Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

>> Iraq mua F-16 làm từ vàng?



Thủ tướng Iraq Nuri al-Maliki cho biết nước này đặt mua 36 máy bay F-16 để trang bị cho Không quân Iraq, vốn là quân chủng yếu nhất trong quân đội của nước này.


Ông Al-Maliki cho biết một phái đoàn có thành phần gồm các sĩ quân không quân Iraq cùng các cố vấn đã được cử đi với nhiệm vụ khôi phục lại hợp đồng mua 18 máy bay F-16 đã bị hủy trước đó. Không những thế, Iraq còn quyết định sẽ mua 36 chiếc máy bay thay vì con số 18 chiếc như hợp đồng cũ.

Theo một nguồn tin nội bộ, đây là một quyết định của chính phủ Maliki nhằm ngăn chặn việc sau này Hoa Kỳ lấy lý do đóng quân tiếp tục tại nước này sau hạn rút quân cuối cùng. Việc cho phép Quân đội Mỹ ở lại Iraq vào thời điểm nhạy cảm này là rất bất lợi trong việc đảm bảo quyền lực của chính quyền lâm thời.




Máy bay F-16D Block 52.


Tháng 9/2011, Iraq đã quyết định mua 18 máy bay F-16IQ ( phiên bản F-16 Mỹ sản xuất riêng cho Iraq) cùng một số phụ tùng vũ khí trị giá đến 4,2 tỷ USD. Tuy nhiên, bản hợp đồng này sau đó đã bị hủy sau khi Iraq đầu tư 900 triệu USD cho chương trình lương thực trong nước.

Máy bay F-16IQ được Mỹ thiết kế theo phiên bản F-16C/D Block 52, hiện vẫn thua kém phiên bản F-16 IN Super Viper (phát triển từ phiên bản F-16E/F Block 60) vốn được Mỹ chào hàng cho Ấn Độ trong chương trình MMRCA với giá 63 triệu USD một chiếc (đã bao gồm cả chi phí huấn luyện và phụ tùng thay thế).

Không tính số vũ khí, giá thành một chiếc F-16 quân đội Iraq phải mua lên đến 200 triệu USD/chiếc. Đơn giá này là quá đắt và Iraq có thể mua các loại máy bay “hạng sang” như máy bay thế hệ 4.5 Eurofighter Typhoon, Dassault Rafale hay Su-35BM với giá rẻ hơn nhiều.

Không chỉ vậy, theo các ý kiến trên diễn đàn quân sự iraqmilitary.org, F-16IQ không giải quyết được nhu cầu thực sự của Iraq, thậm chí trong số các vũ khí trong hợp đồng được mua không có những loại hiện đại như tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn AMRAAM, các loại bom dẫn đường GPS, tên lửa chống radar hay các thiết bị làm nhiễu tên lửa.

Trước đó, tháng 1/2011, Iraq đã ký một hợp đồng hiện đại hóa quân đội trị giá tới 13 tỷ USD với các nhà cung cấp Mỹ.


[BDV news]


>> Việt Nam quan tâm tàu đổ bộ Murena-E



Dự án 12061E -tàu đổ bộ đệm khí đa năng, hiện đại Murena-E được phát triển bởi Công ty Cổ phần Cục Thiết kế tàu biển Trung ương Almaz tại Leningrad.


Lịch sử phát triển

Dự án 12061E tàu đổ bộ đệm không khí Murena – E là tiếp tục quá trình nghiên cứu, phát triển dựa trên dự án cũ 1206 được thực hiện vào cuối những năm 60.

Thực tế, dự án 1206 cũ được thành lập nhằm mục đích thiết kế các loại tàu đỏ bộ tốc độ cao để hỗ trợ binh lính trong chiến đấu. Tuy nhiên, ban đầu, do việc gián đoạn trong qua trình lên kế hoạch thiết kế nên dự án đã bị đình trệ.

Sau một thời gian, dự án đã được tái khởi động, trong giai đoạn từ năm 1972-1973, Cục Thiết kế tàu biển Trung ương Almaz đã tiến hành chế tạo 2 mẫu nghiên cứu thuộc dự án 1206.



Murena-E tại một căn cứ hải quân của Hàn Quốc, Quân đội Hàn Quốc đã mua tàu này từ năm 2002.



Sau khi hoàn thành các thử nghiệm từ năm 1977-1985 trên một loạt 18 tàu thuộc dự án 1206, giới chuyên gia quân sự Nga nhận định rằng, các tàu đổ bộ thuộc dự án không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ Hải quân Nga.

Dựa trên dự án 1206, công ty Almaz tiếp tục phát triển dự án 1238 - tàu đệm khí trang bị pháo hạm AK-16 KASATKA. Trong khi đó, vào năm 1970, công ty này đã quyết định thiết kế tàu đổ bộ tấn công dự án 11780 với nhiều tính năng sửa đổi dựa trên nguyên mẫu của tàu đổ độ thuộc dự án 1206 với tải trọng lớn hơn.
Tiếp sau đó, vào năm 1979 Hải quân Nga đã đưa ra chỉ thị cho công ty Almaz để phát triển dự án 12061 E với yêu cầu nâng cao tính năng chiến thuật và kỹ thuật cho tàu mới Murena -E.

Tàu đổ bộ tấn công thuộc dự án 12061 được phát triển trên cơ sở dự án 1206, sự khác biệt chính của tàu đổ bộ tấn công thuộc dự án 12061 là có trọng lượng tấn 43 lớn hơn sơ với tàu đổ bộ thuộc dự án 1206, ngoài ra, tàu có thể vận chuyển các xe tăng hiện đại của Nga. Cụ thể tàu Murena –E có thể chở được hai xe chiến đấu hoặc 130 binh sỹ.

Một đặc điểm khác biệt của dự án 12061 đó là việc tăng đáng kể số lượng vũ khí được trang bị. Nếu tàu đổ bộ của dự án 1206 được trang bị một cặp súng máy phòng không 12,7 mm và súng Utes-M thì tàu Murena-E được trang bị bệ súng máy AK-306 sáu nòng 30-mm và hai súng phóng lựu tự động BP-30.

Tàu đổ bộ đắt khách

Năm 2002, khách hàng đầu tiên là Hàn Quốc đã ký kết với công ty xuất khẩu vũ khí Rosoboronexport của Nga hợp đồng trị giá 100 triệu USD để tiếp nhận 3 chiếc tàu loại này theo chương trình trả nợ của Chính phủ Nga cho Hàn Quốc.

Theo đó, Hàn Quốc chỉ trả 50% của số tiền đã thoả thuận, trong khi 50% còn lại, công ty Rosoboronexport sẽ lấy về từ ngân sách nhà nước và thanh toán cho công ty chế tạo.

Trong năm 2010, Nga kí hợp đồng bán tàu đổ bộ đệm không khí Murena-E cho Kuwait. Việc chế tạo Murena-E cho Kuwait được thức hiện tại Nhà máy đóng tàu Khabarovsk. Phó Giám đốc công ty xuất khẩu vũ khí Rosoboronexport Viktor Komardyn khi đó cho rằng, có khả năng Kuwait sẽ không chỉ dừng lại ở số lượng là 2 chiếc như ban đầu. Trong số các khách hàng của công ty đặt mua tàu có Venezuela và Malaysia. Trước đó, Murena-E cũng đã được bán cho Trung Quốc.

Đánh giá về dự án đổ bộ đệm khí 12061E Murena-E, các chuyên gia quân sự chỉ ra rằng Murena-E rất thích hợp cung cấp cho thị trường vũ khí thế giới. Tàu Murena-E có vẻ ngoài khá giống với tàu đổ bộ khí LCAC của Mỹ. Tuy nhiên với kích thước tương tự nhưng LCAC không thể có tải trọng tốt như Murena-E và không mang theo nhiều vũ khí cũng như có ít tính năng hơn so với Murena-E.

Như vậy, tàu đổ bộ đệm không khí Murena-E với việc tăng số vũ khí được trang bị và khả năng linh hoạt trong quá trình đổ bộ, cho phép tàu tiếp cận nhanh mục tiêu và phù hợp cho việc duy trì, kiểm soát cũng như bảo vệ khu vực ven biển. Do đó, dự án 12061E thực sự thích hợp với các quốc gia sở hữu ít tàu hải quân, hoặc ngân sách quốc phòng không lớn.

Đặc biệt, những khách hàng tiềm năng của Muren-E sẽ chủ yếu là đội tàu của các nước có tiếp giáp các vùng biển, các vùng vịnh như các nước Mỹ Latinh và Đông Nam Á. Hiện nay, các quốc gia như Việt Nam, Malaysia, Venezuela, Brazil, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất và Algeria, cũng đang xem xét và lên kế hoạch mua tàu đổ bộ đệm không khí hiện đại Muren-E của Nga.

Tàu đổ bộ đệm khí Murena-E được thiết kể để vận chuyển các đơn vị chiến đấu cũng như các trang bị vũ khí từ tàu chính hoặc từ khu vực đổ bộ, thực thi nhiệm vụ tuần tiễu, bảo vệ khu vực mặt nước ven bờ, bảo vệ các cảng biển và các căn cứ hải quân. Tag: Hải quân các nước trên thế giới

Tàu Murena-E có khả năng hoạt động tốt nhờ cấu trúc thân tàu làm từ hợp kim tiên tiến. Tàu có khả năng vận chuyển 2 xe thiết giáp, hoặc 130 binh lính với đầy đủ trang bị vũ khí. Khi hoạt động, tàu có thể sử dụng các loại vũ khí trang bị khá hiệu quả trong điều kiện sóng biển cao và tốc độ gió lớn.

Tàu đổ bộ đệm khí Murena-E được trang bị 2 pháo tự động AK-306 cỡ nòng 30mm với tổng số đạn khoảng 1000 viên và được điều khiển bởi hệ thống kính ngắm quang học, 8 tên lửa phòng không Igla và hai súng phóng lựu tự động BP-30.

Tàu có chiều dài cả đệm khí là 31,3, chiều rộng là 14,8m, cao 15,2m. Murena – E được thiết kế cùng một tiêu chuẩn có độ choán nước lên tới 70 tấn. Tàu được trang 2 động cơ tuabin khí MT-70M công suất 20.000 mã lực tạo tốc độ tối đa khi đầy tải tối đa lên tới 100km/h. Tầm hoạt động khoảng 360 km, biên chế một kíp thủy thủ là 12 người. Được biết, một chiếc tàu đổ bộ đệm khí Murena-E có giá khoảng 35 triệu USD.

[BDV news]


>> Máy bay Nga do thám không phận Mỹ



Một nhóm giám sát không lưu Nga sẽ tham gia chuyến bay thăm dò lãnh thổ Mỹ. Đây là một phần trong hiệp ước Open Skies của 2 cường quốc quân sự.


Đây là chuyến bay thăm dò lần thứ 20 của người Nga diễn ra trên lãnh thổ Mỹ theo hiệp ước Open Skies (*).

“Máy bay Tupolev Tu-154M Lk-1 mạng các giám sát viên người Nga sẽ tiến hành chuyến bay thăm dò trên lãnh thổ Mỹ. Theo lịch trình, các chuyến bay này sẽ diễn ra từ ngày 31/7 tới 8/8 theo điều khoản của hiệp ước Open Skies”, bộ quốc phòng Nga thông báo.


http://nghiadx.blogspot.com

Máy bay do thám Tupolev Tu-154M Lk-1 của Nga sẽ tung cánh trên bầu trời Mỹ.


Chiếu Tupolev Tu-154M sẽ cất cánh từ sân bay của căn cứ không quân Travis, bang California, Mỹ. Tầm xa thăm dò tối đa của máy bay Tu-154M là 4.250 km.

Nhân viên có mặt trên máy bay sẽ bao gồm cả giám sát viên người Nga và Mỹ. Họ sẽ sử dụng những hệ thống và thiết bị thăm dò theo đúng qui định trong hiệp ước Open Skies.

(*) Hiệp ước Open Skies được ký vào năm 1992, do cựu tổng thống Mỹ H.W.Bush thúc đẩy. Nội dung của Open Skies là tổ chức các chuyến bay thăm dò trên lãnh thổ của 34 quốc gia thành viên nhằm nâng cao sự hợp tác và minh bạch trong các hoạt động quân sự. Open Skies bắt đầu được thực hiện từ ngày 1/1/2002 và đây là một nhân tố quan trọng hình thành nên cục diện an ninh châu Âu hiện nay.

[BDV news]


>> Murena-E trong biên chế Hải quân Hàn Quốc



  • Một số hình ảnh về tàu Murena-E, Hàn Quốc đã mua từ Nga





Murena-E là tàu đổ bộ đệm không khí đa năng hiện đại.




Cấu trúc thân tàu của Murena-E làm từ hợp kim tiên tiến.



Tàu được trang bị nhiều vũ khí hơn so với các tàu đổ bộ cỡ nhỏ hiện nay.



Murena-E thuộc dự án 12061E được phát triển dựa trên dự án 1206 cũ.




Tàu rất phù hợp để kiểm soát cũng như bảo vệ khu vực ven biển.




Các nước có tiếp giáp biển như Mỹ Latinh và khu vực Đông Nam Á…là những khách hàng tiềm năng có thể sở hữu Murena-E.




Tàu được chế tạo để vận chuyển quân và vũ khí để bảo vệ ven bờ, các cảng biển và các căn cứ hải quân

[BDV news]


>> F-35B thử nghiệm thành công



Trong cuộc thử nghiệm gần đây nhất, Trung tá Fred Schenk đã cất cánh thành công chiếc máy bay F-35B từ đường băng ngắn, chỉ dài 411m.

F-35B là biến thể máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng trong dòng máy bay F-35 của Mỹ. Mỹ đang phát triển và hoàn thiện F-35 gồm 3 biến thể A, B, C cho không quân, hải quân và lính thủy đánh bộ.

Khi ở trên không, chiếc máy bay đã bay ngang qua các phóng viên và lãnh đạo lính thủy đánh bộ Mỹ... với tốc độ bay 60 hải lý/giờ. Trung tá Schenk đã đưa chiếc máy bay được chỉ định BF-1 bay tự do và hạ cánh theo chiều thẳng đứng.


Chiếc máy bay F-35B cất cánh và tiếp đất theo phương thẳng đứng chỉ trong phút chốc


Các phi công thử nghiệm tại các cở sở cho biết BF- 1 (tên chiếc F-35B được thử nghiệm) không phải là chiếc máy hoàn thiện, nhưng các rủi ro đều được hạn chế.

Màn trình diễn đã tạo ra được hết ấn tượng bởi vì nó được tiến hành vào một ngày hè ẩm ướt khi nhiệt độ lên tới gần 35 độ C. Trong điều kiện này, hơi nóng và ẩm làm giảm công suất của động cơ.

Trung tá hải quân Matt Kelly, phi công bay thử nghiệm một mẫu F-35B khác (có tên BF-3) sẽ tiếp tục tiến hành một cuộc thử nghiệm sau khi màn trình diễn bay của chiếc BF-1 đã rất thành công. Tư lệnh Lính thủy đánh bộ Mỹ, tướng Jim Amos tự mình nhắc lại rằng F-35B rất cần thiết với với quân chủng của mình. “Không có kế hoạch B, chúng tôi cần loại máy bay này”, ông nói với ý sẽ không có phương án thay thế F-35B.

Trung tướng Terry Robling, Phó Tư lệnh Không quân Mỹ cho biết sự cải tiến của F-35B trong chuyến bay thử nghiệm từ năm 2010 là "tuyệt vời". F-35B bắt kịp về các điểm thử nghiệm trước đó, và hiện tại dẫn đầu về lịch trình chuyến bay thử nghiệm năm 2011. Ông còn tiết lộ, vào tháng 9/2011, F-35B có thể được trang bị trên chiến hạm USS Wasp.

Cả ông Robling và Amos đều nhắc lại lập luận quân đội Mỹ cần một chiếc máy bay có thể bố trí mọi nơi. Mô hình của F-35B sẽ cho phép Hải quân và Lính thủy đánh bộ Mỹ tăng gấp đôi số máy bay có thể mang theo trong các chiến dịch viễn chinh.

[BDV news]


>> Tên lửa MBDA-Meteor tách, phóng thử thành công



Thụy Điển đã chính thức công bố vụ bắn thử thành công tên lửa không đối không năng lượng cao ngoài tầm nhìn MBDA-Meteor từ máy bay tiêm kích JAS-39 Gripen.


Theo công bố việc thử nghiệm để đánh giá quá trình tách tên lửa ra khỏi thiết bị phóng, quá trình khởi động và dẫn hướng cho tên lửa. Vụ thử nghiệm thành công sau chưa đầy hai tháng tích hợp tên lửa vào máy bay.

Đánh giá ban đầu cho thấy quá trình tách khỏi thiết bị phóng, kích hoạt động cơ diễn ra bình thường, đường truyền dữ liệu hai chiều dẫn hướng cho tên lửa hoạt động tốt, radar chủ động của tên hoạt động tốt.

Tuy nhiên lần thử nghiệm này chỉ đánh giá quá trình phóng và dẫn hướng ban đầu, các thử nghiệm tiếp theo sẽ đánh giá quá trình nhắm mục tiêu, hiệu suất của tên lửa.



MBDA-Meteor tách khỏi JAS-39 Gripen và phóng đi.


Các thử nghiệm diễn ra tại vùng núi Vidsel của Thụy Điển, đại diện Bộ quốc phòng Thụy Điển cho hay các thử nghiệm và hiệu chỉnh tham số sẽ được hoàn tất vào năm 2013, sớm hơn 1 năm so với dự định.

MBDA-Meteor là loại tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn được phát triển bởi MBDA. Tên lửa này được chọn làm tiêu chuẩn cho các tiêm kích của EU như Typhoon, Rafale, JAS-39 không loại trừ được trang bị cho F-35 của hải quân Hoàng gia Anh. Tuy nhiên hệ thống truyền dữ liệu hai chiều của tên lửa không hoàn toàn tương thích với Rafale của Pháp.

Tên lửa được trang bị động cơ tuabin phản lực tiên tiến, hệ thống dẫn hướng tối ưu với radar chủ động, khả năng kháng nhiễu trong môi trường tác chiến điện tử cao.

Tên lửa được dẫn hướng kết hợp giữa dẫn đường quán tính giai đoạn đầu và radar chủ động giai đoạn cuối. Ngoài ra một đường truyền dữ liệu hai chiều giữa tên lửa và máy bay cho phép hiệu chỉnh lại mục tiêu khi cần thiết, cung cấp trạng thái của tên lửa, thông tin về nhiều mục tiêu, thông báo xác nhận mục tiêu từ radar của máy bay.



Tên lửa MBDA-Meteor.


Thông số cơ bản:
Dài: 3,65 mét, đường kính 0,178 mét, trọng lượng 185kg;
Dẫn hướng: kết hợp quán tính, trường truyền dữ liệu hai chiều và radar chủ động;
Đầu đạn: HE phá mảnh với ngòi nổ vô tuyến cận đích;
Tên lửa có tầm bắn khoảng 100 km;

[BDVnews]


>> Vũ khí laser cho máy bay ném bom chiến lược B-1B


Cơ quan DARPA của Bộ Quốc phòng Mỹ đã ký với công ty General Atomics hợp đồng phát triển vũ khí laser năng lượng cao HELLADS dùng để lắp cho máy bay.


DARPA: Cục Các dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến

Hợp đồng này là bước tiếp theo trong việc chế tạo vũ khí laser hàng không, tiếp sau việc thử nghiệm thành công thiết bị phụ trợ. Theo hợp đồng mới, một vũ khí laser thể rắn 150 kW làm mát bằng chất lỏng liên tục sẽ được chế tạo.

HELLADS sẽ có trọng lượng không quá 2000 kg, nên có thể lắp cho các loại phương tiện mang quân sự khác nhau: tàu tuần tiễu, máy bay tiêm kích, máy bay trinh sát, xe chiến đấu thiết giáp và có thể thậm chí cả máy bay không người lái.

Hiện nay, General Atomics hoàn thành tốt điệp việc phát triển và thử nghiệm mẫu chế thử của hệ thống năng lượng và hệ thống thoát nhiệt, qua đó khẳng định thiết bị phụ trợ của vũ khí mới đã sẵn sàng.


Module với laser HELLADS có thể lắp cho đa số các máy bay chiến đấu phản lực có đủ trọng tải.


