T-4 đã chạm một tay vào danh hiệu "kẻ hủy diệt tàu sân bay" nhưng dự án máy bay ném bom chiến lược này đã bị hủy bỏ mà không có một lời giải thích.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh Liên Xô luôn cố gắng để tạo ra một kẻ hủy diệt tàu sân bay của Mỹ, song tất cả đều chỉ là những giấc mơ. Hóa giải sức mạnh của đội tàu sân bay hùng hậu của Mỹ luôn là một bài toán đau đầu đối với lãnh đạo Liên Xô trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Mỹ luôn chiếm thế thượng phong trên mặt trận hải quân và không quân. Đến cuối những năm 1950, có thể nói Liên Xô đã không thể tạo ra được một sự cân bằng nếu có một cuộc chạm trán trên không và trên biển. ![]() T-4 có cấu hình khí động học khá ấn tượng. Theo thống kê, có hơn 600 bằng sáng chế được cấp liên quan đến sự phát triển của T-4. Liên Xô cũng có được sự hậu thuẫn từ lực lượng tên lửa đạn đạo liên lục địa. Song tại thời điểm đó, Mỹ cũng phát triển thành công tên lửa đạn đạo triển khai trên tàu ngầm, có khả năng đánh trúng mục tiêu ở cự ly đến 2.200km. Kết hợp với nhóm tác chiến của tàu sân bay, đây thực sự là một sự đe dọa lớn đối với Liên Xô. Cách duy nhất để hóa giải mối hiểm họa này là sử dụng các tên lửa cực nhanh với một đầu đạn đặc biệt, thậm chí là đầu đạn hạt nhân. Với một mục tiêu liên tục di chuyển trên biển, cách tiếp cận hiệu quả nhất là một đột kích từ trên không. Với một tên lửa siêu âm, có tốc độ gấp 4-5 lần tốc độ âm thanh, một máy bay có khả năng đột kích mạng lưới phòng không của tàu sân bay. Đó là cơ sơ để Ủy ban hàng không nhà nước yêu cầu sự ra đời của “kẻ hủy diệt tàu sân bay". Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, phạm vi hủy diệt tối đa của các tên lửa đối không là 160km, tầm cao tối đa 30km. Các tên lửa đối không có khả năng tiêu diệt các mục tiêu bay với tốc độ 2.650km/h ở tầm cao 25km. Vì vậy, yêu cầu của Ủy ban hàng không nhà nước khá cao, máy bay phải đạt được các tiêu chí sau. Tốc độ tối đa 3.000km/h, trần bay 24km, tên lửa hành trình siêu âm có tầm bắn từ 400-600 dặm, vượt ngoài tầm với của hệ thống phòng không đối phương. ![]() Nếu được hoàn thành T-4 xứng đáng với danh hiệu "kẻ hủy diệt tàu sân bay" Bản thiết kế vượt thời gian Năm 1964 Pavel Sukhoi cha đẻ của phòng thiết kế máy bay Sukhoi và Tập đoàn Sukhoi hiện nay đã trình bày bản vẻ mẫu thiết kế máy bay ném bom chiến lược mới T-4. Với thiết kế khí động học cực kỳ ấn tượng, máy bay có kết cấu cánh tam giác, rìa cánh được kéo dài đến tận gần buồng lái, 2 cánh mũi ở phía trước nhằm tăng độ ổn định và khả năng cơ động. Phần mũi của máy bay được thiết kế rất độc đáo, phần mũi chúi về phía trước, điều này thể hiện quan điểm thiết kế của T-4 là một mẫu máy bay chuyên thực hiện nhiệm vụ tấn công mặt đất và mặt nước. Bởi phần mũi chúi xuống, radar sẽ quan sát địa hình tốt hơn, cung cấp khả năng lập bản đồ địa hình, tầm nhìn xuống của phi công cũng không bị hạn chế. T-4 được trang bị 4 động cơ RD36-41 cung cấp lực đẩy có đốt sau 157kN mỗi chiếc, tốc độ tối đa dự kiến là 3.200km/h. Để máy bay có thể đạt tốc độ như vậy, đòi hỏi vật liệu chế tạo phải có khả năng chịu ma sát đặc biệt. Do đó, T-4 được chế tạo từ vật liệu hợp kim titan và thép không gỉ, đây có thể xem là bước đột phá trong vật liệu chế tạo máy bay. T-4 được dự định trang bị hệ thống điều khiển Fly-by-wire tiên tiến, ngoài ra còn có một hệ thống điều khiển cơ khí dự phòng. Hệ thống radar công suất lớn nhằm phát hiện và tấn công mục tiêu từ xa. Song song với sự phát triển của T-4 là chương trình phát triển tên lửa siêu âm X-33(Kh-45), do phòng thiết kế OKB-155 (nay là Raduga) đảm nhiệm. Theo yêu cầu tên lửa phải có tốc độ tối đa Mach 6,5-7 lần tốc và có khả năng phóng từ độ cao 30km, tầm bắn từ 550-600km. Ngày 22/8/1972, mẫu thử nghiệm đầu tiên của T-4 101 chính thức cất cánh. Phi công thử nghiệm Vladimir Ilyushin, con trai của nhà thiết kế máy bay nỗi tiếng Sergei Ilyushin, được giao nhiệm vụ thực hiện các chuyến bay thử nghiệm của T-4. Tính đến ngày 19/1/1974, mẫu thử nghiệm T-4 101 đã thực hiện 10 chuyến bay với thời gian 10 giờ 20 phút, mẫu thử nghiệm đã đạt tốc độ Mach-1,3 và đạt độ cao 12km. Sự kết thúc trong im lặng Mọi chuyện đối với T-4 đang diễn biến theo chiều hướng khá thuận lợi, mẫu thử nghiệm T-4 102 cũng đã được sản xuất, các mẫu thử nghiệm 103-104 cũng đã được lên kế hoạch. Đây là thời điểm quan trọng để các nhà thiết kế có thể đạt mục tiêu là đưa máy bay đạt tốc độ tối đa 3.200km/h như yêu cầu. Các chuyến bay thử nghiệm tiếp theo là điều hết sức cần thiết để hoàn thành dự án tiến tới sản xuất loạt. Với thiết kế khí động học ưu việt, sở hữu tốc độ cao, tầm bay xa, vũ khí uy lực, T-4 chuẩn bị trở thành kẻ hủy diệt tàu sân bay như dự định. Cùng với tên lửa Kh-45 tầm bắn 600km, T-4 hoàn toàn có thể thực hiện các cuộc đột kích tiêu diệt tàu sân bay trước khi đối phương kịp phản ứng. Thế nhưng, đầu năm 1974, Ủy ban hàng không nhà nước Liên Xô ra quyết đinh tạm đình chỉ công việc đối với dự án T-4. Đến ngày 19/12/1975 các công việc liên quan đến T-4 chính thức bị hủy bỏ mà không có bất kỳ một lời lý giải nào. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Liên Xô tiếp tục theo đuổi chương trình T-4, có thể họ sẽ tạo ra một ưu thế lớn đối với không quân Mỹ, đe dọa nghiêm trọng các nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ. Song cũng có một số ý kiến cho rằng, chi phí phát triển của T-4 là quá đắt đỏ, vai trò của T-4 là không thực sự cần thiết khi Mỹ đã quyết đinh hủy bỏ dự án XB-70 Valkyrie 's. Điều đáng buồn hơn cả là dành cho nhà thiết kế vĩ đại Pavel Sukhoi, cho đến khi ông qua đời vào ngày 15/9/1975, ông vẫn không nhận được bất kỳ câu trả lời nào cho sự hủy bỏ dự án đầy tâm huyết của ông và nhóm thiết kế. [BDV news] |
Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011
>> Số phận hẩm hiu của vũ khí chiến lược T-4
>> So sánh các chiến hạm tiêu biểu ở Đông Nam Á
Bài báo sẽ điểm qua 4 "gương mặt" nổi trội nhất trong số các chiến hạm chủ lực thuộc Hải quân các quốc gia Đông Nam Á, là Gepard 3.9, Formidable, Lekiu và Sigma. Tiếp nối dòng bài về Hải quân các nước ASEAN,xin đi sâu vào phân tích ưu thế của các chiến hạm tiêu biểu trong khu vực, dựa trên các tiêu chí về khả năng tấn công, phòng vệ, cơ động và mức độ hiện đại... Dưới đây là các phân tích cụ thể: Khả năng tấn công Nhìn chung, các chiến hạm tiêu biểu kể trên có vũ khí chủ lực là tên lửa chống hạm. Nếu Gepard 3.9 trang bị tên lửa Kh-35 và Formidable (của Singapore) trang bị tên lửa Harpoon, 2 chiến hạm còn lại sử dụng tên lửa Exocet. Bên cạnh đó, cũng cần xét tới uy lực của các pháo hạm. Chiến hạm lớp Lekiu của Malaysia được trang bị 8 tên lửa Exocet Block 2, tầm bắn 70km đầu đạn nặng 165kg, một pháo 57mm tầm bắn 17km với tốc độ 220 viên/phút. Còn Sigma của Indonesia có 4 tên lửa Exocet Block 2, một pháo Oto Melara 76mm với các tính năng như trên Formidable. Formidable có 8 tên lửa Harpoon tầm bắn 130km đầu đạn 227kg, bên cạnh đó là 1 khẩu pháo Oto Melara 76mm tầm bắn 16km, bắn đạn pháo 6kg với tốc độ lên tới 120 viên/phút. Gepard có 8 tên lửa Kh-35 Uran-E tầm bắn 130km, một pháo AK-176M 76mm tầm bắn 10km với tốc độ 120 viên/phút. ![]() Tên lửa đối hạm Harpoon. Về cơ bản các tên lửa cận âm như Exocet, Harpoon hay Uran-E khá giống nhau ở chỗ được radar tàu chiến hay máy bay dẫn đường ở pha đầu và tự sử dụng radar của tên lửa ở pha cuối. Tuy nhiên, do tầm hoạt động thấp, các tàu trang bị loại tên lửa Exocet phải tiếp cận đối phương gần hơn so với Gepard 3.9 và Formidable Với các thông số (số lượng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tầm bắn) của tên lửa như đã nói, kết hợp với pháo hạm trang bị, có thể tạm xếp sức mạnh các tàu chiến theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, tiếp đó là Lekiu và Sigma. ![]() Gepard 3.9 của Việt Nam. ![]() Formidable của Singapore. Khả năng phòng vệ Hệ thống phòng vệ của các tàu chiến trên đều có loại tầm gần và cực gần, cùng hệ thống chống ngầm. Trong đó, chiến hạm lớp Lekiu có 2 pháo phòng không CWIS MSI 30mm tốc độ bắn 650 viên/phút, 16 tên lửa phòng không Sea-wolf tầm bắn 6km. Khả năng bảo vệ ở mức trung bình. Sigma có 8 tên lửa phòng không Mistral với tầm bắn 5,3km tốc độ 800m/giây, về căn bản đây là loại tên lửa phòng không vác vai cải tiến nên không thể bằng các loại chuyên nghiệp như Aster hay Seawolf. Hơn nữa, các tên lửa này có cơ chế điều khiển đơn giản (bằng hồng ngoại) và số lượng tên lửa ít. Gepard có 2 pháo phòng không AK-630 30mm, tổ hợp phòng không gồm 2 pháo AO-18KD 30mm và 8 tên lửa nạp sẵn Sosna-R tầm bắn 8km với tốc độ 1.200m/giây. Hệ thống bảo vệ 4 nòng 30mm kết hợp với 8 tên lửa (có thể hơn) giúp Gepard có khả năng bảo vệ tương đối tốt. Còn Formidable có tên lửa phòng không Aster-15 với 32 quả tên lửa, loại tên lửa 2 tầng này có thể đánh chặn các loại tên lửa chống hạm cận âm bay thấp khác (ở cự ly 15km), các UAV (ở cự ly 30km). Nhìn chung, dựa vào số lượng, cự ly đánh chặn và số lượng trang bị, có thể xếp theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, Lekiu và cuối cùng là Sigma. ![]() Mô phỏng các vị trí trên Formidable ![]() Bắn tên lửa Seawolf trên chiến hạm lớp Lekiu. Về nhiệm vụ chống ngầm, 3 tàu chiến lớp Formidable, Lekiu, Sigma lại đều dùng ngư lôi hạng nhẹ 324mm của cùng 1 nhà sản xuất còn khả năng của Gepard 3.9 hiện là ẩn số nên trường hợp này chưa thể đưa ra "xếp hạng". Khả năng cơ động và dự trữ hành trình Lekiu có lượng giãn nước 2.270 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 164 người. Sigma có lượng giãn nước 1.700 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn chừng 80 người Formidable có tốc độ 27 hải lý/giờ, gần bằng 2 chiến hạm trên nhưng có lượng giãn nước lên tới 3.200 tấn, với thủy thủ đoàn 85 người. Gepard 3.9 cũng không thua kém gì các tàu bạn khi có vận tốc tối đa là 28 hải lý/giờ, với lượng giãn nước 2.100 tấn, thủy thủ đoàn 103 người Qua so sánh ta thấy về tốc độ tối đa thì các tàu tương đương nhau, tầm hoạt động cũng đều chừng 5000 dặm nhưng Formidable của Singapore có tải trọng gấp rưỡi các tàu còn lại với số lượng thủy thủ ít, do đó khả năng dự trữ thực phẩm sẽ vượt trội hơn các tàu khác, qua đó cũng góp phần nâng cao khả năng đi biển dài ngày. Trong hạng mục này, Formidable vẫn đầu bảng, các tàu xếp sau khó phân "hơn thua". ![]() Sigma của Indonesia ![]() Lekiu của Malaysia Tính năng tàng hình và tự động hóa trên tàu Xét về tàng hình phụ thuộc vào các yếu tố như thiết kế, chất liệu, các thiết bị phụ trợ, vậy chúng ta tạm thời sẽ đánh giá khả năng tàng hình qua thiết kế hình dáng bên ngoài con tàu. Chiến hạm Lekiu có thiết kế nhiều thiết bị đặt lộ thiên, điều này sẽ tăng phản xạ radar lên rất nhiều, qua đó khiến nó “nổi bật: trên màn hình theo dõi hơn các tàu khác. Sigma có thiết kế tương đối ổn, giống như Gepard 3.9 nếu so Formidable có thiết kế "dấu biệt" vũ khí, phương tiện, khí tài vào bên trong. Bất cứ chuyên gia kỹ thuật quân sự nào nhìn vào sẽ cho điểm Formidable cao nhất trong các tàu kể trên. Về khả năng thông tin liên lạc cũng như thiết bị trên tàu, sẽ khá là khó để kiểm chứng vì các thông số của nhà sản xuất chỉ ở mức tham khảo, nhưng cũng sẽ không khó nhận ra con tàu có tải trọng lớn nhất lại có số người điều khiển gần ít nhất là khả năng tự động hóa sẽ rất cao, đó là Formidable. Vì vậy, trong hạng mục này, thứ tự lần lượt sẽ là: Formidable, Gepard 3.9 và Sigma, Lekiu. ![]() Theo dõi bắn tên lửa Aster trên Formidable ![]() Sigma của Indonesia có thiết kế khá "mượt" Kết luận tạm thời Như vậy, không khó để nhận ra Formidable là chiến hạm hiện đại nhất Đông Nam Á, Gepard 3.9 cũng sử dụng những công nghệ khá hiện đại, nó có một số vượt trội so với các tàu của Malaysia hay Indonesia. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những phép thử so sánh trên đây đơn giản chỉ dựa vào thông số kĩ thuật. Trong tác chiến, thành bại còn phụ thuộc vào kĩ năng của người sử dụng cũng như nghệ thuật quân sự. Hiện đại là quan trọng, con người là quyết định. [BDV news] |
Nhãn:
Chiến hạm hiện đại Lekiu,
Hải quân Malaysia,
Hải quân Singapore,
Hải quân Việt Nam,
Khu trục Gepard 3.9,
Khu trục hạm lớp Formidable,
Tàu hộ vệ lớp Sigma
Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011
>> 10 vũ khí sinh học đáng sợ nhất (kỳ 1)
Chiến tranh là nơi con người sử dụng mọi công cụ có thể tìm ra trên trái đất để triệt hạ kẻ thù. Để chiến thắng, tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật tất cả đều có thể bị bóp méo hoặc bị lợi dụng bằng mọi phương án có thể. Trong số đó, vũ khí sinh học chính là một trong những “sáng tạo” khủng khiếp nhất, bao gồm các loại virus, vi khuẩn, nấm, côn trùng được dùng để giết hại đối thủ, làm đối phương tê liệt hoặc hủy diệt tài nguyên của kẻ thù. Ngay từ những năm 1.500 trước Công Nguyên, người Hittie ở Tiểu Á đã nhận ra sức mạnh của bệnh truyền nhiễm và tìm cách làm lây truyền bệnh dịch hạch tại vùng đất của kẻ thù. Các đội quân tìm cách bắn các xác chết mang dịch bệnh vào các pháo đài kiên cố hoặc đầu độc các giếng nước của đối phương. Đáng chú ý hơn, nhiều nhà sử học còn cho rằng 10 loại bệnh dịch mà theo kinh thánh là của nhà tiên tri Moses làm phép chống lại người Ai Cập thực chất là vũ khí sinh học có thật chứ không phải thần thánh gì. Đấy là câu chuyện về thời cổ. Từ đó đến nay kiến thức của loại người về các tác nhân gây bệnh và về hệ miễn dịch đã tăng lên chóng mặt cùng với sự tiến bộ của y học. Oái oăm thay, tri thức y học cũng đồng thời được ấp ủ để làm mầm mống vũ khí. Nửa đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến người Đức và người Nhật sử dụng bệnh Than trong chiến trận, sau đó Mỹ, Anh và Nga cũng nối gót phát triển loại vũ khí này. Năm 1972, vì hậu quả thảm khốc của nó mà cộng đồng quốc tế đã nhất trí thực thi hiệp ước về việc hủy diệt vũ khí sinh hóa và cấm phát triển, sản xuất cũng như tàng trữ vũ khí sinh học và hóa học. Tuy nhiên đến giờ, không có ai đảm bảo rằng không có quốc gia nào đang lén lút phát triển vũ khí sinh học, cũng như không có ai chắc chắn trong thực tế những kiến thức sinh hóa đang có sẽ không bị lợi dụng bởi các nhóm khủng bố dẫn đến những hậu quả khôn lường. Trong kịch bản kinh hoàng nhất mà các nhà khoa học đang lo ngại, bộ gien của đối phương có thể được sử dụng làm chỉ thị đặc hiệu để các sinh vật tấn công. Nói cách khác, vũ khí sinh học có thể khiến một dân tộc cụ thể biến mất một cách có chọn lọc. Các chuyên gia chống độc có mặt tại toà nhà Hart Building của Thượng nghị viện Hoa Kỳ sau khi một bức thư chứa vi khuẩn than được gửi tới văn phòng của Thượng nghị sỹ Tom Daschle (AFP). Trong loạt bài này xin tổng hợp 10 loại tác nhân đáng sợ nhất đã, đang hoặc sẽ có thể được sử dụng trong chiến tranh sinh học của loài người: Vũ khí sinh học loại A: Trung tâm phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) phân loại các vũ khí sinh học loại A với các tiêu chí: Có thể lây lan dễ dàng với số nạn nhân lớn, có thể gây ra rối loạn đối với dân chúng, và cần được chuẩn bị phòng chống ở chế độ đặc biệt. Hiện tại mới có 6 tác nhân sinh học được xếp vào nhóm A và tất cả đều đáng được xếp và danh sách mười vũ khí sinh học đáng sợ nhất. (nguồn: CDC). 1. Đậu mùa Thuật ngữ “vũ khí sinh học” thường gợi ra hình ảnh về các phòng thí nghiệm sạch bong với những nhân viên mặc áo bảo hộ và các ống nghiệm chứa đầy các chất lỏng hủy diệt. Thực tế, trong lịch sử vũ khí sinh học có bộ mặt đời thường hơn nhiều: một kẻ đi đày lang thang trên vùng đất mới, vài cái túi đã được bổ sung bọ chét mang dịch hạch. Thậm chí trong cuộc chiến giành thuộc địa giữa Anh và Pháp năm 1763, vũ khí sinh học đơn giả chỉ là một cái chăn. Theo lệnh của viên tướng nổi tiếng Jeffrey Amherst, Quân đội Anh đưa những chiếc chăn tẩm virus đậu mùa để triệt hạ các bộ lạc thổ dân Bắc Mỹ tại Ottawa lúc đó là đồng minh của Pháp. Những người dân bản xứ này hoàn toàn không có khả miễn dịch với virus đậu mùa bởi họ chưa hề gặp bệnh dịch này như đối thủ của họ. Kết quả của chiến thuật này là dịch bệnh đã quét qua những bộ lạc khốn khổ đó không khác gì độ hủy diệt của một trận cháy rừng. Bệnh đậu mùa có thủ phạm là virus variola trong đó chủng phổ biến nhất gây chết ở 30% số người mắc phải. Dấu hiệu nhận thấy bệnh bao gồm sốt, đau toàn thân và phát ban do các vết sưng chứa nước hoặc vảy, cuối cùng sẽ biến thành sẹo lõm suốt đời nếu như bệnh nhân còn sống. Đậu mùa thường được lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm virus hoặc dịch cơ thể của họ nhưng cũng có thể được truyền qua không khí qua các môi trường kín và chật hẹp. Năm 1967 tổ chức Y tế thế giới mở một chiến dịch để loại bỏ hoàn toàn bệnh đậu mùa bằng tiêm chủng hàng loạt. Chiến dịch đã thành công rực rỡ khi bệnh đậu mùa không còn lây lan tự nhiên sau ca bệnh cuối cùng ghi nhận năm 1977. Tuy bệnh đã không còn trong tự nhiên nhưng các chủng virus vẫn được duy trì trong các phòng thí nghiệm ở Nga và Mỹ dưới sự đồng ý của WHO. Mặt khác do virus đậu mùa đã từng được quan tâm rất lớn trong các chương trình vũ khí của một số quốc gia, không ai dám chắc có nơi nào vẫn đang cất giấu loại virus chết người này. CDC xếp đậu mùa vào nhóm vũ khí sinh học loại A do tỷ lệ tử vong cao và khả năng lan truyền qua không khí của nó. Hiện đã có vaccine phòng đậu mùa nhưng nhìn chung chỉ có các nhân viên y tế và quân sự là được tiêm phòng, đồng nghĩa với việc đa số dân chúng còn lại hứng chịu rủi ro cực lớn nếu xảy ra tấn công bằng virus đậu mùa. Virus có thể được phát tán dưới dạng hơi giống như phun thuốc sâu hoặc thậm chí bằng cách cổ điển nhất là đưa một người mang bệnh vào khu vực cần tấn công. 2. Bệnh Than Mùa thu 2001, những bức thư chứa một loại bột trắng bí ẩn đã được gửi đến các văn phòng Thượng nghị sỹ và báo giới Mỹ. Khi những người có trách nhiệm thông báo chất bột đó là bào tử của loại vi khuẩn chết người Bacillus anthracis, cảm giáchoảng loạn bao trùm xã hội Mỹ. Vụ tấn công này đã làm 22 người nhiễm virus và 5 người trong số đó tử vong. Bảy năm sau đó FBI mới lần đến được thủ phạm là nhà nghiên cứu Bruce Ivans, ông này được chính phủ trả lương để nghiên cứu bệnh than nhưng đã tự tử trước khi việc điều tra hoàn tất. Với tỷ lệ tự vong cao và khả năng tồn tại lâu trong môi trường, hiển nhiên vi khuẩn than được xếp vào nhóm vũ khí sinh học loại A. Loại vi khuẩn này sống trong đất và do đó tiếp xúc và truyền bào tử sang các động vật ăn cỏ. Con người có thể nhiễm qua tiếp xúc, hít thở hoặc nuốt phải B. anthracis. ![]() Con đường tấn công của Bacillus anthracis. Phần lớn các ca nhiễm bệnh than là qua tiếp xúc ngoài da với vi khuẩn nhưng hình thức nguy hiểm nhất là hít vào qua đường hô hấp, trong đó bào tử xuất hiện tại phổi và được các tế bào miễn dịch mang đến các hạch bạch huyết. Tại đây các bào tử sẽ nhân lên và giải phóng độc tố dẫn đến các triệu chứng sốt, rối loạn hô hấp, đau mỏi cơ, sưng hạch bạch huyết, nôn, tả và xuất hiện các nhọt màu đen. Nếu không được điều trị, chắc chắn bệnh nhân sẽ tử vong, thậm chí cả khi có trợ giúp y tế cũng chỉ có một phần tư số bệnh nhân sống sót. Tất cả 5 ca tử vong năm 2001 đều là do lây nhiễm qua hình thức nguy hiểm này. Bệnh than không dễ mắc phải trong các điều kiện bình thường và nó cũng không thể lây từ người sang người. Giống như đậu mùa, cũng lại chỉ có các nhân viên y tế, bác sỹ thú y và nhân viên quân đội là được chủng ngừa căn bệnh này. Phần còn lại luôn nằm trong nguy cơ khi có bất kỳ một cuộc tấn công tương tự xảy ra. Cùng với việc không được tiêm chủng đầy đủ (điều kiện chung thấy ở hầu hết các tác nhân trong danh sách của chúng ta), khả năng sống dai cũng là một đặc điểm quan trọng của vi khuẩn bệnh than. Một số vi khuẩn Bacillus anthracis có thể được giữ 40 năm hoặc hơn mà vẫn không mất đi khả năng giết người, trong khi nhiều tác nhân sinh học khác chỉ có thể tồn tại một thời gian ngắn dưới điều kiện đặc biệt. Đặc tính này khiến cho vi khuẩn than chiếm ưu thế trong các chương trình vũ khí sinh học trên khắp thế giới. Năm 1930 các nhà khoa học Nhật Bản đã thực hiện các thí nghiệm trên người với vi khuẩn than trong môi trường phun khí tại Đơn vị nghiên cứu vũ khí sinh học 731, một trạm nghiên cứu tai tiếng đặt tại vùng chiếm đóng Manchuria (Mãn Châu Lý, Trung Quốc) của người Nhật. Quân đội Anh cũng làm thí nghiệm với bom vi khuẩn than vào năm 1942 khiến cho cả đảo Gruinard bị nhiễm khuẩn đến mức 44 năm sau người ta phải dùng đến 280 tấn formaldehyde để khử trùng khu vực này. Quân đội Liên Xô cũng vô tình để rò rỉ vi khuẩn than theo đường không khí khiến 66 người thiệt mạng. Ngày nay, Bacillus anthracis vẫn là một trong những loại vũ khí sinh học đáng sợ và nổi tiếng nhất. Vô số chương trình vũ khí đã hợp sức sản xuất tác nhân chết người này, trong khi tiêm chủng hàng loạt chỉ có thể tiến hành khi đã xảy ra nhiễm khuẩn hàng loạt [BDV news] |
>> Động cơ cực khỏe cho Xe tăng Trung Quốc?
Trang mạng Xinjunshi của Trung Quốc cho biết xe tăng Type-99KM được trang bị động cơ lên đến 2.100 mã lực, một chuẩn mực mới của xe tăng hiện đại. Trang mạng trên giới thiệu: Type-99KM là một sự vượt trội về hệ thống điện tử, giáp bảo vệ thế hệ mới, động cơ cực khỏe, hệ thống vũ khí đầy uy lực. Và rằng, Type-99KM là một chuẩn mực mới của xe tăng, hoàn toàn vượt trội so với xe tăng M1A2 của Mỹ về hiệu suất tổng thể. Đây là loại tăng hiện đại nhất và uy lực nhất trong kho vũ khí của quân đội Trung Quốc. Đồng thời, xe tăng chiến đấu chủ lực Type-99KM sẽ là nòng cốt của lực lượng tăng thiết giáp Trung Quốc trong tương lai, thay thế cho loại tăng Type-99 hiện nay. "Type-99KM không còn là một sự tuyên truyền như mọi người vẫn nghĩ", bài viết của Xinjunshi có đoạn. ![]() Thông số cơ bản dài 11 mét, rộng 3,4 mét, cao 2,2 mét, khối lượng của Type-99KM lên đến 60 tấn. Type-99KM được Trung Quốc cho là chuẩn mực mới của xe tăng hiện đại. Theo một số nguồn tin, Type-99KM được trang bị áo giáp composite dạng modun thế hệ mới, dể dàng tháo lắp và thay đổi tùy theo nhiệm vụ. Thiết bị điện tử bên trong được cải tiến, hiện đại hơn, hệ thống dữ liệu quản lý chiến đấu mới cho phép xe tăng Type-99KM nhanh chóng định vị và tiêu diệt mục tiêu. Hệ thống phòng vệ chủ động laser APS JD-4 tối ưu với các cảm biến tinh vi hơn cho phép đối phó hiệu quả với mối đe dọa đến từ tên lửa chống tăng. Hệ thống quan sát ưu việt cho phép kiểm soát tốt môi trường xung quanh xe tăng và các khu vực khác. Pháo chính của Type-99KM được cho là có thể lên đến cỡ 155mm, tích hợp khả năng phóng tên lửa chống tăng qua nòng pháo. Hệ thống nạp đạn tự động mới, hệ thống kiểm soát bắn mới, máy tính đường đạn thế hệ mới, hệ thống ổn định nòng pháo khi hành tiến, cho phép bắn chính xác hơn, ngay cả trong khi xe đang di chuyển. Pháo chính của Type-99KM có khả năng xuyên thủng vỏ giáp dày 850mm, kể cả trang bị giáp cảm ứng nỗ, thậm chí lên đến 950mm với loại đạn chống tăng mới, khoảng cách để pháo chính của Type-99KM có thể đạt được khả năng xuyên giáp như vậy không được công bố, trong khi đó khả năng này ở pháo chính 120mm của M1A2 chỉ xuyên có 810mm. Ngoài ra, Type-99KM còn được trang bị súng phòng không cỡ 12,7mm được điều khiển bắn từ bên trong xe, giúp xe tăng đối phó với các mục tiêu trên không. Công suất động cơ gây sốc Đặc biệt hơn cả, Type-99KM được trang bị động cơ diesel làm mát bằng chất lỏng công suất lên đến 2.100 mã lực, được giới thiệu là động cơ trang bị cho xe tăng mạnh nhất thế giới hiện nay. Tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng lên đến 28 mã lực/tấn. Tốc độ tối đa của Type-99KM có thể lên đến 80km/h. "Thông số này hoàn toàn có thể cạnh tranh danh hiệu “xe tăng bay” với Leopard-2A6 của Đức và T-80 của Nga", trang mạng Xinjunshi bình luận. Xe tăng Type-99KM được bọc giáp dày từ 500-600 mm xung quanh tháp pháo, phía trước mũi xe được bọc giáp dày đến 1.000-1.200mm, kết hợp với giáp cảm ứng nỗ ERA. Tuy nhiên, các nhà phân tích quân sự thế giới đang băn khoăn, với một động cơ có công suất lớn như vậy tầm hoạt động của xe tăng này sẽ là bao nhiêu? Thân xe buộc phải kéo dài hơn để tăng độ tiện nghi và dung tích chứa nhiên liệu làm cho khối lương xe tăng đáng kể, 60 tấn so với 54 tấn của Type-99. Cho dù Trung Quốc đã cố gắng để tạo ra một mẫu xe tăng hoàn toàn mới, song người ta không khó để nhận ra bóng dáng của T-72 phía sau những tấm giáp hộp bọc phía trước tháp pháo. Chi phí sản xuất của loại tăng này cũng rất đắt đỏ, 2,5 triệu USD/mỗi chiếc, số lượng sản xuất của Type-99KM bị hạn chế do thiếu kinh phí. [BDV news] |
>> Sự thật về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. ![]() Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ảnh: internet Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau: "Thưa Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”. Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Bối cảnh xuất hiện công hàm Từ đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ 20, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ 20 đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển. Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ. Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc. Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Việt Nam có chủ quyền không thể chối cãi với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Về thuyết "estoppel” Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam. Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”.. Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”. [BDV news] |
>> Nga tuyên bố không 'chứa chấp' ông Gaddafi
Bộ trưởng Ngoại giao Nga, Sergey Lavrov tuyên bố nước này không sẵn sàng chấp nhận thủ lĩnh Libya tị nạn. Khả năng giải pháp cho cuộc chiến ở Libya xem ra còn xa vời. Cộng tác viên chủ chốt của Viện kinh tế quốc tế và quan hệ đối ngoại IMEMO Georgy Mirsky nói với báo Izvestia: “Khó có khả năng đại tá Gaddafimột lúc nào đó đề nghị Nga hay một nước lớn nào đó cho phép tị nạn”. Theo ông, thường người ta chọn những nước nhỏ hơn để làm việc đó. Hãy nhớ lại trường hợp của Quốc Vương Iran cuối cùng. Ông này đã không được Hoa Kỳ chập nhận sau cách mạng năm 1979 nên buộc phải “lang bạt” khắp thế giới. Do đó, nếu Gaddafi sẽ tìm nơi sống những ngày cuối đời, chắc là ông ta sẽ tìm một nước châu Phi nào đó. Hơn nữa, Libya đã từng giúp đỡ đáng kể cho nhiều nước trên lục địa này. Dù ông Gaddafi không có ý định tị nạn và nhiều lần tuyên bố sẽ "tử thủ tới cùng", hành động khước từ của chính quyền Nga được ông Georgy Mirsky nhận định là "cố gắng giải quyết mọi chuyện trước khi nó xảy ra". ![]() Tổng thống Gaddafi liệu có chọn giải pháp từ chức đi tị nạn không trước sức ép ngày càng lớn của Phương Tây. Ông Sergey Lavrov cũng lưu ý là Nga không công nhận Hội đồng dân tộc chuyển tiếp Libya do những người chống lại chế độ cầm quyền lập nên. Đề nghị này đã được đưa ra tại hội nghị Nhóm tiếp xúc về Libya ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ. Theo người đứng đầu Bộ Ngoại giao, Nga sẵn sàng công nhận Hội đồng như là một bên đàm phán. Chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu Cận Đông hiện đại ở Saint Petersburg Gumer Isaev nói: “Hội đồng dân tộc chuyển tiếp là tổ chức bù nhìn, nó không thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, và nếu công nhận nó là đại diện của toàn bộ Libya thì là không hợp pháp”. Ông Georgy Mirsky cho rằng: “Phương Tây công nhận Benghazi. Nga thì đang gắng đứng trên cuộc tranh cãi, vì vậy nên nói về hai phía đàm phán. Tuy nhiên, khó có ai ở Libya lại đánh giá cao điều này. Gaddafi sẽ bảo là Moscow đã công nhận những kẻ chống ông ta, còn ở Benghazi thì mọi người lại nói chúng ta không ủng hộ họ hoàn toàn như phương Tây”. [BDV news] |
>> Sức mạnh quốc phòng là sức mạnh cả dân tộc
Đại tướng Phùng Quang Thanh đã có buổi lên lớp truyền đạt một số nội dung trọng tâm cho Hội Cựu chiến binh các cấp tại Hội nghị học tập. Sáng 19/7, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã có buổi lên lớp truyền đạt một số nội dung trọng tâm Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của Hội Cựu chiến binh các cấp tại Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng do Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức. Nội dung trọng tâm được Đại tướng Phùng Quang Thanh tập trung truyền đạt và giới thiệu đến các đại biểu là những chủ trương, giải pháp thể hiện trong các văn kiện và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; giữ vững hòa bình ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Quá trình truyền đạt những nội dung cơ bản được đề cập trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã liên hệ sát với tình hình thực tiễn, nhấn mạnh những vấn đề mới, những yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay nhằm lý giải, làm rõ những chủ trương, giải pháp, giúp cho mỗi đại biểu có nhận thức đúng về từng vấn đề, từng sự việc cụ thể. ![]() Đại tướng Phùng Quang Thanh và các đại biểu dự hội nghị Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định: Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học… của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc với sức mạnh quân sự là đặc trưng, LLVT là nòng cốt. Theo đó, nền quốc phòng của ta là nền quốc phòng toàn dân, của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường để bảo vệ chế độ; bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ nhân dân và lợi ích quốc gia dân tộc. Đại tướng Phùng Quang Thanh dành thời gian phân tích sâu ví trí, ý nghĩa và vai trò quyết định sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và sự nghiệp xây dựng quân đội… Nhân dịp này, Đại tướng Phùng Quang Thanh cũng dành thời gian thông báo một số vấn đề thời sự, chính trị diễn ra gần đây trong nước, khu vực và trên thế giới; đồng thời khẳng định vai trò to lớn của Hội Cựu chiến binh nói chung, hội viên Hội Cựu chiến binh nói riêng đối với sự nghiệp xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; cũng như nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển đối với các nước trong khu vực và thế giới. [BDV news] |
>> Vai trò của Mistral trong Hải quân Nga
Phía Nga tuyên bố: Hợp đồng tàu chiến Mistral là phù hợp với học thuyết phát triển quân sự của Nga và không hề đe dọa đến Mỹ và các nước đồng minh. Dưới đây là bài phân tích của Tiến sĩ Kirill Nourzhanov – Giảng viên cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu Arabvà Hồi giáo, ĐH quốc gia Australia – về vấn đề này: ![]() Tiến sĩ Kirill Nourzhanov. Ngày 17/6/2011, Nga và Pháp ký hợp đồng mua bán 2 tàu sân bay trực thăng đổ bộ lớp Mistral với trị giá lên tới 1,2 tỷ euro (tương đương 1,7 tỷ USD). Những chiếc tàu đầu tiên sẽ được giao vào năm 2014 và đợt hai là vào năm 2015. Thương vụ này là kết quả của 3 năm đàm phán song nó đã gây ra nhiều tranh cãi, cả trong và ngoài nước Nga. Ở trong nước, những lời chỉ trích tập trung vào mức chi phí cao đáng nghi ngờ. Một số nhà bình luận của cho rằng các dự án, vận động hành lang cá nhân của Tổng thống Nga Dmitry Medvedev chỉ vì mục tiêu chính trị chứ không thực sự nhằm xây dựng hệ thống quốc phòng quốc gia. Chủ tịch Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ Ileana Ros-Lehtinen cũng chỉ trích Pháp, dù là một thành viên của NATO nhưng “đã phớt lờ mối nguy hiểm hiển hiện trước mắt, bán các tàu chiến hiện đại cho Nga ngay cả khi Nga có những bước đi thù địch đối với Mỹ, thậm chí là với các nước châu Âu”. Chính phủ Georgia và Latvia cũng bày tỏ mối quan ngại tương tự. Tuy nhiên một cách nhìn mới đây cho thấy các hợp đồng tàu chiến Mistral là phù hợp với học thuyết phát triển quân sự của Nga và không hề đe dọa đến Mỹ và các nước đồng minh. Nga đã bắt tay vào một chương trình tái vũ trang đầy tham vọng nhằm mục đích 70% vũ khí và các trang thiết bị quân sự sẽ được hiện đại hóa vào năm 2020. Hải quân cũng không nằm ngoài kế hoạch này. Trong 2 thập kỉ qua Nga chỉ mua 4 tàu mặt nước dựa trên những thiết kế từ thời Liên Xô. Trong 10 năm từ 2010 - 2020, quốc gia này sẽ nhận khoảng 50 tàu mới. Hồi tháng 12/2009, Thủ tướng Vladimir Putin tuyên bố rằng đây sẽ là “một bước đột phá về chất lượng trong ngành công nghiệp đóng tàu quân sự”. Việc mua tàu Mistral chắc chắn sẽ tăng cường tiềm lực quân sự cốt lõi của Nga. Mistral là một thiết kế của Pháp khá thông dụng. Nó kết hợp các tình năng của tàu sân bay trực thăng, tàu chỉ huy, kiểm soát và bệnh viện nổi. Những nhà máy đóng tàu của Nga chưa thể tự hoàn thành một con tàu hiện đại như vậy một cách nhanh chóng trong thời điểm hiện tại. Dự kiến, tàu Mistral sẽ được lắp ráp tại Brest với khoảng 20 - 40% các bộ phận được sản xuất bởi các nhà thầu Nga. Cũng nằm trong nội dung thỏa thuận mua bán giữa Nga và Pháp lần này Moscow đã có giấy phép xây dựng 2 tàu nội địa tương tự trong tương lai. Vai trò của Mistral trong Hải quân Nga Hai chiếc tàu Mistral đầu tiên sẽ được giao cho Hạm đội Thái Bình Dương – Hạm đội đang được phát triển thành lực lượng mạnh nhất của Hải quân Nga và cũng là bộ phận quan trọng của Bộ tư lệnh Chiến dịch Chiến lược Miền Đông thành lập năm 2010. Theo Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga chịu trách nhiệm về vũ khí, trong những năm tới hệ thống thông tin chiến đấu SENIT-9 mới là nhu cầu cần thiết chứ không phải là khả năng chiến đấu. Tàu Mistral sẽ hoạt động như một tàu dẫn dường cho các tàu thuộc Hạm đội Thái Bình Dương, đồng thời kiểm soát hoạt động của các tàu nổi, tàu ngầm, phòng thủ ven biển từ Vladivostok đến Chukotka. Trong thời gian qua, các nhà lãnh đạo Nga đã đưa ra thông tin chi tiết về việc triển khai chiến thuật và nhiệm vụ cụ thể của các tàu Mistral. Không có gì bất ngờ khi những chiếc tàu này sẽ bảo vệ quần đảo Nam Kuril đang tranh chấp với Nhật Bản. Năm 2010, ông Medvedev đến thăm quần đảo Nam Kuril và đã rất sửng sốt khi phát hiện ra lực lượng Nga tại khu vực này vẫn đang vận hành những thiết bị cũ kĩ từ thời Chiến tranh thế giới thứ 2. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ tốt quần đảo Kuril, tàu Mistral còn bảo vệ các cơ sở hạ tầng dầu khí, tuần tra các tuyến đường thương mại, phòng chống các hoạt động cướp biển và khủng bố, tìm kiếm cứu nạn ở những khu vực biển tiềm ẩn nguy cơ núi lửa phun trào và sóng thần. Nga sẽ không sử dụng Mistral để mở rộng tầm ảnh hưởng vượt ra khỏi vùng Viễn Đông. Dấu hiệu của sự khôi phục hải quân Nga không phải là sự thách thức đối với Mỹ. Trong thực tế, Nga đã tạm ngưng vận hành các tàu tuần dương hạng nặng hay những “sát thủ tàu sân bay” chuyên biệt. Triển khai tàu Mistral ở Thái Bình Dương còn nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Kể từ thời Gorbachev, Nga đã cẩn trọng tránh không nhắc tới Trung Quốc như một kẻ thù quân sự tiềm năng. Tuy nhiên, vẫn có một ngoại lệ hiếm hoi. Năm 2009, Tham mưu trưởng Quân đội Nga khi trả lời câu hỏi phỏng vấn đã nói: “Nếu chúng ta nói về phía Đông, ngay sau đó có thể là một đội quân hàng triệu người chiến đấu với những cách tiếp cận truyền thống ”. Cuộc tập trận Vostok của Nga hồi tháng 6/2011 chính là một phản ứng cho những mối đe dọa từ phía Đông chưa được gọi tên đích xác. Đây là sự kiện quân sự lớn nhất của Nga kể từ năm 1991 đến nay. Nga không thể cạnh tranh với Trung Quốc về lực lượng mặt đất thông thường. Nga sẽ dựa vào tiềm lực vũ khí hạt nhân và hải quân mạnh mẽ để đối phó với mối đe dọa tiềm năng Bắc Kinh ở vùng Siberia và vùng Viễn Đông. [BDV news] |
Nhãn:
Chính phủ Nga,
Hải quân Nga,
hải quân Pháp,
Khu vực Viễn Đông,
Tàu đổ bộ lớp Mistral,
Thủ tướng Vladimir Putin,
Tiến sĩ Kirill Nourzhanov,
Vùng Siberia
>> Phó Thủ tướng Đức chia sẻ về 'nguồn gốc Việt Nam'
Trong buổi phỏng vấn với Spiegel, Phó Thủ tướng Đức gốc Việt Philipp Rosler thổ lộ ông từng mơ mình là một hoàng tử Việt Nam. Bộ trưởng Kinh tế Đức gốc Việt, Philipp Rosler, được gia đình Đức nhận nuôi từ khi còn thôi nôi, tuy nhiên ông khẳng định chưa bao giờ gặp rắc rối về xuất thân của mình. Ông đã thẳng thắn trả lời phỏng vấn trên Spiegel về nguồn gốc Việt Nam, sự hòa nhập và ý nghĩa khi trở thành một người Đức của mình. - Thưa Bộ trưởng Rosler, ông được sinh ra ở Việt Nam và được bố mẹ người Đức nhận nuôi khi mới 9 tháng tuổi. Khi nào ông bắt đầu chú ý rằng mình khác biệt so với những đứa trẻ Đức khác? - Khi tôi lên 4 hay 5, cha tôi đặt tôi đứng trước gương cùng ông và nói: “Hãy nhìn vào con, sau đó nhìn cha, chúng ta khác nhau. Nhưng dù cho mọi người có nói gì và có điều gì xảy ra thì cha vẫn là cha con”. ![]() Ông Rosler từng mơ mình là hoàng tử Việt Nam. - Lúc nhỏ ông có bị trêu chọc vì bề ngoài hay không? - Không, không bao giờ. Thỉnh thoảng tôi còn mơ mình là một hoàng tử Việt Nam bị mất tích. Ý tưởng này đã xuất hiện trong đầu tôi, tôi còn hỏi cha mình là liệu ở Việt Nam có hoàng tử hay không. Ông nói rằng Việt Nam cũng từng có vua nhưng không còn nữa, lúc đó là vào những năm 1980. - Với bề ngoài khác biệt của mình, đã bao giờ ông tưởng tượng có ngày mình trở thành Phó Thủ tướng Đức chưa? - Liệu một thiếu niên có thể tưởng tượng mình sẽ trở thành Phó thủ tướng hay không? Tôi nhận ra rằng người Đức rất khoan dung và có thể chấp nhận sự thật rằng trông tôi khác với những người Đức bình thường. Còn trên thế giới, điều này cũng gây được sự chú ý. Gần đây, khi tôi hộ tống Thủ tướng tới Washington và khi chúng tôi tới Nhà Trắng, Tổng thống Obama đã rất tò mò về sự nghiệp chính trị của tôi. ![]() Ông luôn cởi mở và thân thiện. - Việt Nam có phản ứng như thế nào khi ông trở thành Chủ tịch Đảng Tự do Dân chủ (FDP), liên minh với Đảng của Thủ tướng Angela Merkel và trở thành Phó Thủ tướng Đức? - Tôi nhận được rất nhiều lời chúc mừng từ các chính phủ, trong đó có Việt Nam. Điều này khiến tôi rất hạnh phúc. - Người dân Việt Nam có tự hào về Philipp Rosler? - Những chiếc xe du lịch tour của Việt Nam thường dừng trước Bộ của tôi và đối với nhiều người Việt Nam, điều này rất đặc biệt. Nếu một người con nuôi Đức được làm việc trong chính phủ Việt Nam thì người Đức cũng cảm thấy thích thú. ![]() Gia đình hạnh phúc của Bộ trưởng Rosler. - Là một Bộ trưởng Kinh tế, ông có kế hoạch nới lỏng luật nhập cư vào Đức hay không? - Tôi sẽ ủng hộ Đức đi theo chiều hướng trên. Đức cần một bộ phận người nhập cư chất lượng và sẽ vô lý khi Đức bỏ nhiều tiền để đào tạo các sinh viên nước ngoài rồi sau đó họ tốt nghiệp và chỉ ở lại đây một năm. - Ở Đức, cộng đồng người châu Á được xem là hòa nhập tốt nhất. Tại sao lại như vậy? - Cha mẹ người Việt, cũng giống như các bậc phụ huynh nước ngoài khác, luôn muốn con cái mình được hưởng nền giáo dục tốt nhất. - Bản thân ông có bao giờ gặp rắc rối trong chính trị bởi vì người có nguồn gốc châu Á luôn thân thiện và dễ gần? - Tại sao thân thiện và dễ gần lại trở thành một vấn đề nhỉ? ![]() Ông được xem là "cánh tay phải" của Thủ tướng Đức. - Ông có biết chi tiết về nguồn gốc Việt Nam của mình hay không? - Tôi có biết. Trong một sự kiện ở thị trấn Holzminden, có một người đàn ông đã hỏi chính xác nơi tôi sinh ra là ở đâu. Tôi nói cho ông ấy biết tên ngôi làng nơi tôi sinh ra, được ghi trong giấy khai sinh. Người đàn ông này cho biết đây quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên vì con gái ông cũng đến từ nơi đó... ![]() Ông Rosler luôn để lại một hình ảnh gần gũi trong lòng người dân. - Điều gì ông thích nhất về Việt Nam? - Cảnh vật ở đây rất đẹp và thức ăn cũng rất tuyệt vời. Khi bạn tới một nhà hàng châu Á ở Đức, tất cả đã được Đức hóa. Nhiều người châu Á thậm chí cũng không muốn tới đây vì đơn giản là hương vị không được như ở quê nhà. - Ông có phải là hình mẫu lý tưởng cho những người nước ngoài ở Đức? - Rất nhiều người xem tôi là hình mẫu. Khi tôi mới trở thành Bộ trưởng, trong buổi gặp mặt ở nhà hàng Bundestag, một người đàn ông da đen đã tới gặp tôi và nói: “Tôi nghĩ thật tuyệt vời khi có một người trong chúng ta có thể thành công”. - Ông có hài lòng không? - Tất nhiên rồi, bởi vì những lời nói đó rất chân thật và xuất phát từ trái tim. - Cảm ơn Bộ trưởng vì cuộc phỏng vấn thú vị này. [BDV news] |
>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 2)
Hệ thống pháo cối tự hành hiện đại không những chỉ được đặt lên xe thiết giáp mà còn trang bị thêm hệ thống giảm giật, máy tính đường đạn, thậm chí là khả năng bắn các loại đạn pháo. >> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1) Tuy các hệ thống như M-106, M-125, 2S4 Tyulpan đã đưa pháo cối thành phương tiện chiến đấu có tính cơ động cao nhưng chúng vẫn chưa thể xứng đáng với tên gọi “pháo cối tự hành” vì nhiều nguyên nhân: + Pháo cối và thân xe vẫn chưa tích hợp với nhau thành một hệ thống đồng nhất; + Vẫn cần có một tổ vận hành pháo riêng, việc điều chỉnh, ngắm bắn và bắn pháo vẫn thực hiện bằng sức người nên độ chính xác của pháo chưa cao; + Pháo cối khi bắn vẫn thiếu sự che chắn bảo vệ. Chính vì yêu cầu của chiến trường hiện đại, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu thế hệ pháo cối 120 mm mới, được tích hợp hệ thống chống giật hiện đại. Không những thế, một số loại pháo cối mới còn có thể được sử dụng làm hỏa lực bắn thẳng nhờ sử dụng đạn pháo bên cạnh đạn cối thông thường. Đây là tính năng rất hữu hiệu khi các hệ thống cối tự hành này phải tác chiến trong đô thị. Ở đó, hệ thống pháo cối hiện đại thường đi kèm với tháp pháo riêng biệt, giúp kíp vận hành luôn ở trong tình trạng được bảo vệ. Ngoài một số hệ thống vẫn nạp đạn bằng tay, một số hệ thống pháo cối tự hành khác cũng đã trang bị hệ thống nạp đạn tự động có khả năng lựa chọn loại đạn khi bắn như loại 2S31 Vena của Nga. Thêm nữa, các loại pháo cối tự hành hiện đại còn tích hợp thêm các khí tài trinh sát điện tử cùng hệ thống điều khiển bắn vi tính hóa khiến vai trò của chúng trên chiến trường ngày một quan trọng. Dưới đây là những loại pháo cối tự hành thuộc thế hệ này trong quân đội một số nước trên thế giới. PLL-05 (Trung Quốc) Pháo cối tư hành PLL-05 là sản phẩm của Tổng công ty công nghiệp Phương Bắc (NORINCO) dựa trên thân xe thiết giáp lội nước WZ-551, vốn là thân xe đã được Trung Quốc sử dụng để tích hợp rất nhiều loại vũ khí. Hệ thống này đã được trang bị tại Sư đoàn bộ binh cơ giới hạng nhẹ số 127, quân đoàn 54 của Trung Quốc từ năm 2008. PLL-05 được trang bị một pháo cối 120 mm có khả năng bắn cả hai chế độ thẳng và bắn cầu vồng trong một tháp pháo chứa 36 viên đạn, bắn 2 loại đạn nổ phá và đạn HEAT chống tăng bắn ở chế độ bắn thẳng có tầm hiệu quả tới 1.200 mét. Ở chế độ bắn cầu vồng, pháo có thể bắn 2 loại đạn nổ phá và đạn chùm - mang theo 30 quả đạn con với tầm bắn 8,5 km. Nếu sử dụng đạn pháo 120 mm ở chế độ này, PLL-05 đạt tầm bắn 9,5 km với đạn thường và 12,8 km với đạn có hỗ trợ động cơ tên lửa. ![]() Pháo cối tư hành PLL-05 trong cuộc duyệt binh kỷ niệm quốc khánh lần thứ 60 của Trung Quốc. ![]() Với khả năng nâng nòng pháo lên một góc tới 85 độ, kết hợp với tầm bắn thẳng 1,2 km; PLL-05 cực kỳ hữu hiệu trong việc tiêu diệt các mục tiêu trên các tòa nhà cao tầng trong tác chiến đô thị PLL-05 cũng được trang bị hệ thống nạp đạn bán tự động, giúp pháo có thể đạt tốc độ bắn 6-8 phát/phút với đạn pháo và 10 phát/phút đối với đạn cối. Hệ thống PLL-05 có tổng khối lượng chiến đấu là 16,5 tấn, có thể đạt tốc độ tối đa 85 km/h trên đường và 8 km/h khi ở chế độ lội nước. Hiện nay, Trung Quốc tiến hành nghiên cứu phát triển loại đạn cối “thông minh” dẫn hướng bằng laser. TDA 120 2R2M (Pháp) Công ty TDA Armements (Pháp) đã tham gia vào việc thiết kế, phát triển và sản xuất rất nhiều hệ thống pháo cối cũng như đạn cối trong nhiều năm. Trong đó, hệ thống pháo cối nòng xoắn 120mm MO 120-RT của công ty đã được sử dụng trong lực lượng của quân đội 25 nước, bao gồm cả lực lượng thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Hệ thống pháo cối tự hành 120 2R2M đã được công ty bắt đầu nghiên cứu từ năm 1990 và cho đến năm 1993 thì ý tưởng thiết kế đã hoàn thành. Đến năm 1994, hệ thống 120 2R2M thử nghiệm đầu tiên đã hoàn thành và được tích hợp trên thân xe MOWAG Piranha 8x8 hay thân xe FNSS IFV của Thổ Nhĩ Kỳ. Lợi thế của hệ thống 120 2R2M là cả hệ thống có khối lượng chỉ nặng 1.500 kg cùng với hệ thống chống giật hiện đại khiến 120 2R2M có thể đặt trên các khung xe thiết giáp cỡ từ 10-15 tấn. Hệ thống 2R2M được đặt trên đế riêng biệt có thể quay một góc 220 độ cùng một hệ thống nạp đạn bán tự động tích hợp giúp tóc độ bắn của hệ thống đạt từ 6-10 phát/phút. ![]() Biến thể pháo cối tự hành 120mm 2R2M đặt trên thân xe Renault 6x6 xuất khẩu cho Oman. ![]() Biến thể 2R2M đặt trên xe thiết giáp ACV-S của FNSS (Thổ Nhĩ Kỳ) được bán cho Malaysia với giá 2,4 triệu USD/xe. Tầm bắn của 2R2M biến đổi tùy thuộc vào loại đạn. Tầm bắn tối đa của hệ thống khi sử dụng đạn HE tiêu chuẩn là 8,1 km và 13 km nếu sử dụng loại đạn được tăng lực tên lửa. Hiện tại, chỉ hệ thống 2R2M với pháo cối nòng trơn mới có thể tích hợp được trên các thân xe tự hành. Tuy nhiên, theo TDA họ sẽ sớm cải tiến để đưa hệ thống MO 120-RT nòng xoắn lên xe thiết giáp vì đây là phiên bản có độ chính xác cao hơn. Cho đến năm 2010, đã có 120 hệ thống 2R2M đã được xuất khẩu, thêm 30 hệ thống đã được ký hợp đồng nhưng chưa chuyển giao. 120 hệ thống trên đã được chuyển giao cho Oman năm 2008 để lắp đặt trên các xe thiết giáp Renault. Tại châu Âu, Italy cũng mua 2 hệ thống lắp đặt trên xe Dardo và Freccia 8x8 với mục đích thử nghiệm. Ngoài ra, quân đội Malaysia cũng mua 8 hệ thống 2R2M 120mm kèm xe thiết giáp FNSS của Thổ Nhĩ Kỳ để lắp đặt. Toàn bộ gói hợp đồng này trị giá 19 triệu USD. Rak (Ba Lan) Hệ thống pháo cối tự hành 120 mm Rak của Ba Lan được phát triển bởi công ty vũ khí trong nước Huta Stalowa Wola (HSW), vốn đã có nhiều kinh nghiệm phát triển các hệ thống tên lửa và pháo cối. Hệ thống này có tầm bắn 8 km với đạn thông thường và 12 km với đạn tăng tầm hỗ trợ động cơ tên lửa. Được trang bị hệ thống nạp đạn tự động hoàn toàn, Rak có thể đạt tốc độ bắn tối đa từ 10 tới 12 phát/phút. ![]() Hệ thống Rak được đặt trên thân xe bọc thép OT-64 Rys cũng do Ba Lan sản xuất. ![]() Biến thể khác của Rak được đặt trên thân xe MT-LB của Nga. Với cơ số đạn mang theo tới 60 viên, Rak có thể được sử dụng cho các nhiệm vụ bắn áp chế địch trong thời gian dài. Với hệ thống điều khiển bắn điện tử Topaz, Rak vẫn có khả năng đạt độ chính xác cao ở cự ly bắn xa. Hiện tại, hệ thống Rak có thể được lắp đặt trên thân xe MT-LB của Nga, AMV của Thụy Điển hoặc OT-64 Rys sản xuất trong nước. [BDV news] |
Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011
>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1)
Trong những năm trở lại đây, pháo cối ngày càng được tăng thêm uy lực khi gắn trên các thân xe tự hành, hệ thống điều khiển bắn điện tử và đạn thông minh. Pháo cối là loại vũ khí bắn đạn theo cầu vồng đã được phát minh ra hơn 300 năm về trước. Trong chiến tranh hiện đại, pháo cối đóng vai trò rất quan trọng nhờ khả năng chi viện cho bộ binh ở cự ly ngắn và trung bình, lấp chỗ trống cự ly giữa lựu pháo tầm xa và vũ khí bắn thẳng, giá thành rẻ, vận hành đơn giản dễ dàng. Hơn nữa, nhờ quỹ đạo đạn đặc trưng, pháo cối là phương tiện hữu dụng để tấn công mục tiêu trên các địa hình hiểm trở trên các cao điểm, trong thung lũng, dưới hầm hào hay đằng sau các vật cản, công sự kiên cố. ![]() Một tổ chiến đấu của lính Mỹ sử dụng pháo cối trên chiến trường. Trước đây, pháo cối chủ yếu được mang vác bằng bộ binh, với các loại cỡ nòng lớn thì dùng xe kéo vào trận địa, mất một thời gian chuẩn bị không nhỏ mới có thể sẵn sàng chiến đấu. Không những thế, những trận địa pháo cối này thường phải có lực lượng bảo vệ không nhỏ, rất khó cơ động và nếu bị tấn công thì dễ bị thiệt hại. Vì thế, theo xu hướng chung với pháo tự hành, các khẩu pháo cối cũng được cơ động hóa, mở ra một kỷ nguyên mới của loại vũ khí này. Pháo cối tự hành nhóm 1 Những nỗ lực đầu tiên đơn thuần là đặt các khẩu pháo cối thông thường lên trên thân xe thiết giáp để tăng tính cơ động, tăng số lượng đạn mang theo, giảm khối lượng vận chuyển cho binh lính và tăng khả năng mang các loại pháo cối cỡ nòng lớn vào chiến trường. Về cơ bản, việc ngắm bắn, nạp đạn và bắn của cối tự hành thế hệ đầu tiên vẫn độc lập với thân xe mang nó và được thực hiện bởi kíp vận hành pháo cối riêng biệt với kíp lái của xe. Một trong những hệ thống pháo cối đầu tiên thuộc thế hệ này là M-106 và M-125 của quân đội Hoa Kỳ phát triển dựa trên thân xe thiết giáp M-113. ![]() Pháo cối tự hành M-106 với pháo cối M30 107 mm của sư đoàn bộ binh số 4 Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam. Bộ phận đế của pháo cối được treo ở thành xe để khi cần có thể gỡ pháo cối ra khỏi xe để bắn. Sự khác biệt của hai loại pháo cối tự hành này là M-125 được trang bị một pháo cối M29 81mm còn M-106 trang bị pháo cối M30 107mm. Pháo cối trên M-106 và M-125 được đặt trên một bệ có thể quay được để điều chỉnh hướng và có thể tháo rời khỏi xe để bắn như những khẩu đội cối thông thường. Pháo cối M29 81mm có tầm bắn tối đa 5.000 mét và có thể bắn 30 phát/phút trong phút đầu đầu tiên, 4-12 phát/phút trong những loạt tiếp theo. Trong khi đó, pháo cối M30 107mm có tầm bắn từ 770-6.800 mét, có tốc độ bắn 18 phát/phút trong phút đầu tiên và 3 phát/phút trong những loạt tiếp theo. Ngoài hỏa lực chính là pháo cối, hai loại cối tự hành trên đều trang bị thêm súng máy hạng nặng 12,7 mm M2HB với nhiệm vụ tự vệ chống bộ binh. Kíp vận hành M-106 và M-125 thường bao gồm từ 4-5 người bao gồm lái xe, trưởng xe và kíp vận hành cối. Cơ số đạn của M-106 là 90 đạn còn M-125 là 144 đạn bao gồm chủ yếu là đạn nổ (HE), ngoài ra còn có các loại đạn khói, đạn cháy phốt pho trắng tùy theo nhiệm vụ. ![]() Pháo cối tự hành M-125 do Quân đội Australia sử dụng trên chiến trường Việt Nam. ![]() Vận hành pháo cối 81 mm bên trong chiếc M-125. Tương tự hai hệ thống trên của Hoa Kỳ, Liên Xô cũng có hệ thống pháo cối 2S24 sử dụng pháo cối 2B14 Podnos 82mm được đặt trên thân xe thiết giáp MT-LB. Hệ thống này có thể mang theo 83 đạn và có tầm bắn từ 80- 4.280 mét. Pháo cối không những có thể đặt trên thân xe thiết giáp mà còn có thể đặt trên các thân xe quân sự 4x4. Một trong những loại pháo cối này là loại cối 81mm tự động đặt trên thân xe Dong Feng 4x4 của Trung Quốc do Norinco sản xuất. ![]() Pháo cối tự động 81mm đặt trên thân xe Dong Feng 4x4 của Trung Quốc do Norinco sản xuất. Khẩu cối 81 mm đặt trên xe là loại cối tự động do Trung Quốc sản xuất nhái theo pháo cối Vesilek của Nga với khả năng nạp đạn theo từng kẹp đạn mang bốn viên đạn. Hệ thống nạp đạn kiểu này giúp cho pháo cối khai hỏa cực nhanh, có thể bắn hết kẹp đạn 4 quả trong 2 giây. Theo thông số Norinco công bố, pháo cối 81 mm này có tầm bắn tối đa tới 6,2 km đối với đạn HE. Ngoài ra, nó cũng có thể bắn được các loại đạn khác như đạn khói, pháo sáng hay đạn hóa học. Thân xe Dong Feng 4x4 có tổng khối lượng 4,7 tấn, được trang bị động cơ 125 mã lực và có tốc độ tối đa trên đường tới 135 km/h. Pháo cối tự hành nhóm 2 Pháo cối tự hành nhóm này sử dụng pháo cối chuyên dụng thay vì pháo cối thông thường gắn trên thân xe. Chúng thường là những loại pháo cối có cỡ nòng lớn, nạp đạn từ đuôi (thay vì từ nòng súng như pháo cối thông thường) và phải sử dụng các hệ thống thủy lực tách pháo cối ra khỏi xe, để cố định pháo cối trên mặt đất trước khi bắn. Về nhóm này, có thể kể đến loại pháo cối tự hành cỡ nòng 240 mm nổi tiếng của Liên Xô trước kia là 2S4 Tyulpan. ![]() Pháo cối tự hành 2S4 Tyulpan với cấu hình khi hành quân. Hệ thống cối tự hành 2S4 Tyulpan được phát triển từ những năm 1960 và lần đầu xuất hiện trước công chúng vào năm 1971. Vũ khí chính của hệ thống là một khẩu pháo cối cỡ nòng 240 mm được phát triển từ pháo cối M-240. Khẩu pháo cối này có thể bắn những viên đạn nổ thông thường (HE), đạn hóa học, mìn hay thậm chí là đạn nguyên tử với tầm xa tối đa 9,6 km với đạn thông thường và 20 km với đạn hỗ trợ động cơ tên lửa. Ngày nay, các hệ thống 2S4 Tyulpan còn được trang bị thêm những loại đạn dẫn đường laser chính xác tương tự như đạn pháo Krasnopol sử dụng trong các pháo tự hành. Hệ thống 2S4 Tyulpan có thể mang theo 40 viên đạn các loại (thường là 20 viên thường và 20 viên có động cơ tên lửa) chứa trong các hộp đạn hình trống. Do kích cỡ và khối lượng đạn quá lớn, hệ thống này chỉ có thể bắn với tốc độ 1 phát/phút. ![]() Pháo cối tự hành 2S4 Tyulpan ở cấu hình chiến đấu. Khẩu pháo cối 240 mm này có thể bắn cả những viên đạn nguyên tử đi khoảng cách 20 km. Tất cả hệ thống pháo cối và đạn trên được đặt trên thân xe thiết giáp tương tự xe phóng của tên lửa phòng không 2K11 Krug với tổng khối lượng 27,5 tấn. Trên xe còn được trang bị một súng máy 7,62 mm với cơ số đạn 1.500 viên nhằm mục đích tự phòng vệ. Xe được lắp động cơ V-59, 520 mã lực giúp nó có thể đạt tốc độ tối da 62 km/h và tầm hoạt động 500 km. Nhẹ nhàng hơn 2S4 Tyulpan, hệ thống pháo cối 120 mm cùng loại gồm pháo cối Hirtenberger M12 của Áo lắp đặt trên thân xe Achleitner Mantra. Chiếc Mantra là loại xe không bọc giáp có tổng khối lượng 6 tấn, có thể đạt tốc độ 110 km/h với dự trữ hành trình 700 km. ![]() Chiếc Achleitner Mantra với cối 120 mm Hirtenberger M12 gắn kèm tại triển lãm Eurovision 2010. Phần khoang chứa lính đằng sau chiếc Mantra, vốn có thể chở thêm 6 người đã được cải biến có để có thể chứa một khẩu pháo cối 120 mm cùng giá chứa đạn để chứa 48 quả đạn 120 mm. Hai phiên bản pháo cối Hirtenberger M12 có thể lắp đặt trên thân xe này bao gồm loại M12-1385 với nòng súng dài 1,75 m, khối lượng 255 kg, có tầm bắn tối đa 8,8 km và loại M12-1535 với nòng súng dài 1,9 m, khối lượng 260 kg và tầm bắn tối đa 9,2 km. Phiên bản pháo cối tự hành này xuất hiện lần đầu tại triển lãm Eurosatory 2010. [BDV news] |
Nhãn:
Chiếc Achleitner Mantra,
Chiến tranh Việt Nam,
Pháo cối tự hành,
Pháo cối tự hành 2S4 Tyulpan,
Quân đội Australia,
Quân đội Mỹ,
Triển lãm Eurovision 2010
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)