Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

>> Top 10 tàu ngầm thế kỷ 20



Được dùng để tìm diệt kẻ thù dưới đáy biển hay chuyên chở tên lửa hạt nhân, tàu ngầm luôn đóng vai trò quan trọng trong lực lượng quân sự của các cường quốc suốt thể kỷ 20.

1. Tàu ngầm U loại VII



Tàu ngầm U loại VII được mệnh danh là "dã thú" dưới nước.

Là lớp tàu ngầm nổi tiếng nhất trong lịch sử, được mệnh danh là “dã thú” dưới nước, tàu ngầm U loại VII con át chủ bài của lực lượng tàu ngầm Đức trong chiến tranh Thế giới thứ II. Tàu có lượng giãn nước 900 tấn, trang bị 5 ống phóng ngư lôi và có kích thước nhỏ hơn các tàu khác trong hạm đội Mỹ nhưng nó luôn giành ưu thế trong các cuộc đụng độ ở Đại Tây Dương trong thế chiến II. Tuy nhiên, tổn thất của loại tàu này không phải là nhỏ, trong số 1.100 tàu được sản xuất thì có hơn 800 tàu đã bị hư hỏng, hơn 75% thủy thủ tử vong.

2. Tàu ngầm lớp Seawolf

Seawolf là tàu ngầm đắt nhất trong lịch sử.

Tàu ngầm lớp Seawolf (sói biển) có giá 4 tỷ USD thuộc loại tàu ngầm đắt nhất trong lịch sử. Chúng được thiết kế để trở thành chiến binh bất khả chiến bại trên đại dương. Loại tàu này có nhiệm vụ săn đuổi và phá hủy các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô. Tuy nhiên, vì chi phí sản xuất quá cao nên Seawolf đã bị đình chỉ sản xuất sau khi xuất xưởng được... ba chiếc tàu. Một trong số đó là tàu USS Jimmy Carter, sau này được chuyển thành tàu ngầm do thám.

3.Tàu ngầm lớp Gato

Tàu ngầm lớp Gato là "cơn ác mộng" của Nhật Bản.

Các tàu ngầm Mỹ lớp Gato là “cơn ác mộng” của các tàu Nhật trong chiến tranh Thế giới thứ II. Nhanh nhẹn, được trang bị vũ khí tốt, hiện đại, loại tàu ngầm này được sử dụng triệt để trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Gato có lượng giãn nước 1.500 tấn, trang bị 6 ống phóng ngư lôi phía trước và bốn ống phóng ngư lôi phía đuôi tàu. Chúng có thể chạy trên mặt nước 20 hải lý và chạy ngầm 9 hải lý một giờ.

4. Tàu ngầm lớp T

Tàu ngầm lớp T có thể mang tới 10 ống phóng ngư lôi.

Được biết đến với tên gọi tàu ngầm lớp Triton, loại tàu này là xương sống của lực lượng hải quân Anh trong suốt chiến tranh Thế giới thứ II. Có lượng giãn nước 1.500 tấn, tàu ngầm lớp T mang được 10 ống phóng ngư lôi. Tuy nhiên, chúng đều được trang bị ở phía trước, chứ không giống các tàu ngầm khác phóng ngư lôi ở cả phía trước và phía đuôi tàu.

5. Tàu ngầm USS Nautilus

Nautilus là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới.

USS Nautilus là tàu ngầm năng lượng hạt nhân đầu tiên của thế giới có thể hoạt động lâu dưới nước. Trước đó, các loại tàu ngầm đều chạy bằng động cơ diesel nên khi chạy dưới chúng phải sử dụng năng lượng dự trữ rất hạn chế. Năm 1955, trong chuyến “công du” đầu tiên, Nautilus đã đi quãng đường 1.100 hải lý, đoạn đường dài nhất trong lịch sử tàu ngầm thời đó.

6. Tàu ngầm X-Craft

Tàu ngầm X-Craft được coi là "em út" về kích cỡ trong gia đình tàu ngầm.

Tàu ngầm X-craft của Hải quân Anh được sử dụng vào các nhiệm vụ tấn công đặc biệt tại các khu vực hải cảng Nauy, nhờ kích thước khiêm tốn của mình. Vào năm 1943, loại tàu ngầm nhỏ bé có trọng lượng 27 tấn này được các tàu lớn hơn kéo tới gần cảng , sau khi được tàu mẹ thả ra nó đã áp sát mục tiêu đặt thuốc nổ làm hư hỏng nặng ba chiếc Tirpitz của hải quân Đức rồi nhẹ nhàng quay trở về tàu mẹ.

7. Tàu ngầm lớp Sentoku

Tàu ngầm lớp Sentoku vừa là tàu ngầm vừa là tàu sân bay

Việc thiết kế một phương tiện chiến tranh vừa là tàu ngầm vừa là tàu sân bay được cho là việc kết hợp giữa một con các và một con voi. Dù vậy, các nhà đóng tàu Nhật Bản vẫn quyết tâm thử nghiệm mô hình đó. Tàu ngầm I-400 lớp Sentoku của Hải quân Hoàng gia Nhật được sử dụng trong chiến tranh Thế giới thứ II có trọng lượng 6.500 tấn, lớn gấp ba lần kích thước của tàu ngầm lớp Gato của Mỹ có trọng lượng tương đương tàu ngầm sử dụng năng lượng hạt nhân lớp George Washington đầu những năm 1960. Tàu ngầm Sentoku có thể mang theo các thủy phi cơ M6A Seiran. Những chiếc máy bay này xuất kích nhờ máy phóng máy bay, sau khi trở về tàu nó sẽ lặn xuống nước cùng với tàu mẹ.

8. Tàu ngầm lớp Typhoon

Tàu ngầm lớp Typhoon là tàu ngầm lớn nhất thế giới.

Tàu ngầm lớp Typhoon của Liên Xô là tàu ngầm lớn nhất trên thế giới, có trọng lượng 48.000 tấn (trong khi tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Mỹ chỉ nặng chưa đến 20.000 tấn còn tàu khu trục lớp Arleigh Burke chỉ nặng 9.000 tấn). Mặc dù được xem là một “người khổng lồ”, nhưng tàu Typhoons lại “yên lặng” đến ngạc nhiên và rất khó để phát hiện. Chúng mang 20 tên lửa đạn đạo SS-N-20 (mà NATO gọi là “cá tầm”), trang bị nhiều đầu đạn hạt nhân cũng như ngư lôi và tên lửa chống tàu chiến khác.

9. Tàu ngầmU loại XXI

Tàu ngầm U loại XXI thực sự là một chiến binh nhanh nhẹn.

Có lẽ quân đồng minh phải thở phào nhẹ nhõm khi tàu ngầm U loại XXI ra đời muộn. Nếu nó được triển khai trước khi chiến tranh kết thúc kết cục của cuộc chiến Đai Tây Dương có thể bị đảo ngược. Tàu ngầm loại U XXI có rất nhiều tính năng vượt trội vào thời đó, bao gồm bộ dự trữ năng lượng dung lượng lớn có thể hoạt động liên tục vài ngày dưới nước. Ngoài ra, chiếc tàu còn có lớp vỏ được thiết kế kiểu dáng khí động học hợp lý và một ống thông hơi giúp tàu có thể nạp nhiên liệu dưới nước vì vậy, nó có thể di chuyển với tốc độ 17 hải lý mỗi giờ, tốc độ khiến các tàu chiến khác phải “hít khói”.

10. Tàu ngầm lớp George Washingto

Tàu ngầm lớp George Washington thực sự là lực lượng răn đe hạt nhân "đáng gờm".

Ẩn dưới làn nước và rất khó phát hiện, tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) thực sự là “bức tường thành răn đe hạt nhân” vững chắc. Tàu ngầm SSBN đầu tiên trên thế giới là chiếc USS George Washington, đi vào hoạt động năm 1959. Các loại tàu ngầm của Liên Xô trước đó cũng mang tên lửa đạn đạo vũ trang hạt nhân nhưng chúng vẫn sử dụng năng lượng diesel với thời gian hoạt động hạn chế. Động cơ chạy nhiên liệu hạt nhân của George Washington giúp loại tàu này hoạt động dưới nước cả tháng trời. Mỗi một tàu lớp George Washington mang tới 16 tên lửa Polaris.

(tổng hợp bdv)

>> Các thủy phi cơ huyền thoại của Hải quân Xô Viết



Là sự kết hợp “kỳ quái” giữa một chiếc tàu chạy trên đệm không khí và một chiếc máy bay, những chiếc thủy phi cơ đặc biệt này được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Lạnh.

Chúng “bay lượn” trên mặt nước với vận tốc lên đến 400 km mỗi giờ, có thể mang trọng lượng hàng hóa và binh lính nhiều hơn bất kỳ một chiếc máy bay bình thường nào. Những chiếc thủy phi cơ vẫn được gọi tên là Ekranoplan được xem là phương tiện di chuyển thú vị nhất mà con người từng tạo ra.

Hầu hết những chiếc Ekranoplan do Liên Xô thiết kế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cụ thể là công ty thiết kế Rostislav Alexeev. Một số thủy phi cơ có chiều dài 100 m và nặng trên 500 tấn. Chúng di chuyển trên mặt nước với tốc độ cao, kể cả trong điều kiện bão tố và hoàn toàn “loại bỏ” được sự theo dõi của radar nhờ vào nguyên tắc khí động lực gọi là “hiệu ứng mặt đất”.

Tất cả phi công đều quen thuộc với loại hiệu ứng này, đó là khi một chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh, nó gần như bay trên không khí một vài khoảnh khắc trước khi chạm đất. Lớp không khí dồn nén giữa phần cánh và mặt đất trở thành “tấm đệm hơi” giúp máy bay có khả năng trượt một cách uyển chuyển. Đối với trường hợp thủy phi cơ, hiệu ứng này rất hiệu quả giúp nó bay thật thấp.