Việc thử nghiệm dã chiến đầu tiên HELLADS với laser 150 kW, nguồn nuôi, các hệ thống làm mát và điều khiển hỏa lực dự định tiến hành vào năm 2013 tại trường thử White Sands ở miền nam bang New Mexico.

Sau khi hoàn thành loạt thử nghiệm khai thác và tác xạ, vũ khí laser sẽ được tích hợp vào hệ thống vũ khí của máy bay ném bom chiến lược siêu âm B-1B.

Laser HELLADS sẽ cho phép máy bay bắn chính xác nhiều loại mục tiêu, từ tên lửa đến bộ binh đối phương mà giảm được tổn thất phụ khi tác chiến ở khu vực đông dân cư.

[BDV news]


>> Mỹ thử nghiệm vũ khí viba thế hệ 2



Quân đội Mỹ đã sẵn sàng thử nghiệm một mẫu vũ khí đối kháng điện tử sử dụng sóng viba năng lượng cao (High-power microwave) có tên HPM-CE.

Theo hãng Northrop Grumman, dự án chế tạo vũ khí sử dụng chùm sóng viba gắn trên các loại xe cộ chiến đấu có tên HPM-CE đã hoàn tất và sẵn sàng cho những thử nghiệm thực địa đầu tiên.

Công ty cho biết, loại vũ khí này có thể được sử dụng để chống lại các hệ thống điện tử của quân địch như các cảm biến, các hệ thống điều khiển bắn, radar.



Vũ khí viba có khả năng vô hiệu hóa các thiết bị điện tử với hiệu quả rất cao.


Sóng viba được truyền đi với vận tốc ánh sáng sẽ dễ dàng làm đoản mạch và “nướng chín” các chíp điện tử cũng chư các mạch điện bên trong máy tính hay các thiết bị thông tin liên lạc.

Không những thế, thứ vũ khí này còn có thể dễ dàng chuyển đổi thành “tấm khiên” phòng thủ chống lại các loại bom đạn dẫn đường thông minh, UAV tấn công của đối phương hay trang bị trên máy bay giúp chống lại các loại tên lửa tầm nhiệt.


Sóng viba năng lượng thấp đã được nghiên cứu sử dụng làm vũ khí giải tán đám đông không gây chết người.



Thiết bị HPM-CE của Northrop Grumman là vũ khí viba năng lượng cao thế hệ mới có kích cỡ nhỏ, dễ dàng tích hợp nên các loại xe cộ hạng nhẹ

Vũ khí sóng viba năng lượng cao HPM không phải là mới. Trước đây, Mỹ đã sử dụng máy phát sóng viba năng lượng cao gắn trên tên lửa Tomahawk để tấn công các hệ thống phòng thủ của Iraq hay các loại bom viba đã được máy bay B-2 thả xuống Nam Tư

Tuy nhiên, Northrop Grumman cho biết vũ khí viba họ phát triển lần này tinh xảo hơn rất nhiều so với những loại đã được sử dụng. Nếu như các loại đầu đạn viba kiểu cũ đều sử dụng dầu làm chất cách điện và có kích cỡ rất to thì HPM-CE lại sử dụng nhựa epoxy và có kích cỡ chỉ bằng 1/3 thiết bị kiểu cũ.

Hơn nữa, HPM-CE chỉ sử dụng nguồn điện một chiều 12V công suất chỉ có 200 mW khiến việc cung cấp năng lượng cho thiết bị đơn giản hơn nhiều. Chùm sóng viba phát ra có tần số 1,2-1,3 GHz và có góc mở đạt 30 độ.

Toàn bộ hệ thống HPM-CE có hình ống với đường kính 30cm, dài 3,66m và chỉ có khối lượng 227kg.

Với kích cỡ này, HPM-CE có thể dễ dàng gắn lên rất nhiều loại thân xe thiết giáp chở quân hay xe bọc thép chống mìn trang bị trong quân đội Mỹ hay các nước đồng minh.

[BDV news]


>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 3)



Niềm kiêu hãnh và lòng tin của lực lượng Delphin được trao cho các nhà thiết kế, chế tạo vũ khí trang bị cho người nhái.

>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 1)
>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 2)


Như đã nói ở trên, thành viên Delphin được trang bị súng APS-55 dài 62 cm, nặng khoảng 2,7 kg cả đạn và băng đạn (26 viên). Ở độ sâu 40m (sâu hơn 40 m với bình khí nén người thợ lặn không lặn được) súng có thể diệt các mục tiêu ở khoảng cách 10 m, đạn của súng tiểu liên có thể xuyên thủng lớp vỏ của tàu ngầm siêu nhỏ, hoặc bắn thủng đáy của xuồng… trên mặt nước đạn có thể diệt mục tiêu ở khoảng cách 100m.

Thuốc nổ có sức công phá mạnh, vũ khí nhiệt áp chân không và thậm chí cả đầu đạn hạt nhân mobile nữa (đầu đạn hạt nhân loại nhỏ mang theo loại 27 kg và loại lớn hơn, khoảng 70 kg, có khả năng hủy diệt cả một hạm đội), súng phóng lựu phản lực, súng phóng lựu đạn cháy, thiết bị chế áp sonar và điện tử... tất cả đều được trang bị đầy đủ và được sản xuất trong nước.

Thiết bị thở chu trình khép kín cho phép người thợ lặn có thể hoạt động dưới nước trong nhiều giờ và không lộ bí mật do không xuất hiện các bong bóng khí. Bộ quần áo Wetsuit với khả năng cách nhiệt cho phép giữ ấm người nhái, đồng thời thiết bị định vị định hướng dưới nước cho phép các Delphins có thể tác chiến trong điều kiện không gian vùng nước có độ nhìn xa gần bằng 0. Để vô hiệu hóa một Delphin, cách duy nhất là có một nhóm thành viên của PDSS khác đã trải qua huấn luyện và tác chiến thực tế.



Bình khí nén chu trình kín



Bộ khí nén và bình hơi, mặt nạ khí và phòng độc



Sơ đồ thiết bị khí thở chu trình kín


Trong giai đoạn ngày nay, với những nhiệm vụ của lực lượng đặc biệt tinh nhuệ hải quân này, thường sử dụng các loại tàu ngầm mini.

Những năm 1980, Liên Xô đã thiết kế loại tàu ngầm rất nhỏ kiểu Piranhia. Nó có thể im lặng tiếp cận mục tiêu, mang trên mình nó 6 chiến sĩ PDSS, các thùng chứa cơ sở vật chất, vũ khí trang bị và phương tiện cơ động.

Nhưng đỉnh cao nhất của trí tuệ Liên Xô là thiết bị tự hành Sirena, có cấu hình thiết kế tương tự như một quả ngư lôi tiêu chuẩn, phía trong có thể bố trí chỗ ngồi cho 2 chiến sỹ PDSS với đầy đủ trang bị. Sirena được phóng khỏi tàu ngầm bằng ống phóng ngư lôi 533mm.



Tàu ngầm mini Piranhia







Ngư lôi Sirena và các chiến sỹ đặc nhiệm Hải quân


Bí mật đổ bộ lên địa bàn căn cứ quân sự của nước thù địch, dễ nhất và an toàn nhất là sử dụng đường biển. Dựa trên cơ sở khoa học tình báo đó, vào năm 1983, trong đội hình của lực lượng tối mật Pennant "Вымпел" có nghĩa là "Cờ đuôi nheo" của Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô đã hình thành lực lượng đặc biệt người nhái.

Huấn luyện cho lực lượng đặc biệt này là các huấn luyện viên của biệt đội Delphin, nhưng cán bộ sỹ quan được huấn luyện là cán bộ của ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô.

Điểm khác nhau giữa Delphin và Pannant là trong huấn luyện, đội Pannant có nhiệm vụ phối kết hợp với chiến sỹ tình báo ở địa bàn ven biển, nơi có các căn cứ quân sự hoặc các trọng điểm kinh tế, chính trị ven biển của nước thù địch.

Mục tiêu, kết hợp với tình báo viên tấn công hủy diệt các mục tiêu chiến lược vào ngày X hoặc chiếm giữ mục tiêu cho đến khi có lực lượng đổ bộ chính từ đường biển hay đường không.

Như chúng ta đã biết, quy mô thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của Delphins và Pannant rất lớn. Trong trường hợp xảy ra chiến tranh giữa nước Nga với những nước có khả năng thù địch, lực lương PDSS có nhiệm vụ phá hủy và vô hiệu hóa toàn bộ hệ thống chống ngầm tại các khu vực như Đại tây dương, Thái Bình dương và Địa trung hải, tấn công các trung tâm điều khiển các lực lượng liên quân của các nước thù đich, phong tỏa các căn cứ hải quân, điểm xuất phát của các lực lượng đổ bộ đường biển (xuồng đổ bộ, tàu đổ bộ, các phương tiện, trang thiết bị hỗ trợ kỹ thuật như tàu chở dầu, tàu vận tải, các lực lượng chống ngầm và kể cả các tàu sân bay).

Để thực hiện nhiệm vụ đó, lực lượng có thể tiếp cận vùng nước hoạt động, có thể đổ bộ từ tàu ngầm lớp Kilo, tàu thuyền dân sự như tàu đánh cá, tàu vận tải mang cờ của nước khác hoặc tàu nghiên cứu khoa học, có thể đổ bộ từ máy bay trực thăng, máy bay vận tải từ rất sớm, khi dự kiến xảy ra hiện tượng nóng lên của chiến trường khu vực.

Nói chính xác hơn, lực lượng đặc nhiệm hải quân Delphin có ý nghĩa như lực lượng chiến lược, sẽ tấn công trên tất cả chiến trường, ở đâu không sử dụng vũ khí hạt nhân.

[BDV news]


Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

>> Chuyến bay của MiG-25R giải cứu Israel khỏi thảm họa hạt nhân



35 năm trước, chuyến bay thị uy của chiếc máy bay MiG-25R trên bầu trời Tel Aviv đã ngăn chặn được một cuộc chiến tranh hạt nhân.


Tháng 10/1973, chiến tranh giữa Israel với Ai Cập và một số nước Arập khác (cuộc chiến Yom Kippur) đang diễn ra, dư luận xôn xao bàn tán về khả năng không quân Israel tấn công đập nước Aswan trên sông Nile của Ai Cập do Liên Xô viện trợ xây dựng năm 1970.

Đập Aswan này hồi đó được gọi là “kỳ quan thứ tám của thế giới” và đến nay vẫn là một công trình vĩ đại, tầm cỡ thế giới, một trong những đập thuỷ điện cao nhất thế giới. Đập cao 111 m, dài 3.830 m, rộng 40 m, móng rộng 980 m với hồ chứa Nasser bằng bê tông dài 480 km, rộng 16 km, chứa được 160 tỷ m3 nước. Nếu Không quân Israel phá hủy được đập nước thì dòng nước cao 80-100 m có thể cuốn trôi tất cả các thành phố và khu dân cư của Ai Cập xuống biển Đỏ và Địa Trung Hải. Đây sẽ là một thảm họa quy mô toàn cầu và có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh hạt nhân.


Tiêm kích Mig-25
Máy bay tiêm kích MiG-25 Foxbat (airforce-technology.com)


Trong giới lãnh đạo cấp cao Liên Xô đã có tin đồn Không quân Liên Xô sẽ tấn công hạt nhân vào Israel nếu nước này tấn công đập Aswan. Theo thông tin trong cuốn sách “Ilya Mikhailovich Lifshits. Một nhà khoa học và một con người” xuất bản năm 2007 nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của Lifshits, một nhà vật lý lớn, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học (HLKH) Liên Xô, thì chính Yakov Borisovich Zeldovich, nhà vật lý lý thuyết lỗi lạc, Viện sĩ Viện HLKH Liên Xô, Trưởng Phòng Lý thuyết, một trong những nhà lãnh đạo của Viện Thiết kế KB-11 (còn gọi là Arzamas-16, nơi chế tạo vũ khí hạt nhân của Liên Xô) và chương trình hạt nhân Xô-viết, tháng 10/1973, đã tiết lộ với Lifshits là ban lãnh đạo Liên Xô đang chuẩn bị tấn công hạt nhân Israel và nói ông sẽ tự sát nếu điều đó xảy ra, đồng thời gửi lại bức thư tuyệt mệnh để Lifshits giữ và công bố sau khi ông chết.

Giữa lúc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở Trung Đông, Thứ trưởng Công nghiệp hàng không Liên Xô A.V. Minayev đã mời Е.А. Fedosov (hiện là Viện sĩ Viện HLKH Nga, Tổng giám đốc Viện Nghiên cứu Nhà nước các hệ thống hàng không) và Viện sĩ B.V. Bunkin, Tổng công trình sư hệ thống tên lửa phòng không đến để thảo luận khả năng cho máy bay MiG-25R bay trên bầu trời thủ đô Tel Aviv của Israel. Minayev và Fedosov nhận định các tên lửa và máy bay tiêm kích do Mỹ chế tạo đang bảo vệ không phận Tel Aviv sẽ không với tới độ cao bay gần 22-23 km của MiG-25R nên chuyến bay sẽ an toàn, còn Bunkin thì cho rằng, vẫn có nguy hiểm. Cuối cùng, Minayev quyết định đồng ý cho bay và chuyển đề xuất này lên lãnh đạo cấp cao và được chấp thuận.

Máy bay tiêm kích đa năng MiG-25 do Viện Thiết kế-Thử nghiệm (OKB) mang tên Mikoyan-Gurevich chế tạo năm 1966. Hồi đó, MiG-25 là một máy bay độc đáo, không có loại tương tự trên thế giới và khiến Mỹ và NATO rất lo ngại. Máy bay này có thể bay ở độ cao lớn chưa từng có, với trần bay thực tế là 22 km, trần bay động 37 km và tốc độ bay gấp 3 lần âm thanh. Các phương tiện phòng không của quân đội Israel khi đó không thể bắn hạ MiG-25.

Sau khi nhận lệnh, phi công Liên Xô Aleksandr Bezhevets đã lái chiếc MiG-25R không mang theo vũ khí cất cánh từ một sân bay ở Cairo và sau vài phút bay đã có mặt trên không phận Tel Aviv ở độ cao 22 km. Các máy bay F-4 Phantom và Hawk của Israel bay lên đánh chặn đã bắn ào ạt tên lửa và pháo vào chiếc MiG-25 từ mọi hướng nhưng đều không bắn tới. Phi công Bezhevets bật máy ảnh và chụp cơn mưa đạn bắn vào máy bay mình và cả thành phố Tel Aviv bên dưới. Thay vì bay 1 vòng theo kế hoạch, Bezhevets đã bay một mạch 6 vòng liền, sau đó ung dung trở về căn cứ ở Ai Cập. Sau chuyến bay này, phi công Bezhevets được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, còn Israel thì hiểu rằng, họ sẽ bị trừng phạt nếu tấn công đập Aswan.


Đập thuỷ điện Aswan
Đập thuỷ điện Aswan (wikipedia.org)


Sau chuyến bay của chiếc MiG-25R, Tham tán công sứ đại sứ quán Liên Xô ở Washington G.M. Kornienko (Nhà ngoại giao Liên Xô nổi tiếng, nguyên thứ trưởng ngoại giao Liên Xô) đã được mời đến Nhà Trắng gặp Tổng thống Mỹ Nixon.

Theo yêu cầu của phía Mỹ, ông đã tổ chức cuộc đàm phán qua điện thoại giữa Tổng thống Richard Nixon và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev mà Kornienko là người phiên dịch. Kết quả Nixon và Brezhnev thỏa thuận cùng can thiệp để chấm dứt cuộc chiến tranh Israel-Arập. Ngay hôm sau, cuộc chiến Yom Kippur chấm dứt, cứu thế giới khỏi một thảm họa chiến tranh hạt nhân.


Đập thuỷ điện Aswan
Tiêm kích đánh chặn tầm xa MiG-31 Foxhound được chế tạo dựa trên MiG-25 Foxbat


Như vậy, chuyến bay của chiếc MiG-25R đã góp phần quan trọng dẫn đến việc Israel từ bỏ ý định tấn công đập nước Aswan và ban lãnh đạo Liên Xô hủy bỏ kế hoạch ném bom hạt nhân Israel. Ngày 17/1/1974, Nhà nước Liên Xô đã trao tặng những phần thưởng cao quý cho các kỹ sư, phi công thử nghiệm có thành tích nổi bật trong việc chế tạo MiG-25.

Sau cuộc chiến Yom Kippur, Mỹ đã tìm mọi cách lấy bằng được một chiếc MiG-25 và đã làm được vào năm 1976 khi Belenko, một phi công lái MiG-25 của Liên Xô bị tình báo Mỹ tuyển mộ ngày 6/9/1976 đã lái máy bay chạy sang Nhật Bản. Sau đó, các kỹ sư Mỹ đã tháo rời từng bộ phận chiếc máy bay này và đưa về Mỹ nghiên cứu.

[Vietnamdefence news]


>> Những điểm yếu của tình báo Mỹ



Tờ Washington Post cho biết kể từ sau các vụ tấn công 11/9/2001, hệ thống tình báo mật vụ của Mỹ đã phát triển đến mức hiện không ai biết chi phí chính xác của hoạt động này là bao nhiêu, hay có bao nhiêu người tham gia vào công tác này.


Washington Post nói gần 2000 công ty tư nhân và 1270 cơ quan chính phủ đã tham gia vào công tác chống khủng bố tại 10 ngàn địa điểm trên toàn đất nước.


nghiadx.blogspot.com
CIA chỉ là một trong số hơn một chục cơ quan tình báo của Mỹ


Báo cáo này, mang tên Hoa Kỳ Tối mật (Top Secret America), được đưa ra sau hai năm điều tra của Washington Post.

Các quan chức được trích dẫn thừa nhận rằng hệ thống này còn nhiều thiếu sót, nhưng họ cũng đặt các câu hỏi về kết luận của tờ báo.

Trước khi báo cáo được đưa ra, Nhà Trắng nói với tờ Washington Post rằng họ biết có các vấn đề trong việc thu thập tình báo của Mỹ và đang tìm cách xử lý.

Cồng kềnh

Báo cáo này nói việc phát triển ngành an ninh - với các hợp đồng trị giá hàng tỉ dollar được đưa ra cho nhiều cơ quan chính phủ và nhà thầu tư - đã kéo theo một hệ thống khó sử dụng, thiếu giám sát trong khi lại lãng phí và trùng lặp cao.

Theo tờ Washington Post:

Khoảng 854 ngàn công dân Mỹ được phép tiếp cận các thông tin bí mật cao.
1/5 trong số các tổ chức chống khủng bố ở Mỹ là được tạo ra kể từ sau các vụ tấn công 11/9/2001.
Hơn 250 cơ quan an ninh được lập ra hoặc tái cơ cấu kể từ sau vụ 11/9.
Hơn 30 khu tổ hợp với diện tích chừng 1.6 triệu mét vuông được xây dựng cho tình báo mật tại khu vực Washington kể từ sau vụ tấn công.
Nhiều cơ quan ấn hành rất nhiều báo cáo mà các quan chức chẳng bao giờ sờ tới.
Kể từ sau các vụ tấn công 11/9, hệ thống tình báo và theo dõi của Mỹ đã thay đổi mạnh, với nhiều cải cách - như việc tạo ra Ban Giám đốc Tình báo Quốc gia để theo dõi 16 cơ quan hoạt động tình báo - và tiêu tốn rất nhiều nguồn lực.

Các quan chức Mỹ thì nói những cải cách này đã kéo theo những cải thiện lớn.

Phóng viên BBC về quốc phòng và an ninh, Nick Childs, nhận định các sự cố gần đây - như vụ đánh bom máy bay không thành tại Detroit vào tháng 12 năm ngoái, và vụ tấn công bất thành ở quảng trường Times ở New York vào tháng Năm - tiếp tục cho thấy những yếu kém và thất bại của hệ thống tình báo.

Không lộ danh tính

Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates nói sự cồng kềnh của hệ thống thu thập tình báo Mỹ không phải là không quản lý nổi, nhưng đôi khi người ta khó mà có được thông tin chính xác.

Tháng trước, Tổng thống Barack Obama chỉ định tướng về hưu James Clapper, vốn là quan chức hàng đầu của Lầu Năm Góc, lên thay cho đô đốc Dennis Blair làm lãnh đạo ngành tình báo trong thời gian tới.

Báo cáo Hoa Kỳ Tối mật do phóng viên đoạt giải Pulitzer, Dana Priest soạn thảo với sự cộng tác của hơn hai chục phóng viên khác, và được ấn hành làm ba phần trong tuần này.

Washington Post nói cuộc điều tra của họ dựa trên các tài liệu của chính phủ, hồ sơ công và hàng trăm cuộc phỏng vấn với các quan chức tình báo, quân sự và kinh doanh cùng các cựu quan chức.

Theo Washington Post, đa phần những người được phỏng vấn yêu cầu giữ bí mật danh tính, do họ không được phép nói công khai hoặc sợ bị trả đũa tại nơi làm việc.

[Vietnamdefence news]


>> Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung: Lựa chọn nào cho nước Nga? (Phần 1)



“Sự tham gia của các nhà khoa học và kỹ sư Nga vào việc “hoàn thiện” sản phẩm của Trung Quốc là một trong những trang bí ẩn nhất của sự hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung”


http://nghiadx.blogspot.com


Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung Quốc mà mới 10 năm trước còn mang lại phần lớn thu nhập cho xuất khẩu vũ khí Nga thì hôm nay không thể tự hào với những hợp đồng vũ khí lớn. Hơn nữa, nhờ quan hệ đối tác này, Trung Quốc trong 20 năm gần đây đã có sự đột phá mà chỉ sự tiến bộ trong thập niên 1950 mới có thể sánh được. Hợp tác ký thuật quân sự Nga-Trung có những thành quả nào và triển vọng gì trong tương lai?

Lịch sử lặp lại

Việc nối lại hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Moskva và Bắc Kinh và sự tăng trưởng vũ bão của nó có liên quan chặt chẽ tới 2 thời điểm then chốt của lịch sử cận đại: bình thường hóa quan hệ Xô-Trung cuối những năm 1980-đầu những năm 1990 và ngược lại là sự chỉ trích gay gắt của các nước phương Tây đối với chính sách của ban lãnh đạo Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Kết quả là sau khi mất quyền tiếp cận công nghệ quân sự hiện đại của phương Tây, Trung Quốc cần có nguồn cung ứng thay thế mà chỉ có thể là Liên Xô mới có thể giữ vai trò đó.

Tình hình còn có đặc điểm là quân đội Trung Quốc vào cuối thập kỷ 1980 vẫn hoặc là được trang bị các vũ khí sao chép trực tiếp các loại vũ khí Liên Xô thời thập niên 1940-1950, hoặc là các mẫu vũ khí chế tạo dựa trên các hệ thống của Liên Xô với những thay đổi nhỏ. Đồng thời, Trung Quốc vẫn tiếp tục nghiên cứu và sao chép các mẫu vũ khí Liên Xô kể cả sau khi quan hệ song phương hầu như bị cắt đứt vào đầu thập niên 1960. Các mẫu vũ khí trang bị cần thiết họ lấy được bằng những con đường vòng thông qua các nước thế giới thứ ba đã mua vũ khí của Moskva.

Các mục tiêu của Trung Quốc trong “hiệp 2” hợp tác kỹ thuật quân sự với Nga cũng như 40 năm trước là cực kỳ thực dụng:

- trang bị cho các binh chủng then chốt vũ khí hiện đại mua từ Liên Xô/Nga;
- sao chép các mẫu vũ khí trang bị, hệ thống, tổng thành then chốt để triển khai sản xuất loạt chúng ở Trung Quốc;
- phát triển trường phái thiết kế thông qua hợp tác với các tổ chức nghiên cứu khoa học và giáo dục của Liên Xô/Nga thuộc chuyên ngành tương tứng.

Chính logic này được thể hiện trong tất cả các hợp đồng vũ khí Trung-Nga trong 20 năm qua. Trong các hành động của phía Nga, ít ra là cho đến đầu những năm 2000, thật khó phát hiện một cách tiếp cận có hệ thống. Nó hiện diện một cách khách quan trong thập niên 1950, khi mà tiến hành chuyển giao cho Bắc Kinh vũ khí trang bị khá hiện đại, Liên Xô hạn chế sự tiếp cận của đồng minh Trung Quốc tới các công nghệ trọng yếu thời đó. Những hạn chế này cùng với những thảm họa nội bộ trong thập niên 1960 là nguyên nhân chính làm chậm lại nghiêm trọng sự phát triển công nghiệp quốc phòng Trung Quốc sau khi Liên Xô chấm dứt viện trợ. Hiện nay, mấy chục năm sau, Trung Quốc dự định lấy lại những gì đã bỏ lỡ.

Tất cả đều là hàng Nga

Tình trạng khó khăn nhất đối với Trung Quốc là ngành chế tạo máy bay. Vào đầu thập niên 1990, không quân Trung Quốc chủ yếu được trang bị vũ khí trang bị thế hệ 1 và 2. Đó là các máy bay tiêm kích J-5 và J-6, các mẫu tương đương MiG-17 và MiG-19 của Liên Xô. Chúng đã cấu thành nền tảng không quân chiến thuật Trung Quốc, thậm chí việc sản xuất loạt J-6 ở Trung Quốc chỉ chấm dứt vào đầu thập niên 1980, tức là sau hơn 20 năm so với Liên Xô. Trong thời gian này, Trung Quốc đang sản xuất J-7 (saop chép MiG-21) cho không quân của họ. Trung Quốc cũng xuất khẩu loại máy bay này. Tiêm kích hiện đại nhất của Trung Quốc lúc đó là J-8, vốn vẫn là mẫu cải tiến từ MiG-21. Nặng và lớn hơn MiG-21, máy bay này có khả năng cơ động kém đối với một máy bay của thập kỷ 1980 và không có triển vọng phát triển. Cũng lạc hậu như thế là đội máy bay tiến công, bao gồm tiêm kích-bom Q-5 Fantan, được phát triển dựa trên MiG-19, và các máy bay ném bom H-5 (Il-28) và H-6 (Tu-16).

Chuyên gia quân sự nổi tiếng Konstantin Makienko cũng nêu lên một nhược điểm chí mạng của không quân Trung Quốc cuối thập niên 1980-đầu thập niên 1990: “ngoài việc không quân Trung Quốc được trang bị các vũ khí trang bị “đồ cổ”, họ hầu như không có kinh nghiệm sử dụng chiến đấu kể cả ở cấp chiến thuật, lẫn chiến lược, cũng như gặp khó khăn liên quan đến việc huấn luyện nhân lực tồi, hạ tầng yếu kém và chỉ huy trình độ thấp. Cả trong chiến tranh Triều Tiên lẫn chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979, không quân Trung Quốc đều không tham gia tích cực. Nhìn chung, giống như cả quân đội Trung Quốc, không quân Trung Quốc có tiềm lực không đáng kể và khả năng sẵn sàng chiến đấu thấp”.

Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc đã có kế hoạch dựa vào 2 chương trình chính. Chương trình thứ nhất là mua sắm từ Nga tiêm kích hạng nặng Su-27 để sau đó triển khai sản xuất theo giấy phép máy bay này. Chương trình thứ hai là phát triển tiêm kích hạng nhẹ J-10 dựa trên dự án Lavi của Israel mà họ mua được vào ngay cuối thập kỷ 1980. Nhiệm vụ này tuy vậy Trung Quốc vẫn không thể tự lực giải quyết.

Nửa đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã mua 2 lô tiêm kích Su-27. Trong những năm 1992-1996, họ đã nhận được từ Nga 36 chiếc Su-27SK một chỗ ngồi và 12 chiếc Su-27UBK hai chỗ ngồi. Cuối năm 1996, Nga và Trung Quốc đã ký hợp đồng sản xuất theo giấy phép máy bay Su-27 tại nhà máy ở Thẩm Dương, Trung Quốc với số lượng 200 chiếc. Trong không quân không quân Trung Quốc, máy bay này được đặt tên là J-11. Trong khi nghiên cứu làm chủ việc sản xuất loạt, các công trình sư Trung Quốc đồng thời cố gắng sao chép máy bay này và các tổng thành chính của nó, và đến cuối thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, họ đã đạt được những thành công nhất định khi bắt đầu sản xuất J-11 mà không dùng các bộ linh kiện của Nga.

Tuy nhiên, vào nửa cuối thập niên 1990, mẫu máy bay Su-27 cơ sở, trước hết dùng để giành ưu thế trên không đã không còn thỏa mãn hoàn toàn không quân Trung Quốc vì họ cần có một máy bay đa năng để tác chiến chống cả mục tiêu trên không lẫn trên mặt đất.

Tháng 8.1999, đến hợp đồng bán cho Trung Quốc 40 Su-30МКК, loại máy bay khác với Su-27SK ở chỗ có khả năng sử dụng tên lửa không-đối-không tối tân nhất thời đó RVV-AE, cũng như mang các loại vũ khí không-đối-diện có điều khiển khác nhau, được ký kết. Một hợp đồng khác cung cấp 43 máy bay này cũng được ký kết vào năm 2001, sau đó, Trung Quốc đã mua thêm 24 Su-30МК2. Đến nay, Su-30 về khách quan đang là nền tảng sức mạnh của không quânTrung Quốc.

Tuy vậy, các máy bay Su-30 của Trung Quốc thua kém đáng kể về tính năng so với các mẫu Su-30 dành cho không quân Ấn Độ vì chúng được trang bị hệ thống avionics tương đối lạc hậu và không có các động cơ có điều khiển vector lực đẩy. Thật khó nói nằm sâu đằng sau sự hạn chế về tính năng này là việc Nga không muốn chuyển giao cho Trung Quốc các công nghệ quân sự mới nhất hay là Nga muốn Trung Quốc tăng càng nhanh càng tốt số lượng máy bay hiện đại của không quân Trung Quốc mà không quá chú ý đến mức độ “tiên tiến” của chúng.

Sự giúp đỡ hữu ý và vô tình

Song song với việc làm chủ các máy bay Su-30 do Nga cung cấp và J-11 được sản xuất ở Trung Quốc, họ cũng tiếp tục phát triển các máy bay nội địa tiên tiến, trong đó nổi bật là 3 loại: tiêm kích “hạng trung” J-10 dựa trên thiết kế Lavi của Israel, tiêm kích hạng nhẹ FC-1, vốn là MiG-21 cải tiến cơ bản, và tiêm kích thế hệ 5 được giữ trong vòng bí mật một thời gian dài J-20. Trong đó, J-20 xem ra đã được chế tạo không dựa vào một mẫu chế thử nước ngoài cụ thể nào mà là thành quả của nhiều công trình nghiên cứu và thử nghiệm. Tuy nhiên, các công trình sư J-20 vẫn chịu ảnh hưởng rõ ràng của nước ngoài.

Bên cạnh đó, J-10 và FC-1, tuy là các máy bay đã hoàn chỉnh sẵn sàng đã có thể không thể ra đời nếu không có sự hỗ trợ kỹ thuật của nước ngoài. Việc vạch mặt chỉ tên những viện nghiên cứu và liên hiệp cụ thể của Nga đã tham gia hoàn thiện các máy bay này có lẽ không có ý nghĩa vì cả các chuyên gia máy bay lẫn những người không chuyên đều biết rõ họ là những cơ quan nào. Vấn đề nằm ở chỗ khác: sự hợp tác đó là xác đáng đến đâu với Nga? Cần nói ngay rằng, việc đổ lỗi chỉ cho các tổ chức nghiên cứu ấy là không công bằng và vô nghĩa: trong hoàn cảnh hầu như không có tài trợ từ phía nhà nước Nga, các nhà lãnh đạo các viện nghiên cứu, thiết kế đã buộc phải tìm những ai có thể trả tiền cho công việc của họ, và không phải lỗi của họ khi mà khách hàng chính trong nhiều trường hợp lại là Trung Quốc.

Sự tham gia của các nhà khoa học và kỹ sư Nga vào việc “hoàn thiện” sản phẩm của Trung Quốc là một trong những trang bí ẩn nhất của sự hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung vốn đã được bảo mật khá chặt chẽ. Tuy không biết các chi tiết cụ thể của sự hợp tác này, ngày nay, chúng ta có thể thấy rõ các hậu quả của nó: Trung Quốc đã chế tạo, thử nghiệm và đưa vào sản xuất loạt 2 loại tiêm kích có khả năng cạnh tranh khá mạnh với các máy bay Nga trên thị trường bên ngoài. Loại FC-1 rẻ tiền và thô sơ cạnh tranh với các dự án MiG-21 hiện đại hóa sâu của Nga, cũng như với máy bay MiG-29 các đời đầu đã qua sử dụng, còn loại J-10 phức tạp, nặng và tiên tiến hơn thì cũng hướng vào cùng phân khúc thị trường mà MiG-29 cải tiến, kể cả MiG-35, cũng như các biến thể “trẻ hơn” của Su-27 nhằm vào.

Một loại tiêm kích khác mà Trung Quốc cũng không thể chế tạo nếu thiếu sự hỗ trợ của Nga - đó là J-11, nhưng ở đây tình hình hơi khác một chút. Sau khi chuyển giao cho Trung Quốc 2 lô Su-27 và họ triển khai sản xuất máy bay này theo giấy phép, Nga đã bảo mật khá chặt chẽ các bí mật công nghệ của máy bay này. Nửa cuối thập niên 1990 và đầu những năm 2000 đã xảy ra một số vụ bê bối gián điệp liên quan đến các âm mưu của tình báo Trung Quốc đánh cắp thông tin công nghệ chi tiết về cấu tạo Su-27 và các tổng thành then chốt của nó mà họ không tự lực làm nhái được.

Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn làm được J-11 “của mình”, nhưng đến nay, theo ý kiến chung của các chuyên gia, nó vẫn chưa đạt được tính năng của một mẫu chế thử. Những vấn đề căn bản là ở dự trữ làm việc của các động cơ do Trung Quốc sản xuất, tính năng của hệ thống avionics và dự trữ làm việc chung của khung thân. Tuy vậy, dưới hình thức đó, J-11 cùng với J-10 vẫn có khả năng tăng cường đáng kể sức mạnh của không quân Trung Quốc khi chúng thay thế các máy bay quá lạc hậu J-7 và J-8. Nó cũng có thể thu hút sự quan tâm ở thị trường bên ngoài. Trong số các khách hàng nhiều khả năng nhất là các nước tương đối nghèo, chẳng hạn ở châu Phi và Mỹ Latinh, cần có máy bay hiện đại và sẵn sàng trả 30-40 triệu USD cho một máy bay chiến đấu.

Một máy bay Trung Quốc “gốc Nga” khác là máy bay trên hạm J-15, được chế tạo hoàn toàn theo kiểu “kẻ cướp”.

Ngay vào cuối thập niên 1990, người Trung Quốc đã đề nghị Nga bán 50 chiếc Su-33, nhưng trong quá trình dàm phán, họ đã giảm số lượng máy bay định mua xuống còn 2 chiếc, sau đó phía Nga ngừng đàm phán vì lo ngại hợp đồng này sẽ làm thất thoát công nghệ như đã xảy ra với J-11.

Năm 2005 (theo nguồn khác là năm 2001), Bắc Kinh đã mua từ Ukraine máy bay Т-10К, một trong những mẫu chế thử đầu tiên của Su-33, và đầu tháng 6.2010, họ tuyên bố đã hoàn thành chế tạo mẫu chế thử tiêm kích trên hạm mới. Sự chậm trễ kéo dài đó là do khó khăn liên quan đến công nghệ cánh gấp của tiêm kích trên hạm. Tuy vậy, một số báo chí Trung Quốc dẫn nguồn công ty thiết kế J-15 đưa tin rằng, máy bay này không phải là sao chép Su-33 (với lý do Su-33 có thiết bị avionics, radar và tên lửa lạc hậu) mà là thiết kế cải tiến của J-11B (sao chép Su-27).

Tháng 7.2010, xuất hiện đoạn video bay thử J-15, còn theo tờ Hoàn Cầu (Trung Quốc) thì chuyến bay đầu tiên của J-15 diễn ra ngày 31.8.2009.

Ngày 25.4.2011, trên các diễn đàn Trung Quốc xuất hiện những bức ảnh đầu tiên của máy bay mới. Hôm sau, báo chí chính thức của Trung Quốc cũng đăng tải các bức ảnh này. Trên các bức ảnh thấy rõ là máy bay được trang bị cánh gấp, có ống đuôi ngắn và khung càng được gia cường. Các bức ảnh được chụp tại sân nhà máy số 112 của hãng chế tạo máy bay ở Thẩm Dương, đông bắc Trung Quốc. Dự đoán, việc thử nghiệm sẽ kéo dài mấy năm nữa và máy bay sẽ được nhận vào trang bị sau năm 2015.

Được coi là bước đột phá mạnh mẽ hơn là việc chế tạo J-20. Tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc đã thực hiện chuyến bay đầu tiên, theo thông tin hiện có, là vào tháng 1.2011. Trên internet đã xuất hiện khá nhiều bức ảnh chụp máy bay này và các chuyên gia trong lĩnh vực hàng không trổ tải trong việc tìm kiếm các mẫu chế thử. Nhưng rõ ràng là máy bay này không phải là mẫu sao chép trực tiếp, cũng chẳng phải là “tư duy mới có tính sáng tạo” đối với một máy bay tương tự nào đó của nước ngoài. Nhiều khả năng đây là sản phẩm tự lực, mặc dù được chế tạo bằng việc sử dụng các giải pháp kỹ thuật học mót của nước ngoài. Theo các chuyên gia, J-20 Đại bàng đen của hãng Thành Đô có rất nhiều chi tiết giống và sao chép hoàn toàn các chi tiết của các tiêm kích F-22 và F-35 của Mỹ và máy bay thử nghiệm MiG 1.44 của Nga. Ví dụ, vòm kính buồng lái và phần mũi của J-20 giống với F-22, cách bố trí các bộ hút khí và cấu tạo của chúng cũng gần giống F-22 và F-35. Phần đuôi không có cánh đuôi ngang mà chỉ có 2 cánh đứng dưới thân và 2 động cơ đặt gần nhau tương tự MiG 1.44. Hình dáng cánh đứng đuôi quay toàn phần giống với F-35.

Kết quả nửa vời

Trong 20 năm qua, Bắc Kinh đã đạt được tiến bộ rõ ràng và không nghi ngờ trong việc phát triển và sản xuất trang bị kỹ thuật hàng không khi “nhảy vọt” từ các máy bay thế hệ 1, 2 lên thẳng các máy bay thế hệ 4 và 4+, và hơn nữa là đã chế tạo được mẫu chế thử máy bay chiến đấu thế hệ 5. Tuy vậy vẫn còn sớm để nói đến sự phát triển vững chắc của công nghiệp hàng không Trung Quốc và triển vọng xán lạn của nó. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, Trung Quốc liên tục thể hiện khả năng sao chép và đưa vào sản xuất loạt, dù là không phải không có khó khăn các hệ thống vũ khí nào đó, nhưng họ rất hiếm khi có thể khoe khoang về việc tiếp tục phát triển cái đã sao chép được. Vì thế, chỉ sau 2-3 thập kỷ, Trung Quốc lại lâm vào tình thế kẻ đuổi theo và cần đến sự hỗ trợ của nước ngoài.

Các triệu chứng tái diễn tình hình này ngay bây giờ đã hiển hiện rõ: khi tìm cách sao chép các động cơ AL-31F lắp trên Su-27, Trung Quốc đã lâm vào tình huống khi mà các đối thủ chính là Nga và США đã có các động cơ thế hệ mới, trong khi động cơ WS-10 mà Trung Quốc sao chép từ AL-31F hiện vẫn chưa đạt đến các thông số do nhiệm vụ kỹ thuật đặt ra. Vì thế, đang xuất hiện nhiều tin đồn về khả năng Trung Quốc mua các động cơ mới của Nga, tuy nhiên trong thập kỷ này, thương vụ đó không còn quá hấp dẫn đối với Nga như trong thập niên 1990. Kết quả là câu hỏi về việc tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc sẽ bay bằng loại động cơ nào vẫn còn để ngỏ.

[BDV news]


>> Tên lửa chống hạm siêu thanh Moskit 3М-80



Tránh khỏi tên lửa 3M-80 "Moskit" là điều không thể, kẻ thù chỉ có thể phát hiện thấy tên lửa 3-4s trước khi nó lao vào tầu. Tên lửa 3M-80 mang 1 động năng rất lớn , nó có khả năng xuyên thủng bất kể 1 lớp tầu nào và gây lên 1 vụ nổ từ bên trong...





Tổ hợp tên lửa chống hạm siêu thanh "Moskit" với tên lửa có cánh 3M-80(3M-80M) được phát triển bởi viện thiết kế "Cầu vồng" trong năm 1973. Lãnh đạo viện, tổng công trình sư И.С.Селезнева. Hoàn thiện hệ thống dẫn đường trên tên lửa 3M-80 là "Бе-12".
Tên lửa 3M-80 là tên lửa siêu thanh có trần bay thấp trên mặt biển. Nó thuộc lớp tên lửa chống hạm dự định thay thế tên lửa hạng nhẹ KR-P-15.
"Moskit" là tổ hợp tên lửa chống hạm duy nhất trên thế giới có tốc độ siêu âm trên 2M nhưng lại có trần bay rất thấp. Đã có hơn 30 phát minh, sáng chế cùng các công trình khoa học được áp dụng vào tổ hợp tên lửa "Moskit". Ví dụ như tổ hợp tên lửa "Moskit" lần đầu tiên được lắp Động cơ phản lực dòng thẳng (Прямоточный воздушно-реактивный двигатель - ПВРД) kết hợp với bệ phóng lom tựa như búp bê lật đật (Một loại búp bê có thể làm bằng gỗ, nhựa có độ thăng bằng cao nhờ 1 viên bi ở đáy hình cầu của búp bê-Tiếng Nga gọi loại búp bê này là :"матрешкa").

Hệ thống điều khiển tên lửa lửa được phát triển bởi Liên hiệp nghiên cứu-Chế tạo Quốc gia " Altair" (ГосНПО «Альтаир»-государственное научно-производственное объединение), dưới sự lãnh đạo của С.Климов. Để hoàn thiện tổ hợp, tên lửa đã được tiến hành thử nhiệm tại căn cứ "Бе-12".

Ban đầu với phương án trang bị "Moskit" trên tầu nổi ,như tầu khu trục, tầu mang tên lửa. Năm 1984 tổ hợp tên lửa "Moskit" được tiếp nhận trang bị cho khu trục lớp "Hiện đại" đề án 956 (Современный» (проект 956). Trên khu trục dự án 956 được lắp đặt 2 tổ hợp phóng KT-190. Đề án trang bị tên lửa 3M-80 trên máy bay bị kéo dài , phải tới giữa năm 1992 và 1994 mới thực hiện được ( Tại thành phố Комpоnоvка ).
Tên lửa có cánh 3M-80 sử dụng trong tổ hợp tên lửa "Moskit" được chế tạo để tiêu diệt các tầu chiến, tầu vận tải, tầu hộ vệ có lượng choán nước đến 20.000t .Hoặc các nhóm tầu tấn công, tầu đổ bộ, trong điều kiện có sự đối phó của các thiệt bị điện tử , ra da định vị hoặc ra da cảnh báo sớm của đối phương. Tên lửa 3M-80 có khả năng chống lại tác hại của 1 vụ nổ hạt nhân sảy ra gần nó.

Tên lửa 3M-80 hoạt động dựa trên nguyên lý khí động học sơ đồ (X) phân bổ khí động lực trên bề mặt tên lửa. Động cơ hỗn hợp 2 chế độ với động cơ phản lực dòng thẳng (Прямоточный воздушно-реактивный двигатель - ПВРД) đây là động cơ phản lực không khí sử dụng nhiên liệu rắn và Động lực đẩy tên lửa (Thay máy gia tốc) khi xuất phát bằng thuốc súng. Tên lửa sau 3-4 giây được phóng đi, thuốc súng sẽ qua vòi phun bởi luồng không khí lùa vào buồng đốt và bị đốt cháy- Đây chính là quá trình gia tốc cho tên lửa để đạt tốc độ siêu thanh . Động cơ phản lực dòng thẳng (Прямоточный воздушно-реактивный двигатель - ПВРД) được phát triển bởi phòng thiết kế 670 (ОКБ-отдельное конструкторское бюро 670), lãnh đạo phòng là М.М.Бондарюк. Động cơ sau đó được chuyển cho phòng thiết kế chế tạo động cơ " Liên minh"để hoàn thiện (МКБ-моторостроительное конструкторское бюро) .

Hệ thống điều khiển tên lửa với đầu dẫn quán tính, rada dẫn đường chủ động và bị động cung cấp khả năng bắn chúng mục tiêu cao trong điều kiện có sự đối phó của ra da đối phương. Với các mục tiêu là các tầu nhỏ, các nhóm tầu tấn công sác xuất trúng đích là 0,99. Với tầu hộ tống, tầu đổ bộ là 0,94. Sau khi tên lửa dời bệ phóng nó bay theo hình "quả đồi" sau đó hạ thấp độ cao đến 20m. Trước khi đến gần mục tiêu, trần bay của tên lửa chỉ còn 5-7m ( Trên ngọn sóng).




1/Hệ thống dẫn đường chủ động-Thụ động , 2/Hệ thống dẫn đường định vị, 3/Đầu đạn ,4/ Ống phun , 5/ Điều khiển dẫn động , 6/ Động cơ phản lực nhiên liệu rắn , 7/ Bin , 8/ Rada đo độ cao.







Sơ đồ tác chiến tên lửa 3M-80.
Từ tên xuống dưới:
Tốc độ xuất phát của tên lửa 200-470m/s
Tốc độ tối đa: 3M.
Tốc độ : 2,5M.
Trần bay :5-15m.
Tầm bắn 150km.
Tầm bắn 250km.





Quả tên lửa 3M-80.

Tránh khỏi tên lửa 3M-80 "Moskit" là điều không thể, kẻ thù chỉ có thể phát hiện thấy tên lửa 3-4s trước khi nó lao vào tầu. Tên lửa 3M-80 mang 1 động năng rất lớn , nó có khả năng xuyên thủng bất kể 1 lớp tầu nào và gây lên 1 vụ nổ từ bên trong. Đây là đòn tấn công nhấn chìm không những các lớp tầu chiến tầm trung mà còn cả những tuần dương nữa. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự trong nước (Nga) và nước ngoài tên lửa 3M-80 "Moskit" là tên lửa chống hạm tốt nhất trên thế giới.

Ngoài lớp khu trục đề án 956 và tầu chống ngầm cỡ lớn " Đô đốc Chabanenko" đề án 11551 (БПК пр. 11551 «Адмирал Чабаненко" БПК- большой противолодочный корабль). tên lửa 3M-80 "Moskit" còn được trang bị trên tầu mang tên lửa trong đề án 12411. Trong đề án này 3M-80 "Moskit" được lắp ở giữa tầu 2 hệ thống phóng KT 152M. Rất ít tên lửa 3M-80 "Moskit" được trang bị trên thủy phi cơ trong đề án 1239. Tên lửa 3M-80 "Moskit" còn được trang bị trên máy bay Hải quân để bảo vệ bờ biển.

Biến thể của tên lửa 3M-80 là tên lửa 3M-80M với tầm bắn xa hơn được phóng thử từ máy bay của hãng hàng không "Арсеньевской авиационной компании «Прогресс» им. Н.И.Сазыкина".

Tổ hợp tên lửa 3M-80 "Moskit" không ít lần được chưng bầy tại hội chợ triển lãm vũ khí tại Chile , ab- Dhabi(UEA) và hội chợ triển lãm MAX ( Ngoại ô Moscow).

Tổ hợp tên lửa 3M-80 "Moskit" được chính thức xuất khẩu sang TQ trang bị tổ hợp hoàn thiện trên khu trục.
Tên lửa 3M-80-X41 là tên lửa được trang bị trên máy bay, đây là tên lửa "không- Đối hạm" được thiết kế cho các máy bay tiêm kích như SU-33(SU-27K) hoặc trên máy bay ném bom SU-32KHN( CУ-32ХН) hoặc cho các máy bay có khả năng cất hạ cánh trên các tầu sân bay SU-27K(SU-33). Tên lửa 3M-80-X41 được cheo dưới thân dưới động cơ máy bay.


Tính năng kỹ thuật:

1/ Mô tả chung:

-Nhà phát triển: Viện thiết kế chế tạo động cơ "Cầu vồng" (МКБ «Радуга»)
-Nhà sản xuất: Nhà máy "Tiến bộ" Thành phố Arsenev (г.Арсеньев)
-Tên gọi: «Моsкiт» (3М-80)
-Mã hiệu: П-270 «Москит» Х-41
+Tên gọi của NATO : SSN-22 «Sunburn»
+Loại đầu dẫn Quán tính+ Rada định vị chủ động-Thụ động

2/ Cấu hình , trọng lượng tính năng kỹ thuật:

-Chiều dài: 9,385m.
-Sải cánh: 2,1m.
-Đường kính: 0,76m.
-Đường kính tên lửa với cấu hợp cánh: 1,3m.
-Thời gian bảo quản trạng thái chiến đấu: 1,5 năm.
-Trọng lượng phóng: (3М-80 ) 3950kg.
(3М-80Е) 4150-4500kg.

-Đầu đạn: 300 (320)kg.
-Trọng lượng hỗn hợp nổ: 150kg

3/ Thiết bị động năng:

-Nhà phát triển : Phòng thiết kế chế tạo động cơ "Liên minh" thành phố:Turaevo (МКБ "Союз" г.Тураево)
-Động cơ phản lực không khí dòng thẳng: 3D83 (3Д83).
-Tốc độ phóng: 1.8-2.5M.
-Thời gian phóng: 0.5s
-Thời gian chuẩn bị phóng: 250s.

4/ Thông số bay:

-Tốc độ trung bình: 2,35M
-Tốc độ tối đa: 2,8M.
-Tầm bắn : (3М-80) 10-90km hoặc 250km.
(3М-80Е ) 120 hoặc 250km.
-Trần bay: 7-20m.
-Tốc độ phóng: 200-470m/s.
-Trần phóng: 12km.
-Góc ngoặt : +/- 60 o.
-Nhiệt độ ứng dụng: +/-60.
-Thời gian phóng loạt 4 quả : 15s.
-Nhịp độ phóng giữa các loạt: 5s.








[BDV news]


>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 2)



Khi các ứng viên trải qua được những cuộc kiểm tra gắt gao về y tế và tâm lý, họ được tuyển chọn và trở thành học viên.

>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 1)

Bắt đầu khóa huấn luyện cơ bản, cực kỳ khó khăn, mức độ huấn luyện của khóa chỉ có thể so sánh với huấn luyện phi công vũ trụ. Khóa dài 26 tuần (½ năm) và được chia thành 3 giai đoạn.

Giai đoạn 1 có 7 tuần, 1 ngày học tập dài 15 giờ. Học viên phải chạy vượt chướng ngại vật trên đoạn đường dài, bơi, chèo thuyền, vượt qua những tuyến vật cản.

Từng ngày tải trọng huấn luyện càng tăng lên, yêu cầu huấn luyện cũng càng ngày càng khắc nghiệp hơn. Đồng thời, huấn luyện viên luôn luôn đặt ra những bài tập gây nhiễu, ví dụ: đổ dầu lên mặt nước và đốt, hoặc buộc học viên phải bơi cạnh chiếc bè, phía trên có đặt thuốc nổ và kích nổ.

Tuần huấn luyện cuối cùng là tuần huấn luyện chịu đựng tải trọng vượt quá sức chịu đựng của con người và trạng thái tâm lý vô cùng căng thẳng.

Trong thời gian này, học viên chỉ được ngủ không quá 3-4 giờ mỗi ngày. Học viên phải hành quân liên tục 100 km với đầy đủ vũ khí trang bị, sau đó bơi với bộ quần áo lặn wetsuit khoảng 10 hải lý (18,5 km), kéo theo một vật nặng khoảng 40 kg.

Giai đoạn huấn luyện thứ nhất này, từ hàng vài trăm người, lượng học viên chịu đựng được còn độ khoảng 15 đến 20 học viên.


Xạ kích dưới đáy biển.



Súng tiểu liên bắn dưới nước APM


Giai đoạn hai kéo dài khoảng 11 tuần, ở giai đoạn này, học viên nghiên cứu sử dụng các phương tiện, thiết bị lặn ngầm, các kỹ thuật công binh phá nổ, chiến thuật tổ nhóm ít người trong nước và trên đất liền, sử dụng vũ khí lạnh và vũ khí nóng (bao gồm cả vũ khí thông thường và vũ khí đặc chủng).

Học viên học nhẩy dù, leo núi hoặc những bức tường dựng đứng, điều khiển các phương tiện cơ động ngầm dưới mặt nước và trên mặt nước, đồng thời sử dụng các phương tiện giao thông trên bộ thông dụng khác, kể cả xe nâng hạ bằng điện trên bến cảng.

Tất nhiên, nội dung trọng tâm huấn luyện vẫn là các hoạt động tác chiến dưới nước, khả năng tiềm nhập từ dưới nước vào vị trí đã chọn và rút lui xuống dưới nước từ trên bờ.

Một lượng thời gian rất lớn học viên phải học kỹ thuật chiến đấu tay không trên bộ, tay không và có dao găm (loại thông thường và loại lưỡi lê nhọn). Các chàng học viên trẻ tuổi phải nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ pháp gây shock, gây tổn thương và hạ sát đối phương.

Trong quá trình thực hiện các bài huấn luyện thường lựa chọn ra những nhóm nhỏ, phù hợp hoạt động ăn ý với nhau. Bởi các phân đội (tổ 2-4 người) cần phải hoạt động chính xác, đồng bộ, như bộ máy của một chiếc đồng hồ cơ khí hoàn hảo. Đó là yêu cầu mãi rũa sự ăn ý, hiểu nhau đến từng cử động trong quá trình các bài huấn luyện tác chiến.

Kết thúc giai đoạn 2 khóa huấn luyện, học viên được trả thi bằng bài kiểm tra bảo vệ và phòng thủ các điểm chốt trên bờ biển hoặc chiến hạm chống lại các lực lượng đặc nhiệm hải quân ngầm của đối phương trong các cuộc diễn tập như một trận đánh. Bài thi sẽ kiểm tra đánh giá khả năng hoạt động tác chiến dưới nước ở các độ sâu khác nhau.

Định hướng, quan sát trong điều kiện tầm nhìn rất hạn chế, tiến hành hoạt động tác chiến, theo dõi đối phương, cắt đuôi khỏi sự theo dõi của đối phương, ngụy trang ẩn nấp trên bộ… Những học viên trả thi có kết quả tốt được đưa về các đơn vị lính thủy đánh bộ để nâng cao kỹ năng chiến đấu.

Giai đoạn 3 kéo dài 8 tuần. Các huấn luyện viên có kinh nghiệm theo dõi học viên hàng ngày hàng giờ. Sau đó các chiến sỹ đặc nhiệm lặn ngầm một số được giữ lại ở đơn vị lính thủy đánh bộ, một số quay về lực lượng PDSS, ở đó họ tiếp tục được huấn luyện.

Những người có tiềm năng hơn cả được mời tham gia 2 năm huấn luyện trong một trung tâm huấn luyện đặc biệt của trinh sát đặc nhiệm công kích hải quân.

Đây là trung tâm huấn luyện lực lượng đặc biệt tinh nhuệ Denphin. Cách đây không lâu, căn cứ của nó nằm trên bờ hồ Balkhash nước cộng hòa Kazakhstan, hồ muối mặn có diện tích 17.000 km2, sâu đến 226m.

Ở đây, học viên phải nhẩy dù với mọi độ cao, bắt đầu từ độ cao 200m đến độ cao nhất trên tầng bình lưu xuống mọi địa hình khác nhau – mặt nước, rừng, đồi núi, thảo nguyên, hoang mạc trong mọi điều kiện thời tiết, thời gian và khí hậu.

Tuột xuống từ máy bay trực thăng bằng dây trong 28 giây ở độ cao 40m, và không dùng dây, nhẩy từ độ cao 5m xuống nước, học viên được học phương pháp từ trong tàu ngầm lao vào nước biển thông qua ống phóng ngư lôi. Học viên học các kỹ năng đánh tàu, cửa chắn tàu, đê biển, cầu cống, đánh chiếm sân bay, vị trí chỉ huy, các điểm kết nối thông tin liên lạc...

Đồng thời, học viên học cách tồn tại và sống trong mọi điều kiện khí hậu thời tiết, trên mọi địa bàn phức tạp nhất như ở đầm lầy, trên sa mạc… đồng thời có khả năng tự cởi trói, trốn tù, chịu đựng tra tấn, có khả năng làm việc với mọi đài thông tin liên lạc, sử dụng độc dược và sử dụng tât cả các loại phương tiện, thiết bị dân dụng và quân sự.

Kỹ năng xạ kích từ các loại vũ khí trong nước và nước ngoài chiếm một thời lượng rất lớn trong huấn luyện. Trong các loại vũ khí mà Denphin sử dụng, có những loại không hề có ở nước ngoài, ví dụ như súng tiểu liên APS-55.



Chuẩn bị tác chiến.


Nhưng quan trọng nhất, tại sao đặc công ngầm Delphin có thể vượt hơn cả các đội đặc nhiệm tương đương trên thế giới, đó là khả năng vượt qua mọi tuyến vật cản dưới nước và vận động qua mọi tuyến phòng thủ tưởng chừng như tuyệt đối không thể vượt qua. Ví dụ: Trong đêm biển động, sóng lớn, đổ bộ từ trực thăng ở khoảng cách mục tiêu là 15 hải lý (28km) nhiệm vụ đặt ra là bí mật luồn sâu vào căn cứ hải quân của đối phương và phá nổ một mục tiêu được bảo vệ cẩn mật.

Tuyến vật cản thứ nhất là bãi mìn ngầm dưới nước, có thể kích nổ từ trên bờ bằng sóng âm từ những trạm điều khiển theo tín hiệu của sonar.

Tuyến vật cản thứ 2, các dây phát tín hiệu dăng dày dưới mặt nước từ nhiều hướng khác nhau.

Tuyến phòng thủ thứ 3, Lưới nổ với những khối nổ nhậy được gắn chặt. Lưới không thể cắt được và bơi luồn dưới lưới cũng không được, phía trên là đèn pha công suất lớn với những khẩu súng máy phòng thủ bờ biển hạng nặng, nếu bơi lên phía trên lưới sẽ bị bắn nát.

Nhưng các thành viên delphin đã bí mật luồn qua mọi tuyến phòng thủ, vượt qua một vách núi dựng đứng, bí mật, không một tiếng động họ vô hiệu hóa lực lượng lính canh. Sau đó gài thuốc nổ và rút lui an toàn.

Trong biệt đội Delphin, các tổ được huấn luyện chuyên sâu theo từng vùng tác chiến, Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông Nam Á, Nam và Tây Nam Phi, Trung cận đông, các nước ở khu vực Địa Trung hải... Sau giai đoạn huấn luyện ở Trung tâm Delphin, họ được chuyển về đóng quân tại Sevastopol, ở đó, những họ nghiên cứu các bài tập với cá heo, chiến đấu chống lại các động vật dưới biển được huấn luyện để chống người nhái. Tập luyện chiến đấu chống lại người nhái của đối phương.

Khi các huấn luyện viên xác định, học viên Delphin đã hoàn toàn sẵn sàng, delphin được tham gia vào các hoạt động tác chiến. Nhưng bắt buộc mỗi năm, đặc công nước phải trải qua một khóa huấn luyện với các trang thiết bị mới, vũ khí mới, các thiết bị y tế mới, đồng thời học hỏi các kinh nghiệm của các chiến sỹ đặc công nước khác và các lực lượng đặc công nước ngoài qua các trận đánh của 1 năm qua.

Mọi chiến dịch do lực lượng đặc nhiệm Hải quân delphin tiến hành đều không thể thiếu được sự hỗ trợ tuyệt đối của các nhóm khoa học hải dương. Các nhóm đã cung cấp đầy đủ thông tin về địa hình hải dương, nơi Delphin tiến hành tác chiến (thông tin về hải lưu, địa hình bờ biển, vị trí thuận lợi để đổ bộ, những vị trí ẩn nấp tự nhiên, nhiệt độ, những sinh vật có thể gây nguy hiểm cho con người ở vùng nước tác chiến, độ trong của nước biển, thời gian và cao độ cũng như mực nước thấp nhất của thủy triều và rất nhiều các thông tin quan trọng khác…).

Các chuyên gia hải dương thực hiện kết nối thông tin tín hiệu âm thanh dưới nước, sử dụng thiết bị sonar định hướng, định vị vị trí trên bản đồ hải dương và bờ biển, tạo màn ngụy trang che dấu vị trí đổ bộ từ tàu xuống biển và từ biển lên tàu.

Thông thường các phân đội bảo đảm khoa học kỹ thuật làm việc trên các con tàu nghiên cứu hải dương học hoặc trên các con tàu – nhà máy sản xuất thủy sản lưu động trên đại dương.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang