Tranh chấp biển Đông là vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều bên, không thể giải quyết triệt để trong thời gian ngắn. Tiến sĩ Trương Tiếu Thiên thuộc ĐH Quốc phòng Trung Quốc có bài viết đăng trên báo Quốc phòng Trung Quốc đề cập đến bốn cách tư duy giải quyết vấn đề biển Đông. Cách thứ nhất: Giải quyết bằng vũ lực – cuộc đấu kép giữa quân sự và chính trị Quan sát trên mạng hiện nay sẽ thấy rất nhiều người ủng hộ biện pháp dùng vũ lực giải quyết vấn đề biển Đông. Xét tổng thể về so sánh lực lượng thì thực lực quân sự của Trung Quốc chắc chắn mạnh hơn Philippines, khả năng giành thắng lợi cũng nhiều hơn. Hơn nữa, Mỹ không có lợi ích chiến lược mang tính thực chất ở biển Đông, nếu Trung Quốc dùng vũ lực giọng điệu của Mỹ sẽ không nhẹ nhàng nhưng cũng khó có thể ra tay mạnh mẽ với Trung Quốc vì vấn đề biển Đông. Từ đó có thể suy luận, nếu xảy ra chiến tranh ở biển Đông, Trung Quốc rất có thể giành thắng lợi về mặt quân sự, song đồng thời ảnh hưởng bất lợi của việc giải quyết bằng vũ lực cũng sẽ hết sức rõ rệt: Thứ nhất, sẽ khiến cho thù hận giữa Trung Quốc với Philippines, thậm chí với cả một số nước khác tích tụ lâu dài, ảnh hưởng đến tình hình khu vực xung quanh Trung Quốc. Thứ 2, khiến cho rạn nứt giữa Trung Quốc và khối chính trị châu Á, chủ yếu là ASEAN sẽ lớn thêm, thế lực thứ ba bên ngoài sẽ được lợi, rơi trúng kế kiềm tỏa của Mỹ. Thứ 3, ý tưởng chính trị của Trung Quốc sẽ bị nghi ngờ, cộng thêm sự kích động, xúi giục của nước lớn bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến môi trường chiến lược của Trung Quốc, cản trở cơ hội phát triển chiến lược của Trung Quốc. ![]() Học giả Trung Quốc cho rằng, nếu xảy ra chiến tranh ở biển Đông, Trung Quốc rất có thể giành thắng lợi về mặt quân sự. Ảnh minh họa. Nếu xem xét một cách biện chứng thì ảnh hưởng sử dụng vũ lực không phải là thắng lợi tuyệt đối mà phải căn cứ theo thời cơ, xu thế và tình hình của nước bá quyền để nắm bắt một cách linh hoạt. Cách thứ 2: Thỏa hiệp nhượng bộ - nhân nhượng lợi ích đơn phương hoặc đa phương Trong xử lý các vấn đề quốc tế, nhất là trong cuộc chơi chiến lược giữa các nước lớn, khả năng các bên lợi ích liên quan tuyệt đối không thỏa hiệp, không nhân nhượng là rất ít, nghĩa là dù nhiều dù ít đều có phần nhượng bộ nào đó. Vấn đề thỏa hiệp hoặc nhượng bộ đề cập ở đây liên quan đến hai khả năng: Thứ nhất, Trung Quốc đơn phương chịu hy sinh để thỏa hiệp, nhượng bộ. Thứ 2 là các bên lợi ích liên quan đều có sự thỏa hiệp nhân nhượng trên cơ sở tôn trọng, thông cảm và hiểu biết lẫn nhau. Điều rõ ràng là đơn phương thỏa hiệp sẽ là tổn hại tuyệt đối về lợi ích quốc gia, hơn nữa không nhất thiết có thể đổi lại được hòa bình lâu dài, cũng không có lợi cho việc giải quyết triệt để vấn đề, như vậy là một hạ sách. Về mặt lý thuyết, việc các bên đều có thỏa hiệp và nhượng bộ nào đó là tương đối hiện thực, dễ dàng cho việc giải quyết vấn đề biển Đông. Tuy nhiên, trong thao tác thực tế, cách nghĩ về các bên đều có thỏa hiệp, nhượng bộ nhất định cũng đứng trước rất nhiều thách thức mang tính hiện thực. Thứ nhất, có nước không muốn có bất cứ nhượng bộ nào. Thứ 2, có nước được một muốn mười, không ngừng gặm nhấm như tằm ăn lá dâu đối với lợi ích biển của Trung Quốc. Thứ 3, có nước lôi kéo thế lực nước lớn ngoài khu vực, hòng làm cho vấn đề biển Đông trở nên phức tạp hóa. Trong bối cảnh như vậy, cách tư duy chiến lược cho rằng một bên nào đó đơn thuần thỏa hiệp sẽ khiến cho lợi ích quốc gia của mình bị tổn hại. Nếu muốn thay đổi tình hình, khiến cho nước đương sự hữu quan đều ngồi vào bàn hiệp thương thẳng thắn và thành thật thì phải có biện pháp mạnh mẽ trong các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự, quốc tế.., tạo điều kiện cho hiệp thương công bằng. Cách thứ 3: Gác lại lâu dài – đau khổ vướng víu cả trước mắt và lâu dài Gác lại lâu dài là biện pháp gác lại tranh chấp, đợi điều kiện chín muồi sẽ tiếp tục giải quyết. Vào thập niên 80 thế kỷ trước, Đặng Tiểu Bình đề xuất tư tưởng chỉ đạo "chủ quyền thuộc về ta, gác lại tranh chấp, cùng khai thác", tạm thời được gác lại vấn đề biển Đông, đợi điều kiện chín muồi sẽ tiếp tục tìm biện pháp giải quyết theo nguyên tắc chủ quyền thuộc về ta. Đến nay vấn đề Biển Đông đã được gác lại hơn 20 năm, ảnh hưởng tích cực là có được thời gian cho phát triển quốc gia, thực lực của quốc gia được nâng lên mạnh mẽ nhưng ảnh hưởng tiêu cực là trong hơn 20 năm đó tranh chấp không ngừng xảy ra. Nghiêm trọng hơn nữa là biển phân chia, các đảo bị xâm chiếm, tài nguyên bị cướp đoạt, tình hình như vậy không ngừng xấu đi mấp mé ranh giới không thể tiếp tục gác lại. Trong thời gian tới nếu muốn tiếp tục gác lại sẽ phải đứng trước rất nhiều thách thức: Thứ nhất, tiếp tục gác lại có nghĩa là vấn đề cứ tiếp tục tồn tại, ảnh hưởng lâu dài đến ổn định ở môi trường xung quanh. Thứ 2, tiếp tục gác lại sẽ khiến cho vấn đề tập trung áp lực, cộng thêm bị nước bá quyền kiềm chế, cùng với ảnh hưởng của một số vấn đề an ninh khác sẽ tồn tại rủi ro bị kích hoạt tập trung trong một thời kỳ nào đó; Thứ 3, tiếp tục gác lại cho thấy rạn nứt ở Đông Nam Á, thậm chí ở cả khu vực châu Á sẽ tồn tại lâu dài, không có lợi cho việc chấn chỉnh xu thế chiến lược tổng thể. Cách thứ 4: "Cùng có" – sức cuốn hút của thời đại hòa bình và phát triển Tư duy chiến lược "cùng có" có nội hàm đặc biệt. Về mặt lý luận, không phải là các nước hữu quan cùng có chung biển Đông mà bao hàm ba lớp ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, đối với khu vực lãnh hải mà bên liên quan đã công nhận rõ cho nước nào đó có chủ quyền thì không cho phép tranh chấp trở lại và gây nên tranh chấp. Thứ 2, đối với vùng biển mà các bên liên quan đang tranh chấp, nếu theo truyền thống lịch sử và luật pháp quốc tế đều có chứng cứ rõ ràng cho thấy phải thuộc về nước nào đó thì cần hiệp thương tập thể để công nhận là thuộc về nước đó. Thứ 3, đối với vùng biển mà các bên đang tranh chấp, nếu không có chứng cứ được toàn thể các bên nhất trí công nhận, không thể chứng minh phải thuộc về nước nào thì có thể xác định các nước đương sự cùng có chung theo hình thức nào đó. "Hình thức nào đó" cụ thể là gì, cần phải tiếp tục đi sâu khai thác, tìm kiếm. Theo suy nghĩ sơ bộ, ít nhất có thể có hai cách xác định: Một là quy thuộc chủ quyền về chính trị và quyền lợi kinh tế đối với vùng biển đó sẽ được hai hoặc hai nước trở lên cùng sở hữu, không có phân định rõ rệt theo giới hạn địa lý, các nước đương sự cùng khai thác, sử dụng và bảo vệ bằng hình thức cổ phần; Hai là quyền lợi chính trị đối với vùng biển quy về cho một nước nào đó sở hữu, đồng thời lợi ích kinh tế sẽ quy về cho các nước đương sự cùng sở hữu, các nước đương sự căn cứ theo theo tỷ lệ giá trị kinh tế để cùng khai thác, sử dụng và bảo vệ an ninh vùng biển. Tư duy chiến lược "cùng có" có những ưu điểm rõ rệt. Thứ nhất, có thể loại bỏ mâu thuẫn và tranh chấp giữa các nước với nhau, dễ được Chính phủ và nhân dân các nước chấp nhận. Thứ 2, các nước đương sự có thể cùng hưởng lợi ích kinh tế, thúc đẩy các nước cùng khai thác, sử dụng và bảo vệ. Thứ 3, có thể liên hệ chặt chẽ các nước đương sự lại với nhau, cùng có lợi ích chung ở khu vực biển Đông, xây dựng quan hệ chiến lược hữu nghị và môi trường chiến lược hữu nghị. Một ưu điểm rõ nét hơn nữa là hiện nay ngày càng có nhiều người nhận thức được rằng "trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21 con đường phát triển trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc đòi hỏi phải cụ thể hóa thêm một bước", "một xu hướng quan trọng là mở rộng và làm sâu sắc thêm điểm gặp gỡ lợi ích giữa các bên, từ các nước và các khu vực khác nhau sẽ xây dựng một cách toàn diện thành cộng đồng lợi ích trong các lĩnh vực khác nhau và ở các cấp độ khác nhau". Theo tư tưởng này thì việc coi tư duy chiến lược "cùng có" là cách thử nghiệm hữu ích để giải quyết vấn đề biển Đông không chỉ có lợi cho việc giải quyết bản thân vấn đề biển Đông, mà sẽ còn đặt cơ sở để xây dựng cộng đồng lợi ích giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc phát triển lâu dài, thậm chí dẫn dắt thế giới đến tiến bộ. Tuy nhiên, tư duy "cùng có" đòi hỏi phải có một số điều kiện, một điểm quan trọng trong đó là khả năng lý giải và tiếp nhận của các nước đương sự đối với ý tưởng "cùng có". Hiện nay và một thời kỳ tới đây, trong tiếng gọi hấp dẫn của trào lưu chủ quyền quốc gia có thể nhân nhượng một phần để cùng phát triển, có tồn tại khả năng này. Trong bốn kiểu tư duy chiến lược nói trên, kiểu nào cũng đều có cả thế mạnh, thế yếu và phải có những điều kiện cơ bản, cần xuất phát từ toàn cục chiến lược an ninh và phát triển quốc gia để có được quy hoạch tổng thể đối với vấn đề biển Đông. Dù lựa chọn theo cách tư duy nào cũng đều phải kết hợp tình hình thực tế để nắm bắt vấn đề, cần vận dụng một cách tổng hợp tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và sức mạnh quân sự của quốc gia. Trong thao tác thực tế có thể lấy một kiểu nào đó làm chủ thể, các kiểu khác còn lại là phụ trợ, nhưng cũng có thể phối hợp tất cả. Ngoài ra, cần phải chỉ rõ rằng cần đối phó thỏa đáng với nước lớn ngoài khu vực gây trở ngại, lợi dụng và can thiệp, vừa phải đề phòng tổn thất lợi ích quốc gia lại vừa phải đề phòng tổn hại lợi ích khu vực. Đó là nhân tố bên ngoài lớn nhất ảnh hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề biển Đông, cũng là nhân tố then chốt khiến cho chiến lược khu vực biển Đông có thành công được hay không. [BDV news] |
Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011
>> Học giả Trung Quốc nêu bốn 'lựa chọn' cho vấn đề biển Đông
>> Trung Quốc có thể tấn công Đài Loan vào năm 2020?