Dưới đây là một số thông tin về các thủy phi cơ huyền thoại của hải quân Soviet:

KM, “Quái vật biển Caspian”
KM là thủy phi cơ loại lớn có chiều dài 100m, nặng 544 tấn, sử dụng 10 động cơ tuabin phản lực Dobryin VD-7. Cho đến nay KM vẫn giữ kỷ lục cất cánh với trọng tải lớn nhất, vượt qua trọng lượng mà máy bay chở hàng lớn nhất Antonov An 225 "Mriya" có thể mang. KM “mai danh ẩn tích” trong một thời gian dài, được thử nghiệm bí mật trên vùng biển Caspian năm 1966 và bị phát hiện bởi một vệ tinh của Mỹ.












KM là thủy phi cơ giữ kỷ lục về trọng tải cất cánh.

Tuy số lượng máy bay KM ít nhưng và các phiên bản của nó khá đa dạng với chiều dài và trọng lượng khác nhau. Tất cả phiên bản của KM đều có hình dáng kỳ quặc, được thiết kế để lướt trên đại dương với tốc độ cao và tránh radar phát hiện.

Theo các nguồn tin quân sự, Chính phủ Liên Xô đã lên kế hoạch đóng tới 100 “quái vật” biển này tại thời điểm cao trào của Chiến tranh Lạnh nhưng trên thực tế con số đó đã giảm xuống còn 24 chiếc.


Phiên bản SM-8 của "quái vật" KM.

Sau một tai nạn va chạm do nguyên nhân tầm nhìn hạn chế trong sương mù, KM đã bị cấm hoạt động trong vùng nước sâu 20 m, cản trở những nỗ lực phục hồi “quái vật biển” này. Phiên bản mới dự định sẽ thay thế KM là Orlenok, một loại thủy phi cơ tầm trung phù hợp với các nhiệm vụ vận chuyển trong quân đội.

Ấn tượng A-90 Orlyonok
Orlyonok có trọng lượng 140 tấn, dài 58 m và có chuyến bay đầu tiên vào năm 1972. A-90 chạy trên hai động cơ tuabin phản lực và một động cơ tuabin cánh quạt, có thể đạt được tốc độ 400 km mỗi giờ, khả năng di chuyển quãng đường dài 1.500 km ở độ cao từ 5 đến 10m so với mặt nước biển.







Orlyonok có ngoại hình hết sức ấn tượng.

Quân đội Liên Xô đã lên kế hoạch đóng 20 chiếc thủy phi cơ như vậy với mục đích tạo ra một hạm đội thiện chiến trên Biển Baltic. A-90 được cấp cho quân đội vào năm 1979, đến năm 1993, ba chiếc A-90 vẫn hoạt động.




Orlyonok có chở 150 binh lính và hai xe tăng.

Orlyonok có chở 150 binh lính và hai xe tăng. Sau khi Liên bang Xô Viết tan ra, nhà máy chịu trách nhiệm đóng những chiếc Orlyonok đã rơi vào tay tư nhân. Hiện Orlyonok đã đổi tên thành Volga Shipyard, và vẫn được sử dụng như máy bay cứu hộ và tìm kiếm thương mại. Trên thực tế, Orlyonok có thể vừa chở hàng hóa (với trọng lượng 50 tấn trong phạm vi 1.500 km), vừa chở hành khách (khoảng 30 người trong phạm vi 3.000 km).

VVA-14M, thủy phi cơ tầm trung
Thủy phi cơ VVA-14M là bản chuyển đổi từ máy bay VVA-14. VVA-14M có chiều dài 25, 97m, sải cánh 30 m, chiều cao 6,97 m, trọng lượng tối đa 50.000 kg với vận tốc tối đa 760 km mỗi giờ.




VVA-14M được thiết kế với mục đích triệt phá các tàu ngầm tên lửa của Hải quân Mỹ.

VVA-14M là sản phẩm của Robert Bartini, nhà khoa học và thiết kế máy bay người Nga, với mục đích triệt phá các loại tàu ngầm tên lửa Polaris của Hải quân Mỹ. Sau khi Bartini qua đời năm 1974, dự án VVA-14M sụp đổ sau 107 lần cất cánh với tổng số 103 giờ bay. Chiếc VVA-14M số hiệu 19172 duy nhất còn lại hiện đang “an dưỡng” trong bảo tàng Không quân Liên Bang Nga, Monino, Moscow. Thủy phi cơ Lun (Spasatel), “nuốt trọn” quái vật biển KM






M-160 Lun còn lớn hơn cả "quái vật" KM.

Với trọng lượng 280 tấn, chiều dài 74 m, M-160 Lun là một dòng thủy phi cơ khác cũng được ra đời từ công ty thiết kế Alexeev năm 1987 và đi vào hoạt động năm 1989. Sự khổng lồ của M-160 Lun thường được miêu tả bằng hình ảnh có thể "nuốt trọn" quái vật biển KM.


M-160 Lun được trang bị tên lửa siêu âm ZM-80 “Moskit”.
M-160 Lun được trang bị rocket siêu âm ZM-80 “Moskit” vô song, có khả năng làm chìm bất kỳ tàu địch nào. Những chiếc thủy phi cơ M-160 Lun có thể trở thành mối đe dọa lớn đối với NATO nếu như không có sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Do thiếu nguồn kinh phí để tiếp tục nghiên cứu nên dự án này đã “lặn mất tăm” trước sự nuối tiếc của nhiều người.

Người Mỹ vào cuộc
Trước sự phát triển như vũ bão của dòng máy bay thủy phi cơ Liên Xô, người Mỹ đã không thể khoanh tay đứng nhìn. Steven Hooker, kỹ sư hàng không, đã quan sát “quái vật biển Caspian” năm 1967 và quyết định thành lập công ty Aerocon, có nhiệm vụ thực hiện giấc mơ chế tạo những chiếc thủy phi cơ lớn gấp 10 lần của Nga nhưng vẫn vượt đại dương một cách nhẹ nhàng.


Mô hình thủy phi cơ mơ ước Atlantis-1 của Mỹ.

Ngoài ra, theo thiết kế, Boeing Ultra Pelican có thể mang tới 1.400 tấn (bằng 17 xe tăng cộng thêm vài trăm binh lính) với quãng đường lên tới 16.000 km. Chiếc thủy phi cơ “khổng lồ” này có độ sải cánh 106 m và dài 152 m, với vận tốc nhanh hơn 10 lần so với những chiếc tàu chở container hiện đại.



Boeing Ultra Pelican có thể mang tới 1.400 tấn.

Loại thủy phi cơ này có thể bay với “hiệu ứng mặt đất” ở độ cao 6 m trên mặt nước biển và cũng có thể hoạt động như một chiếc máy bay bình thường ở độ cao trên 6.000 m. Nếu như không có gì cản trở, giấc mơ “triển khai một sư đoàn trong vòng 5 ngày tới bất kỳ đầu trên thế giới” của Mỹ có thể trở thành hiện thực.


Bảng so sánh về kích thước của các loại thủy phi cơ so với máy bay dân dụng.

Tuy nhiên, giấc mơ thủy phi cơ khổng lồ và dã chiến của Mỹ vẫn chưa thành hiện thực. Dù vậy, các nhà công nghệ vẫn nuôi hy vọng thiết kế được "những cánh chim biển khổng lồ" mở ra một kỷ nguyên mới trong giao thông.

(tổng hợp bdv)

>> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 2)



Chiến tranh thế giới thứ hai cùng với chiến tranh lạnh chứng kiến sự phát triển các loại vũ khí chống ngầm có tầm bắn xa, chính xác và uy lực hơn. Nổi bật là súng cối và rocket chống ngầm.


>> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 1) 

Súng cối chống ngầm
 Bom chìm chống ngầm ra đời năm 1915 đã khiến những chiếc tầu ngầm U-boat lặn sâu dưới nước không còn là một mục tiêu “bất khả xâm phạm”. Tuy vậy, những thành tích bom chìm làm được chưa thể khiến các sĩ quan hải quân Anh và Mỹ hài lòng, bởi nó bộc lộ quá nhiều khuyết điểm khiến cho giới quân sự phải nghĩ đến phương án hiệu quả hơn.

Trong suốt giai đoạn từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) cho đến lúc bắt đầu chiến tranh thế giới thứ hai (1939), cơn ác mộng tầu ngầm đã tạm rơi vào quên lãng khi các nước đang mải lao đao đối phó với khủng hoảng kinh tế. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, người Đức với chiến thuật tầu ngầm kinh điển của mình đã khiến Anh và Mỹ phải vắt óc tìm cách đối phó.

Tháng 11/1940, Charles Frederich Goodeve, khoa học gia dân sự làm việc cho Hải quân Anh đã dựa trên loại súng cối bắn đạn lớn hơn cỡ nòng bố trí trên tầu (vốn thiết kế với mục đích phòng không) để phát triển súng cối chống ngầm.

Sau màn trình diễn ấn tượng của hệ thống Hedgehog đầu tiên trên tầu HMS Osprey, thủ tướng Anh Winston Churchil và đô đốc Pound rất hài lòng và hệ thống Hedgehog chính thức sản xuất hàng loạt, trang bị cho tầu chiến của hải quân Hoàng gia Anh.




Charles Frederick Goodeve - Cha đẻ của súng cối chống ngầm Hedgehog.

Hệ thống súng cối chống ngầm Hedgehog gồm 24 khẩu bắn đạn lớn hơn cỡ nòng, mỗi nòng cối được nạp sẵn một quả đạn chống ngầm cỡ 183 mm chứa 14 kg thuốc nổ TNT.

Khi hệ thống sonar (thường là loại ASDIC) phát hiện ra tầu ngầm đối phương; 24 quả đạn cối được phóng đồng loạt và sẽ rơi xuống biển, tạo thành vòng tròn đường kính 70 mét phía trên khu vực nghi có tầu ngầm với tầm bắn lên đến 230 - 250 mét.

Chính vì những chiếc ống chứa thuốc phóng còn lại sau khi phóng đạn lông nhím nên hệ thống này được đặt tên là Hedgehog, tiếng Anh có nghĩa là “Con nhím”. Những thủy thủ có kinh nghiệm có thể nạp đạn lại cho hệ thống chỉ trong ba phút là có thể bắn loạt thứ hai.



Hệ thống súng cối chống ngầm Hedgehog trên tầu chiến của Canada.

So với các loại bom chìm, hệ thống súng cối chống ngầm thực sự là một cuộc cách mạng.

Đầu tiên, do đạn của hệ thống này phát hỏa theo cơ chế chạm nổ nên thủy thủ có thể bắn Hedgehog mà không cần phải tính toán độ sâu của tầu ngầm.

Thứ hai, bom chìm khi được sử dụng sẽ đồng thời phá hủy luôn hệ thống sonar phát tín hiệu cho dù có đánh trúng tầu ngầm hay không. Điều này sẽ tạo ra một khoảng thời gian “mù” lên đến 15 phút cho các tầu săn ngầm trước khi có thể thả xuống biển một hệ thống sonar khác, cho phép tầu ngầm dễ dàng bỏ chạy hoặc đánh trả. Những thủy thủ tầu ngầm U-boat có kinh nghiệm thậm chí có thể nhận biết được những biểu hiện trước khi thả bom chìm của tầu săn ngầm và tránh né hiệu quả bằng cách đổi hướng hoặc tăng tốc đột ngột.

Còn những quả đạn Hedgehog sẽ không phát nổ khi đánh trượt tầu ngầm, do đó sau loạt đạn thứ nhất, thiết bị sonar vẫn có thể theo dõi tầu ngầm và dẫn đường cho loạt đạn tiếp theo.

Ưu thế thứ ba của Hedgehog là khả năng hủy diệt của nó. Mặc dù đầu đạn chỉ chứa 14 kg thuốc nổ (rất nhỏ so với hàng trăm kg của bom chìm) nhưng nó vẫn có thể đánh hỏng tầu ngầm chỉ với quả đạn duy nhất do khoảng cách phát nổ quá gần. Nhờ những ưu thế của mình, ngay khi ra mắt Hedgehog đã mang lại thành tích chiến đấu đáng kinh ngạc. Xác suất tiêu diệt mục tiêu lớn nhất của nó lên đến 25% trong khi với loại bom chìm tốt nhất xác suất này cũng chỉ là 7%.



Đạn chạm nổ của Hedgehog mang rất nhiều ưu điểm khi so sánh với bom chìm truyền thống



Một loạt đạn của Hedgehog tạo thành một vòng tròn đường kính lên tới 70 mét, đem lại xác suất tiêu diệt mục tiêu cao gấp hơn ba lần so với bom chìm.

Nhờ việc phát minh ra thứ vũ khí hiệu quả này, Charles Goodeve đã được tặng thưởng huân chương Order of British Empire và trở thành trợ lý riêng của đô đốc Wake Walker.

Nối tiếp thành công của Hedgehog, các phiên bản tiếp theo của hệ thống này như MK.4 Squid phát triển năm 1944 gồm ba súng phóng sử dụng đầu đạn loại 90 kg; hệ thống MK NC10 Limbo sử dụng đạn 90 kg, có thể điều chỉnh được tầm bắn từ 300 - 1000 mét.

Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, các hệ thống chống ngầm tương tự cũng được sử dụng trong hải quân Liên Xô từ cuối những năm 1940 như MBU-200 và MBU-600.



Súng cối chống ngầm Squid, phiên bản cải tiến hiện đại của Hedgehog.

Rocket chống ngầm
Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, rocket chống ngầm đã ra đời sớm ngay sau đó, sử dụng động cơ tên lửa cho mỗi quả đạn thay vì phóng đi từ súng cối giúp vũ khí này có tầm bắn xa hơn và độ chính xác cao hơn.

Trong số các hệ thống rocket chống ngầm sớm nhất phải kể đến hệ thống Mousetrap (Bẫy chuột) của Mỹ được phát triển chỉ sau Hedgehog một năm, bao gồm từ bốn đến 8 quả đạn rocket khối lượng 29 kg với đầu đạn nặng 15 kg được bắn đi từ các ray phóng.

Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả của Mousetrap cũng chỉ trong khoảng 280 mét, không khá hơn là mấy so với hệ thống Hedgehog nguyên bản.



Mousetrap của hải quân Hoa Kỳ chính là hệ thống rocket chống ngầm đầu tiên trên thế giới.


Các phiên bản rocket chống ngầm sau thế chiến thứ hai được sử dụng rộng rãi trong hải quân Mỹ và các nước thuộc khối NATO có tên chung là ASROC (Anti Submarine ROCket).

Hệ thống này được phát triển từ những năm 1960 gồm các ống phóng rocket cỡ 422 mm có thể phóng nhiều loại rocket chống ngầm khác nhau, kể cả loại ngư lôi hoặc rocket mang đầu đạn hạt nhân 10 Kiloton W-44 với tầm bắn 22 km. Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, đây là vũ khí cơ bản để đối phó với lực lượng tầu ngầm chiến lược hùng hậu của hải quân Liên Xô.



Hệ thống ASROC trang bị trên hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk của Mỹ.

Sự phát triển rocket chống ngầm hiện đại không thể không kể đến các hệ thống RBU-2500, RBU-1000, RBU-6000 và RBU-12000 của hải quân Liên Xô.

Ra đời sớm nhất trong series này là hệ thống RBU-2500 (Smerch-1) được trang bị trên hộ tống hạm lớp Petya từ năm 1957. Hệ thống này gồm hai hàng, 16 ống phóng rocket, đạn được nạp bằng tay với tầm bắn hơn hẳn hệ thống Hedgehog nguyên bản, lên đến 2.500 mét.

Không những thế, với sonar chủ động Pegas 24 kHz, RBU-2500 có độ chính xác cao và là hệ thống chống ngầm cực kỳ hiệu quả trong thời đại của nó.

Hiện nay, tuy không còn được sản xuất nhưng hệ thống rocket chống ngầm RBU-2500 vẫn đang được sử dụng trong lực lượng hải quân một số nước như Ấn Độ, Syria và Việt Nam.



Rocket chống ngầm RBU-2500 trang bị trên tầu chiến lớp Petya-III.




Hộ vệ hạm lớp Petya đang bắn thử rocket chống ngầm RBU-2500.

Hệ thống RBU-1000 và RBU-6000 là những hệ thống được phát triển từ giữa thập niên 60 của thế kỷ trước (Số hiệu 1000, 6000 ở đây dựa trên tầm bắn của vũ khí tính bằng mét) hiện là loại rocket chống ngầm phổ biến nhất trong hải quân Nga hiện nay.

Đạn rocket cỡ 300 mm (RBU-1000) hay 213 mm (RBU-6000) được phóng đi có thể được điểm hỏa do va chạm hay xuống đến độ sâu nhất định. Sau khi bắn hết một loạt đạn từ bốn đến 12 rocket, đạn rocket được nạp lại hoàn toàn tự động nhờ cơ cấu nạp phía dưới boong tầu.

Những loại rocket chống ngầm này có thể tấn công được cả tàu ngầm ở độ sâu tới 450 mét. Hiện nay, phiên bản cải tiến của RBU-6000 là RPK-8 sử dụng đạn rocket 90R có đầu dò tự dẫn có khả năng tự động bám đuổi và tấn công tầu ngầm ở độ sâu tới 1000 mét với xác suất đánh trúng lên tới 80%. Đầu nổ lõm 19,5 kg của rocket 90R cho phép nó có khả năng đánh thủng cả hai lớp thân của những tầu ngầm hiện đại nhất.

Hiện tại hệ thống RBU-6000 được sử dụng rất rộng rãi ở các nước khối Vacsava cũ và một số nước khác như Algeria, Cuba, Indonesia và Việt Nam.



Rocket chống ngầm RBU-6000 được trang bị trên khu trục hạm lớp Neutrasimiy của Nga.

Xu thế hiện nay rocket chống ngầm được sử dụng là một trong những thành phần của các hệ thống chống ngầm và chống ngư lôi; trong đó phải kể đến rocket RBU-12000 được sử dụng trong hệ thống Udav-1 của Nga trang bị trên tầu sân bay Kuznetsov hoặc hệ thống VL-ASROC của hải quân Mỹ có khả năng chống cả tầu ngầm và ngư lôi với tầm bắn xa và xác suất bắn trúng cực kỳ cao.

(bdv news)

>> Tàu sân bay thứ hai của Pháp



Dự kiến, năm 2015 tàu sân bay thứ 2 phục vụ hải quân Pháp và trở thành hàng không mẫu hạm lớn nhất nước này.

Dự án tàu sân bay thứ hai (Porte-Avions 2, PA2) có kế hoạch chế tạo hàng không mẫu hạm có lượng giãn nước 75.000 tấn, dài 283 m. Số lượng thủy thủ làm việc trên tàu lên tới 1.720 người, trong đó, có khoảng 620 thành viên phi hành đoàn và 100 sĩ quan chỉ huy.

Thiết kế tàu sân bay
Tàu sân bay thuộc PA2 có diện tích boong phóng máy bay khoảng 15.700 m2, diện tích khoang chứa máy bay là 4.700 m2, có khả năng mang 32 máy bay chiến đấu Rafale, ba máy trinh sát E-2C và 5 trực thăng NH-90.

Tàu còn trang bị máy phóng thủy lực C13-2, có thể phóng một máy bay với vận tốc tối đa 150 hải lý mỗi giờ. Và thời gian phóng một phi cơ khoảng 30 giây.





Boong phóng máy bay của HKMH Porte-Avions (PA2)

Hệ thống điều khiển
Tàu sân bay thuộc PA2 sẽ được lắp đặt các thiết bị thông tin liên lạc bên trong và ngoài tàu, gồm các tần số HF, UHF và VHF.

Bên ngoài tàu có thiết bị kết nối dữ liệu chiến thuật L11, L16 và L22. Các thiết bị đó cho phép việc truyền tải các dữ liệu giữa hệ thống chiến đấu của tàu và trinh sát cơ E-2 diễn ra với tốc độ cao.

Đồng thời, các thiết bị kết nối dữ liệu sẽ chịu trách nhiệm phân phối thông tin cho các đơn vị hải quân, máy bay chiến đấu và trực thăng.

Ngoài ra, tàu sân bay thuộc PA2 được lắp đặt hệ thống kiểm soát chiến đấu kết hợp (CMS), radar dò tìm trên không Héracles. Cuối cùng là các thiết bị cảm biến hồng ngoại.

Máy bay
Tàu sân bay thuộc PA2 có khả năng mang được 40 máy bay bao gồm: chiến đấu cơ Rafale, trinh sát cơ E-2 và trực thăng NH-90.

Rafale là loại máy bay chiến đấu đa năng, có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau như tấn công mặt đất và trên biển, không chiến, trinh sát.

Rafale mang tối đa 9 tấn vũ khí trên 13 giá treo (phiên bản hải quân) với các loại vũ khí: tên lửa không đối không Mica, Magic, Sidewinder; tên lửa không đối đất Apache, AS30L, ALARM, HARM, Maverick và PGM-100; cuối cùng là tên lửa không đối hải Exocet/AM-39, Pentigum, AGM-84 Harpoon.

Máy bay E-2 C được thiết kế với vai trò chủ yếu là cảnh báo sớm trên không, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết.

NH-90 là trực thăng đa năng được sử dụng để làm nhiều nhiệm vụ như chống hạm, chống ngầm, vận tải và tìm kiếm cứu nạn. Trong nhiệm vụ chiến đấu, NH-90 mang được ngư lôi chống ngầm, tên lửa chống hạm và tên lửa không đối không.


Máy bay chiến đấu đa năng Rafale của hải quân Pháp.


Máy bay cảnh báo sớm trên không E-2C.


Trực thăng đa năng NH-90.

Hệ thống phòng vệ
Tàu sân bay thuộc PA2 trang bị hệ thống phòng không MBDA Aster 15. Tên lửa Aster 15 được chứa trong 8 ống phóng Sylver xếp theo phương thẳng đứng. Aster 15 có tầm bắn từ 1,7 km tới 30 km, trần bay 13 km. Tên lửa sử dụng radar chủ động dẫn đường giai đoạn cuối hành trình bay.

Tàu còn được vũ trang hệ thống phòng thủ chống ngư lôi và pháo phòng không 20 mm.


Tổ hợp tên lửa phòng không MBDA Aster 15 chứa trong các ống phóng thẳng đứng Sylver

Động lực của tàu
Tàu sân bay thuộc PA2 không sử dụng động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, thay vào đó là động cơ theo truyền thống.

Ban đầu, nhà thiết kế dự định dùng hai động cơ tuốc bin khí MT-30 Roll Royce. Tuy nhiên, tháng 9/2006, hải quân Pháp quyết định chọn loại động cơ mới và hệ thống động lực này sẽ tăng tốc độ của PA2 từ 26 lên 29 hải lý mỗi giờ.

Theo đó, DCN Propulsion và Alstom sẽ liên kết với General Electric phát triển thiết kế mới này, động lực của tàu sẽ dựa trên bốn động cơ tuốc bin khí LM2500+G4.

Tầm hoạt động của tàu sân bay thuộc PA2 khoảng 10.000 dặm với tốc độ trung bình 15 hải lý mỗi giờ.

(tổng hợp bdv)

>> Các căn cứ hải quân nhìn từ trên cao (kỳ 1)



Đối với các cường quốc kinh tế - quân sự trên thế giới thì sức mạnh hải quân luôn luôn được ưu ái. Họ cũng luôn coi trọng xây dựng căn cứ hải quân lớn để đáp ứng yêu cầu hậu cần.

Sau đây là các căn cứ hải quân của 5 quốc gia hàng đầu thế giới:

Căn cứ hải quân Zapadnaya Litsa (Nga)
Zapadnaya Litsa là căn cứ tàu ngầm hạt nhân rất lớn và cực kỳ quan trọng trong hải quân Nga. Zapadnaya litsa gồm bốn căn cứ liên kết là: Andreeva Bay, Bolshaya Lopatka, Malaya Lopatka, và Nerpicha.



Toàn cảnh Zapadnaya Litsa hợp thành từ bốn căn cứ liên kết.



Cầu cảng neo đậu của tàu ngầm hạt nhân lớp Typhoon vũ trang 20 tên lửa đạn đạo liên lục địa SS-N-20 (tầm bắn hơn 8.000km).

Mỗi căn cứ nhỏ này có vai trò nhiệm vụ khác nhau như:

- Andreeva Bay là nơi lưu trữ chất thải phóng xạ đã qua sử dụng của hạm đội Biển Bắc.

- Bolshaya Lopatka có 8 cầu tàu và nhà kho bảo quản tàu ngầm và khu sửa chữa.

- Malaya Lopatka là căn cứ được xây dựng đầu tiên trong bốn căn cứ, hiện tại ở đây có ba cầu tàu và hệ thống nâng tàu (đưa tàu lên khỏi mặt nước vào khu bảo dưỡng).

- Nerpicha là nơi neo đậu của các tàu ngầm lớp Typhoon.

Căn cứ hải quân San Diego (Mĩ)
San Diego (bang California) là một trong những căn cứ hải quân lớn nằm ở bờ biển phía tây nước Mỹ.


Căn cứ hải quân San Diego hiện đang là nơi neo đậu của 56 tàu hải quân .



Cầu cảng nơi neo đậu các tàu chiến của hạm đội Thái Bình Dương. 

Căn cứ San Diego có tất cả 13 cầu cảng trải rộng trên diện tích 395 ha đất liền và 132 ha mặt nước. Căn cứ được tách ra làm hai bộ phận riêng biệt được gọi là phần “mặt ướt” và “mặt khô”.

Phần “mặt ướt” bao gồm khu xưởng sửa chữa, điểm đỗ đậu hải quân và các tàu chiến thuộc hạm đội Thái Bình Dương.

Phần “mặt khô” gồm trung tâm huấn luyện hạm đội, bệnh viện, khu thể dục và nơi dành cho sinh hoạt thường ngày.

Trong căn cứ hiện tại có khoảng 35.000 nhân viên quân sự, dân sự và nhân viên hợp đồng làm việc.
Căn cứ tàu ngầm Du Lâm (Trung Quốc)

Du Lâm là căn cứ hải quân nằm ở phía cực nam của đảo Hải Nam (Trung Quốc). Đây là một trong những căn cứ cực kỳ quan trọng của hạm đội Nam Hải.


Căn cứ tàu ngầm Du Lâm. .



Khu vực cảng ban đầu của căn cứ Du Lâm.



Khu vực cảng được mở rộng của căn cứ Du Lâm có khả năng tiếp nhận các tàu ngầm hạt nhân cỡ lớn.

Du Lâm ban đầu chỉ có khả năng tiếp nhận các loại tàu ngầm thông thường, cỡ trung. Tuy nhiên, từ những năm 1990 hải quân Trung Quốc đã tiến hành mở rộng căn cứ tới tận vịnh Nha Long.

Cơ sở vật chất tại khu vực cảng này xây dựng khá hiện đại, với hai cầu tàu dài 1.000m để neo đậu tàu chiến cỡ lớn, tàu đổ bộ, tàu hậu cần. Thậm chí, cảng đáp ứng được chỗ neo đậu cho tàu sân bay.

Riêng căn cứ tàu ngầm, lần đầu tiên được tiết lộ trên trang mạng của liên hiệp các nhà khoa học Mỹ (FAS) năm 2008. Theo đó, căn cứ này được bố trí ba cầu tàu tiếp nhận tàu ngầm thông thường, tàu ngầm hạt nhân.

Ngoài ra, còn có căn cứ tàu ngầm dưới lòng đất, lối đi vào căn cứ này xác định là rộng tới 3m, thừa khả năng cung cấp chỗ chứa cho tàu ngầm hạt nhân cỡ lớn. FAS còn cho hay, Du Lâm có thể là nơi neo đậu thường xuyên của các tàu ngầm hạt nhân lớp Jin (kiểu 094) vũ trang tên lửa đạn đạo JL-2 (tầm bắn 8.000km).

Căn cứ hải quân Toulon (Pháp)

  Toulon là căn cứ hải quân lớn thứ hai của Pháp, đây là nơi đóng quân của hạm đội Địa Trung Hải và là nơi đặt bộ chỉ huy hạm đội 6 (Mỹ).


Căn cứ hải quân Toulon.

Căn cứ có 11 xưởng sửa chữa và bến cảng neo đậu tàu. Khu sửa chữa có khả năng tiếp nhận các tàu cỡ trung và cỡ lớn. Trong khi các bến neo đậu thì tiếp nhận được nhiều loại tàu như tàu sân bay, tàu khu trục, tàu ngầm, tàu đổ bộ, tàu vận tải, tàu tuần tra.

Ngoài ra, căn cứ Toulon còn là trung tâm huấn luyện thủy thủ của hải quân Pháp và là bảo tàng hải quân với những con tàu chiến từ thế kỷ 18.

Căn cứ hải quân Her Majesty’s (Anh)
Her Majesty’s là một trong ba căn cứ hải quân lớn của nước Anh (gồm Her Majesty, Clyde và Devonport).


Căn cứ Her Majesty's đang là "nhà" của 42 tàu chiến của hải quân Anh bao gồm các tàu khu trục cỡ, tàu quét mìn, tàu tuần tra .



Trên nóc hàng không mẫu hạm hạng nhẹ lớp Invicible (lượng choán nước 20.000 tấn, mang được hơn 20 máy bay cánh cố định và trực thăng). 

Tại đây, có tới 15 khu nhà xưởng sửa chữa và nhiều nơi neo đậu tàu. Ngoài vai trò là căn cứ hải quân, Her Majesty’s được mở rộng phục vụ các mục đích thương mại như đóng tàu hay sửa chữa.

Tại căn cứ này, tàu khu trục mới lớp Daring đang được triển khai đóng để phục vụ hải quân nước này trong tương lai.

Người Anh cũng đang tính đến kế hoạch nâng cấp hải cảng này trong 10 năm tới.
( báo đất việt)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang