ống phóng gồm 8 tên lửa phòng không có điều khiển Rapier (mỗi bên 4 tên lửa). Ngoài ra, xe còn được bố trí trạm radar phát hiện và theo dõi mục tiêu với cự ly hoạt động 11,5km, thiết bị tính toán, thiết bị nhận biết “địch - ta”. Ngay phía trước thân xe bố trí 2 khối gồm 6 súng phóng lựu đạn khói, phía sau bố trí 2 khối, mỗi khối gồm 4 lựu đạn khói. Điều này cho phép khi cần có thể tạo các màn khói ngụy trang dày đặc bảo vệ xe. ![]() Tracked Rapier là một trong những tổ hợp tên lửa phòng không tự hành hiện đại nhất một thời của Anh Tên lửa phòng không có điều khiển Rapier được đồng nhất tuyệt đối với các tên lửa được sử dụng trong tổ hợp tên lửa phòng không kéo, có khả năng tiêu diệt hiệu quả các mục tiêu ở cự ly từ 0,5 – 7km, độ cao từ 227m – 6.858m. Anten của hệ thống chỉ huy dẫn hướng được lắp đặt trên giá, có thể nâng lên cabin. Điều này cho phép tiến hành bắn vòng tròn (mẫu thử nghiệm đầu tiên dải bắn bị hạn chế). Tất cả các thiết bị của hệ thống tên lửa phòng không tự hành đều được bọc thép. Xe được trang bị động cơ 6 xi lanh 6V53 do công ty Detroit Diezel sản xuất. Khi quay 2.800 vòng/ phút, động cơ có thể tăng công suất 154kW, điều này cho phép xe có thể cơ động trên đường gồ gề với tốc độ 48km/h. ![]() Tracked Rapier có khả năng cơ động nhanh và dễ dàng vượt qua các chướng ngại vật dưới nước Tổ hợp Tracked Rapier có thể lội nước và vượt qua các chướng ngại vật dưới nước. Dưới địa hình lội nước, xe có thể tăng tốc đến 5,6km/h. Cabin của tổ hợp được trang bị thiết bị quan sát đặt trên nóc, các phương tiện liên lạc, nhưng không có hệ thống bảo vệ trước các vụ tấn công bằng vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tuy nhiên, kíp chiến đấu có thể thực hiện các nhiệm vụ tác chiến khi mặc các tổ hợp bảo vệ hóa học cá nhân. Cabin bọc thép có thể bảo vệ kíp chiến đấu trước các mảnh đạn văng và đầu đạn. Theo cách bố trí, lái xe ngồi bên trái, chỉ huy ngồi giữa và trắc thủ ngồi bên phải. Khi cần, lái xe và chỉ huy có thể sử dụng thiết bị quan sát đêm và thiết bị cứu hỏa. ![]() ... và được trang bị các hệ thống hiện đại và có độ bền cao Trong thành phần của tổ hợp Tracked Rapier còn có thể gồm trạm radar Blindfire với chức năng theo dõi các mục tiêu trên không và dẫn hướng tên lửa. Radar này được lắp đặt trên cơ sở xe bọc thép chở quân M113. Trên thùng xe có 4 tên lửa phòng không có điều khiển đặt trong khí tài chuyên dụng. Mệnh lệnh chỉ huy và liên lạc được truyền đến thiết bị phóng theo cáp chuẩn. Radar có thể sử dụng trong điều kiện quan sát kém, thậm chí trong đêm tối. Thời gian triển khai vào vị trí chiến đấu chỉ mất 30 phút. Trong quá trình chiến đấu, xe yểm trợ M548 được trang bị 20 tên lửa phòng không có điều khiển sẽ hộ tống tổ hợp Tracked Rapier. Xe yểm trợ kỹ thuật FAST (Forward Area Support Team) bảo đảm cung cấp các thiết bị và phụ tùng. ![]() Tổ hợp tên lửa phòng không tự hành Tracked Rapier khai hỏa Cho đến nay, tổ hợp đã nhiều lần được cải tiến nhằm mục đích bảo đảm khả năng tác chiến trong mọi điều kiện thời tiết ban ngày cũng như ban đêm. Phiên bản Tracked Rapier được trang bị thiết bị quan sát nhiệt dùng để phát hiện và theo dõi mục tiêu có tên gọi là SP Mk.1B. Việc cung cấp các tổ hợp tên lửa phòng không SP Mk.1B cho các lực lượng vũ trang Anh được tiến hành từ năm 1993. Tổ hợp Tracked Rapier của phiên bản SP Mk.1B được trang bị hệ thống phát hiện cải tiến TOTE (Tracked Optical Thermally Enhanced), có thể được sử dụng trong bất kỳ thời gian nào, ban ngày cũng như ban đêm. Hệ thống phát hiện cải tiến TOTE gồm thiết bị quan sát nhiệt với cự ly hoạt động đến 10km, thiết bị điện tử bổ trợ và hệ thống làm mát. Xem tổ hợp Tracked Rapier tiêu diệt máy bay ở 2 chế độ (tự động và điều khiển bằng tay): |
>> Hải quân Mỹ nâng cấp pháo hạm theo hướng nào?
Pháo hạm là thành tố quan trọng trong hệ thống các phương tiện hỏa lực trang bị trên tàu chiến, có khả năng công, thủ toàn diện trong nhiều tình huống tác chiến khác nhau.
![]() Pháo hạm là vũ khí không thể thiếu trên tàu chiến. Đặc tính nổi bật của pháo hạm chính là khả năng tác chiến nhanh, tốc độ bắn, chính xác cao khi sử dụng đạn có điều khiển, thời gian bắn có thể kéo dài liên tục trong nhiều giờ, có thể tiêu diệt nhiều loại mục tiêu (trên không, trên bộ và trên biể) trong mọi điều kiện thời gian, thời tiết và phản ứng nhanh trước các nguy cơ đe dọa. Đồng thời, pháo hạm cũng được coi như là loại vũ khí toàn diện nhất trang bị cho các tàu chiến hải quân hiện nay. Nó trực tiếp quyết định đến độ bền tác chiến và hiệu quả của các chiến dịch, các trận giao chiến mà các tàu chiến hải quân tiến hành. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, đặc tính của các cuộc chiến tranh đã có sự thay đổi khá nhiều, thay vì tiến hành các hoạt động tác chiến trên đại dương, các bên tham gia giao chiến đã chuyển dần sang hình thức tác chiến gần bờ, đặc biệt là trong các cuộc xung đột vũ trang cục bộ. Sự thay đổi đặc tính tác chiến này đã khiến cho vai trò của hệ thống pháo hạm trên tàu chiến ngày càng trở nên quan trọng. Nó đã trở thành một trong những phương tiện tấn công chủ lực để tiêu diệt các mục tiêu cố định và di động trên bộ của đối phương, là thành tố quan trọng không thể thiếu để bảo đảm khả năng phòng thủ cho tàu trước các đợt tấn công bằng đường không của đối phương đang ngày càng gia tăng. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, Hải quân Mỹ cho rằng, chế tạo các loại pháo hạm, các loại đạn pháo đi kèm mạnh hơn, hiệu quả hơn là một trong những hướng chính trong quá trình nâng cấp và hoàn thiện hệ thống pháo hạm trang bị trên tàu chiến hải quân Mỹ. ![]() Pháo hạm mới cỡ lớn của Mỹ phải có tầm bắn xa 180 km. Các chuyên gia phân tích của Hải quân Mỹ đưa ra nhận định rằng, trong giai đoạn trước năm 2030, các loại pháo hạm cỡ lớn và tầm trung sẽ luôn đi đầu trong giải quyết các nhiệm vụ sau: - Hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ trên biển, tiêu diệt các mục tiêu cố định và di động trên mặt đất trong quá trình đẩy mạnh hoạt động của lực lượng do thám ở các khu vực gần biển. - Tiêu diệt tàu chiến, tàu tuần tiễu, tàu vận tải và các mục tiêu nổi khác của đối phương, đặc biệt là trong điều kiện đối phương tăng cường hoạt động của các phương tiện tác chiến điện tử. Để giải quyết có hiệu quả hàng loạt các nhiệm vụ nêu trên, Hải quân Mỹ đã đặt ra những yêu cầu rất khắt khe đối với các hệ thống pháo hạm mới. Để đủ sức tiêu diệt các mục tiêu gần bờ, pháo hạm cỡ lớn phải có tầm bắn xa là 180 km, pháo hạm cỡ trung phải có tầm bắn xa từ 115-140 km. ![]() Pháo hạm rất quan trọng trong tác chiến gần bờ. Bên cạnh đó, pháo hạm phải có hỏa lực mạnh, tiêu diệt mục tiêu trên bộ, trên biển trong thời gian ngắn, có độ chính xác bắn cao (sai số tiêu diệt mục tiêu là 2 m đối với pháo hạm cỡ trung khi sử dụng đạn nổ phá mảnh hoặc xuyên phá; sai số tiêu diệt mục tiêu là 20-50 m đối với pháo hạm cỡ lớn và tầm trung khi sử dụng đạn chính xác cao tầm xa mang đầu đạn chùm). Ngoài ra, pháo hạm thế hệ mới phải có khả năng phản ứng nhanh, chuyển mục tiêu tấn công nhanh, nạp đạn tự động, độ tin cậy cao, trọng lượng nhẹ, giá thành thấp và đơn giản trong quá trình bảo dưỡng, sửa chữa cũng như sử dụng. Như vậy, trong thời gian tới, theo yêu cầu của Hải quân Mỹ, bên cạnh việc nâng cấp các hệ thống pháo hạm hiện có, các chuyên gia chế tạo vũ khí của Mỹ cũng phải tập trung nghiên cứu ra các hệ thống pháo hạm mới có hỏa lực mạnh, ứng dụng công nghệ tiên tiến, có tầm bắn xa và độ chính xác cao. |
Nhãn:
Hải quân Mỹ,
Pháo hạm,
Pháo hạm Hải quân Mỹ
>> Xung đột Trung - Mỹ khi nào xảy ra ?
Những nỗ lực cải thiện quan hệ quân sự Trung - Mỹ gần đây được hoan nghênh. Tuy nhiên, những xung đột lợi ích cơ bản giữa hai nước vẫn luôn tiềm tàng khả năng xảy ra xung đột, tranh chấp trong tương lai.
Những thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ Trong cuộc phỏng vấn gần đây với tờ New York Times, Đô đốc Mike Mullen, người vừa thăm chính thức Trung Quốc hồi tháng 7 thừa nhận quan hệ Trung – Mỹ hầu như chìm trong các mối “hiểu lầm và nghi kỵ lẫn nhau”. Đồng thời, Mullen cũng lên tiếng chỉ trích Bắc Kinh về việc thường xuyên trút những cơn bất mãn lên quan hệ quốc phòng song phương như cách trả đũa mỗi khi quan hệ gặp trắc trở. “Khi họ bất mãn với những gì chúng tôi làm. Họ cắt đứt quan hệ quân sự. Chuyện này không thể tiếp diễn nữa”, ông Mullen nhấn mạnh. ![]() Đô đốc Mike Mullen (thứ 2 từ phải sang) gặp giới chức Trung Quốc trong chuyến thăm nước này hồi tháng 7. Nhìn lại trong quá khứ, việc cắt giảm, đình chỉ các chuyến thăm, trao đổi và hợp tác quân sự với Mỹ là việc thường được Trung Quốc áp dụng mỗi khi quan hệ song phương gặp vấn đề. Không khó để kể ra một số ví dụ liên quan đến vấn đề này. Đơn cử như sau vụ máy bay Mỹ đánh bom nhầm Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade năm 1999; vụ va chạm giữa máy bay gián điệp EP-3E Aries II của Hải quân Mỹ với máy bay quân sự Trung Quốc ngoài khơi bờ biển nước này năm 2000; đặc biệt, để phản đối các thương vụ mua bán vũ khí giữa Mỹ và Đài Loan, Trung Quốc không ngần ngại đình chỉ các chuyến thăm quốc phòng cấp cao giữa hai nước, không cho các tàu Hải quân Mỹ cập cảng Trung Quốc, hủy bỏ các hội nghị về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai và tỏ ra bất hợp tác trong nỗ lực không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; đồng thời hủy bỏ hàng chục chương trình hợp tác quân sự Trung – Mỹ khác. Tuy nhiên, không riêng gì Trung Quốc, phía Mỹ cũng nhiều lần hủy bỏ các dịp trao đổi song phương. Điển hình là việc chính quyền George H. W. Bush quyết định đình chỉ hợp tác quân sự và chuyền giao công nghệ quốc phòng; cũng như đóng băng vô thời hạn tất cả các chuyến thăm cấp cao với các lãnh đạo quân đội Trung Quốc nhằm phản đối nước này trong vụ Thiên An Môn năm 1989. Và phải đến tháng 10/1993, khi Trợ lý Ngoại trưởng quốc phòng Mỹ đảm nhiệm các vấn đề an ninh quốc tế Chas W. Freeman Jr đến thăm Trung Quốc, quan hệ quốc phòng song phương Trung - Mỹ mới được nối lại. Song, một thập kỷ sau đó, quan hệ Trung - Mỹ lại bị phủ bức màn đen tối khi Quốc hội Mỹ thể hiện sự giận dữ trước các hoạt động gián điệp của Trung Quốc tại Mỹ bằng cách áp đặt và hạn chế khắt khe lên quan hệ hợp tác giữa Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) - Lầu Năm Góc. Theo đó, luật Ủy quyền Quốc phòng năm 2000 của Mỹ chỉ đạo Bộ trưởng Quốc phòng không được phép thông qua bất cứ liên hệ về mặt quân sự nào với Trung Quốc. Ngoài ra, các yếu tố bên ngoài không liên quan đến các trao đổi quân sự (như việc Mỹ thường xuyên cáo buộc Trung Quốc đàn áp tự do nhân quyền, các chính sách của nước này với Tây Tạng và Đài Loan cũng như các thương vụ mua bán tên lửa đạn đạo và công nghệ hạt nhân của Bắc Kinh với các nước nhỏ khác) cũng góp phần khiến Mỹ bất mãn và phản ứng bằng cách đình chỉ các quan hệ quốc phòng song phương với Trung Quốc. Trung – Mỹ nỗ lực cải thiện quan hệ dù liên tiếp vấp phải mâu thuẫn lợi ích Bất chấp những thăng trầm trong quan hệ xuyên suốt nhiều thập kỷ qua, hiện nay Trung – Mỹ đang bắt đầu giai đoạn nỗ lực cải thiện quan hệ trong đó đặc biệt chú trọng lĩnh vực quốc phòng. Đô đốc Mullen từng nhận định, việc cải thiện quan hệ quân sự giữa quân đội Mỹ và PLA đòi hỏi hai bên phát triển “niềm tin chiến lược lẫn nhau” thông qua các cuộc đối thoại nhằm xóa bỏ hiểu lầm. “Một vài hiểu lầm giữa quân đội hai bên có thể được xóa bỏ bằng cách đối thoại và thái độ cùng hướng tới những mục đích chung", Đô đốc Mullen nhấn mạnh. Lợi ích chung giữa Mỹ và Trung Quốc mà Mullen muốn ám chỉ là việc bảo vệ các tuyến hải vận khỏi nạn cướp biển, cùng nhau ngăn chặn nạn phổ biến vũ khí hủy hiệt hàng loạt, ngăn chặn sự gia tăng các hoạt động buôn bán thuốc phiện cũng như thúc đẩy ổn định khu vực ở hai miền Triều Tiên và Pakistan. Nỗ lực cải thiện quan hệ Trung - Mỹ gần đây được thể hiện rõ bằng sự kiện Đô đốc Mullen thăm Trung Quốc hồi tháng 7 vừa qua sau chuyến thăm đến Mỹ trước đó Tổng tham mưu trưởng Đới Bỉnh Quốc, người đứng đầu PLA vào hồi tháng 5. Trong chuyến công du này, Đô đốc Mullen khẳng định những chuyến thăm cấp cao như thế này sẽ là công cụ trọng yếu nhằm khắc phục sự mất lòng tin giữa hai bên. ![]() Tướng Trung Quốc Trần Bính Đức (bên trái) nói chuyện với Đô đốc Mỹ Mike Mullen tại Washington ngày 17/5. Tuy nhiên, thực tế là những cuộc gặp cấp cao của giới quân sự Trung – Mỹ không có gì là mới mẻ bởi trong hai thập kỷ qua, nhiều quan chức quốc phòng cấp cao của hai nước cũng từng có những chuyến thăm viếng lẫn nhau. Chẳng hạn, Bắc Kinh từng thăm căn cứ quân sự của Hải quân Mỹ tại Trân Châu Cảng và San Diego. Trong khi đó, Hải quân Mỹ đáp trả bằng việc thăm cảng Hong Kong của Trung Quốc thường niên. Ngoài ra, nhiều học viện quốc phòng cũng như các ĐH an ninh, quốc phòng hai nước thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi học thuật với nhau. Chưa dừng lại, quan chức quân sự hai nước cũng liên tục thăm các cơ sở quân sự của nhau, đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo bàn về lý luận quân sự và các vấn đề quân sự liên quan. Tuy nhiên, bất chấp mọi hoạt động đó, sự đối đầu và nghi kỵ lẫn nhau vẫn tiếp diễn. Ví dụ điển hình cho nhận định trên là sau chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Bill Clinton đến Trung Quốc năm 1998, giới chức hai nước đi đến thống nhất về việc tổ chức các cuộc diễn tập quân sự chung. Năm 2000, Trung Quốc cử quan sát viên quân sự tham dự cuộc tập trận RIMPAC do Mỹ dẫn đầu. Ngược lại, phía Mỹ cũng cử Tướng Henry Shelton, lúc đó đang giữ chức Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ tham dự cuộc tập trận của Trung Quốc tại Quân khu Nam Kinh. Ngoài ra, Trung Quốc và Mỹ lần đầu tiên lên kế hoạch cho một cuộc diễn tập tìm kiếm và cứu nạn quy mô với sự tham gia của các tàu chiến vào tháng 9/2006 ngoài khơi bờ biển Trung Quốc và San Diego, Mỹ. Tuy nhiên, sau đó, phía Trung Quốc tuyên bố đình chỉ tất cả các đợt diễn tập quân sự và cắt đứt liên hệ quân sự với Mỹ ngay khi chính quyền George W. Bush thông qua gói vũ khí kỷ lục bán cho Đài Loan tháng 10/2008. Trước đó, trong mọi trường hợp, các cuộc diễn tập quân sự Trung - Mỹ luôn có quy mô nhỏ hơn so với các cuộc diễn tập tương tự của Trung Quốc với Nga và một số nước Trung Á. Một điểm nữa đó là giới chức Trung Quốc luôn lo lắng việc nâng cao sự minh bạch trong chính sách quốc phòng có thể tạo điều kiện cho cơ quan tình báo quân sự Mỹ nhìn thấu những điểm yếu quốc phòng của họ. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc quyết tâm duy trì và kiểm soát chặt tất cả các cuộc đối thoại Trung – Mỹ, giám sát nghiêm ngặt các quan hệ quân sự với nước ngoài của PLA và không bao giờ tỏ ra mặn mà trong việc tổ chức các cuộc đàm phán trực tiếp giữa PLA với giới chức Mỹ. Do vậy, dẫu trong chuyến thăm Trung Quốc vừa qua, Đô đốc Mullen nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện quan hệ quân sự Trung - Mỹ thì hai bên vẫn nhận thức rõ trong suốt nhiều thập kỷ qua và cho đến tận bây giờ, lợi ích cơ bản của họ là hoàn toàn khác biệt. Các cuộc đối thoại Trung – Mỹ có thể làm giảm căng thẳng trong những thời điểm "hiểu lầm" nhưng cũng phơi bày một cách rõ ràng hơn bao giờ hết sự khác nhau cơ bản về mặt lợi ích của Trung Quốc và Mỹ. Rốt cuộc thì, vấn đề của Trung Quốc và Mỹ là hai nước này hiện đang là đối thủ tranh giành ảnh hưởng ở khu vực châu Á và có khả năng là địch thủ cạnh tranh quyền bá chủ khu vực. Sự bất đồng cơ bản nói chung giữa hai nước còn thể hiện ở khái niệm mở rộng chủ quyền quốc gia của Bắc Kinh đang đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích địa chiến lược của Mỹ. Điều này dẫn đến quan hệ quốc phòng Trung – Mỹ không có khả năng cải thiện chừng nào hai nước vẫn tiếp tục đối đầu trong các vấn đề an ninh cơ bản. Kết quả là, các cam kết ngoại giao dễ dàng bị phá vỡ và đối đầu Trung – Mỹ sẽ vẫn tiếp diễn. Ngoài ra, việc Trung Quốc chủ trương tăng cường sức mạnh toàn diện cho PLA bằng việc công bố ngân sách quốc phòng “khủng” trong vài năm trở lại đây; cùng với chủ trương và tham vọng mở rộng hoạt động quân sự trên phạm vi toàn cầu của nước này rõ ràng đang làm tăng nguy cơ một cuộc xung đột quân sự Trung – Mỹ trong tương lai. |
>> Biển Đông - điểm nóng của thế giới tương lai?
Tạp chí Chính sách Ngoại giao (Foreign Policy) vừa qua đã đăng bài phân tích với nhan đề "Biển Đông - xung đột của tương lai" của học giả Robert D. Kaplan, chuyên gia cao cấp thuộc Trung tâm An ninh Mỹ Mới, đồng thời là thành viên của Ủy ban Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ.
![]() Biển Đông là xung đột trong tương lai. Mở đầu bài phân tích, R. D. Kaplan cho rằng, trong thế kỷ 20, thế giới thường xuyên chứng kiến các cuộc tranh chấp diễn ra trên đất liền, đặc biệt là ở Châu Âu. Tuy nhiên sang thế kỷ 21, trọng tâm dân số và kinh tế đã dần có sự dịch chuyển sang Đông Á, nơi mà các trung tâm lớn của khu vực phần lớn được ngăn cách bởi các vùng lãnh hải. Đặc điểm địa hình này của Đông Á là điều có thể dự báo trước về 1 kỷ nguyên của hải quân – được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm các thế trận trên biển và trên không đang có những diễn biến ngày càng căng thẳng. Kaplan cho rằng, nguyên nhân lý giải cho tình trạng căng thẳng trên là vì Trung Quốc, đất nước có vùng biên giới đất liền được xem là an toàn nhất kể từ triều nhà Thanh vào cuối thế kỷ 18 đến nay, đang không ngừng mở rộng các hoạt động hải quân của mình. Thông qua quyền lực biển đó, Trung Quốc dường như muốn xóa bỏ hai thế kỷ xâm lấn của các thế lực bên ngoài đối với lãnh thổ của mình – khiến các nước láng giềng phải phản ứng. Đông Á, hay chính xác hơn là Tây Thái Bình Dương, khu vực đang nhanh chóng trở thành trung tâm mới của các hoạt động hải quân, cho thấy trước một động cơ thực sự khác biệt. Cuộc đấu tranh giành ưu thế ở Tây Thái Bình Dương không nhất thiết cần tới vũ trang mà gần như sẽ diễn ra một cách thầm lặng trên những vùng biển trống, chấp nhận sức mạnh kinh tế và quân sự tăng chậm nhưng chắc mà các nhà nước có được trong suốt quá trình lịch sử. Kaplan nhận định, không giống như đất liền, vùng biển tạo ra các đường biên giới rõ ràng, giúp giảm khả năng xung đột. Vùng biển rộng lớn cũng là rào cản đối với các cuộc chiến, khi mà những con tàu chiến nhanh nhất cũng chỉ đạt 35 hải lý. Chính những vùng biển xung quanh Đông Á – một trung tâm sản xuất cũng như mua bán khí tài quân sự mới nổi của thế giới – sẽ giúp cho thế kỷ 21 có nhiều cơ hội tránh được các đại chiến so với thế kỷ 20. Tất nhiên, vùng biển mênh mông không ngăn được nhiều cuộc đại chiến diễn ra ở Đông Á vào thế kỷ 20. Chẳng hạn như chiến tranh Nga – Nhật, cuộc nội chiến kéo dài nửa thế kỷ ở Trung Quốc, các cuộc xâm chiếm của Nhật Hoàng, thế chiến thứ hai ở Thái Bình Dương, chiến tranh Triều Tiên, hay các cuộc chiến ở Lào, Campuchia và Việt Nam. Nhưng thời kỳ đấu tranh để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã lùi lại phía sau. Cái mà quân đội Đông Á đang hướng tới là lực lượng hải quân và không quân công nghệ cao theo hướng hướng ngoại, hơn là hướng nội công nghệ thấp. Vì sao Biển Đông là “ngòi nổ” tranh chấp? Kaplan đưa ra nhận định, Biển Đông nối liền Đông Nam Á với Tây Thái Bình Dương, có chức năng như tuyến đường biển trọng yếu của toàn cầu. Đây là trung tâm của vùng biển Á Âu, ngăn cách bởi các Eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Hơn một nửa lượng hàng hóa được chuyên chở bằng đường biển đi qua vùng biển này, và cũng chiếm tới 1/3 giao thông đường thủy của thế giới. Lượng dầu mỏ được chuyên chở từ Ấn Độ Dương qua Eo biển Malacca, đến Đông Á qua Biển Đông, được cho là nhiều gấp 6 lần lượng dầu được vận chuyển qua kênh đào Suez và 17 lần lượng dầu chuyển qua Kênh đào Panama. Trong khi đó, 2/3 nguồn cung cấp năng lượng của Hàn Quốc, gần 60% của Nhật Bản và Đài Loan, và khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua Biển Đông. Thêm nữa, Biển Đông còn chứa nguồn tài nguyên dồi dào, trong đó có nguồn dầu dự trữ lên tới 7 tỷ thùng và 900 nghìn tỷ m3 khí gas tự nhiên. Nhiều cuộc tranh chấp đã diễn ra ở Biển Đông không chỉ bởi vị thế và trữ lượng tài nguyên mà còn vì chủ quyền lãnh hải, trong đó có những tranh chấp liên quan đến Quần đảo Trường Sa. Trong đó, Bắc Kinh đòi chủ quyền “đường lưỡi bò” trải dài từ Đảo Hải Nam của Trung Quốc xuống gần Singapore và Malaysia. Điều này khiến cho 9 nước giáp Biển Đông gần như đã đứng về một phía để phản đối Trung Quốc. Thực tế, Biển Đông đang trở thành một căn cứ quân sự, nơi mà mỗi nước xây dựng và hiện đại hóa lực lượng hải quân của mình. Thậm chí, khi mà sự tranh chấp chủ quyền hai hòn đảo những thập niên gần đây hầu như không còn. Trung Quốc chiếm đóng bằng quân sự 8 đảo nhỏ trên biển Đông, Việt Nam 25 đảo, Philippin 8 đảo, Malaysia 5 đảo và Đài Loan 1 đảo. Căn nguyên Trung Quốc muốn lấn chiếm Ông Kaplan so sánh vị trí của Trung Quốc ở Biển Đông giống với vị trí của Mỹ ở vùng Biển Caribe hồi thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Khi đó, dù Mỹ nhận ra sự hiện diện và khẳng định chủ quyền của các thế lực Châu Âu ở Caribe, nhưng nước này vẫn tìm cách để thống trị vùng biển này. Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha vào năm 1898 và việc xây dựng kênh đào Panama từ năm 1904 - 1914 đã cho phép Mỹ kiểm soát hiệu quả Tây Bán cầu và qua đó gây ảnh hưởng tới cán cân lực lượng ở Đông Bán cầu. Ngày nay, Trung Quốc tự thấy mình đang ở vị thế tương tự trên Biển Đông, nơi Trung Quốc cũng muốn có sự hiện diện của hải quân để bảo vệ đường vận chuyển nhiên liệu từ Trung Đông. Nhưng dường như nguyên nhân sâu xa khiến Trung Quốc tiến sâu vào vùng Biển Đông và xa hơn nữa là Thái Bình Dương có lẽ là vì Trung Quốc đã từng bị các cường quốc phương Tây gồm Anh, Pháp, Nhật và Nga xâm chiếm lãnh thổ và chia rẽ đất nước sau một thiên niên kỷ từng ở vị trí siêu cường và một nền văn minh của thế giới. Sự hối hả bành trướng của Trung Quốc là một lời tuyên bố rằng họ không bao giờ muốn để cho người nước ngoài lợi dụng mình một lần nữa. Kaplan nhận định mặc dù không tuyên bố, nhưng Trung Quốc sẽ theo phương châm “Kẻ mạnh làm những gì họ đủ sức làm và kẻ yếu phải hứng chịu những gì họ phải hứng chịu”. Các nước bảo vệ tự do Không chỉ Trung Quốc vội vàng xây dựng lực lượng quân sự của mình, các nước Đông Nam Á cũng đang làm vậy. Ngân sách quốc phòng của các nước này đã tăng khoảng 1/3 trong thập kỷ qua, thậm chí khi các nước Châu Âu còn đang giảm chi tiêu quân sự. Nếu tính từ năm 2000, nhập khẩu vũ khí của Indonesia, Singapore, và Malaysia đã lần lượt tăng 84%, 146 %, và 722 %. Ngoài ra, Malaysia cũng mới mở căn cứ tàu ngầm ở đảo Borneo, thuộc Đông Nam A, trong khi Việt Nam gần đây mua 6 tàu ngầm lớp Kilo và chiến hạm của Nga. Ông Kaplan còn cho rằng, sự hiện diện của Mỹ vẫn giúp đảm bảo hiện trạng “không dễ dàng” ở Biển Đông và hạn chế sự hung hăng của Trung Quốc, cùng với đó là đóng vai trò giám sát ngoại giao và hải quân Trung Quốc. Sự cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ giúp Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Singapore, Indonesia và Malaysia “thoải mái hơn”, nhưng cũng có thể khiến hai siêu cường này xung đột với nhau. Kaplan cũng trích nghiên cứu của ông Hugh White, giáo sư nghiên cứu về chiến lược tại Đại học Quốc gia Australia, nói rằng sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và sự thống trị của Mỹ ở Châu Á lại có thể là nguồn gốc gây bất ổn khi hai siêu cường này có xung đột về lợi ích. Theo Kaplan, chính Mỹ chứ không phải Trung Quốc mới là vấn đề trong tương lai. Bởi lẽ thực chất, Mỹ tìm cách hạn chế quyền lực của nước này. Ông khuyến cáo Mỹ nên hướng vai trò của họ ở Châu Á tới sự cân bằng, thay vì thống trị; và bởi lẽ quyền lực cứng sẽ vẫn là chìa khóa cho các mối quan hệ quốc tế, do đó Mỹ cần xem xét việc áp dụng nó đối với Trung Quốc. Mỹ không cần tăng cường sức mạnh hải quân ở Tây Thái Bình Dương, nhưng cũng không thể giảm đáng kể sự hiện diện của lực lượng này ở đây. |
>> Hồ sơ các vụ Mỹ do thám Trung Quốc
Máy bay do thám U-2 được xếp vào hàng “lão làng” trong số các phương tiện do thám trên không vẫn được quân đội Mỹ sử dụng để do thám Trung Quốc.
Quân đội Mỹ mới đây tuyên bố rằng họ sẽ tiếp tục sử dụng máy bay do thám U-2 huyền thoại để tiến hành do thám trên không trên lãnh thổ Trung Quốc. Loại máy bay này "sẽ tiếp tục phục vụ cho lợi ích của nền dân chủ Mỹ, ít nhất là cho đến năm 2015," bất chấp việc có ý kiến cho rằng cần "đưa nó vào sổ lưu niệm." Được biết đến kể từ phi vụ do thám trên bầu trời Liên Xô lần đầu tiên vào năm 1956, máy bay do thám U-2 được xếp vào hàng “lão làng” trong số các phương tiện do thám trên không với tuổi thọ lên đến hàng chục năm. Nhưng tại sao loại máy bay gián điệp tương đối cũ kỹ, nhiều lần bị bắn hạ như vậy lại được chọn? Và tại sao người Mỹ chấp nhận thực hiện có hành động có mức độ rủi ro cao như vậy, trong khi họ có các vệ tinh gián điệp mới nhất có khả năng cung cấp hình ảnh chất lượng cao? ![]() Cuối tháng 7/2011, Trung Quốc cảnh báo Mỹ là các chuyến bay của máy bay Mỹ gần bờ biển Trung Quốc phá hoại lòng tin giữa 2 quốc gia. Những câu hỏi này đã được chuyên gia của Hội đồng Chính sách đối ngoại và quốc phòng Nga, Aleksander Mordovin, giải đáp trong một cuộc trả lời phỏng vấn trang Pravda. Cuộc trò chuyện với vị chuyên gia này đã kéo dài hơn dự kiện với rất nhiều thông tin lịch sử thú vị. Việc do thám của các máy bay Mỹ và Anh từ lâu đã luôn làm nhà trức trách Trung Quốc phải đau đầu. Việc tiến hành trinh sát trên không trên không phận Trung Quốc là một phần của thỏa thuận ký kết giữa Truman và Attlee để "chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản". "Chủ nghĩa cộng sản mang màu sắc Trung Quốc" được xây dựng bởi Mao Trạch Đông và đội ngũ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc gây nên sự quan ngại lớn đối với họ. Sự chú ý càng được tăng lên sau khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện chương trình hạt nhân của riêng mình. Và sự tiến bộ của nó đã khiến cho sự lo ngại của Mỹ mỗi năm một nhiều hơn. ![]() Chương trình hạt nhân của Trung Quốc khiến phương Tây phải tò mò. Các chuyến bay do thám trên lãnh thổ Trung Quốc được bắt đầu vào tháng 1/1951 sau thất bại của quân đội Tưởng Giới Thạch, đồng minh của Mỹ. Trong mọi trường hợp, người Mỹ luôn sẵn sàng bật đèn xanh cho những phi vụ bay do thám, quay phim các căn cứ quân sự của Trung Quốc do đồng minh thân cận Anh thực hiện mỗi tháng 4-5 lần. Về phần mình, London ngay từ đầu chấp nhận bỏ ra những khoản kinh phí trong trường hợp máy bay của họ hoặc của đồng minh bị đối phương tiêu diệt, với mong muốn chia sẻ gành nặng với Mỹ, khi mà Washington đang bận đối phó với tình hình căng thẳng không lối thoát trong mối quan hệ với Liên Xô. U-2 và những "người tiền nhiệm" Nhưng trước khi có U-2, người Mỹ chưa thể giải quyết được những thách thức mà họ phải đối mặt. Việc thu thập thông tin tình báo chủ yếu được thực hiện bởi những chiếc máy bay trinh sát-chống ngầm P2V Neptune của không quân Hải quân Mỹ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng chúng rất dễ bị bắn hạ không chỉ bởi máy bay tiêm kích mà còn cả với hệ thống phòng không của đối phương. Người Mỹ chỉ thừa nhận bị mất 4 trong số những chiếc máy bay này bởi hệ thống phòng không của Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, có bằng chứng mạnh mẽ rằng người Mỹ đã cố tình hạ thấp sự tổn thất những chiếc "Neptune" ít nhất 2 lần. Ba trong số đó bị bắn rơi ở vùng Viễn Đông vào những năm 1951-1955, sau đó chúng chủ yếu được sử dụng trong những hoạt động chống Trung Quốc. ![]() Chiếc P2V Neptune bị bắn rơi ở Liên Xô. Trong giai đoạn 1953-1964 người Mỹ đã bị mất 7 chiếc "Neptune". Ít nhất 2 trong số đó bị bắn hạ bởi lưới lửa phòng không. Với mục tiêu thiết lập được bản đồ về các địa điểm chiến lược quan trọng ở các nước như Liên Xô và Trung Quốc, Mỹ và Anh đã đạt được thỏa thuận đưa vào sử dụng loại trinh sát phản lực RB-45C mang lại hiệu quả cao hơn. Các chuyến bay chủ yếu được thực hiện vào ban đêm. Và để tránh bị đèn pha soi thấy loại máy bay này được sơn màu đen. Không một chiếc nào bị bắn hạ bởi hệ thống phòng không Liên Xô vào thời điểm đó vẫn còn nhiều hạn chế. Người ta cũng tính đến trường hợp RB-45C có thể bị rơi trên lãnh thổ của Trung Quốc hay Liên Xô, khi đó Mỹ sẽ tuyên bố rằng không có dấu hiệu nào cho thấy có sự liên quan của họ, còn người Anh sẽ nói rằng họ chưa bao giờ có những chiếc máy bay như vậy. Những chiếc máy bay gián điệp này đã được sử dụng chống lại Trung Quốc cho đến giữa năm 1953, sau đó, do sự xuất hiện của những hệ thống phòng không tiên tiến hơn, chúng được thay thế bằng những chiếc RB-47 hiện đại hơn. ![]() RB-45C, một trong những "người tiền nhiệm" của U-2 Một thời gian sau người Mỹ quyết định thực hiện nhiệm vụ trinh sát bằng những chiếc RB-57A/D, sau khi bị mất 2 chiếc RB-47 (một chiếc do MiG-17 tiêu diệt, một chiếc khác bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không SA-2). Tuy nhiên, khi Liên Xô đã nhiều lần thể hiện khả năng đối phó hiệu quả với các thách thức này, Mỹ đã mang đến cho cả Moscow và Bắc Kinh một bất ngờ mới - máy bay do thám tầm cao U-2. Thực tế thành phần các phi đội tham gia vào những điệp vụ trên không này không nằm trong thành phần lực lượng Không quân Mỹ, mà là nhân viên CIA. Trong gần 4 năm (kể từ mùa hè 1956) những cỗ máy này đã thực hiện các chuyến bay nằm ngoài tầm với của hệ thống phòng không Liên Xô, và có thể bay qua lãnh thổ Liên Xô và Trung Quốc một cách dễ dàng. Cho đến ngày 1/5/1960, Liên Xô "tặng" cho Mỹ một điều bất ngờ, chiếc U-2B Francis Gary Powers bị bắn hạ bởi tên lửa phòng không S-75. Sau khi sự kiện này, U-2 đã không dám bay qua lãnh thổ Liên Xô nữa, nhưng vẫn tiếp tục tiến hành trinh sát các địa điểm mà Mỹ cho rằng có lợi ích địa chính trị tối quan trọng, bao gồm cả Trung Quốc. Người Mỹ cho rằng Trung Quốc sẽ không có cách nào ngăn chặn chúng. Bởi vì lúc đó quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow đã xấu đi rõ rệt. Đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác quân sự-kỹ thuật. ![]() Tên lửa phòng không S-75, sát thủ của máy bay do thám U-2. Do đó, sự kiện chiếc U-2 đầu tiên bị bắn hạ trên bầu trời Trung Quốc vào tháng 9/1962 bằng tên lửa S-75, người Mỹ thực sự ngỡ ngàng. Tuy nhiên, họ vẫn quyết định tiếp tục thực hiện các chuyến bay do thám Trung Quốc. Trước hết, Mỹ đã quan tâm đến các cơ sở hạt nhân Trung Quốc nằm sâu ở bên trong đất liền, dẫu rằng thực hiện việc này sẽ khiến họ bị tổn thất nhiều U-2. Người Mỹ tất nhiên luôn muốn chọn những phương án an toàn nhất cho họ. Do đó, họ cũng quyết định chọn các phi công Đài Loan để thực hiện các nhiệm vụ này. Theo số liệu của Trung Quốc, quân đội nước này đã bắn rơi 9 chiếc U-2, trong khi người Mỹ chỉ thừa nhận mất 5 chiếc. Hạ bệ "người kế nhiệm" Khó khăn chính cho nhiệm vụ trinh sát được cho là do có sự xuất hiện của hệ thống tên lửa phòng không S-75. Để loại bỏ chúng, Mỹ đã thực hiện cùng lúc 2 phương án: Tạo ra các máy bay trinh sát tốc độ cao có khả năng tránh được các loại tên lửa đất - đối - không và không - đối - không một cách hiệu quả, và tạo ra các phương tiện bay không người lái. Sự thật là vào tháng 1/1966 Không quân Hoa Kỳ đã được trang bị loại máy bay gián điệp mới nhất SR-71, có thể đạt tốc độ lên tới 3.500 km/h. Đặc biệt, chúng đã được sử dụng một cách tích cực cho các chuyến bay do thám Trung Quốc. SR-71, với chi phí khổng lồ đáp ứng đầy đủ sự mong đợi của người Mỹ. Năm 1967 nó chụp ảnh thành công vụ thử nghiệm bom hạt nhân của Trung Quốc. Sự thành công của chiếc máy bay mới vào năm 1968 đã dẫn đến tạm ngừng hoạt động của U-2. Tuy nhiên, giờ đây đã có những thay đổi đáng kể. ![]() Dù "nghỉ hưu" nhưng SR-71 vẫn giữ danh hiệu máy bay nhanh nhất thế giới. Những thành công trong việc sử dụng UAV đã không được như mong đợi của giới chức quân sự Mỹ. Từ năm 1969 đến năm 1971, Mỹ đã cố gắng để sử dụng cho máy bay trinh sát không người lái D-21. Tuy nhiên, mọi nỗ lực đã không thu được kết quả nào đáng kể bởi vì những trục trặc trong việc truyền tải các thông tin thu thập được. Cũng trong khoảng thời gian cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, trên bầu trời Trung Quốc xuất hiện loại máy bay trinh sát tầm xa UAV Compass Arrow (Firefly mẫu 154) được thiết kế đặc biệt cho nhiệm vụ trinh sát từ xa Trung tâm thử nghiệm hạt nhân tại Lop Nor của Trung Quốc. Thế nhưng, vào tháng 7/1971, Mỹ đã bắt tay với Trung Quốc chống lại "mối đe dọa Liên Xô". Gần 20 năm sau người Mỹ lại cố gắng để không làm căng thẳng quan hệ với Trung Quốc bằng những chuyến bay như vậy. Tất nhiên, họ không dừng chúng hoàn toàn, nhưng đã hành động rất thận trọng, cố gắng không vi phạm vùng trời của Trung Quốc. Tuy nhiên, tình hình hiện nay đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ, các mối đe dọa Liên Xô đã không còn nữa, trong khi đó các lo ngại đến từ Trung Quốc đang ngày càng gia tăng đối với nước Mỹ, do vậy người ta đã quyết định nối lại các chuyến bay trước đó. Sau sự việc chiếc máy bay do thám EP-3E phải hạ cánh bắt buộc ngày 1/4/2001 người Mỹ đã tránh thực hiện những chuyến bay như vậy trên vùng trời Trung Quốc. Điều thú vị nhất đó là sự việc này lại làm cho chính người Mỹ phải “điên đầu” bởi vì phía Trung Quốc đã cố tình trì hoãn việc trao trả chiếc máy bay do thám này cũng như phi hành đoàn. Theo các chuyên gia Mỹ, người Trung Quốc đã cố tình lợi dụng thời gian này để sao chép các chi tiết của chiếc EP-3E. ![]() Vụ trinh sát cơ EP-3E bị bắt hạ cánh trên đảo Hải Nam là vụ do thám gây ầm ĩ nhất trong quan hệ Trung - Mỹ. Trong ảnh, phần mũi của EP-3E đã bị tháo tung, cho thấy Trung Quốc đã "mổ xẻ" máy bay này nhân cơ hội "tóm" được nó. Chuyến bay đầu tiên sau sự kiện này được thực hiện bởi máy bay do thám RC-135 từ căn cứ Kadena ở Okinawa, trong đó tiêm kích đánh chặn Trung Quốc đã thất bại. Chiếc RC-135V/W có khả năng thực hiện trinh sát tất cả các hệ thống phòng không của đối phương (bao gồm cả máy bay tiêm kích-đánh chặn và tên lửa phòng không) và mạng lưới thông tin hàng không cũng như các phương tiện trinh sát điện tử. Một biến thể khác là RC-135S "Cobra Ball" được thiết kế đặc biệt để tiến hành do thám các cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo. Tuy nhiên, để giám sát Trung Quốc mà chỉ sử dụng loại máy bay này là không đủ, và người Mỹ đã trở về với U-2. Rõ ràng, một trong những lý do để "tái sinh" chúng trên bầu trời Trung Quốc là hàng loạt các chuyến bay gần đây của nó, cho phép theo dõi các bí mật của Bắc Kinh tại các khu vực thử nghiệm nằm sâu trong lãnh thổ. Tại sao U-2 vẫn được sử dụng? Trả lời câu hỏi này, ông Aleksander Mordovin cho biết: "Quân đội Mỹ tất nhiên có lý do để duy trì sự phục vụ của chúng (máy bay do thám U-2). Dựa trên các đặc điểm vốn có, U-2 không thua kém bất kỳ loại máy bay do thám hiện đại nào, ngoại trừ SR-71". Tuy nhiên, xuất hiện sau U-2 gần một thập kỷ nhưng SR-71 đã bị ngưng hoạt động từ 13 năm trước. "Người Mỹ rõ ràng biết rõ hơn ai hết về vấn đề này. Chi phí cho hoạt động của SR-71 là cực kỳ tốn kém, trong khi U-2 lại vượt trội hơn hẳn nếu so sánh giữa "giá cả và chất lượng", ông Mordovin nói. Giờ đây không chỉ Nga mà Trung Quốc cũng đã có được khá đầy đủ các phương tiện để đối phó hiệu quả với các loại máy bay như SR-71. Vì vậy, việc duy trì những loại máy bay tốn kém như vậy trở nên không cần thiết. Đề cập tới lý do tại sao Mỹ mạo hiểm chạm trán với Trung Quốc như vậy, trong khi họ có trong tay hàng tá vệ tinh gián điệp tiện dụng? Chuyên gia Aleksander Mordovin cho rằng, rõ ràng, trong lãnh thổ Trung Quốc có vị trí mà Mỹ quan tâm, nơi đó rất khó để quan sát từ không gian, và điều này đòi hỏi phải được chụp từ máy bay. Trong khi, như chúng ta đã biết, các vệ tinh luôn di chuyển theo một quỹ đạo và vào một thời điểm xác định và lại ở vị trí quá xa. |
Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011
>> Tìm hiểu hệ thống tên lửa "Gấu xám" của Pháp
Tổ hợp tên lửa phòng không thế hệ mới Crotale-NG do công ty “Thomson-CSF/Matra” của Pháp sản xuất, là hệ thống phòng không tầm gần với nhiệm vụ chính là yểm trợ các đơn vị xe tăng tấn công, bảo vệ các mục tiêu trọng yếu và lãnh thổ trước các đòn tấn công từ trên không của đối phương (máy bay tiêm kích ném bom, trực thăng chiến đấu, tên lửa đạn đạo và chiến thuật…)
![]() Crotale-NG được trình làng trong Triển lãm vũ khí Crotale-NG bắt đầu được sản xuất hàng loạt vào những năm 1990. Hiện nay, tổ hợp này được đưa vào trang bị cho lực lượng vũ trang của nhiều nước trên thế giới và cho thấy nhiều ưu điểm khá nổi bật. Tổ hợp tên lửa phòng không Crotale-NG có khả năng theo dõi tình hình trên không, đánh giá mức độ nguy cơ, phát hiện mục tiêu ở cự ly lớn, đồng nhất các mục tiêu trên không nhằm phân định rõ mục tiêu nào của địch của ta, theo dõi đồng thời một số mục tiêu để tiến hành khai hỏa trong bất cứ điều kiện thời tiết ban ngày cũng như ban đêm. ![]() Tổ hợp này được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm Mặc dù, Crotale-NG là hệ thống mới nhất, nhưng nó vẫn kế thừa những ưu điểm của hàng loạt các tổ hợp thuộc dòng Crotale. Tháp xoay điện tử có trọng lượng gần 4.800 kg, gồm trạm radar quan sát trang bị máy hỏi nhận biết quốc gia, trạm radar theo dõi, thiết bị quang học (gồm camera hồng ngoại làm việc 24/24h),thiết bị do xa hồng ngoại, camera quan sát ban ngày, 8 tên lửa sẵn sàng chiến đấu (bố trí trong 2 giàn, mỗi giàn 4 quả). Tổ hợp có thể bố trí trên các loại xe bánh xích hoặc bánh hơi như khung xe tăng АМХ-30В , BTR М113 , KIFV, Bradley… ![]() Ngoài Pháp, hiện nay Phần Lan đang sở hữu 20 tổ hợp Crotale-NG Crotale-NG được trang bị các hệ thống phức hợp, gồm các thiết bị quang điện tử thụ động, radar với hệ thống chế áp điện tử có khả năng bảo vệ trong điều kiện đối phương sử dụng các phương tiện tác chiến điện tử chủ động, vũ khí giết người hàng loạt và tạo khói. Các thành phần chính của hệ thống này gồm trạm radar quan sát xung hiệu ứng dople, được trang bị hệ thống nhận biết “địch - ta” có cự ly hoạt động 20.000m, ở dải độ cao từ 0 đến 5.000m;camera nhiệt với trường quan sát lưỡng dụng và hệ thống tăng điện tử, bảo đảm dải quan sát theo góc phương vị 8,1 hoặc 2,7° và theo góc ngẩng 5,4° hoặc 1.8°, cự ly hoạt động đến 19.000m; camera truyền hình ban ngày có trường quan sát theo góc phương vị 2,4° và góc ngẩng 1,8°, cự ly hoạt động đến 1.500m; thiết bị định vị hồng ngoại được lắp đặt dưới camera truyền hình để theo dõi tên lửa... ![]() Có khả năng phát hiện mục tiêu bay siêu tốc Tất cả các thao tác phát hiện và theo dõi mục tiêu được tự động hóa hoàn toàn để tối thiểu hóa thời gian phản ứng. Từ thời điểm phát hiện mục tiêu đến khi phóng tên lửa mất khoảng 6s. Trên cơ sở các dữ liệu nhận từ tất cả các bộ cảm biến sau khi phóng, hệ điều hành của máy tính trên khoang lựa chọn bộ cảm biến thích ứng để theo dõi tên lửa. Trắc thủ có khả năng lựa chọn các bộ cảm biến khác sau khi dự đoán quyết định của máy tính trên khoang. Trong hệ thống dẫn hướng theo trục quan sát sử dụng trạm radar và các bộ cảm biến quang điện tử. Hệ thống dẫn hướng có khả năng bảo vệ trước sự tấn công của các phương tiện chế áp vô tuyến điện. ![]() Khai hỏa ở nhiều góc độ khác nhau Tổ hợp Crotale-NG sử dụng tên lửa siêu tốc VT-1 do công ty “LTV” (Mỹ) phối hợp với công ty “Thomson-CSF” (Pháp) sản xuất cho quân đội Mỹ theo chương trình “Faad”. Tên lửa VT-1 là loại tên lửa phòng không có điều khiển, có khả năng tăng tốc đến Mach 3,5. Cự ly hoạt động hiệu quả của tên lửa 11.000m ở trần bay 6.000m. Tên lửa được trang bị hệ thống nổ hướng và đầu đạn mảnh. Việc kích nổ đầu đạn được tiến hành với sự hỗ trợ của đầu nổ vô tuyến phi tiếp xúc. Khi nổ, đầu đạn có bán kính sát thương 8m. Thông thường, thời gian đánh chặn từ thời điểm phóng tên lửa đến khi tiêu diệt mục tiêu trên không ở cự ly 8.000m mất khoảng 10,3s. Hệ thống bảo dưỡng kỹ thuật – vật chất tổng hợp bảo đảm nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chu kỳ sống còn cho tổ hợp tên lửa phòng không Crotale-NG. Điểm khác biệt của nó so với hệ thống khác là có hệ thống tự thử nghiệm, chương trình bảo dưỡng kỹ thuật,chương trình huấn luện kíp chiến đấu và giảm đến mức tối thiểu các yêu cầu về phụ tùng. ![]() Trung tâm điều khiển Khả năng trao đổi các dữ liệu bảo đảm tích hợp tổ hợp tên lửa phòng không Crotale-NG vào hệ thống phòng thủ chung. Một trung đội được trang bị 4 tổ hợp tên lửa phòng không Crotale-NG có thể tự điều phối các hoạt động của mình và tự động trao đổi các dữ liệu. Phụ thuộc vào mức độ đánh giá nguy cơ và khả năng phối hợp giữa các tổ hợp để tấn công các mục tiêu trên không mà lựa chọn vị trí bố trí sao cho phù hợp. Tổ hợp tên lửa Crotale-NG có thể được lắp đặt trên các loại xe bọc thép hạng nhẹ bánh hơi hoặc bánh xích khác nhau. Các đặc tính kỹ - chiến thuật của Crotale-NG: Cự ly bắn: 500-10000m Độ cao tiêu diệt: đến 6.000m Số lượng tên lửa trong ống phóng: 8 quả Thời gian phản ứng: 5s Vận tốc bay tối đa của tên lửa: 3,5m/s Thời gian bay ở cự ly 8.000m: 10s Dài: 2.290mm Đường kính thấn: 165mm Trọng lượng tên lửa: 73kg Loại đầu đạn: mảnh, hoạt động theo hướng Trọng lượng đầu đạn: 14kg Hệ thống dẫn hướng tên lửa: theo mệnh lệnh vô tuyến hoặc định vị quang học |
>> Hàn Quốc thiết kế tên lửa chống hạm dựa vào Yakhont
Hàn Quốc đang tích cực làm việc để tạo ra loại tên lửa hành trình chống tàu siêu âm (ASM) của riêng mình, dựa trên thiết kế tên lửa chống hạm Yakhont của Nga.
![]() Nguyên tắc hoạt động của tên lửa chống ngầm "Hongsangeo". Photo: Lenta Các chuyên gia quân sự Hàn Quốc đang tích cực làm việc để tạo ra loại tên lửa hành trình chống hạm siêu âm (ASM) của riêng mình, với khả năng tiêu diệt các tàu sân bay, tàu khu trục và tàu lớn khác. Seoul không che giấu một thực tế là tên lửa chống hạm của họ được phát triển dựa theo mô hình tên lửa Yakhont của Nga. Thông tin này được tờ Chosun Ilbo tiết lộ, với bình luận thêm rằng loại vũ khí này sẽ là một câu trả lời đích đáng trước những sức mạnh hải quân ngày càng tăng của các nước trong khu vực. "Công việc tạo ra một loại tên lửa chống hạm siêu âm đã được chúng tôi tiến hành trong nhiều năm nay. Dự kiến phiên bản hoàn chỉnh sẽ xuất hiện trong 3 hoặc 4 năm nữa." - một nguồn trong chính phủ Hàn Quốc tiết lộ với tờ báo "Chosun Ilbo". Người xác nhận thông tin rằng loại tên lửa mà Hàn Quốc đang nghiên cứu được dựa trên nguyên mẫu của tên lửa chống hạm Yakhont của Nga. Loại tên lửa này sẽ có chiều dài 9m, nặng 3 tấn và có tốc độ Mach 2,5, tầm hoạt động từ 250-300 km. Hải quân của Hàn Quốc đang được trang bị tên lửa chống hạm "Heson" và "Harpoon" của Mỹ. Tuy nhiên, những tên lửa này dễ bị phát hiện và có thể bị đánh chặn. So với chúng, phiên bản tương tự của Nga được đánh giá là hoàn thiện hơn và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với tàu sân bay Mỹ. Tờ báo này gián tiếp ám chỉ rằng tên lửa chống hạm siêu âm của Hàn Quốc sẽ là sự đáp trả hiệu quả trước/với sự xuất hiện của tàu sân bay của các quốc gia lân cận. "Chúng tôi đang tạo ra loại tên lửa chống hạm của riêng mình, không chỉ nhằm để tự vệ trước Triều Tiên mà là để có thể đáp trả lại những nỗ lực tăng cường lực lượng hải quân của các nước lớn xung quanh", Chosun Ilbo trích dẫn lời phát biểu của một sĩ quan Hàn Quốc. Trước đó, một nguồn tin cho biết vào cuối tháng 8/2011, Hải quân của Hàn Quốc sẽ được trang bị một loại vũ khí mới - tên lửa chống tàu ngầm hiện đại "Hongsangeo" (Cá mập đỏ). Tên lửa này đã chứng minh được hiệu quả cao của nó, và còn được biết đến với tên gọi không chính thức: "Sát thủ diệt tàu ngầm." Tờ Chosun Ilbo nhấn mạnh rằng quyết định trang bị "cá mập đỏ" có thể được coi là câu trả lời của Seoul trước sự việc gần đây Hải quân Trung Quốc tiến hành thử nghiệm tàu sân bay đầu tiên của mình. |
>> Báo Trung Quốc: Việt Nam có thể mua tên lửa Brahmos
Tàu ngầm, tên lửa của các nước xung quanh Biển Đông đều có khả năng răn đe hiệu quả đối với tàu sân bay Trung Quốc.
![]() Tên lửa chống hạm nhanh nhất trên thế giới Brahmos do Nga-Ấn hợp tác chế tạo. Công việc phát triển tên lửa hành trình siêu âm Brahmos được bắt đầu từ giữa năm 1999, nền tảng của nó chính là hệ thống tên lửa P-800 Onyx do Liên Xô cũ chế tạo. Tên lửa Brahmos được phóng thử thành công lần đầu tiên vào ngày 12/6/2001 tại bang Orissa, Ấn Độ. Ngày 17/8, tờ "Asia Times Online" Hồng Kông đăng bài bình luận của chuyên gia chiến lược hải quân Australia, Phil Radford cho biết, tuần trước tàu sân bay Trung Quốc bắt đầu chạy thử, đây là tàu chiến lớn nhất châu Á hiện nay, sẽ làm cho Trung Quốc có khả năng thay đổi tình hình trên một số lĩnh vực. Nhưng, tàu sân bay này hoàn toàn không thể giúp Trung Quốc bảo vệ chủ quyền đối với Biển Đông (đây là vấn đề biển đau đầu nhất của Trung Quốc); tàu sân bay này sẽ nghiêng về dùng cho mục đích ngoại giao, chứ không phải là vũ khí quân sự. Báo Hồng Kông cho biết, ngoài tàu sân bay Chakri Naruebet của Thái Lan, các nước trong khu vực còn chưa có tàu chiến để máy bay chiến đấu cất/hạ cánh. Nhưng, tàu sân bay của Thái Lan cũng chỉ bằng 1/5 tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc. Một khi con tàu này hoàn thiện, nó có thể mang theo 40 máy bay J-15 Flying Shark và 20 máy bay trực thăng (bao gồm máy bay trực thăng săn tàu ngầm Ka-28). Trên mặt biển, khả năng này đủ để thay đổi cân bằng sức mạnh các nước ở Biển Đông. Trung Quốc luôn tuyên bố có chủ quyền lãnh thổ biển trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), nhưng các nước láng giềng đều hiểu rằng vùng biển xung quanh các hòn đảo này đều chứa nguồn tài nguyên dầu khí phong phú, cho nên luôn thiết lập các cơ sở nghiên cứu ở đó. ![]() Phương án tác chiến của tên lửa chống hạm Brahmos gần giống tên lửa phòng thử Bastion. Báo Hồng Kông viết, nếu Trung Quốc triển khai tàu sân bay ở Tam Á, Hải Nam, nó sẽ có ưu thế trên không cục bộ ở bất cứ địa điểm tranh chấp nào trên Biển Đông. Đây có thể là điều kiện tiên quyết để có hành động ngoại giao và quân sự mạnh trong giải quyết vấn đề Biển Đông, nhằm bảo vệ chủ trương chủ quyền của Trung Quốc; đồng thời ép đối thủ từ bỏ các hoạt động thương mại trên Biển Đông và các hoạt động xây dựng cơ sở trên các hòn đảo. Những khả năng này còn có thể giúp Trung Quốc có thể làm giảm đi sức mạnh các nước khác tại khu vực tranh chấp trên Biển Đông. Trung tuần tháng 6/2011, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ trích (hoàn toàn ngang ngược, vô lý, vô căn cứ) tàu khai thác của Việt Nam tiến hành hoạt động khảo sát dầu khí “trái phép” ở vùng biển quần đảo Trường Sa và “quấy nhiễu” tàu cá Trung Quốc. Điều này đã “gây tổn hại nghiêm trọng đến chủ quyền và quyền lợi trên biển của Trung Quốc”. Báo Hồng Kông cho rằng, rõ ràng là tàu sân bay mới của Trung Quốc sẽ thực hiện chức năng chiến lược nhất định. Cách đây không lâu, khi tàu sân bay chạy thử, Tân Hoa xã đã bình luận: “Xây dựng hải quân viễn dương tương xứng với vị thế nước lớn của Trung Quốc là việc làm cần thiết, cũng là sự lựa chọn tất yếu để bảo vệ lợi ích quốc gia không ngừng tăng lên trên toàn cầu”. Nhưng, cho dù tàu sân bay này có khả năng chiến đấu, tàu sân bay và lực lượng máy bay của nó cũng sẽ rất yếu; Trung Quốc sẽ không thể mạo hiểm chống lại các đối thủ trên Biển Đông. Hơn nữa, nếu không có máy phóng hoặc dây cáp chắn, tàu sân bay này sẽ không thể đảm bảo cất/hạ cánh cho máy bay cảnh báo sớm trên không. Điều này có nghĩa là khả năng do thám khu vực của tàu sân bay bị hạn chế, không thể phát hiện hoặc ứng phó với mối đe dọa ngoài tầm của radar. Đồng thời, bảo đảm hậu cần không đủ cũng sẽ hạn chế thời gian hoạt động của tàu sân bay trên biển: Quân đội Trung Quốc chỉ có 5 tàu tiếp tế trên biển, hơn nữa chưa có tàu nào trên 22.000 tấn (thực ra tàu tiếp tế Thanh Hải Hồ có trọng tải gần 40.000 tấn). ![]() Malaysia đã sở hữu 2 tàu ngầm Squid do Pháp thiết kế. Nhưng, vấn đề lớn nhất ở chỗ nó không được bảo vệ đầy đủ. Trung Quốc có 2 tàu khu trục 052C, chúng được trang bị radar mảng chủ động, có thể bám theo nhiều tên lửa và máy bay. Hiện nay, còn có 4 chiếc khác đang chế tạo. Nhưng, đem kết hợp radar này với tên lửa HHQ-9 nội địa để ngăn chặn tên lửa siêu âm lướt biển tấn công là một thách thức rất lớn. Ngoài ra, tàu sân bay này cũng không thể dựa vào sự hộ tống dưới nước; không có hệ thống thông tin vô tuyến điện tần số thấp, tàu ngầm tuần tra tầm xa của Trung Quốc chỉ có thể tiến hành các hoạt động chiến thuật khi hộ tống biên đội tàu sân bay. Báo Hồng Kông cho biết, cho dù không có những khiếm khuyết này, các nước láng giềng phía nam của Trung Quốc cũng có thể phát triển khả năng đáp trả đầy đủ trên Biển Đông, làm cho Trung Quốc không dám để tàu sân bay hoạt động trên Biển Đông. (Xem thêm: Nguy cơ xảy ra xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc trong tương lai) Trong khi đó, một bài viết được đăng tải trên hãng tin Tân Hoa xã của Trung Quốc ngày 19/8/2011 với các nội dung mang thể hiện rõ suy đoán thiếu căn cứ, thiếu thiện chí và đầy tính kích động như sau: “Đầu tháng 6, báo “Nhân Dân” của Việt Nam đã có bài viết kèm hình ảnh tên lửa chống hạm nhanh nhất trên thế giới, tên lửa Brahmos. Rõ ràng, Việt Nam muốn cho biết ý đồ mua tên lửa này và báo hiệu hải quân Việt Nam đã làm tốt công tác chuẩn bị để ứng phó khi Trung Quốc xâm phạm vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (Xem thêm: Không quân Mỹ sẽ thay thế toàn bộ máy bay do thám U-2 trước 2015) ![]() Tên lửa chống hạm Hùng Phong III của Đài Loan. Tên lửa chống hạm Brahmos có tốc độ 2,8 Mach, gấp 4 lần tên lửa Tomahawk của Mỹ, sẽ tạo ra mối đe dọa chí tử cho bất cứ tàu chiến nào ở trong phạm vi 300 km. Mua tên lửa Brahmos cần có sự đồng ý chung của Ấn Độ và Nga, trong khi đó Việt Nam đang nhanh chóng cải thiện quan hệ với hai nước này. Cuối tháng 6, Tư lệnh Hải quân Việt Nam đã tiến hành chuyến thăm hợp tác đến New Delhi; trong thời gian chuyến thăm, Trung tướng Nguyễn Chí Dũng của Việt Nam tuyên bố, cảng Cam Ranh sẽ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và hậu cần cho tàu chiến nước ngoài. Để Trung Quốc hiểu ý đồ này, ngày 14/8/2011 khi tàu sân bay USS George Washington Mỹ đi qua Biển Đông, các quan chức chính phủ Việt Nam đã tham quan con tàu này. Hơn nữa, Việt Nam còn tăng cường mua vũ khí của Nga. Nga thừa nhận, Việt Nam đã ký hợp đồng mua 6 tàu ngầm động cơ diesel 636 lớp Kilo. Được biết, tàu ngầm đặt mua sẽ chính thức bàn giao vào năm 2014. Loại tàu ngầm có lượng choán nước 2.300 tấn này thích hợp với vùng nước nông, có thể hoạt động rất tĩnh lặng; chúng không cần rời cảng vẫn có thể tạo sự răn đe to lớn đối với Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không dám điều tàu sân bay khi xảy ra đối đầu trên Biển Đông. Báo Hồng Kông cho rằng, ngoài ra Malaysia đã có khả năng tàu ngầm tốt, gần đây đã biên chế 2 tàu ngầm Squid do Pháp thiết kế; Indonesia và Philippinese có thể cũng sẽ nhanh chóng phát triển khả năng răn đe to lớn và và triển khai tên lửa chống hạm ở các căn cứ quân sự quan trọng; Indonesia đã bàn thảo với Ấn Độ các thủ tục liên quan mua tên lửa Brahmos; Philippinese có thể mua tên lửa của Mỹ hoặc đàm phán mua tên lửa chống hạm Hùng Phong III của Đài Loan. Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc rất được hoan nghênh, nó đã trở thành biểu tượng vị thế cường quốc. Nhưng Biển Đông sẽ trở thành nơi nguy hiểm nhất của tàu sân bay Trung Quốc. ” Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore hôm 5/6, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam cho biết: 6 tàu ngầm lớp Kilo chạy năng lượng diesel mà Việt Nam đặt mua từ Nga sẽ chỉ được dùng cho mục đích tự vệ. "Chúng tôi coi đây là một hoạt động bình thường của Quân đội nhân dân Việt Nam" - Đại tướng Phùng Quang Thanh nói. "Đó là để bảo vệ và tham gia xây dựng đất nước. Chính sách của Việt Nam là hoàn toàn để tự vệ và chúng tôi sẽ không bao giờ làm tổn hại tới chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Nhưng sẽ phải ngăn chặn bất kỳ ai cố gắng vi phạm chủ quyền của Việt Nam" - Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh. - TTXVN |
>> Lưới phòng thủ tên lửa của Nga trong tương lai
Nga luôn là một cường quốc trong lĩnh vực chế tạo các hệ thống tên lửa phòng thủ hiện đại và mạnh mẽ bậc nhất trên thế giới.
Hệ thống phòng thủ tầm ngắn Morfey Trong tương lai không xa, Nga sẽ sở hữu một hệ thống phòng thủ tên lửa mới hiện đại và tiên tiến bậc nhất trên thế giới với 4 hệ thống tên lửa phân chia theo cự ly tác chiến như sau: Hệ thống Morfey, Vityaz, S-400, S-500 và sau S-500. ![]() Morfey với tầm bắn siêu ngắn 5 km. Theo cách gọi chính xác, Morfey là hệ thống phòng không di động tầm cực ngắn được phát triển từ năm 2007. Morfey sẽ được đưa vào hoạt động vào năm 2013. Theo các chuyên gia, việc triển khai các hệ thống Morfey sẽ diễn ra trôi chảy khi nguồn vốn đã được thông qua. Với tầm hoạt động hiệu quả trong khoảng 5km, Morfey được trang bị radar dạng antenna hình vòm có khả năng dò và bám theo mục tiêu trên góc mở 360 độ. “Nếu thiết kế không bị thay đổi, Morfey sẽ là một hệ thống phòng thủ “độc nhất vô nhị”, ông Ashurbeili – lãnh đạo Ủy ban phòng thủ không gian của Nga cho biết. Hệ thống phòng thủ tầm trung Vityaz ![]() Hệ thống Vityaz với cấu hình 10 ống phóng. Các ống phóng có thể chứa một tên lửa 9M96 hay bốn tên lửa 9M100. Ảnh mô hình Vityaz có khả năng vượt trội với 16 tên lửa cùng radar mới. “Vityaz “nên” được triển khai vào năm 2013 và 2014. Tuy nhiên, quá trình này sẽ gặp nhiều khó khăn vì thiếu vốn”, ông Ashurbeili cho biết. Hệ thống phòng thủ tầm xa S-400 ![]() Hệ thống S-400 là lá chắn phòng thủ mạnh nhất hiện nay của Nga. S-400 chính là chiếc lá chắn vững chắc mà quân đội Nga vẫn đang tin tưởng sử dụng. Chỉ tính riêng lực lượng phòng thủ cho thủ đô Moscow đã sở hữu tới 2 trung đoàn S-400. Hệ thống S-400 có tầm xa khoảng 400km và độ cao lên tới 40-50km. Tùy theo mục tiêu mà S-400 có nhiều cách thiết lập đa dạng để hạ được cả các tên lửa đạn đạo, tên lửa phóng từ tàu ngầm cùng các chiến đấu cơ. Hệ thống phòng thủ tên lửa chiến lược S-500 Khác với những hệ thống kể trên, S-500 được trang bị những tên lửa đánh chặn kích thước và trọng lượng rất lớn. Do vậy, hệ thống này phải sử dụng các tên lửa phụ để đẩy các đầu đạn. Kích thước đồng nghĩa với sức mạnh, S-500 được coi là một trong những hệ thống tên lửa phòng thủ mạnh nhất hiện nay với khả năng bắn hạ các tên lửa đạn đạo có tầm bắn 3.500km hoặc tiêu diệt đồng thời 10 tên lửa một lúc trong vòng bán kính 600km. Nhưng chi phí lớn khiến cho việc trển khai S-500 gặp nhiều khó khăn. Theo các thông tin mới nhất, hệ thống S-500 sẽ được triển khai để bảo vệ Moscow vào sau năm 2015. Sau S-500 sẽ là…? Trong tương lai, sơ đồ bố trí tên lửa phòng thủ của Nga sẽ nằm trên bầu trời. ![]() Tương lai của hệ thống tên lửa phòng thủ của Nga sẽ ở…trên trời. Các kỹ sư quân sự Nga đã bắt tay vào dự án thiết kế tên lửa phòng thủ di động đặt trên máy bay. Đây sẽ là một bước đột phá công nghệ lớn vì từ trước tới nay, những hệ thống phòng thủ tên lửa kềnh càng chỉ được đặt trên các bệ phóng di động trên mặt đất hoặc trên tàu chiến. “Sau S-500, các tên lửa phòng thủ của Nga sẽ không được đặt trên bộ hoặc trên biển. Và chúng tôi sẽ đặt tên lửa trên các máy bay, hệ thống này sẽ làm nhiệm vụ kiểm soát chiến trường, dò tìm mục tiêu và trực tiếp tấn công chúng”, ông Ashurbeili cho biết. Hệ thống liên hợp giữa Morfey, Vityaz, S-400, S-500 cung cấp cho quân đội Nga khả năng phòng thủ chống tên lửa hoàn thiện với tầm bảo vệ từ 5 tới 400km và độ cao từ 5m cho tới tận không gian. Đây cũng là cơ sở chủ đạo của tấm lá chắn bảo vệ lãnh thổ Nga trong vòng từ 20-25 năm tới. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)