Khác hẳn với những phản ứng mạnh mẽ trong những vụ việc tương tự trước đây, lần này phía Đài Loan hầu như hoàn toàn im lặng trước vụ Su-27 Trung Quốc xua đuổi U-2. Vì sao ? Chính sách quân sự mơ hồ, những khó khăn trong việc mua những vũ khí mới từ Mỹ và phản ứng yếu ớt gần đây cho thấy chính quyền Đài Loan dường như đã đầu hàng trong việc tìm ra đối sách trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc - nhà báo Jens Kastner bình luận trên tờ Asia Times. Trung Quốc ngày càng khẳng định sức mạnh Chính sách trắng quân sự vừa được Đài Loan tung ra ngày 19/7 nhận định: Sự áp đảo về sức mạnh quân sự của Trung Quốc so với Đài Loan đang ngày càng trở nên dữ dội hơn, và trong vòng một thập niên tới Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) có thể dễ dàng khuất phục Đài Loan bằng các biện pháp quân sự nếu cần thiết. Sách trắng đi sâu vào phân tích những tiến bộ rõ rệt của PLA trong khả năng tác chiến mặt đất – mặt nước – trên không, khả năng tấn công bằng tên lửa, khả năng trinh sát và tình báo, khả năng tác chiến điện tử cũng như những thay đổi trong học thuyết chiến lược của Trung Quốc. ![]() Tên lửa Hùng Phong 3 của Đài Loan Sách trắng quốc phòng Đài Loan cũng chỉ ra sự chênh lệch rõ rệt về quân sự giữa hai bên, cụ thể: - Quân đội Đài Loan đánh giá ngân sách quốc phòng của Trung Quốc hiện đã gấp 21 lần Đài Loan. - PLA có 2,3 triệu binh sĩ so với 270.000 của Đài Loan - Lực lượng Nhị pháo (tên lửa hạt nhân và phi hạt nhân) của Trung Quốc đang không ngừng tăng cường khả năng phản công và răn đe bằng vũ khí hạt nhân bằng cách phát triển các loại tên lửa đường đạn. - Quân đội Mỹ khi ứng cứu Đài Loan sẽ không dám tấn công các mục tiêu nào khác ngoài các mục tiêu đang trực tiếp tham chiến. - PLA đã phát triển một số tên lửa diệt hàng không mẫu hạm DF-21D, được xem như vũ khí chính PLA sẽ sử dụng để ngăn Hải quân Mỹ giúp đỡ Đài Loan nếu có chiến tranh. - Trung Quốc tăng cường mạnh mẽ các căn cứ phòng không và chống hạm dọc bờ biển, do đó Đài Loan khó có khả năng đánh trả để buộc Trung Quốc ngưng chiến. - Chỉ riêng tại 2 tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông gần Đài Loan nhất, ước tính PLA đã triển khai hơn 1.000 tên lửa hướng về đảo Đài Loan, cùng vô số máy bay chiến đấu và tàu tên lửa hiện đại. - Để tấn công vào bộ máy chỉ huy của Đài Loan, Trung Quốc đang phát triển máy bay không người lái đồng thời trang bị khả năng tác chiến điện tử cho Hải quân và Không quân, với mục đích làm tê liệt khả năng điều khiển vũ khí của đối phương. Đến năm 2020: - Trung Quốc sẽ hạ thủy chiếc tàu sân bay nội địa đầu tiên được trang bị máy bay tàng hình. - Hệ thống vệ tinh dẫn đường Bắc Đẩu của Trung Quốc sẽ cho phép lực lượng tên lửa của nước này khả năng tấn công chính xác bất kỳ mục tiêu nào di động trên mặt nước, như các tàu sân bay của Mỹ. Như để kết luận về ảnh hưởng của những bước tiến quân sự của Trung Quốc đối với kịch bản chiến tranh tương lai, các chuyên gia quân sự Đài Loan nhận định đến năm 2020 Trung Quốc có thể phong tỏa hoàn toàn đảo Đài Loan, chiếm các đảo lân cận và tấn công trực diện vào đảo Đài Loan, cũng như ngăn chặn bất cứ thế lực nước ngoài nào muốn giúp đỡ đảo quốc này. Đài Loan đã làm gì? Chính sách trắng quốc phòng Đài Loan thừa nhận mặc dù quan hệ giữa hai bờ biển đã ấm dần lên kể từ 2008 nhưng tình trạng sẵn sàng thời bình (của PLA) có thể nhanh chóng biến thành sức mạnh quân sự nhắm vào Đài Loan”. Bên cạnh những khẩu hiệu như kêu gọi xây dựng một lực lượng quân đội “không biết sợ, không biết đến thất bại”, hay một thông báo mù mờ về việc nghiên cứu khả năng tác chiến phi đối xứng trong thời gian tới, sách trắng đã không đưa ra được tuyên bố nào ấn tượng. Có chăng là những đề cập chung chung rằng Viện Khoa học và Công nghệ Trung Sơn (Chung-shan) đang nghiên cứu một số loại khí tài như vũ khí xung điện từ (EMP). Cũng không có đề cập gì cụ thể về những tiến triển trong việc nghiên cứu các loại tên lửa dòng Hùng Phong như HF-3 và HF-2E, cũng như công nghệ tàng hình mà quân đội Đài Loan từng dự kiến áp dụng trên các tàu tên lửa. Đáng lo ngại nhất là hoàn toàn không có phân tích nào về những chuyển biến chiến lược cần phải thực hiện để đối phó với sức mạnh quân sự của Trung Quốc. ![]() Khả năng tấn công Đài Loan của các tên lửa Trung Quốc. Ngay bản thân các chính trị gia Đài Loan cũng đang mâu thuẫn với nhau. Ngay sau khi công bố sách trắng quốc phòng, Đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) - đảng đối lập chính ở Đài Loan – đã tố cáo chính quyền Quốc dân Đảng của Tổng thống Mã Anh Cửu chịu trách nhiệm về sự mất cân bằng quân sự với Trung Quốc. DPP chỉ trích ông Mã không giữ lời hứa duy trì 3% GDP cho quốc phòng (ngân sách quốc phòng năm 2011 của Đài Loan chỉ chiếm 2,2% GDP) và gián tiếp vẫy cờ trắng cho phía Trung Quốc bằng cách im lặng trước những sự cố như vụ ngày 29/6. Tuy nhiên ông Mã khó có thể làm gì hơn trước những khó khăn mà quân đội Đài Loan đang phải đối mặt trong việc hiện đại hóa quân đội, giữa lúc quan hệ Trung – Mỹ đang có dấu hiệu ấm dần lên. Chẳng hạn việc Đài Loan hối thúc Mỹ chuyển giao máy bay F-16 C/D đã mang lại rất ít kết quả. Tổng thống Mỹ Obama đã hứa hẹn sẽ trả lời vào ngày 1/10, nhưng theo nhiều nhà phân tích, có lẽ ông Obama đã gián tiếp nói “không”. Bởi thật khó tin là Washington sẽ bán loại máy bay này cho Đài Loan vào thời điểm diễn ra các chuyến thăm của Phó Tổng thống Joe Biden đến Trung Quốc và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến Hawaii. Giải pháp tình thế cho ông Mã, theo chuyên gia Oliver Braeuner của Viên nghiên cứu hòa bình Stockholm, đó là tìm kiếm thế cân bằng trong mối quan hệ với Bắc Kinh. “Ông Mã cần phải làm rõ rằng quan hệ giữa 2 bên chỉ có thể được cải thiện nếu Bắc Kinh từ bỏ mối đe dọa sử dụng vũ lực”, ông Broener nhận định. [news] |
>> Tàu ngầm Mỹ tự do trong vùng biển Trung Quốc
Dù phần lớn hạm đội tàu ngầm của Trung Quốc đóng vai trò bảo vệ bờ biển nhưng vẫn không thể ngăn chặn sự xâm nhận của tàu ngầm Mỹ. Theo phân tích mới nhất của tiến sĩ Owen Cote đến từ Chương trình nghiên cứu An ninh, ĐH Công nghệ Massachusetts, chỉ có thay đổi trong học thuyết và công nghệ mới giúp Trung Quốc cải thiện được tình trạng này. ![]() Tiến sĩ Own Cote Bản đánh giá mới nhất của tiến sĩ Cote là lời cảnh báo những trở ngại mà Trung Quốc phải đối mặt khi nước này muốn bảo vệ an ninh vùng biển của họ chứ chưa nói đến việc mở rộng ảnh hưởng trên Thái Bình Dương. Bản báo cáo cũng cho thấy, mặc dù được trang bị tàu sân bay, máy bay chiến đấu hay tên lửa đạn đạo thì tàu ngầm vẫn là vũ khí quyết định của Bắc Kinh trong cuộc cạnh tranh với Washington. Với khả năng di chuyển khó theo dõi và hỏa lực mạnh, tàu ngầm là mối đe dọa nghiêm trọng cho các hạm đội tàu trên mặt nước. Với lý do vừa nêu, tàu ngầm là lựa chọn lý tưởng để tạo ra những vùng biển chống xâm nhập. Đó cũng là ý định của Bắc Kinh khi xây dựng đội tàu ngầm bao gồm khoảng 50 tàu ngầm chạy điện - diesel cỡ nhỏ và 10 tàu cỡ lớn chạy năng lượng hạt nhân. Theo tiến sĩ Cote, "Trung Quốc lên kế hoạch sử dụng đội tàu ngầm diesel để bảo vệ bờ biển". Tương tự, những chiếc tàu ngầm hạt nhân cỡ lớn sẽ được sử dụng để bảo vệ vùng biển mà theo cách gọi của quan chức Trung Quốc là chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ 2 hay còn được gọi là vùng biển Philippines. Tuy nhiên, lực lượng Hải quân Mỹ với tàu ngầm đi kèm với máy bay tuần tra, trực thăng, tàu nổi và các bộ phận thăm dò đáy biển bằng âm thanh khi tập trung vào những vị trí nhất định vẫn có thể phát hiện được hầu hết những tàu ngầm Trung Quốc cố bám theo hạm đội Mỹ khi hạm đội này vượt qua chuỗi đảo đầu tiên, tiến sĩ Cote khẳng định. Tiến sĩ Cote cho biết thêm:"Điểm yếu của Trung Quốc là khả năng chống ngầm hạn chế và không được đầu tư một cách đúng mức tương xứng vời tầm quan trọng của nó". (>> xem thêm) Điều này dẫn đến việc lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc không thể kiểm soát và chống lại sự xâm nhập của các hạm đội Mỹ và đồng minh vào vùng biển Đông và chưa nói đến việc kiểm soát cả vùng biển Philippines. Thậm chí, "Lực lượng tàu ngầm Mỹ có thể hoạt động tự do ở cả những vùng ven bờ của Trung Quốc", theo tiến sĩ Cote. Sự không cân bằng này là kết quả của những khoản đầu tư khổng lồ vào công nghệ tàu ngầm trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh của Mỹ. Người Mỹ đã chứng minh được khả năng thiết lập và duy trì những ưu điểm về giảm độ ồn cho những tàu ngầm nguyên tử của họ trước những đối thủ cạnh tranh. Sự vượt trội của tàu ngầm Mỹ sẽ hạn chế tối đa khả năng tác chiến của đội tàu ngầm Trung Quốc trong cuộc xung đột kéo dài, thậm chí làm giảm khả năng phòng thủ ven biển của đội tàu ngầm Trung Quốc bằng cách chiếm giữ những vị trí bên ngoài cảng biển của Trung Quốc, theo dõi và phá hủy những tàu ngầm Trung Quốc ra vào cảng. Hiện tại, Hải quân Mỹ chỉ duy trì khoảng 10 tàu ngầm được triển khai thường xuyên trên toàn thế giới. Số lượng này sẽ được tăng nhiều hơn trong các trường hợp cần thiết nhưng lực lượng này chỉ mất khoảng vài ngày cho đến vài tuần để xâm nhập được vào vùng biển của Trung Quốc. Vì lý do đó, Mỹ có thể hạn chế được những ưu thế về số lượng của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc. Ngoài ra, những ưu thế của tàu ngầm Mỹ cũng sẽ tăng theo thời gian đi cùng số lượng tàu ngầm của nước này. Hiện tại, tàu ngầm Mỹ nhận được nhiều sự hỗ trợ nhờ bộ cảm biến tinh vi cũng như hệ thống chiến đấu dựa vào chỉ dẫn hỗ trợ định vị mục tiêu từ những căn cứ radar trên đất liền, vệ tinh hoặc máy bay trinh thám không người lái. Ngược lại, Trung Quốc sở hữu một hệ thống chỉ dẫn nghèo nàn với hệ thống radar quét sóng xa OTH và một số hệ thống vệ tinh do thám nhỏ. Ví dụ, Bắc Kinh đang phát triển mẫu máy bay do thám không người lái. Tuy nhiên, Washington hoàn toàn có thể đối phó dễ dàng bằng việc được trang bị tên lửa tấn công mặt đất nhằm phá hủy hệ thống thông tin để nắm chắc chiến thắng trước hạm đội tàu ngầm của Trung Quốc. Không những thế, Hải quân Mỹ cũng đang nghiên cứu khả năng phóng máy bay không người lái loại nhỏ từ tàu Mỹ để chống lại hệ thống OTH của Trung Quốc. Với những trang bị trên, hạm đội tàu ngầm của Mỹ có đủ khả năng để tiêu diệt phạm vị lớn các mục tiêu trên mặt đất bao gồm hàng trăm bệ phóng tên lửa di động của Trung Quốc. Tiến sĩ Cote kết luận:"Cả lực lượng tàu ngầm của Mỹ và Trung Quốc đều có những nhiệm vụ mới trong nỗ lực chạy đua với nhau, nhưng hoàn cảnh của Trung Quốc sẽ khác của Mỹ vì họ không có được những lợi thế hiện tại như Mỹ". [BDV news] |
>> Trung Quốc phong tỏa cảng Đại Liên
Cục an toàn hàng hải tỉnh Liêu Ninh Trung Quốc đã ra thông báo phong tỏa toàn bộ khu vực xung quanh cảng Đại Liên. Theo đó toàn bộ tàu thuyền sẽ bị cấm đi vào khu vực này từ ngày 4-16 tháng 8/2011. Trong thông báo phong tỏa khu vực cảng Đại Liên mà cơ quan an toàn hàng hải Liêu Ninh đưa ra, sở dĩ họ phong tỏa khu vực cảng này là để phục vụ cho mục đích quân sự. ![]() Vùng màu đỏ là khu vực bị phong tỏa kể từ ngày hôm nay. Ảnh:Clubchina Khu vực phong tỏa bắt đầu từ vị trí neo đậu hiện tại của tàu sân bay Thi Lang (Varyag) cho đến gần hết khu vực eo biển Bột Hải. Sự kiện phong tỏa này được thông báo là để cho các thử nghiệm sơ bộ ban đầu của tàu sân bay Thi Lang. ![]() Khu vực neo đậu của tàu sân bay Varyag. Ảnh: Clubchina Trên các tuyến đường dẫn đến cảng Đại Liên và các tuyến đường xung quanh, tất cả các phương tiện không có phận sự đều không được phép vào khu vực này. Chính quyền địa phương cho biết, tất cả người dân cũng như phóng viên không được phép quay phim, chụp hình trong khu vực thử nghiệm của Thi Lang. Các đơn vị kiểm soát quân sự bắt đầu tăng cường làm nhiệm vụ kể từ hôm nay 4/8/2011. Cảnh sát địa phương cũng đã ra thông báo cho tất cả người dân trong khu vực không được leo núi cũng như sử dụng các tòa nhà cao tầng cho mục đích chụp ảnh. Bất cứ trường hợp bất thường nào đều bị bắt giữ và thẩm tra tại cơ quan cảnh sát địa phương. Sự kiện ra thông báo phong tỏa khu vực cảng Đại Liên một cách bất thường này khiến dư luận không khỏi thắc mắc. Mặc dù, mục đích của cuộc phong tỏa này được cho là để thử nghiệm tàu sân bay, tuy nhiên có thể đây chỉ là một hành động che mắt dư luận trước sự cố của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc. Trước đó, theo một thông tin từ cơ quan tình báo Nhật Bản, một tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc đã gặp sự cố gần cảng Đại Liên và gây rò rỉ phóng xạ ra khu vực xung quanh. Thông báo phong tỏa khu vực cảng Đại Liên một cách gắt gao của chính quyền địa phương và quân đội Trung Quốc càng làm cho thông tin này có cơ sở hơn. Tag: Hải quân Trung Quốc, Tàu sân bay Thi Lang, Tàu sân bay Trung Quốc, Hải quân các nước trên thế giới [news] |
>> NATO hụt hơi trong cuộc đua chống hạm?
Hải quân các nước NATO không mấy chú trọng đến việc phát triển tên lửa chống hạm tầm xa, thế hệ mới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, nhận thấy đối thủ hải quân lớn nhất đã không còn sức mạnh, NATO cho rằng Nga sẽ tập trung khôi phục kinh tế nên khả năng phát triển quân sự không còn như xưa nữa. Do đó, các tuần dương hạm nổi tiếng của Liên Xô không còn là thách thức quá lớn đối với hải quân NATO. Vì vậy, các nước trong khối quân sự lớn nhất thế giới này không quan tâm đến tên lửa chống hạm mà quay sang phát triển các năng lực tác chiến mới trên không, xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa, phát triển các máy bay chiến đấu mới... Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi một cách nhanh chóng, đặc biệt là tại châu Á - Thái Bình Dương. Trung Quốc đã xây dựng và phát triển một đội tàu chiến mặt nước hùng hậu, bên cạnh đó là sự trỗi dậy của hải quân các nước như Ấn Độ, và sự trở lại của người Nga. Các quốc gia này, đặc biệt là Nga và Trung Quốc đã liên tục cho ra đời các mẫu tên lửa chống hạm mới, tinh vi hơn, tầm bắn xa hơn. Tên lửa chống hạm NATO Danh sách các loại tên lửa chống hạm của NATO có hai loại chủ yếu là Harpoon và Exocet. Bên cạnh đó có một số hệ thống tên lửa chống hạm khác như Otomat, RBS-15 MK3. Biến thể có tầm bắn xa nhất là Harpoon Block 1D (278km) đã không được sản xuất với số lượng lớn sau khi Liên Xô sụp đổ. ![]() Tên lửa chống hạm chủ lực Harpoon của hải quân NATO. Biến thể hiện đại và có tầm bắn xa nhất của Harpoon là 315km và được phóng từ trên máy bay chiến đấu. Các biến thể trang bị cho các tàu chiến mặt nước và tàu ngầm có tầm bắn xa nhất khoảng 140km. Tên lửa Harpoon có tốc độ khoảng 850km/h, đầu đạn nặng khoảng 220kg, nó được dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động. Với Exocet của MBDA châu Âu, tầm xa nhất thuộc Block III, tầm bắn 180km. Exocet có tốc độ Mach-0,9 khoảng 1.100km/h,đầu đạn nặng 165kg. Tên lửa cũng được dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động. Cả hai loại tên lửa chống hạm chủ lực của NATO đều có tốc độ cận âm, dù được thiết kế để tránh radar, tuy nhiên với tốc độ cận âm khả năng bị bắn hạ bới các hệ thống phòng thủ trên chiến hạm là rất lớn. Nga là quốc gia sở hữu nhiều thế hệ tên lửa chống hạm nhất thế giới hiện nay, họ cũng là quốc gia đang sở hữu những hệ thống tên lửa chống hạm đáng sợ nhất thế giới. ![]() P-270 Moskit được đánh giá là tên lửa chống hạm đáng sợ nhất hiện nay. Điển hình là tên lửa chống hạm P-270 Moskit hay SS-N-22 Suburn, tên lửa chống hạm này có tốc độ lên đến Mach-2,5 khoảng 2.800km/h. Với tầm bắn tối đa là 120km, đầu đạn nặng 300kg, tên lửa này là một thách thức lớn đối với hệ thống phòng thủ trên chiến hạm của NATO. Hiện tại, Mỹ đang đau đầu trong việc sản xuất bia bay cho hải quân tập đánh chặn. Họ tên lửa chống hạm đang được xuất khẩu rộng rãi ra nhiều nước trên thế giới X-35 Uran hay Kh-35 Uran E phiên bản xuất khẩu, NATO định danh là SS-N-25 Switchblade. Tên lửa có tốc độ là Mach-0,8 , tầm bắn 130km, đầu đạn nặng 145kg. Kh-35 có thể phóng từ nhiều bệ phóng khác nhau từ tàu chiến, đến máy bay chiến đấu, từ bệ phóng di động trên mặt đất. Phiên bản nâng cấp gần đây nhất có tầm bắn lên đến 250km. Chưa hết, họ tên lửa chống hạm Club đang khiến cho NATO cực kỳ nguy hiểm có thể phóng đi từ tàu ngầm và Club-N phóng từ tàu nổi có tầm bắn lên đến 300km, với tốc độ lên đến Mach-2,9 ở pha cuối. Tên lửa được thiết kế với đường bay kiểu “zic- zắc” nên rất khó đánh chặn. Đặc biệt, hệ thống tên lửa Club có thể triển khai hoạt động trong các container đựng hàng, triển khai lên các tàu chở hàng. Đó là một mối đe dọa rất lớn với các tàu chiến của NATO, vì rất khó khăn để phát hiện tàu chở hàng nào chứa Club. Hệ thống này đang được xem là tiêu biểu cho chiến lược chiến tranh phi đối xứng. ![]() Họ tên lửa Club đang là đại diện tiêu biểu cho chiến lược chiến tranh phi đối xứng mà Nga đang xây dựng. Ghê gớm hơn là hệ thống tên lửa chống hạm P-800 Yakhont, có tầm bắn đến 300km, tốc độ lên đến Mach-2,5. Hệ thống này tiếp tục là một thách thức đối với khả năng phòng thủ trên các chiến hạm của NATO. Hệ thống có thể triển khai hoạt động rất đa dạng, từ tàu chiến mặt nước, máy bay, bệ phóng di động trên bờ. Đặc biệt, biến thể Brahmos II trong tương lai, phát triển từ nguyên mẫu P-800 do Ấn Độ và Nga cùng nghiên cứu có thể đạt tốc độ Mach 5. Bên cạnh đó không thể không kể đến các loại tên lửa chống hạm cũ hơn nhưng không kém phần nguy hiểm. P-700 Granit, NATO định danh là SS-N-19 Shipwreck. Tên lửa chống hạm này có tầm bắn lên đến 625km, đầu đạn nặng 750kg, đây là loại tên lửa chống hạm có tầm bắn xa nhất thế giới hiện nay đang hoạt động. Tên lửa có tốc độ tối đa từ Mach-1,6 đến Mach-2,5. Tên lửa này được phóng đi theo kiểu 4-8 tên lửa được phóng đi để tấn công một nhóm tàu, radar trên các tên lửa sẽ hỗ trợ dẫn đường cho nhau để tấn công mục tiêu, xác suất tiêu diệt với kiểu bắn này rất cao. P-700 hiện đang là tên lửa chống hạm chủ lực trên tuần dương hạm lớp Kirov. P-500 Bazalt SS-N-12 Sandbox, đây là loại tên lửa chống hạm có tầm bắn lên đến 550km, tốc độ Mach-2.5, đầu đạn nặng tới 1.000kg. Phiên bản cải tiến của P-500 đang là tên lửa chống hạm chủ lực của tuần dượng hạm lớp Slava. Điểm qua một loạt các tên lửa chống hạm của NATO và Nga, rõ ràng các tên lửa chống hạm của Nato đều thua xa cả về tầm bắn lẫn tốc độ. Các chiến hạm của NATO có thế mạnh về hệ thống phòng thủ, tuy nhiên khi phải đối đầu với hàng loạt tên lửa chống hạm có tốc độ siêu thanh, thì khả năng này vẫn còn là một ẩn số quá lớn. ![]() Tên lửa chống hạm YJ-8 được phóng đi từ tàu chiến Trung Quốc. So sánh tên lửa chống hạm NATO - Trung Quốc Trong những năm qua, quân đội Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ thần tốc, đặc biệt là hải quân. Họ đã xây dựng cho mình một đội tàu chiến mặt nước và tàu ngầm hùng hậu, chuẩn bị đưa vào sử dụng tàu sân bay đầu tiên. Bằng cách sao chép các công nghệ từ nước ngoài, chủ yếu là từ Nga, họ đã cho ra đời hàng loạt hệ thống vũ khí mới, trong đó có một danh sách dài các loại tên lửa chống hạm. Trong đó có thể kể đến những loại tên lửa đáng chú ý sau: YJ-8 hay C-802, Nato định danh là CSS-N-8 Saccade, đây là loại tên lửa được thiết kế theo công nghệ hiện đại, nếu tính theo thông số công bố có thể sánh được với các tên lửa chống hạm hiện đại của NATO và Nga. Tầm bắn của loại tên lửa này tùy thuộc vào phiên bản, 120km với phiên bản C-802, 180km với C-802A, 350km với C-803. Dù tên lửa này không có được tốc độ siêu âm như các tên lửa chống hạm của Nga, nhưng với tầm bắn xa, vượt xa cả phiên bản hiện đại nhất của tên lửa chống hạm Harpoon của NATO. ![]() Phiên bản được cho là tên lửa đạn đạo chống tàu DF-21D. Gần đây, có tin biến thể C-805 phát triển dựa vào nguyên mẫu C-802 đang được coi là tên lửa chống hạm hiện đại nhất Trung Quốc với tầm bắn lên đến tối đa 500km (tầm bắn hiệu quả 380km) với tốc độ kinh hoàng Mach 3.5. Trước đó, năm 2005, Trung Quốc giới thiệu C-602 Tầm bắn của tên lửa này được giới thiệu là tới 400km, phiên bản xuất khẩu có tầm bắn là 280km. Tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng, tốc độ tối đa khoảng Mach-0,9, tên lửa này được cho là có hệ thống dẫn đường tương tự tên lửa Harpoon của Mỹ. Đặc biệt là đầu năm 2011, giới quân sự Trung Quốc đã giới thiệu một phiên bản tên lửa chuyên dùng để tiêu diệt tàu sân bay mang tên DF-21D. Theo như giới thiệu của giới quân sự Trung Quốc, DF-21D có thể tiêu diệt tàu sân bay đang di chuyển ở cự ly lên đến gần 3000km. Đây là loại tên lửa đạn đạo chống tàu ASBM đầu tiên của thế giới, mặc dù thực hư của vấn đề này là chưa rõ ràng. Song sự xuất hiện của loại ASBM DF-21D khiến giới quân sự NATO ít nhiều phải lo lắng. Xét về tầm bắn các tên lửa chống hạm của Trung Quốc đều vượt trội so với các tên lửa chống hạm chủ lực của hải quân NATO. ![]() Bảng so sánh thông số một số loại tên lửa chống hạm Nga, NATO, Trung Quốc (dựa vào thông số công bố lớn nhất). Nước đến chân mới nhảy Dù ngoài mặt các chuyên gia quân sự của Mỹ và Nato đánh giá khá thấp khả năng tiêu diệt tàu sân bay đang di chuyển của DF-21D. Tuy nhiên, khối quân sự lớn nhất thế giới này đang rục rịch chuẩn bị biện pháp đối phó. Tự tin với sức mạnh quân sự khổng lồ, ỷ lại vào các hệ thống vũ khí hiện đại, tuy nhiên khi nhìn lại, NATO không khỏi lo lắng trước khả năng hụt hơi trong cuộc đua chống hạm. Không lâu sau khi Trung Quốc giới thiệu DF-21D, Hải quân Mỹ lập tức khởi động chương trình phát triển tên lửa chống hạm tầm xa mới LRASM. Tiếp tục rót vốn cho chương trình phát triển biến thể SM-6, song song với đó là hoàn thiện phiên bản SM-3 Block III. Một dự án khác cũng được thúc đẩy là phát triển vũ khí chùm laser điện tử để tăng khả năng bảo vệ các chiến hạm trước tên lửa chống hạm của đối phương. Tuy rằng, các chương trình phát triển tên lửa chống hạm mới đã được khởi động, song cần một khoảng thời gian nữa NATO mới có thể lấp đầy khoảng trống về tầm bắn và tốc độ so với các tên lửa chống hạm của Nga và Trung Quốc. [BDV news] |
>> 'Gót chân Asin' của Hải quân Trung Quốc
Dù Trung Quốc có thể tự hào về tàu sân bay đầu tiên của mình và tiếp tục nâng cấp một loạt tên lửa hành trình chống tàu (ASCM), nhưng hải quân nước này vẫn dễ dàng bị tổn thương trước các cuộc tấn công của tàu ngầm đối phương. Minh chứng cho sự yếu kém chủ yếu của Trung Quốc trong tác chiến chống tàu ngầm là Hải quân Trung Quốc chỉ có không quá một tá máy bay tuần tra biển (MPA) - một lực lượng tác chiến chống tàu ngầm chủ yếu của hầu hết các lực lượng hải quân tiên tiến trên thế giới. Do vậy, các nhà phân tích quốc phòng Trung Quốc đang rất quan tâm đến những thách thức mà các tàu ngầm nước ngoài có thể tạo ra đối với các lợi ích và tham vọng hàng hải của Trung Quốc. Để lấp khoảng trống trong tác chiến chống tàu ngầm, hiện nay Hải quân Trung Quốc đang xây dựng nền tảng cho khả năng chống tàu ngầm tiên tiến hơn trong một hoặc hai thập kỷ tới. Tác chiến chống tàu ngầm phi quy ước Hiện nay, các phương tiện tác chiến chống ngầm hiệu quả nhất của Hải quân Trung Quốc là các phương tiện "phi quy ước", bao gồm: - Thủy lôi: Tác chiến thủy lôi từng được coi là một sức mạnh của Hải quân Trung Quốc và là một lựa chọn chủ yếu trong các trong hoạt động phòng thủ chống tàu ngầm tại các khu vực trong vùng biển Hoàng Hải hoặc eo biển Đài Loan. Các nhà phân tích Hải quân Trung Quốc thường xuyên thảo luận sử dụng thủy lôi tấn công tàu ngầm đối phương, thậm chí bí mật sử dụng các tàu thương mại đã chuyển đổi rải thủy lôi vào các vùng biển nơi các tàu ngầm đối phương có thể hoạt động. Một sĩ quan hải quân cao cấp của Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Hải quân Bắc Kinh gần đây đã đề xuất trong tương lai các phương tiện không người lái dưới nước có thể được sử dụng để triển khai thủy lôi nhằm tăng cường các khả năng tác chiến thủy lôi của Trung Quốc trong tác chiến chống tàu ngầm. - Tàu đánh cá và tàu ngư chính: Một số nguồn tin cho hay Hải quân Trung Quốc dự định sử dụng các tàu đánh các và tàu ngư chính vào các cuộc chiến chống tàu ngầm tương lai. Trên thực tế, một một tàu ngư chính đã được tái trang bị cho nhiệm vụ này. Tàu được trang bị một trực thăng chống tàu ngầm, ngư lôi chống tàu ngầm và thiết bị sonar kéo. Trong tương lai, các tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc sẽ được cải tiến theo xu hướng này để nâng cao khả năng tác chiến chống tàu ngầm của Hải quân Trung Quôc. Tác chiến chống ngầm quy ước - Phát triển công nghệ sonar kéo: Từ lâu Hải quân Trung Quốc đã triển khai một hạm đội lớn tàu săn ngầm có trọng lượng giãn nước nhỏ (Type 037), nhưng vẫn thiếu một lực lượng tàu chiến mặt nước hiện đại thực hiện tác chiến chống tàu ngầm, ngay cả khi đã được trang bị hai loại tàu khu trục phòng không (Type 054) và tàu khu trục (Type 052) hiện đại. Hải quân Trung quốc chưa ưu tiên phát triển các công nghệ sonar, mặc dù công nghệ sonar kéo đã được Pháp xuất khẩu sang Trung Quốc vào đầu những năm 1980. Các sonar gắn trên thân tàu chiến đấu mặt nước mới nhất của Trung Quốc chưa có khả năng phát hiện mục tiêu ở cự ly xa. Gần đây có tin lực lượng tàu chiến mặt nước mới nhất của Trung Quốc được lắp đặt giàn sonar nội địa H/SJG-206 có thể phát hiện mục tiêu ở cự ly khoảng 100km. - Lực lượng tàu hộ tống: Trung Quốc sẽ triển khai một loại tàu hộ tống chống tàu ngầm hiện đại trong những năm tới. Theo các phương tiện truyền thông Trung Quốc là tàu hộ tống Type-056, với chiều dài khoảng 90 m và lượng choán nước 1.500 tấn. ![]() Hộ vệ chống ngầm tương lai của Hải quân Trung Quốc Type 056. Trên tàu có 1 radar thủy âm ở mũi và một sân đỗ có khả năng tiếp nhận 1 trực thăng Z-9 Haitun. Vũ khí trên tàu gồm 1 pháo 76 mm ở mũi (có thể là bản sao chép pháo AK-176 của Nga), 4 tên lửa chống hạm YJ-2, YJ-3 hay YJ-83 (C-802/C-803) ở giữa tàu và một hệ thống tên lửa phòng không tầm gần FL-3000N trên phần thượng tầng ở đuôi tàu. Có thể trên cột tàu phía mũi có bố trí rađa sục sạo Type 348 (LR-66). Dự kiến Type-056 dùng để thay thế hoặc bổ trợ cho tàu Type-037. - Trực thăng hải quân: Để tăng cường khả năng chống tàu ngầm từ trên không, Hải quân Trung Quốc đã tăng cường phát triển một số loại trực thăng tác chiến chống tàu ngầm như Z-9C và Z-8. Tuy nhiên, các nhà phân tích hải quân Trung Quốc cho rằng, loại trực thăng Z-9C vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tác chiến chống tàu ngầm do Z-9C thiếu khả năng mang tải nặng để mang các bộ xử lý trên máy bay, phao thủy âm và vũ khí chống tàu ngầm, cho dù Z-9C được lắp một cặp giá treo ngoài để mang 1-2 quả ngư lôi chống ngầm sản xuất trong nước ET52 có tầm hoạt động tới 9,5km, Ngoài ra, Z-9C còn được trang bị một sonar Type 605 (bản sao của AN/AQS-13 của Mỹ), một thùng chứa 12 phao thủy âm thụ động, 4 phao thủy âm chủ động, một phao thủy âm đo nhiệt độ và một phao thủy âm xác định môi trường đại dương. ![]() Trực thăng chống ngầm Z-9C. Z-9C lắp một thiết bị thu vô tuyến để thu các tín hiệu của phao thủy âm ở cự ly 10 km khi bay với vận tốc 120km/h. Trong khi đó Z-8 có kích thước quá lớn, không phù hợp với phần lớn tàu chiến mặt nước của Hải quân Trung Quốc. Do vậy, Hải quân Trung Quốc phải nhập khẩu trực thăng Ka-28 Helix của Nga với số lượng lớn để tăng cường khả năng chống tàu ngầm. - Máy bay chống ngầm cánh cố định: Máy bay tuần tra biển hiện nay trở thành một phương tiện tác chiến chống tàu ngầm rất khả thi với các ưu điểm: khả năng cơ động cao, thời gian bay lượn lâu, tải trọng lớn và ít bị tổn thương trước các vũ khí triển khai trên tàu ngầm cũng như phạm vi sục sạo rộng. Hải quân Trung Quốc đang xem xét chế tạo loại máy bay cánh cố định Y-8 có khả năng phóng tên lửa đối hạm nhưng với chỉ số lượng ít do thiếu căn cứ ở nước ngoài để làm nhiệm vụ bay tuần tra biển ở các vùng nước xanh xa. Theo các nhà phân tích, điều này sẽ được khắc phục một phần trong thập kỷ. Hướng đi khác trong phát triển phương tiện chống ngầm từ trên không của Hải quân Trung quốc là đầu tư nhiều hơn vào các hệ thống chống tàu ngầm không người lái trên không. - Tàu ngầm: Nhiệm vụ tác chiến chống tàu ngầm được đặt ra cho lực lượng tàu ngầm diesel của Trung Quốc từ tương đối sớm do các tàu ngầm diesel có thể có một số lợi thế khi hoạt động trong vùng nước nông ven biển và động cơ AIP đang được hoàn thiện. Các giàn sonar kéo cũng đã được trang bị trên các tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc. ![]() Tàu ngầm lớp Tống (Song - Type-039G). Tàu ngầm lớp Tống đã được trang bị ngư lôi chống tàu ngầm hạng nặng đầu tiên cũng như vũ khí chống tàu ngầm phóng bằng rocket (ASROC trong lực lượng hải quân phương Tây). Lực lượng tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc cũng được trang bị các công nghệ chống tàu ngầm nhưng tốc độ tìm kiếm phát hiện tàu ngầm đối phương hiện còn tương đối chậm. Bên cạnh đó, trình độ của các thủy thủ tàu ngầm trong tác chiến tàu ngầm chưa cao và kinh nghiệm chiến đấu hầu như không có cũng làm giảm đáng kể khả năng tác chiến chống tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc, nhưng họ lại có lợi thế nhất định như quen với điều kiện độ sâu và hải dương học ở các vùng biển gần Trung Quốc [news] |
>> Hàn Quốc truy tố 3 sĩ quan bán bí mật quân sự
Ngày 3/8, các công tố viên Hàn Quốc đã truy tố 3 sĩ quan không quân cấp cao về hưu, trong đó có 1 cựu tướng bốn sao, với cáo buộc đã đưa các bí mật quân sự cho công ty vũ khí Mỹ. Tờ Korea Herald dẫn lời một quan chức Hàn Quốc cho biết trong số các sĩ quan bị truy tố có một nhân vật mang họ Kim, từng là thành viên của Bộ Tham mưu Không quân và giữ một vị trí cao cấp trong Không quân từ 1982-1984. Ông Kim đã nghỉ hưu và mở một công ty bán vũ khí vào năm 1995. Hai sĩ quan còn lại cũng làm việc cho công ty của ông Kim, một người cấp bậc đại tá và một cấp bậc thượng sĩ. Theo các công tố viên, 3 sĩ quan này đã nhận tổng cộng 2,5 tỉ won (2,35 triệu USD) từ công ty Lockheed Martin trong khoảng thời gian từ 2009-2010. Công tố viên cũng nghi ngờ, kể từ 2004 đã có ít nhất 12 lần ông Kim cung cấp cho Lockheed Martin những thông tin bí mật như các kế hoạch quân sự trung hạn và nhiều kế hoạch tăng cường sức chiến đấu của Không quân Hàn Quốc. Có vẻ như ông Kim đã lấy được các bí mật này thông qua quan hệ với các quan chức cấp cao trong quân đội và các cơ quan mua vũ khí của Hàn Quốc, theo các công tố viên. ![]() Máy bay F-16 của Hàn Quốc do Lockheed Martin sản xuất “Những bí mật quân sự bị tiết lộ khiến những mục tiêu tăng cường sức mạnh không quân bị lộ theo. Có những lo ngại rằng điều này có nghĩa là những vũ khí chúng ta mua sắm sẽ không còn tác dụng như mong muốn”, Korea Herald dẫn lời một công tố viên. “Với tư cách là những cựu sĩ quan cấp cao, đáng lẽ những người này phải có một tinh thần trách nhiệm cao trong việc bảo vệ an ninh quốc gia. Vụ việc cho thấy sự thiếu trách nhiệm và suy đồi đạo đức của họ”. Cơ quan điều tra cho rằng ông Kim đã bán thông tin về ngân sách và số lượng tên lửa mà Liên quân Hàn Quốc dự định mua để có thể tấn công chính xác các mục tiêu chiến lược của CHDCND Triều Tiên khi cần. Thậm chí ông Kim còn trao tận tay công ty Mỹ tường thuật chi tiết diễn biến các buổi họp quân sự, bao gồm những thảo luận về loại vũ khí cần mua và thời gian mua sắm dự định. Những thông tin này được ông Kim tuồn cho Lockheed Martin trong những cuộc hội thảo về marketing ở Hàn Quốc hoặc nước ngoài. Các công tố viên Hàn Quốc cho rằng Lockheed Martin đã sử dụng những thông tin trên để điều chỉnh cách quảng cáo cho phù hợp với yêu cầu của phía Hàn Quốc. Năm 2010, công ty này đã được Cục Mua sắm Thiết bị Quốc phòng Hàn Quốc chọn là “nhà thầu được ưu tiên” trong kế hoạch mua sắm thiết bị dò tìm. Vụ việc đang gây một làn sóng giận dữ trong dư luận Hàn Quốc về sự vô trách nhiệm của các sĩ quan này trong việc bảo vệ an ninh quốc gia. Hiện cả 3 người đều bác bỏ các cáo buộc, trong khi công ty Lockheed Martin từ chối bình luận về vụ việc. |
Thứ Năm, 4 tháng 8, 2011
>> Sáu cuộc chiến tranh trong 50 năm tới của Trung Quốc?
Bài trên trang China News về 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc sẽ phát động trong 50 năm tới. Sau khi dùng vũ lực thống nhất với Đài Loan thì mục tiêu tiếp theo là phát động chiến tranh để thu hồi các đảo ở Biển Đông. (Theo quan điểm cá nhân của riêng mình thì người viết nội dung của bài này có trí tưởng tượng thật phong phú, Trung Quốc đang trỗi dậy, điều này đúng, nhưng liệu Trung Quốc đã thực sự đủ khả năng để có thế gây mưa gây gió ở khắp nơi, muốn gì được nấy, thật điên rồ & nực cười :)) Bài viết lấy từ nguồn Nghiên cứu biển Đông, chỉ mang tính chất tham khảo) ![]() Trung Quốc là một nước lớn chưa thống nhất, đây là nỗi nhục của dân tộc Hoa Hạ, là nỗi hổ thẹn của con cháu Viêm Hoàng để thống nhất đất nước và sự tôn nghiêm của dân tộc, trong vòng 50 năm tới, Trung Quốc cần phải tiến hành 6 cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh thứ nhất : Thống nhất Đài Loan (giai đoạn 2020 - 2025) Mặc dù, quan hệ hai bờ hiện nay đang có xu hướng đi vào hòa hoãn, nhưng đừng hy vọng nhà đương cục Đài Loan (cho dù là Quốc dân đảng hay Dân tiến đảng) muốn thống nhất hòa bình với Trung Quốc đại lục, vì điều này không phù hợp với lợi ích tranh cử của đảng cầm quyền tại Đài Loan, cho nên trong thời gian dài sẽ tiếp tục nêu chủ trương giữ nguyên hiện trạng với Trung Quốc đại lục (như vậy đều có lợi cho hai đảng, Dân tiến đảng hung hăng một chút, Quốc dân đảng hòa hoãn một chút, cả hai đều giành được lợi ích chính trị trên chính trường Đài Loan), “độc lập” nhưng không dám “độc lập” thật sự, chỉ có thể kích động dư luận để kiếm lợi, trong khi đó “thống nhất” cũng sẽ là không “thống nhất” thật sự, chỉ có thể là đề cập chung chung. Đài Loan không thống nhất, đây là một tổn thương lớn nhất của Trung Quốc. Cho nên trong 10 năm tới, tức trước năm 2020, Trung Quốc cần phải nắm cho được phương châm chiến lược thống nhất, tuyên bố trước Đài Loan về thời hạn cuối cùng để thống nhất đất nước là năm 2025, hoặc là Đài Loan chấp nhận thống nhất hòa bình (đây là kết quả mà toàn thể người Hoa trên khắp thế giới mong đợi), hoặc là phải sử dụng vũ lực để thống nhất (đây là sự lựa chọn duy nhất mà Trung Quốc đại lục buộc phải làm). Để thống nhất, Trung Quốc phải làm tốt công tác chuẩn bị từ 3 đến 5 năm (thời điểm này, Trung Quốc hoàn toàn có đủ thực lực quân sự để thống nhất Đài Loan, như hàng không mẫu hạm của Trung Quốc chính thức được đưa vào biên chế, máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 4 được hoàn thiện…), khi thời điểm đến, cho dù là sử dụng phương thức thống nhất như thế nào, Trung Quốc vẫn nhất định phải thống nhất, đây là một sứ mệnh lịch sử của dân tộc Hoa Hạ. Theo phân tích tình hình hiện nay, Đài Loan tất sẽ cự tuyệt thống nhất, Trung Quốc đại lục duy nhất chỉ có con đường sử dụng vũ lực để thống nhất. Cuộc chiến tranh thống nhất này là một cuộc chiến tranh đích thực mang ý nghĩa hiện đại hoá kể từ sau khi nước CHND Trung Hoa được thành lập, là một cuộc chiến tranh kiểm nghiệm toàn diện sức chiến đấu hiện đại hoá của quân đội Trung Quốc. Trong cuộc chiến này, Trung Quốc có thể dễ dàng giành chiến thắng, nhưng cũng có thể sẽ gian nan giành chiến thắng. Tình hình này phụ thuộc vào quyết định tham chiến của Mỹ, Nhật Bản đối với Đài Loan. Mỹ, Nhật Bản viện trợ cho Đài Loan, thậm chí xuất quân phản công Đại lục, Trung Quốc buộc phải sử dụng tổng lực để đối kháng Mỹ, Nhật Bản, như vậy sẽ trở thành cuộc đại chiến gian khổ và kéo dài. Nếu Mỹ, Nhật Bản không dám đối kháng với Trung Quốc, để Trung Quốc đại lục thu hồi Đài Loan, quân đội Đài Loan đương nhiên không thể chống đỡ, nhiều nhất là 3 tháng là có thể kiểm soát hoàn toàn Đài Loan. Mặc dù hiện nay ai cũng cho là Trung Quốc có đủ khả năng chống lại các thế lực can thiệp, nhưng trước khi thu hồi Đài Loan, tốt nhất là tiến hành bố trí thế cục, để Mỹ, Nhật Bản không kịp hoặc không dám tham chiến, như vậy Trung Quốc mới có thể thần tốc đánh chiếm Đài Loan. Vậy phải bố trí thế cục như thế nào để Mỹ, Nhật Bản không kịp hoặc không dám tham chiến? Tốt nhất là gây ra một, hoặc hai cuộc chiến tranh trước đó, ví dụ như chiến tranh Ixraen-Iran, chiến tranh Nga-Nhật, chiến tranh Ấn Độ-Pakixtan, hay đối đầu giữa hai miền Triều Tiên, như vậy Mỹ, Nhật Bản khó có thể kịp thời hoặc không dám tham chiến. Đương nhiên, cho dù Mỹ, Nhật Bản có tham chiến hay không, cuối cùng Trung Quốc đều giành chiến thắng, đây là điều không phải nghi ngờ. Nhưng khác biệt ở chỗ, nếu Mỹ, Nhật Bản tham chiến, nguyên khí kinh tế của Trung Quốc sẽ bị tổn thương nặng nề; nếu Mỹ, Nhật Bản không kịp hoặc không tham chiến, kinh tế của Trung Quốc sẽ không bị tổn thất. Tuy nhiên, cho dù Mỹ, Nhật Bản có tham chiến hay không, về mặt quân sự, Trung Quốc sẽ có bước phát triển mang tính nhảy vọt. Vì sau khi thống nhất Đài Loan, hợp nhất kỹ thuật quân sự của Đài Loan, trong vòng từ 5 đến 10 năm, kỹ thuật quân sự của Trung Quốc sẽ có bước phát triển vượt bậc. Trong cuộc chiến này, Mỹ không tham chiến còn có thể giữ được địa vị độc bá của mình, một khi tham chiến, địa vị độc bá tất bị lung lay. Sau khi bị tổn thất nặng nề trong cuộc chiến này, địa vị bá chủ thế giới của Mỹ sẽ bị các nước nghi ngờ, đặc biệt là các nước nhỏ Đông Nam Á, đối diện với một Trung Quốc láng giềng hùng mạnh, buộc các nước này không thể không tính toán lại xem đi theo hướng nào, đi theo ai. Mỹ không tham chiến còn có thể duy trì địa vị bá chủ thế giới khoảng 40 năm nữa, trong 40 năm này, Trung Quốc sẽ không có cớ thách thức bá quyền của Mỹ, Trung Quốc chỉ có thể tiếp tục chuyên tâm vào sự nghiệp thống nhất đất nước. Điểm có lợi nhất của cuộc chiến thống nhất Đài Loan là Trung Quốc đã phá vỡ chuỗi đảo bao vây thứ nhất của Mỹ, để hướng ra Thái Bình Dương, như vậy Trung Quốc từ đó có thể tiến quân ra đại dương, mở rộng lợi ích thiết thân của Trung Quốc. Cuộc chiến tranh thứ hai : Thu hồi các đảo tại Biển Đông (giai đoạn 2025-2030) Sau khi Trung Quốc thống nhất Đài Loan, nghỉ ngơi chỉnh đốn nhiều nhất là 2 năm, trong khoảng thời gian này Trung Quốc tuyên bố với các nước có tranh chấp tại Biển Đông về thời hạn cuối cùng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để thu hồi các đảo là năm 2028, tất cả các nước có thể đàm phán với Trung Quốc trong khoảng thời gian này. Trung Quốc sẽ xuất phát từ quan điểm láng giềng hữu nghị và phong cách nước lớn, Trung Quốc còn có thể bảo đảm một phần lợi ích kinh tế của các nước xung quanh đã đầu tư vào các đảo ở Biển Đông, nếu không Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để thu hồi các đảo, đồng thời tịch thu toàn bộ lợi ích kinh tế, cũng như các khoản đầu tư trên các đảo này. Cuộc chiến tranh thứ ba: Thu hồi Nam Tây Tạng (giai đoạn 2035-2040) Hai mươi năm sau, mặc dù thực lực quân sự của Ấn Độ không bằng Trung Quốc, nhưng khi đó cũng sẽ là một trong số không nhiều nước lớn trên thế giới, vì vậy “đá chọi với đá” chắc chắn sẽ chịu nhiều tổn thất, cho nên tác giả cho rằng tốt nhất là ngay từ bây giờ Trung Quốc phải tìm mọi cách khiến Ấn Độ bị chia cắt thành mấy nước nhỏ, để Ấn Độ không còn sức đối kháng với Trung Quốc, tuy nhiên sách lược chia cắt Ấn Độ không chắc chắn thực hiện được, nhưng ở mức độ thấp nhất cũng phải làm cho bang Assam tiếp giáp với Nam Tây Tạng (Ấn Độ gọi là bang Arunachal Pradesh) và Sikkim bị Ấn Độ xâm chiếm được độc lập, làm suy yếu thực lực của Ấn Độ trong đối kháng với Trung Quốc, như vậy mới là thượng sách. Trung sách là chuyển một lượng lớn vũ khí quân sự tiên tiến sang Pakixtan, trong khoảng thời gian năm 2035, ngầm giúp Pakixtan tấn công khu vực phía Nam Casơmia của Ấn Độ, giúp đỡ Pakixtan hoàn thành đại nghiệp thống nhất lãnh thổ. Tất nhiên, trong khi Ấn Độ và Pakixtan chưa thể kết thúc chiến tranh, Trung Quốc thần tốc tấn công Ấn Độ thu hồi khu vực Nam Tây Tạng bị chiếm đóng. Ấn Độ sẽ không thể cùng lúc tác chiến với hai cuộc chiến tranh, kết cục đều gặp thất bại, như vậy Trung Quốc có thể dễ dàng lấy lại khu vực Nam Tây Tạng, Pakixtan cũng có thể hoàn thành việc kiểm soát hoàn toàn Casơmia. Đây là trung sách, là một biện pháp hay có thể thực hiện. Nếu tất cả các sách lược trên đều không thể thực hiện, Trung Quốc có thể tấn công trực diện Ấn Độ để thu hồi Nam Tây Tạng. Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh thứ nhất và thứ hai, Trung Quốc đã có thời gian khôi phục và tiếp tục phát triển trong vòng 10 năm, khi đó Trung Quốc đã là cường quốc mang tầm thế giới cả về kinh tế lẫn quân sự, duy chỉ có Mỹ và châu Âu là có thể xếp trên Trung Quốc (thời điểm đó nhiều khả năng châu Âu sẽ hoàn thành nhất thể hoá). Vì vậy, sau khi thống nhất Đài Loan và thu hồi các đảo tại Biển Đông, kỹ thuật quân sự của Trung Quốc đã có bước phát triển nhạy vọt, các trang thiết bị vũ khí hải, lục, không quân và vũ trụ đều có bước tiến dài, nhiều kỹ thuật quân sự ở vào trình độ dẫn đầu thế giới, khi đó sức mạnh quân sự của Trung Quốc chỉ có thể xếp sau Mỹ. Với thực lực như vậy, trong cuộc chiến thu hồi Nam Tây Tạng, Ấn Độ chắc chắn chịu một cuộc đại bại. Thứ nhất, sức mạnh tổng hợp của Ấn Độ yếu hơn nhiều so với Trung Quốc. Ấn Độ không có khả năng nghiên cứu, phát triển cũng như độc lập sản xuất các loại vũ khí mũi nhọn kỹ thuật cao. Năng lực động viên kinh tế cho thời chiến của Ấn Độ không bằng 1/10 của Trung Quốc, cho nên trong cuộc chiến với Trung Quốc, Ấn Độ không thể duy trì chiến tranh lâu dài, trong khi đó khả năng chiến tranh thần tốc của Ấn Độ lại kém xa so với Trung Quốc, vì vậy trong cuộc chiến này, Ấn Độ thất bại là điều không phải nghi ngờ. Thứ hai, trong cuộc chiến này, tuyệt đối không có quốc gia nào dám công khai giúp đỡ Ấn Độ. Khi đó, Trung Quốc đã là cường quốc thế giới, không có nước nào (kể cả Mỹ) dám công khai coi Trung Quốc là kẻ thù, nhiều khả năng nhất chỉ có 3 nước là Mỹ, Nga, Nhật Bản sẽ ngấm ngầm cung cấp vũ khí cho Ấn Độ, nhưng động thái này sẽ không gây ra những vấn đề lớn; ngược lại Pakixtan có thể nhân cơ hội này tấn công Ấn Độ. Thứ ba, Ấn Độ không dám và không thể sử dụng vũ khí hạt nhân. Mặc dù nói Ấn Độ đã có vũ khí hạt nhân, nhưng trong cuộc chiến này, Ấn Độ không dám sử dụng vũ khí hạt nhân, vì vũ khí hạt nhân của Ấn Độ không đủ để huỷ diệt Trung Quốc; đã không thể huỷ diệt, một khi sử dụng, khả năng phản kích của Trung Quốc có thể huỷ diệt vĩnh viễn Ấn Độ. Sau khi thu hồi Nam Tây Tạng, Trung Quốc sẽ đóng trọng binh tại đây, Ấn Độ sẽ không dám phản công, cuối cùng phải thừa nhận là lãnh thổ của Trung Quốc, đồng thời tích cực triển khai hợp tác với Trung Quốc, như vậy vẫn có thể bảo toàn thực lực nước lớn tại khu vực. Cuộc chiến tranh thứ tư : Thu hồi đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu (giai đoạn 2040 - 2045) Thời điểm đến giữa thế kỷ 21, Trung Quốc đã là cường quốc thế giới thật sự, khi đó Nhật Bản, Nga suy yếu; Mỹ, Ấn Độ không phát triển, Trung Quốc và châu Âu đồng thời nổi lên, là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc thu hồi đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu (Nhật Bản gọi là Okinawa) bị Nhật Bản chiếm đóng. Nói tới đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu, có lẽ nhiều người chỉ biết rằng đảo Điếu Ngư là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, nhưng lại không biết Nhật Bản đã xâm chiếm Lưu Cầu. Hiện nay, bất luận là trong diễn đàn nhân dân hay cấp trung ương, khi đề cập đến vấn đề Đông Hải giữa Trung Quốc và Nhật Bản, đề cập đến cái gọi là “đường trung tuyến” do Nhật Bản hoạch định, hay vấn đề Lưu Cầu, đều bị Nhật Bản dẫn giải sai lầm về lịch sử và chính trị - tức cho rằng Lưu Cầu là lãnh thổ của Nhật Bản. Nhật Bản đã xâm chiếm đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu của Trung Quốc nhiều năm qua, đánh cắp phi pháp nhiều tài nguyên tại Đông Hải của Trung Quốc, vì vậy đây sẽ là thời điểm thích hợp để lấy lại từ tay Nhật Bản. Vì thời điểm đó Mỹ muốn can dự cũng khó, châu Âu càng không quan tâm đến vấn đề này, trong khi đó Nga cũng chỉ có thể ngồi nhìn. Nhiều nhất là trong vòng nửa năm, cuộc chiến có thể kết thúc, Trung Quốc đại thắng, Nhật Bản đành phải thừa nhận kết cục thất bại - đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu trở về vô điều kiện với Trung Quốc. Đông Hải trở thành nội hải của Trung Quốc. Cuộc chiến tranh thứ năm : Thống nhất Ngoại Mông (giai đoạn 2045 - 2050) Mặc dù, hiện nay có người cổ vũ Ngoại Mông (Mông Cổ) trở về Trung Quốc, nhưng điều này có hiện thực không? Trung Quốc chỉ có thể sau khi thống nhất Đài Loan, lấy hiến pháp và bản đồ Trung Hoa Dân Quốc làm căn cứ. Như vậy sẽ có người hỏi, vì sao phải lấy hiến pháp và bản đồ Trung Hoa Dân Quốc làm căn cứ? Làm như vậy khác nào nói Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị Trung Hoa Dân Quốc thống nhất? Nói như vậy không có gì vô nghĩa cả, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc cũng là Trung Quốc, không cần quan tâm ai thống nhất ai, làm người Trung Quốc, chỉ cần tổ quốc thống nhất, không bị làm nhục là tốt nhất. Cũng phải biết rằng hiện nay Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thừa nhận nền độc lập của Ngoại Mông, nếu lấy hiến pháp và bản đồ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa làm căn cứ để thống nhất Ngoại Mông, thì rõ ràng đây là hành động đi xâm lược, cho nên chỉ có thể lấy hiến pháp và bản đồ của Trung Hoa Dân Quốc làm căn cứ để tiến hành thống nhất Ngoại Mông, như vậy xuất quân mới danh chính ngôn thuận. Trung Quốc cần đề xuất đại cương thống nhất với Ngoại Mông, tạo dựng bầu không khí dư luận xã hội Ngoại Mông trở về Trung Quốc, đồng thời tìm kiếm những tộc người tại Ngoại Mông có mong muốn sáp nhập vào Trung Quốc để ra sức giúp đỡ, cố gắng để họ có thể tiếp cận tới tầng lớp có quyền quyết sách, nhằm chuẩn bị tốt cho sự nghiệp thống nhất Ngoại Mông. Bên cạnh đó, sau khi thu hồi Nam Tây Tạng (dự kiến vào năm 2040) Trung Quốc cũng phải tuyên bố với các nước trên thế giới rằng Ngoại Mông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Đương nhiên, Ngoại Mông có thể ra điều kiện để trở về, như vậy là điều tốt nhất so với việc phải sử dụng vũ lực để thống nhất. Nếu thế lực bên ngoài can dự hoặc Ngoại Mông cự tuyệt thống nhất, Trung Quốc cần phải làm tốt mọi sự chuẩn bị về trang bị vũ khí nhằm thống nhất Ngoại Mông. Tài liệu cho rằng Trung Quốc vẫn có thể áp dụng mô hình như đã thống nhất Đài Loan, đưa ra thời hạn cuối cùng để thống nhất là vào năm 2045, để Ngoại Mông có thời gian mấy năm suy nghĩ, khi đến thời điểm nếu không chủ động chấp nhận trở về, cuối cùng mới sử dụng vũ lực thống nhất. Tới thời điểm đó, 4 cuộc chiến tranh đã kết thúc, Trung Quốc đã có đầy đủ thực lực về chính trị, quân sự và ngoại giao để thống nhất Ngoại Mông. Mỹ, Nga suy yếu sẽ không dám tham chiến, chỉ có thể tiến hành phản đối bằng ngoại giao, trong khi đó châu Âu sẽ giữ thái độ nước đôi, Ấn Độ không lên tiếng. Không đến 3 năm, Trung Quốc có thể hoàn thành thống nhất mang tính tuyệt đối đối với Ngoại Mông. Sau khi thống nhất Ngoại Mông, tuyến đầu sẽ bố trí trọng binh nhằm ngăn chặn Nga, đồng thời trong vòng 10 năm, ra sức tiến hành xây dựng mang tính nền tảng và thiết bị quân sự, để chuẩn bị cho sau này tiến hành thu hồi lãnh thổ do Nga xâm chiếm. Cuộc chiến tranh thứ sáu : Thu hồi lãnh thổ bị Nga xâm chiếm (giai đoạn 2055 - 2060) Hiện nay, Trung-Nga được coi là láng giềng hữu nghị, song chẳng qua là vì có cùng mục tiêu chống Mỹ, thực chất vẫn tồn tại sóng ngầm và cảnh giác lẫn nhau. Sau khi giành thắng lợi trong 5 cuộc chiến tranh trước đó (khoảng năm 2050), Trung Quốc phải lên tiếng đòi Nga phải trả lại lãnh thổ đã xâm chiếm của Trung Quốc từ đời nhà Thanh, tạo dư luận trên toàn thế giới có lợi cho Trung Quốc, nhưng tốt nhất là khiến Nga một lần nữa bị giải thể, tách thành nhiều nước nhỏ. Trước đây, Nga đã xâm chiếm tổng cộng khoảng 1,6 triệu km2 lãnh thổ của Trung Quốc, tương đương 1/6 tổng diện tích lãnh thổ lục địa của Trung Quốc hiện nay, Nga vẫn là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Trung Hoa, cho nên sau khi kết thúc 5 cuộc chiến tranh trước, sẽ là thời điểm thích hợp để lấy lại lãnh thổ bị Nga xâm chiếm từ đời Thanh. Mặc dù thời điểm này các phương diện về hải, lục, không quân và vũ trụ của Trung Quốc đã vượt Nga, nhưng rõ ràng đây là một cuộc chiến tranh nhằm vào một cường quốc hạt nhân, cho nên lúc đó Trung Quốc phải huy động mọi khả năng hạt nhân, như các loại vũ khí có khả năng đánh chặn hạt nhân tầm xa, tầm trung và tầm ngắn. Khả năng Nga đánh trả khi tiếp cận Trung Quốc là không thể, vì vào thời điểm này Nga đã không còn là đối thủ của Trung Quốc, chỉ có thể chấp nhận trả lại phần lãnh thổ đã xâm chiếm của Trung Quốc, nếu không cái giá phải trả là quá đắt. Sau khi kết thúc 6 cuộc chiến tranh, Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế và quân sự duy nhất trên thế giới, Trung Quốc cùng với châu Âu, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, châu Phi và Braxin thiết lập trật tự thế giới mới do Trung Quốc chủ đạo./ [Nghiên cứu biển Đông news] |
>> Việt Nam sẽ có lữ đoàn tàu ngầm hiện đại
Trao đổi với báo chí sáng nay, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cho biết, trong 5-6 năm tới Việt Nam sẽ có lữ đoàn gồm 6 tàu ngầm lớp kilo và nhiều khí tài hiện đại, nhằm phòng thủ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. ![]() Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quanh Thanh trả lời phỏng vấn bên hành lang Quốc hội sáng 3/8. - Tại kỳ họp này, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội về tình hình biển Đông. Quân đội sẽ có vai trò như thế nào trong việc giữ vững chủ quyền biển, bảo vệ ngư dân? - Chúng tôi đã giao cho quân chủng hải quân, cảnh sát biển và bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền an ninh trên biển. Chúng ta phải bảo vệ chủ quyền lãnh thổ nhưng cũng phải bảo vệ cho ngư dân làm ăn hợp pháp trên vùng biển của Việt Nam. Đặc biệt, phải có nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn bởi hầu như ngày nào cũng có vụ việc trên biển như tàu hỏng máy, tai nạn... Đồng thời, hải quân phải có quan hệ tốt với các nước láng giềng để phối hợp giữ gìn an ninh trên biển. - Để giữ vững chủ quyền biển đảo, vấn đề hiện đại hóa hải quân đang được tiến hành thế nào, thưa ông? - Phương hướng xây dựng quân đội đã được xác định theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong đó, quân chủng Hải quân, Phòng không không quân, Thông tin liên lạc, Tác chiến điện tử và một số binh chủng khác đi thẳng vào hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bảo vệ đất nước. Ngoài ra, phải xây dựng đội ngũ cán bộ có tri thức, kiến thức để làm chủ được các vũ khí trang bị. Trang bị cho các quân chủng kỹ thuật như Hải quân, Phòng không không quân... cần lượng ngân sách khá lớn do phải nhập ngoại. Ngân sách hiện nay còn hạn hẹp nên chúng ta phải mua sắm từng bước chứ không thể đáp ứng yêu cầu ngay. Một thời gian dài nữa Việt Nam mới có thể trang bị hiện đại cho hải quân. - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng nói, sẽ mua 6 tàu ngầm và nhiều máy bay hiện đại. Khi nào Việt Nam sẽ nhận bàn giao, thưa bộ trưởng? - Việc mua những trang bị này nằm trong kế hoạch dài hạn từ nay đến năm 2020. Trước mắt, phấn đấu trong 5 - 6 năm tới chúng ta sẽ có một lữ đoàn tàu ngầm hiện đại với 6 tàu ngầm lớp Kilo. Nhưng tôi cũng phải nhắc lại là chúng ta có mua tàu ngầm hiện đại, tên lửa, máy bay và các khí tài kỹ thuật khác cũng là để phòng thủ, tự vệ, bảo vệ hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ chứ hoàn toàn không có ý định đe dọa, không có ý đồ tấn công xâm lấn bờ cõi các nước xung quanh. Đây không phải là cuộc chạy đua vũ trang. Khả năng đến đâu thì chúng ta sắm đến đó vì đất nước còn nghèo, còn nhiều việc phải lo, nhất là an sinh xã hội. ![]() Tàu ngầm tiến công lớp Kilo. - Hiện nay có nhiều quan điểm về giải quyết các bất đồng, tranh chấp trên biển Đông, có bên chỉ muốn giải quyết song phương, có bên lại muốn giải quyết đa phương. Quan điểm của bộ trưởng về vấn đề này? - Khi tiếp tư lệnh hải quân các nước ASEAN, tôi cũng nêu rõ quan điểm của Việt Nam. Đó là những vấn đề gì còn đang bất đồng, tranh chấp song phương thì giải quyết theo hướng song phương. Ví dụ, giữa Việt Nam và Trung Quốc đang có tranh chấp trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, và vùng cửa vịnh Bắc Bộ còn đang đàm phán để phân định. Vấn đề này sẽ đàm phán, giải quyết song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc theo luật pháp quốc tế và công ước luật biển 1982. Còn những vấn đề tranh chấp đa phương như quần đảo Trường Sa, bao gồm cả Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei... thì phải giải quyết giữa các bên. Đường 9 khúc mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đụng đến chủ quyền của rất nhiều nước nên phải giải quyết đa phương và phải hết sức công khai, minh bạch chứ không thể giải quyết riêng với từng nước. Hiện, các nước ASEAN có tiếng nói khá thống nhất. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 5 vừa qua tổ chức tại Jakarta (Indonesia) đã ra được tuyên bố chung. Đó là tranh chấp trên biển Đông phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, công ước luật biển năm 1982 theo tinh thần DOC. Giải quyết hòa bình là phải thương lượng, đàm phán, bằng con đường ngoại giao giữa ASEAN và Trung Quốc chứ không phải riêng từng nước với Trung Quốc. - Trong vấn đề biển Đông, làm thế nào để chúng ta có thể tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế? - Chúng ta bảo vệ đất nước bằng sức mạnh tổng hợp, sức mạnh nội lực của đất nước, dân tộc và sức mạnh của thời đại. Bây giờ không còn như thời chiến tranh lạnh, do đó cần có sự ủng hộ của quốc tế. Muốn như vậy chúng ta phải cung cấp thông tin kịp thời, công khai, minh bạch, chính xác cho quốc tế để họ phân biệt ai đúng, ai sai và có tiếng nói ủng hộ chính nghĩa. Đầu tháng 7, ông Oleg Azizov - Trưởng đoàn đại biểu của Tập đoàn xuất khẩu quốc phòng Nga - cho biết, Việt Nam đã ký hợp đồng mua 6 tàu ngầm chạy dầu diezel-điện thuộc dự án 636 và từ năm 2014, Nga sẽ bắt đầu chuyển giao các tàu ngầm này cho Hải quân Việt Nam. Bên cạnh việc cung cấp tàu ngầm, Nga cũng sẽ giúp Việt Nam xây dựng căn cứ dùng cho loại phương tiện này và một cơ sở sửa chữa bảo trì. Tàu lớp kilo có tải trọng 2.300 tấn, độ sâu tối đa 350 mét, tầm hoạt động 6.000 hải lý và thủy thủ đoàn 57 người. Phiên bản chuẩn được trang bị 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533 mm. Các tàu ngầm lớp kilo thường được mệnh danh là "lỗ đen" do khả năng chống bị phát hiện và là loại tàu ngầm diesel-điện êm nhất thế giới. Nó được thiết kế với sứ mệnh chống ngầm và chống tàu nổi, đồng thời có thể thực hiện các nhiệm vụ trinh sát và tuần tra. [BDV news] |
>> USV Blackfish, robot bảo vệ tàu chiến
Các tàu chiến lớn neo đậu trong cảng bao giờ cũng phải đối phó với mối nguy phá hoại thường trực từ người nhái đối phương. Thông thường, người ta chỉ có cách sử dụng người nhái hay các loài vật được huấn luyện như cá heo, sư tử biển... canh gác tàu. Hiệu quả của các phương pháp này thường thấp và khó sử dụng rộng rãi. Tuy vậy, với công nghệ tự động hóa ngày nay, các USV (Unmanned Surface Vehicle) có thể đảm nhận tốt công việc này. Cuối tháng 7 vừa rồi, Phòng nghiên cứu hải quân Hoa Kỳ (ONR - Office of Naval Research) đã thử nghiệm thực địa USV Blackfish, vốn được sử dụng chuyên biệt cho các nhiệm vụ tuần tiễu bảo vệ chống lại các mối nguy hiểm từ người nhái đối phương. USV Blackfish được công ty chế tạo thiết bị quân sự Qinetic chế tạo với cơ chế hoạt động tương tự những chiếc motor nước. Chúng sử dụng hệ thống đẩy bằng các bơm thủy lực cao áp (hydro-jet) thay cho chân vịt như các phương tiện chân vịt truyền thống. Nhờ vậy, Blackfish có thể đạt tốc độ hành trình tới 72 km/h. Tuy nhiên, trong chế độ dò tìm người nhái đối phương, thiết bị cũng có khả năng di chuyển với tốc độ chậm và khả năng thao diễn linh hoạt. ![]() USV Blackfish trong cuộc thử nghiệm hồi tháng 7/2011. Trang bị của Blackfish được chuyên biệt cho các nhiệm vụ chống người nhái phá hoại. Loại USV có chiều dài 3 mét này được trang bị hệ thống sonar có độ nhạy cao, camera chuyên dụng hoạt động dưới nước. Với những thiết bị này, Blackfish có thể dễ dàng phát hiện ra người nhái di chuyển trong nước. Thậm chí, nếu người nhái đối phương không di chuyển, các bọt khí do hoạt động thở của họ tạo ra cũng khiến họ bị phát hiện bởi thiết bị này. Khi người nhái đối phương bị phát hiện, Blackfish có nhiều lựa chọn để ứng phó. Nó có thể thông báo về trung tâm chỉ huy, sử dụng các loại vũ khí trang bị (súng phóng lựu) để tiêu diệt hoặc sử dụng vũ khí phi sát thương để vô hiệu hóa, bắt giữ người nhái. Tầm xa tối đa của thiết bị thu nhận sóng trên Blackfish là 1 km, tuy nhiên, nó có thể tuần tiễu trên lộ trình định sẵn bởi tọa độ GPS mà không cần phải điều khiển trực tiếp. Pin đi kèm cho phép USV này có thể hoạt động liên tục trong vòng một giờ đồng hồ liên tục. Nếu hết pin, quá trình thay pin cho thiết bị chỉ tốn năm phút. Nhiệm vụ chính của Blackfish trong hải quân Mỹ sẽ là tuần tiễu trong các bến cảng, bảo vệ các tàu chiến lớn khỏi hoạt động phá hoại của người nhái đối phương, các kiểu tấn công liều chết (tương tự như vụ tấn công vào tàu USS Cole của Mỹ tại Yemen năm 2000 khiến 17 thủy thủ thiệt mạng) phát hiện thủy lôi... Tuy nhiên, nó cũng có thể sử dụng với các mục đích dân sự như hoạt động trong các vùng biển độc hại do nhiễm hóa chất, phóng xạ. [BDV news] |
>> Bệ phóng Yakhont trên biển
Indonesia là nước thứ 3 sở hữu loại tên lửa siêu âm đời mới Yakhont. Điều đặc biệt, Indonesia triển khai các tên lửa này từ trên chiến hạm lớp Ahmad Yani cũ kỹ. Lịch sử phát triển tàu Ahmad Yani Bắt đầu vào năm 1959, với tình hình hơn 100 tàu ngầm Liên Xô thường xuyên thoắt ẩn thoắt hiện trong Đại Tây Dương, các nước NATO đã phải lên kế hoạch tìm một mẫu tàu khu trục hiện đại thay thế cho hàng nghìn tàu khu trục và tuần tra vốn được nâng cấp từ Thế chiến thứ 2. Ở Anh, lớp tàu Leander đã được chế tạo để đạt được những yêu cầu mới này. Tổng cộng 26 tàu chiến loại này đã được đóng cho các nước Anh, Hà Lan (dưới tên gọi là lớp Van Speijk), New Zealand, Australia, Ấn Độ và Chile. Trong hơn 3 thập kỉ qua, những chiếc khu trục này đã chơi mèo vờn chuột với Hải quân Liên Xô, chiến đấu trong cuộc chiến Cod ở Iceland hay là xương sống của Hải quân Hoàng gia Anh trong cuộc chiến Falklands. Khi Chiến Tranh Lạnh hạ màn vào cuối những năm 1980, Hà Lan cũng rút ra khỏi biên chế 6 tàu lớp này, Indonesia đã mua lại chúng và đặt tên là lớp tàu Ahmad Yani. ![]() Van Speijk khi còn trong hải quân Hà Lan ![]() Về Indonesia với cái tên mới Ahmad Yani. Những nâng cấp chính Theo thiết kế thì Ahmad Yani có độ giãn nước 2.850 tấn đầy tải với chiều dài 113m. Khi biên chế trong Hải quân Indonesia, chúng được lắp đặt động cơ diesel Caterpillar thay cho những động cơ hơi nước, qua đó có thể đẩy con tàu hơn 40 năm tuổi đạt tới tốc độ 24 hải lý/giờ. Hải pháo đời mới Oto Melara 76mm được sử dụng thay thế pháo nòng đôi 113mm đời cũ, bên cạnh đó tên lửa phòng không Sea Cat cũng được thay thế bởi hệ thống Sinbad/Mistrals của Pháp, tương tự như trên lớp tàu Sigma hiện đại. Phiên bản lúc đầu của Hà Lan sử dụng tên lửa đối hạm Harpoon của Mĩ, sau đó đã có những thông tin chúng sẽ được trang bị loại tên lửa cận âm C-802 của Trung Quốc, vốn có tầm bắn chừng 100km với đầu đạn 165kg. ![]() Các ống phóng thẳng đứng Yakhont trên Oswald Siahaan 354 Tuy vậy, đáng ngạc nhiên là những bức ảnh được tung ra tháng 3/2011 cho thấy một trong những con tàu lớp này, tàu KRI Oswald Siahaan 354, được lắp đặt 4 ống phóng thẳng đứng của loại tên lửa cực kì hiện đại 3M-55 Yakhont (SS-N-26). Thì ra từ năm 2007, Indonesia đã kí hợp đồng mua tên lửa Yakhont từ Nga với giá 1,2 triệu USD/quả với số lượng không xác định. Loại tên lửa siêu âm tốc độ Mach 2,5 này có khối lượng lên tới 3 tấn, nó chỉ mất 6 phút để tiêu diệt mục tiêu ở cách xa 250km và tầm bắn tối đa 300km. Nhiều thông tin cho rằng kể cả các tàu khu trục Aegis hiện đại nhất của hải quân Mĩ cũng chỉ có 45 giây để phản ứng, điều đó cho thấy sự lợi hại của Yakhont. Khi cả 4 ống phóng Yakhont trên tàu chiến của Indonesia cùng khai hỏa, kể cả tàu chiến hiện đại nhất cũng khó tránh khả năng bị đánh chìm bởi ít nhất 1 trong 4 quả tên lửa siêu âm. Với việc cải tiến tăng sức mạnh bằng tên lửa Yakhont này, Indonesia đã cứu vớt số phận tàu khu trục cũ khỏi các rặng san hô thành những chiếc tàu chiến cực kì lợi hại, nếu không muốn nói là có nắm đấm mạnh nhất trên biển Đông hay trong các nước Đông Nam Á, bên cạnh đó vẫn phát triển song song các loại tàu khu trục thế hệ mới như Sigma [BDV news] |
Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011
>> Kế hoạch hiện đại hóa Quân đội Mỹ vào năm 2012
Mới đây, Mỹ đã công bố kế hoạch hiện đại hóa Quân đội năm 2012 và đề ra một chiến lược phát triển tổng thể và những ưu tiên trong chính sách phát triển quân đội. Theo đó Quân đội Mỹ sẽ cung cấp chi tiết những yêu cầu và danh mục phát triển các trang thiết bị quân sự trong năm 2012, xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh nhằm sẵn sàng ngăn chặn xung đột và đối phó với mọi mối đe dọa trong tương lai. Với chiến lược phát triển quân đội năm 2012, Mỹ đã đặt ra 3 mục tiêu ưu tiên chiến lược cơ bản gồm: - Xây dựng mạng lưới kết nối thông tin liên lạc trực tiếp từ các đơn vị đồn trú tới từng binh sỹ; - Ngăn chặn và đánh bại mọi mối đe dọa; - Bảo vệ và trao quyền hành động cho binh sỹ; Để thực hiện được các mục tiêu trên, Quân đội Mỹ xác định ưu tiên phát triển 7 hệ thống đảm bảo thành công cho các hoạt động như, hệ thống thông tin vô tuyến hỗn hợp cấp chiến thuật JTRS với khoản đầu tư là 776 triệu USD, bao gồm thiết bị truyền dẫn số liệu băng thông rộng cơ động mặt đất, máy tính xách tay sử dụng giao thức internet dựa trên công nghệ cung cấp mạng định tuyến. ![]() Dù Quân đội Mỹ đang đối mặt với vấn đề cắt giảm chí phí quốc phòng, tuy nhiên, vẫn lên kế hoạch hiện đại hóa quân đội vào năm 2012. Có khả năng cung cấp thông tin bằng giọng nói, hình ảnh đa kênh, hệ thống mạng thông tin chiến thuật cho máy bay chiến đấu WIN-T được đầu tư lên tới 1,3 tỷ USD, cung cấp thông tin băng rộng được kết nối vệ tinh hỗ trợ khả năng chỉ huy, kiểm soát, thông tin, máy tính, tình báo, giám sát và trinh sát hỗn hợp JC4ISR. Các phương tiện chiến đấu mặt đất đầu tư 884 triệu USD. Kế hoạch này nằm trong chương trình thay thế và hiện đại hóa các xe chiến đấu bộ binh tại các đơn vị chiến đấu chiến lược nhằm tăng cường khả năng bảo vệ và cơ động. Hệ thống phân phối thông tin mặt đất DCGS-A, kế hoạch triển khai đầy đủ vào quý bốn năm 2012. DCGS-A cung cấp các dữ liệu tình báo, trinh sát và giám sát tích hợp cảm biến trên không và mặt đất. Ngoài ra còn có hệ thống chỉ huy chiến trường hỗn hợp JBC-P được đầu tư 188 triệu USD. JBC-P có thể cung cấp khả năng chỉ huy và kiểm soát diện rộng trên mọi địa hình và phạm vi chiến dịch. Hệ thống quản lý tích hợp pháo tự hành PIM được cấp 120 triệu USD. PIM nằm trong chiến lược hiện đại hóa các phương tiện chiến đấu mặt đất, được phát triển nhằm tăng cường phản ứng nhanh cho pháo tự hành như M109A6 Paladin và M992A2. ![]() Pháo tự hành M109A6 Paladin Nâng cấp và chuyển đổi máy bay Kiowa Warrior OH-58 được đầu tư 250 triệu USD từ thế hệ D sang thế hệ F bằng việc nâng cấp cảm biến và buồng lái của Máy bay. Cùng với đó, Mỹ hoạch định các khoản chi nằm trong ngân sách Lục quân năm tài khóa 2012 bao gồm việc đầu tư 1,3 tỷ USD cho hiện đại các hệ thống trang bị cho binh sỹ như vũ khí cá nhân , các hệ thống cảm biến, thiết bị hỗ trợ phát hiện mục tiêu trong đêm, áo chống đạn, mạng chỉ huy và kiểm soát cá nhân, quần áo và trang bị cá nhân. Kính phí cấp cho các hoạt động chỉ huy bao gồm khả năng truyền tải thông tin và dịch vụ cung cấp lên tới 3,6 tỷ USD. Các hoạt động tình báo nhận được 1,2 tỷ USD. Các hoạt động cơ động mặt đất bao gồm các phương tiện chiến đấu như xe tăng Abram, xe bọc thép Bradley, Stryker và các phương tiện mặt đất mới là 3 tỷ USD. Các hoạt động không quân bao gồm các hoạt động trinh sát, tiến công, các hệ thống máy bay không người lái, vận tải và các nhiệm vụ khác là 7,5 tỷ USD. Các đơn vị hỏa lực, bao gồm radar, pháo, bệ phóng, đạn dược và các hệ thống tự động 1,4 tỷ USD. Tăng cường khả năng phòng thủ trên không và phòng thủ tên lửa đạn đạo cho các máy bay chiến đấu, máy bay có và không người lái, tên lửa, pháo và súng cối là 2,3 tỷ USD. Tăng cường bảo vệ các căn cứ quân sự, hóa sinh học, hạt nhân bằng 1,4 tỷ USD. Các phương tiện vận tải chiến thuật bao gồm hạng nhẹ, hạng trung, hạng nặng và các xe chống mìn bằng 2,2 tỷ USD. Các chương trình phục vụ hỗ trợ chiến đấu bao gồm các nhiên liệu, nước, y tế bằng 566 triệu USD. Riêng mua sắm đạn dược là 1, 6 tỷ USD. ![]() Quân đội Mỹ sẽ tập trung trang bị những vũ khí chiến đấu cá nhân hiện đại. Đầu tư cho trang bị cho binh sỹ Kinh phí đầu tư chủ yếu cho binh sỹ bao gồm mua và triển khai kính nhìn đêm cho Lực lượng đặc nhiệm và 300 hệ thống cho mỗi Lực lượng chiến đấu cấp chiến dịch đang được triển khai, vũ khí loại nhỏ, các hệ thống cảm biến và lazer…tổng chí phí cho hoạt động mua sắm này lên tới 523,3 triệu USD. Riêng việc trang bị các hệ thống cảm biến và lazer cho các Lực lượng chiến đấu cấp chiến dịch và Lực lượng đặc nhiệm chiếm 338,5 tiệu USD gồm Mua 714 hệ thống định vị mục tiêu lazer, 627 hệ thống hỗ trợ tìm kiếm bằng lazer STORM, 356 kính nhìn đêm, 7.293 thiết bị cảm biến, 14,056 hệ thống phòng thủ bằng lazer, 4.060 súng máy M2.50cal, và 26.806 súng M4A1. Ngoài ra còn mua dù và các trang bị hỗ trợ mới cho Lực lượng chiến đấu cấp chiến dịch là 41,5 triệu USD. Hiện đại hóa mạng lưới tình báo Các hệ thống tình báo mặt đất chung gồm 144,5 triệu USD cho mua sắm và 44,2 triệu USD cho nghiên cứu, phát triển và thử nghiệm như việc nâng cấp các phần mềm các hệ thống tình báo mặt đất. Tăng cường các hệ thống trinh sát và giám sát ở độ cao trung bình cho các máy bay gồm 540 triệu USD cho việc mua và 31 triệu USD cho nghiên cứu, phát triển và thử nghiệm. Hiện đại hóa các thiết bị cảm biến nhằm cải thiện khả năng tác chiến, hỗ trợ cho các Lực lượng chiến đấu cấp chiến dịch bằng 27,6 triệu USD. Các hệ thống máy bay không người lái 136,2 triệu cho việc mua và 36,3 triệu cho nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển. Phát triển các Hệ thống thông tin liên lạc chỉ huy Đối với việc phát triển hệ thống liên lạc chỉ huy, Mỹ dự định chi 34,5 triệu USD để mua các hệ thống thông tin chiến thuật cấp 1 để nâng cấp cho 35 Lữ đoàn; 924,2 triệu USD - Mua các hệ thống thông tin chiến thuật cấp 2 cho 13 Sở chỉ huy Lữ đoàn và 3 Sư đoàn. Ngoài ra, 775,8 triệu USD cũng được dùng để mua các hệ thống thông tin vô tuyến chiến thuật; 256 triệu USD mua các hệ thống hỗ trợ lục quân chiến đầu toàn cầu nhằm tăng cường và thay thế cho các hệ thống quản lý thông tin Lục quân tiêu chuẩn hiện nay; 39,1 triệu USD mua các hệ thống chỉ huy chiến đấu Lục quân phục vụ các hoạt động chiến trường; 25,9 triệu USD mua các hệ thống thông tin liên lạc chỉ huy chiến đấu chiến thuật thiết yếu liên chính phủ. Mua sắm, nghiên cứu và phát triển các hệ thống dự báo các dấu hiệu tình báo mặt đất bằng 85,9 triệu USD. Đầu tư cho không quân Mỹ dự định, mua máy bay trực thăng Kiowa Warrior và 78,7 triệu USD cho chương trình nghiên cứu, phát triển và thử nghiệm là 249,5 triệu USD. Mua máy bay trực thăng Blackhawk. Duy trì kế hoạch mua 47 máy bay trực thăng UH-60M và 24 máy bay HH-60M với tổng chi phí lên tới 1,5 tỷ USD. Mua 39 máy bay cho Lực lượng phòng vệ quốc gia bằng 250,4 triệu USD. Mua 47 máy bay CH-47F được hiện đại hóa và 01 máy bay MH-47G lên tới 1,4 tỷ USD, trang bị đơn vị máy bay Apache Block III đầu tiên bằng 800,8 triệu USD. Mua 424 hệ thống máy bay không người lái RQ-11B Raven (1.272 máy bay) cùng các hệ thống cho các trung tâm kiểm soát, điều khiển là 72,7 triệu USD. ![]() UAV RQ-11B Raven. Chi khoảng 126,2 triệu USD hiện đại hóa các hệ thống máy bay không người lái RQ-7B Shadow nhằm tăng cường tải trọng, thời gian bay và khả năng liên kết thông tin chiến thuật. Tối ưu hóa khả năng sản xuất chương trình máy bay không người lái Gray Eagle với việc mua 36 máy bay không người lái MQ-1C, 18 trung tâm kiểm soát mặt đất, 18 trung tâm dữ liệu mặt đất, 09 trung tâm dữ liệu thông tin vệ tinh mặt đất và các trang bị hỗ trợ khác bằng 658,8 triệu USD. Mua các hệ thống máy bay không người lái cất và hạ cánh thẳng đứng, tên lửa không đối đất hỗn hợp, máy bay giám sát và tình báo tầm xa vào khoảng 200 triệu USD. Phát triển các hệ thống tên lửa và phòng không Đối với việc phát triển các hệ thống tên lửa và phòng không, Quân đội Mỹ sẽ mua 88 tên lửa PAC-3 và 36 bệ phóng tên lửa PAC-3 cải tiến với số tiền lên tới 662,2 triệu USD. Tăng cường các hệ thống phòng không tầm trung, hoàn thành chương trình sản xuất và phát triển tên lửa hành trình tiến công, hoàn tất chương trình thử nghiệm tên lửa đa tầng, nâng cấp tên lửa phòng không Patriot và phát triển tên lửa phòng thủ và phòng không, cải tiến các hệ thống chống pháo, tên lửa và súng cối cũng như nâng cấp và phát triển 850 tên lửa Stinger. Đầu tư cho các đơn vị hỏa lực Mỹ lên kế hoạch đầu tư cho các đơn vị hỏa lực gồm chi khoảng 150 triệu USD mua và phát triển các trang thiết bị phát hiện mục tiêu bằng thiết bị lazer, các hệ thống phát hiện mục tiêu hỗn hợp, nâng cấp xe thiết giáp M-1200 và xe bọc thép Bradley. ![]() Xe bọc thép M-1200. Ngoài ra, Quân đội Mỹ sẽ tiến hành mua sắm hệ thống radar EQ-36, hệ thống radar phát hiện súng cối hạng nhẹ, nâng cấp các hệ thống pháo binh lưu động và các hệ thống phóng tên lửa, phát triển pháo M119A2 Howitzer, Excalibur 155mm, hệ thống tên lửa dẫn đường đa mục tiêu và nâng cấp hệ thống quản lý tích hợp pháo tự hành Paladin. Nâng cấp các phương tiện vận tải chiến thuật và chiến đấu mặt đất Quân đội Mỹ tập trung sản xuất và phát triển phương tiện vận tải chiến thuật hạng nhẹ , mua sắm 121 hệ thống xe tải chiến thuật hạng nặng, 1.038 xe vận tải hạng nhẹ thay thế các xe vận tải M916. Mua 1.478 xe FMTV A1P2 thay thế các xe M-35, M809, M939 đã lỗi thời đồng thời cải tiến các xe chống mìn và 413 xe vận tải chiến thuật hạng nặng, 558 xe tải Palletized thành xe bọc thép. Hoàn thành chương trình mở rộng thời gian hoạt động cho các phương tiện hỗ trợ hậu cần = 23 triệu USD. Ngoài ra, Mỹ còn chi 884,4 triệu USD cho việc nghiên cứu, phát triển và thử nghiệm công nghệ các phương tiện chiến đấu mặt đất. Hệ thống quản lý tích hợp pháo tự hành bằng 167 triệu USD. Phát triển phương tiện thay thế xe bọc thép M 113 lên tới 31,4 triệu USD. Mua 100 phương tiện trinh sát hạt nhân, sinh hóa là 868,6 triệu USD. Mua sắm và hiện đại hóa xe tăng Abram gồm 1547 M1A2SEPv2 và 791 M1A1AIM bằng 358,8 triệu USD. Mua sắm, nghiên cứu thử nghiệm và phát triển các phương tiện chiến đấu Lục quân gồm 108 tăng M2A2 cho 03 tiểu đoàn tại Kansas, Ohio và Nam Carolina là 263 triệu USD. [BDV news] |
>> Quân đội Việt Nam huấn luyện đổ bộ đường không
Trung đoàn không quân trực thăng 917 phối hợp với các đơn vị bạn hoàn thành bài tập đổ bộ đường không trên nóc nhà cao tầng. Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện năm 2011, Trung đoàn không quân trực thăng 917 - Sư đoàn không quân 370 vừa phối hợp với các đơn vị bạn kết thúc nội dung huấn luyện đổ bộ đường không trên nóc nhà cao tầng. Kết thúc nội dung huấn luyện, trung đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thực hiện đúng chương trình, kế hoạch đề ra, đảm bảo an toàn tuyệt đối, đồng thời nâng cao năng lực, trình độ của phi công trong thực hiện các bài bay phức tạp. Dưới đây là chùm ảnh huấn luyện: ![]() Thực hiện kỹ thuật treo tại chỗ trên nóc nhà cao tầng. ![]() Lực lượng đổ bộ rời máy bay tiếp cận nóc nhà cao tầng. ![]() Tiếp đất an toàn. ![]() Máy bay tiếp nhận lực lượng đổ bộ tham gia huấn luyện. ![]() Máy bay tiếp cận nóc nhà cao tầng. ![]() Phi công thực hiện bài bay huấn luyện. [BDV news] |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)