Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Tư, 2 tháng 2, 2011

>> Máy bay vận tải quân sự A400M





Chương trình phát triển A400M có sự tham gia của 7 nước châu Âu bao gồm: Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Luxembourg, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ.




A400M lần đầu tiên ra mắt công chúng tại Triển lãm hàng không Berlin, Đức. Đây được cho là máy bay vận tải quân sự tiên tiến nhất thế giới.

A400M là máy bay cánh cao đầu tiên có đuôi hình chữ T từng được Airbus sản xuất.


A400M có 4 động cơ P400-D6 11.000 mã lực.


Trong trường hợp khẩn cấp, A400M có thể chứa được 125 chiếc cáng cộng với một phòng chăm sóc đặc biệt.


A400M được đội bay thử nghiệm đã đặt cho biệt danh là ‘gấu xám’.


A400M được chạy bằng động cơ tuabin phản lực cánh quạt, với trọng tải 37 tấn.
 

A400M được 7 nước châu Âu của NATO nghiên cứu chế tạo.

Tuổi thọ của A400M là không dưới 30 năm.

A400M cũng có sức chứa tới 116 binh sỹ hoặc lính nhảy dù được trang bị đầy đủ vũ khí, thiết bị.

A400M đảm bảo việc vận chuyển quân và hàng hoá, đổ bộ quân hoặc hạ cánh trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, cả ban ngày lẫn ban đêm với chi phí bảo dưỡng thấp.
Theo đánh giá, A400M có đủ sức ‘loại’ máy bay vận tải C-130 của Mỹ.

Trọng lượng hạ cánh tối đa 114 tấn.
(tổng hợp)

Thứ Ba, 1 tháng 2, 2011

>> Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Việt Nam không chạy đua vũ trang





Thời gian gần đây, vấn đề bảo vệ chủ quyền Tổ quốc, diễn biến an ninh khu vực từ cuộc hội nhập sâu rộng của đất nước vào đời sống quốc tế… đã trở thành những chủ đề thảo luận sôi nổi của đông đảo giới trẻ Việt Nam.

Lý giải điều này như thế nào? Từ hàng ngàn năm nay, sự tồn tại của dân tộc ta đã là kết quả của một quá trình kháng cự đi đôi với tiếp biến không ngừng trước những sức ép từ bên ngoài, thường là từ những thế lực hơn gấp nhiều lần về sức mạnh vật chất. Thế kỷ XXI – thế kỷ tăng tốc của toàn cầu hóa chưa bao giờ chúng ta có nhiều thuận lợi như thế dể chứng minh mình là một dân tộc không chỉ biết chiến đấu mà còn biết kiến thiết hòa bình và thịnh vượng, bình đẳng cùng các quốc gia khác. Nhưng càng trân trọng giá trị của hòa bình bao nhiêu, người Việt càng nhạy cảm với những biến động khó lường của môi trường quốc tế ngày nay bấy nhiêu, đặc biệt là trước tham vọng can dự nhiều hệ lụy của các siêu cường hiện hữu hay đang hình thành. Sự quan tâm lo lắng, thái độ bồng bột của một bộ phận xã hội, thể hiện rõ nhất ở tầng lớp thanh niên, phải được hiểu như là sự trỗi dậy của ý thức công dân mạnh mẽ mà có lúc, có người tưởng đã phai nhạt, hay nói rộng hơn đó chính là sự tuôn chảy liên tục, khi mạnh mẽ khi trầm sâu, của dòng máu yêu nước trong huyết quản mỗi con người Việt Nam.  Báo Thanh Niên đã cuộc trao đổi với trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, xoay quanh bối cảnh đầy những sự kiện ngoại giao – quốc phòng của năm vừa qua và ý nghĩa lâu dài của nó với sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tương lai.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Thanh niên 

 Công tác đối ngoại quốc phòng của Việt Nam được đánh giá từ trong và ngoài nước là đã có một năm 2010 đầy thành công. Điều này có ý nghĩa như thế nào trong triển khai chiến lược quốc phòng nói chung của Việt Nam, thưa Thứ trưởng?
Công tác đối ngoại quốc phòng đã được đặt ra ngay từ những năm đầu đổi mới, đến nay đã gần 20 năm, trong đó chúng ta đã phát triển từng bước vững chắc, hiệu quả nhằm phục vụ nhiệm vụ quốc phòng quân sự của đất nước. Tuy nhiên năm 2010 có ý nghĩa rất đặc biệt khi Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động. Với sự phát triển chung của đất nước, vị thế, vai trò của quân đội cũng được nâng cao và công tác đối ngoại quốc phòng đã đạt được những thành tựu nổi bật. Có thể nói 2010 là năm hội tụ kết quả của gần 20 năm phát triển đối ngoại quốc phòng từ khi bắt đầu đổi mới.

 Cụ thể, chúng ta đã tái bản Sách trắng Quốc phòng với nội dung đáp ứng được sự phát triển của tình hình cũng như yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới. Sách trắng Quốc phòng lần này có 2 điểm nổi bật: Thứ nhất, có độ công khai, minh bạch cao, thể hiện sự tự tin và minh bạch của đất nước về quốc phòng; Thứ hai, chúng ta đã trình bày rõ ràng chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, trên tình hình độc lập tự chủ, bảo vệ Tổ quốc dựa trên sức mình là chính, sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước để xây dựng khu vực hòa bình ổn định, đóng góp cho sự phát triển chung của thế giới.

 Với chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, chúng ta đã tăng cường quan hệ hợp tác song phương, nhất là các nước bạn bè cũ, các nước láng giềng; chủ động tham gia các diễn đàn đa phương như ARF, ADMM, Shangri-la…Trên các diễn đàn này, chúng ta chủ động trình bày chính sách quốc phòng của đất nước, thể hiện mong muốn hòa bình và giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình; mong muốn khu vực ổn định và phát triển; công khai, minh bạch, chủ động đề xuất các biện pháp giải quyết những khác biệt như tranh chấp lãnh thổ, các thách thức an ninh phi truyền thống…

 Những thành tựu trong đối ngoại quốc phòng của chúng ta đã tăng cường xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác trong khu vực, hạn chế và từng bước đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và xung đột vũ trang. Đây là kết quả rất quan trọng nhằm đạt được mục tiêu của chiến lược quốc phòng là bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực. Bên cạnh đó, nhờ tăng cường hợp tác mà sức mạnh quốc phòng Việt Nam được tăng cường, không chỉ thể hiện qua việc tăng cường sức mạnh quân sự mà là sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đối ngoại quốc phòng đã góp phần nâng cao vị thế của quân đội và của đất nước, qua đó tăng cường thế trận quốc phòng bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Thành tựu quan trọng nhất là đối ngoại quốc phòng đã góp phần bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước thông qua kết hợp giữa quốc phòng và ngoại giao, thực hiện chiến lược tối ưu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc mà không cần đến chiến tranh. Năm qua, vấn đề biển Đông được đề cập trong nhiều diễn đàn quốc tế.

Theo Thứ trưởng, chúng ta nhận thức như thế nào về việc bảo vệ được chủ quyền nhưng vẫn giữ được hòa hiếu trong giải quyết vấn đề này?




Tàu hải quân Việt Nam. Ảnh minh họa

Trong tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, chúng ta cần có thái độ rõ ràng, minh bạch, đồng thời bình tĩnh xác định rõ hai mục đích sống còn phải bảo vệ bằng được. Trước hết là chủ quyền lãnh thổ và các lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển Đông – đó là tài sản vô giá do tổ tiên ta để lại hàng nghìn năm nay, làm sao để một nghìn năm sau con cháu không trách chúng ta tại thời điểm này đã không giữ được trọn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Thứ hai là hòa bình, đó cũng là thứ không gì có thể đánh đổi được, Do đó, không thể nói bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà bất chấp tất cả, coi nhẹ hòa bình; hoặc vì hòa bình mà đánh mất chủ quyền lãnh thổ. Nhưng trước hết muốn có hòa bình thì phải giữ được chủ quyền lãnh thổ và độc lập tự chủ của đất nước – như lời Bác Hồ đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Vấn đề đặt ra là chúng ta giữ hòa bình bằng cách nào, nhất là khi xử lý các vấn đề tranh chấp trên biển Đông? Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta, kế sách bảo vệ Tổ quốc thứ nhất là đánh thắng, thứ hai là không đánh mà thắng. Chính sách quốc phòng của chúng ta hiện nay đang nhằm vào cái không đánh mà thắng. Trước hết cần kiên trì chủ trương xử lý các vấn đề trên biển Đông bằng các biện pháp quốc tế. Tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng, đặc biệt là các nước đang có tranh chấp. Không thể bàn về lợi ích một cách bình đẳng, cùng có lợi nếu không có quan hệ hòa hiếu, hiểu biết lẫn nhau.

Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước hết chúng ta phải công khai, minh bạch chủ quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam và khẳng định quyết tâm bảo vệ những lợi ích đó. Bên cạnh dó cần tích cực xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Chúng ta không chủ trương sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực với các nước khác, nhưng chúng ta cũng không thể đàm phán với hai tay không mà phải khẳng định có đủ khả năng và đủ quyết tâm bảo vệ Tổ quốc khi bị xâm lược. Khi đó mới có thể ngồi vào bàn đàm phán một cách bình đẳng và tự tin.

 Thời gian qua, việc Việt Nam nâng cấp, trang bị vũ khí liệu có khả năng tạo ra dư luận về cuộc chạy đua vũ trang mới đang tiềm ẩn trong khu vực không, thưa Thứ trưởng?

 Việc hiện đại hóa quân đội nhằm đáp ứng các nhu cầu phòng thủ theo lộ trình phù hợp với nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam, thể hiện tinh thần hòa bình, tự vệ trong chính sách quốc phòng của nước ta. Thời gian qua, Việt Nam đã mua sắm một số vũ khí hiện đại như máy bay chiến đấu có tính năng ưu việt hệ thống tên lửa phòng không mạnh, các tàu tuần tiễu tàu ngầm hiện đại… nhưng Việt Nam không chạy đua vũ trang, chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước. Chúng ta đã công khai, minh bạch chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, trong đó khẳng định việc mua sắm vũ khí trang bị là một vấn đề hết sức bình thường, trên cơ sở khả năng kinh tế phát triển đến đâu, chúng ta mua sắm trang bị đến đó.
Tuy nhiên, đối với khu vực, chạy đua vũ trang thực sự là một nguy cơ cần đề phòng và ngăn chặn. Trong những năm gần đây, ngân sách quốc phòng của các nước trong khu vực đều tăng, có những nước tăng nhanh hơn bình thường, Việc mua sắm vũ khí, trang thiết bị quân sự phản ánh chiến lược quốc phòng quân sự của các nước. Khi chúng ta trang bị các loại vũ khí, thiết bị quân sự có tính chất phòng thủ, tự vệ là chính, phù hợp với tiềm lực kinh tế của mình thì không thể gọi là chạy đua vũ trang. Ngược lại, khi một nước mua sắm vũ khí, trang bị quân sự một cách bất thường, có tính năng tấn công tầm xa, vươn ra ngoài phạm vi địa lý thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình, chắc chắn sẽ gây lo ngại từ các nước khác và có thể dẫn đến chạy đua vũ trang. Ở đây cũng cần nhấn mạnh là chỉ có một số ít các nước trên thế giới có khả năng và tham vọng để thực hiện những việc như vậy.

Việc các cường quốc cùng quan tâm và muốn can dự vào Châu Á – Thái Bình Dương, Đông Á, Đông Nam Á sẽ đặt các nước trong khu vực, đặc biệt là những nước nhỏ, trước những vấn đề gì trong việc giữ vững chủ quyền của mình?
Việc các nước lớn cùng quan tâm và muốn can dự vào khu vực, trước hết chứng tỏ được vị thế và giá trị địa chiến lược, địa chính trị, địa kinh tế, môi trường ổn định và tiềm năng phát triển lớn của khu vực, và cùng với nó vị thế, vai trò của từng nước trong khu vực cũng được nâng lên. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực sẽ tranh thủ đươc sự hổ trợ về tiềm lực đầu tư, kinh nghiệm, tri thức từ các nước lớn trong điều kiện các bên cùng có lợi để một mặt đối phó với các thách thức truyền thống và phi truyền thống.

Việc các cường quốc cùng quan tâm và muốn can dự vào Châu Á – Thái Bình Dương tạo thuận lợi cho các nước đang phát triển trong khu vực bảo vệ độc lập và chủ quyền. Trước hết, sự tham gia của các cường quốc thể hiện xu thế chính của khu vực và thế giới là hòa bình, ổn định, hợp tác, trong điều kiện như vậy, các nước nhỏ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và chủ quyền hơn. Mặt khác, với sự tham gia của nhiều cường quốc nhưng không nước nào chiếm ưu thế áp đảo nên vai trò, vị thế của các nước nhỏ tăng lên, tính bình đẳng trong quan hệ quốc tế được nâng cao, có tác dụng tích cực trong bảo vệ độc lập và chủ quyền. Việc các nước nhỏ tập hợp trong ASEAN có thế giữ vai trò chủ đạo trong các thể chế khu vực như ADMM+, ARF, EAS… là những ví dụ điển hình.

Tuy nhiên, xu thế này cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước nhỏ, đang phát triển. Nếu các nước này không vững vàng thì dễ bị lôi về một phía; dễ mất độc lập, tự chủ. Mặt khác, sự can dự của các cường quốc đòi hỏi các nước nhỏ phải tỉnh táo trong quan hệ với các đối tác nhất là các cường quốc trên những vấn đề mà các bên có quyền lợi mâu thuẫn nhau.
Như vậy, việc các cường quốc can dự vào khu vực tạo ra cả cơ hội và thách thức để phát triển, bảo vệ chủ quyền của các nước nhỏ trong khu vực. Để nắm bắt các cơ hội và vượt qua thách thức, các nước nhỏ phải giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế, hơn thế nữa cần tăng cường hợp tác với nhau và với các cường quốc để bảo vệ các lợi ích chung theo nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Đối với Việt Nam, điều quan trọng nhất để có thể tận dụng các thuận lợi này là kiên định đường lối độc lập tự chủ trong quan hệ đối với từng nước, đồng thời tham gia giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong mọi mô hình hợp tác khu vực. Trong đó độc lập tự chủ là quan trọng nhất, Việt Nam không ngả về bên nào, không cùng với nước nào chống nước kia, không tham gia vào những “trò chơi quyền lực” của các nước lớn.

Xin cảm ơn Thứ trưởng!

 12/2009: Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng, khẳng định chính sách quốc phòng của Việt Nam là không đe dọa hoặc sử dụng sức mạng quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược. 5/2010: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất với 8 nước đối tác, đối thoại gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Liên Bang Nga, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand được tổ chức tại Hà Nội. Vấn đề giữ vững hòa bình, ổn định tại biển Đông theo tuyên bố ứng xử trên biển Đông (COC), không dùng vũ lực, đàm phán hòa bình để giải quyết trên cơ sở Công ước về Luật biển quốc tế năm 1982 được các nước ủng hộ. 6/2010: Tại Hội nghị An ninh châu Á không chính thức lần thứ 8 tại Singapore (Đối thoại Shangri–la 8) với sự tham dự của lãnh đạo và học giả của 27 quốc gia và tổ chức thế giới, Đại tướng – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh khẳng định chủ trương và nỗ lực thúc đẩy ngoại giao quốc phòng, góp phần vào nhận thức chung vì một khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và phát triển trên một nền an ninh hợp tác vững chắc. 8/2010: Lần đầu tiên đối thoại quốc phòng Việt – Mỹ. Hai bên đã thảo luận các vấn đề song phương về quốc phòng, truyền thống tăng cường hợp tác trong khắc phục hậu quả chiến tranh, cứu hộ cứu nạn, ứng phó với thiên tai trên biển và đất liền… Một điểm mới trong hợp tác song phương là Mỹ sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc tìm kiếm quân nhân Việt Nam mất tích trong chiến tranh… 11/2010: Đối thoại chiến lược – an ninh Việt – Trung. Quân đội hai nước thống nhất tiếp tục đẩy mạnh giao lưu, trao đổi, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, đào tạo, hợp tác hải quân, biên phòng, thiết lập đường dây nóng giữa hai bộ quốc phòng. 12/2010: Hội nghị Nhóm Công tác quan chức quốc phòng cao cấp các nước ASEAN mở rộng (ADSOM + WG) triển khai các sáng kiến hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ ADMM+.
(vietnamdefece news)

>> Bộ đội đặc nhiệm Bộ Tổng tham mưu tập luyện





Những ngày giáp Tết Tân Mão, phân đội Đặc nhiệm 2 - Đoàn M44 (Bộ Tổng tham mưu), thực hiện những pha luyện tập kinh điển của người lính đặc nhiệm.

Trung tá Nguyễn Xuân Dũng - Phân đội trưởng phân đội 2 cho biết, là một trong những đơn vị chủ công, đặc biệt thiện chiến của Đoàn M44, hằng ngày, các chiến sĩ trong đơn vị luôn luyện tập với cường độ cao. Với sở trường tiếp cận, tập kích bất ngờ vào các mục tiêu và đánh gần, lực lượng của phân đội 2 được trang bị những vũ khí tối tân, hiện đại, có thể khống chế và tiêu diệt đối phương trong thời gian ngắn nhất, đảm bảo an toàn cho các mục tiêu được bảo vệ. Theo lãnh đạo Đoàn M44, để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ các sự kiện, mục tiêu quan trọng của đất nước, bên cạnh phẩm chất đạo đức, chính trị, những người lính của M44, trong đó có phân đội 2 được rèn luyện rất kỹ càng về kỹ chiến thuật. Ngoài ra, họ còn thường xuyên luyện tập, diễn tập với các đơn vị của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an… nhằm chủ động ứng phó với các tình huống A2 (bao gồm các hoạt động khủng bố, bạo loạn lật đổ, biểu tình gây rối).




Đánh phạm vi hẹp là sở trường của lính đặc nhiệm Đoàn M44.



Trèo cột sét, giải cứu con tin.




Áp sát mục tiêu

.
Lính đặc nhiệm luyện bài quyền tập thể.
(tổng hợp)

>> Hệ thống UAV 450 triệu USD gặp lỗi nghiêm trọng





Hệ thống Gorgon Stare trang bị trên các UAV của Mỹ xuất hiện nhiều sai sót trong quá trình thử nghiệm.

Gorgon Stare được cho là có thể truyền hình trực tiếp các hoạt động của cả một thành phố được trang bị trên máy bay trinh sát không người lái (UAV). Tuy nhiên, trong thời gian tới, hệ thống này sẽ chưa được chấp nhận. Gần đây, trong quá trình bay thử nghiệm, đã xuất hiện rất nhiều sai sót và kết quả không như kỳ vọng của giới chuyên gia quân sự Mỹ. Căn cứ không quân số 53 của quân đội Mỹ tại Eglin, Florida sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra lại toàn bộ hệ thống và tiến hành sửa chữa, khắc phục thiếu sót trên sau đó tiếp tục thử nghiệm, nếu hoàn thiện mới đưa vào sử dụng trong quân đội.





Gorgon Stare được trang bị cho máy bay không người lái MQ-9 Reaper.
Gorgon Stare là một tập hợp bao gồm 12 máy ảnh có khả năng hoạt động quan sát cả ngày lẫn đêm, đặc biệt, nó được trang bị cho máy bay không người lái MQ-9 Reaper. Gorgon Stare được chế tạo như một hệ thống tình báo cao cấp cho nhiệm vụ giám sát và trinh sát, cho phép máy bay không người lái có thể theo dõi mọi hoạt động trên một diện tích lớn. Trong điều kiện chiến đấu thực tế, hệ thống có khả năng cung cấp lên đến 65 video khác nhau. Các cuộc thử nghiệm đầu tiên Gorgon Stare trên máy bay không người lái được tiến hành vào đầu năm 2010. Ở giai đoạn đầu tiên của cuộc thử nghiệm hệ thống chỉ hoạt động trên không quá 64 giờ và xuất hiện một số sự cố về kỹ thuật. Do đó các cuộc thử nghiệm đã bị dừng lại vào ngày 11/11/2010. Các chuyên gia nghiên cứu của công ty Sierra Nevada đã tham gia vào việc xác định lỗi và tiến hành sửa chữa, khắc phục.


Hệ thống Gorgon Stare có khả năng quan sát trên phạm vi rất rộng.
Vào cuối năm 2010, các cuộc thử nghiệm được nối lại. Khi đó, hệ thống Gorgon Stare trang bị trên máy bay không người lái đã tham gia 20 chuyến bay, kéo dài trong 234 giờ. Kết quả, suốt thời gian bay hệ thống này xuất hiện thêm những lỗi rất nghiêm trọng. Quá trình kiểm tra cho thấy lỗi ở hệ thống cảm biến hồng ngoại và hệ thống tương tác điều khiển từ mặt đất. Ngoài ra, hình ảnh thường xuất hiện những tam giác màu đen và chất lượng giảm rõ rệt. Lỗi này khiến việc xác minh đối tượng cũng như mục tiêu vô cùng khó khăn và gần như là không thể. Các video được hệ thống Gorgon Stare tải về với dung lượng rất cao. Tuy nhiên, ổ cứng lưư trữ của Gorgon Stare lại quá nhỏ. Quá trình kiểm tra cũng cho thấy khả năng truyền tải các hình ảnh của Gorgon Stare bị lạc hậu. Chi phí tổng thể cho việc phát triển hệ thống theo dõi mới Gorgon Stare lên tới 450 triệu USD.
(lenta news)

>> Mỹ nghiên cứu máy bay ném bom tàng hình mới





Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, ông Robert Gates và Tư lệnh không quân Mỹ, ông Tony cho biết: quân đội Mỹ sẽ bắt đầu thiết kế thế hệ máy bay ném bom tàng hình mới

Hiện nay, không quân Mỹ sở hữu lực lượng máy bay ném bom lớn nhất thế giới, ngoài máy bay ném bom B-52 thì các máy bay ném bom B-1 và máy bay tàng hình B-2 đều có thể trở thành hệ thống ném bom tầm xa hiện đại và tinh vi nhất thế giới. Hai nhóm máy bay tàng hình B-2 và F-22 được gọi là” phi đội ước mơ”.



Máy bay ném bom tàng hình B-2.
Tư lệnh không quân Mỹ, ông Tony nhấn mạnh rằng, Không quân Mỹ sẽ nghiên cứu chế tạo khoảng 100 máy bay ném bom thế hệ mới. Dù thế hệ máy bay ném bom mới này có khả năng tấn công hạt nhân, nhưng sẽ không thể ngay lập tức thực hiện khả năng đó, ông Tony cho biết. Quân đội Mỹ đã đầu tư một khoản kinh phí lớn nhất trong lịch sử để chế tạo thế hệ máy bay ném bom B-2 và dự án F-35. Tuy nhiên, so với sự xuất hiện của thế hệ máy bay ném bom B-2 từng gây sốc, thế hệ máy bay ném bom tiếp theo của quân đội Mỹ sẽ có khả năng sẽ làm cho chúng ta nghĩ đến một kế hoạch của khoa học viễn tưởng.


Máy bay ném bom B-1B.
Tháng 1/2008, hãng hàng không Boeing và công ty Lockheed Martin đã ký một thỏa thuận lớn về một dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) máy bay chiến đấu, và đã bắt tay vào công việc thiết kế. Có thể đến năm 2018, thế hệ máy bay ném bom mới sẽ được đưa vào sử dụng. Kế hoạch sẽ áp dụng một loạt các công nghệ tiên tiến của Mỹ như lắp đặt nhiều bộ cảm biến tiên tiến trên không và các thiết bị điện tử hàng không. Tháng 3/2010, hãng hàng không Boeing đã tuyên bố chấm dứt dự án. Tuy nhiên, quân đội Mỹ không ngừng chương trình này. Theo một số chuyên gia quân sự Mỹ, chuyến bay đầu tiên có thể là diễn ra trong năm 2016 và thời gian phục vụ của thế hệ máy bay này là tương đối ngắn. Vào năm 2018 thế hệ máy bay ném bom mới này sẽ chỉ là bước đệm thế chỗ máy bay ném bom B-52 trong hoạt động tác chiến. Một thế hệ máy bay ném bom hoàn toàn mới sẽ được tiếp tục nghiên cứu.



Máy bay ném bom siêu âm XB-47.
Kế hoạch về thế hệ máy bay ném bom này của quân đội Mỹ sẽ không cho ra máy bay ném bom chiến lược hạng nặng nhưng có khả năng tấn công hạt nhân. Điều này không tránh khỏi những rào cản trong việc Hiệp ước mới về cắt giảm vũ khí chiến lược vừa ký kết với Nga. Điều này là do vào đầu năm 2004, Bộ tư lệnh tác chiến của không quân Mỹ cho rằng, hiệu quả của thế hệ máy bay ném bom chiến lược hạng nặng là không cao, nó không những đắt tiền mà lại con rất phức tạp.


Mô hình máy bay ném bom FB-22.
Máy bay ném bom B-52 hiện nay vẫn là lực lượng đáng tin cậy nhất của không quân Mỹ. Các nghiên cứu sau đó về hoạt động của thế hệ máy bay ném bom siêu âm như: B-58, XB-70, FB-111 đã bị thu hồi hoặc bị bỏ rơi. Đến nay, nhiều ý tưởng về máy bay ném bom siêu âm của quân đội Mỹ đều không có giá trị về sản xuất. Theo một quan chức cấp cao trong không quân Mỹ cho biết, tiêu chuẩn của máy bay ném bom thế hệ mới là có tốc độ chiến đấu siêu âm, bán kính hoạt động là 3.200 km, có khả năng mang 6,3 đến 12,7 tấn vũ khí, có thể tấn công hạt nhân, có khả năng tàng hình trong không phận của đối phương, có thể tận dụng được lợi thế của các loại công nghệ hiện đại như công nghệ kỹ thuật radar mới. Tháng 6/2010, phó tham mưu trưởng của không quân Mỹ, ông Breedlove lưu ý, thế hệ máy báy ném bom mới cần phải mang được loại tên lửa loại 5 tấn hạng nặng.
(báo đất việt)

Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2011

>> Làng gói bánh chưng hối hả đón Tết


Chuẩn bị cho ngày Tết truyền thống, những nghệ nhân làng nghề ở ngoại thành Hà Nội hối hả rửa lá, đãi đỗ mỗi ngày để cho ra lò hàng chục nghìn chiếc bánh chưng phục vụ thực khách.


Cảnh gói bánh chưng tại nhà bà Lương ở thôn Tranh Khúc, xã Duyên Hà (Thanh Trì, Hà Nội).


Người dân cho biết, hầu hết các gia đình trong thôn đều làm nghề gói bánh chưng phục vụ khắp các tỉnh thành gần Hà Nội. Vào ngày thường mỗi nhà sản xuất khoảng 300 chiếc một ngày, nhưng đến dịp Tết phải huy động người quen tới làm giúp.



Trẻ em cũng giúp người lớn làm những công việc đơn giản như rửa và tước sống lá.

Những ngày giá rét này, chị Hảo thường phải mặc áo mưa đi găng tay làm việc tránh lạnh. Chị cho hay, cũng như nhiều hộ khác trong làng, gia đình chị làm nghề gói bánh chưng đã nhiều đời.

Nói đến bánh chưng là nói đến ngày Tết. Cái hương vị của thịt lợn đỗ xanh và gạo nếp gói trong chiếc lá rong xanh thơm nồng quyến rũ bao người xa quê hương.

Dù đã ở tuổi 90 nhưng cụ Tỵ vẫn miệt mài làm việc giúp đỡ con cháu trong những ngày cao điểm. Cụ tâm sự, đã gắn bó cả cuộc đời với nghề nên mỗi khi Tết đến trong lòng lại bồi hồi. "Không rửa tay ngồi gói chiếc bánh chưng không thể yên tâm được. Mong con cháu mãi mãi nối dõi nghề gia truyền này", cụ Tỵ nói.

Với người dân làng Tranh Khúc, việc gói bánh kinh doanh cũng được tính toán tỉ mỉ. Từ khâu đong gạo, đỗ xanh thật chuẩn thậm chí cân đo trọng lượng miếng thịt trước khi gói.

Những người gói bánh chuyên nghiệp không dùng khuôn chiếc bánh vẫn vuông và đều. Chưa đầy một phút, với thao tác nhanh gọn, chiếc bánh chưng đã được gói xong.

Bà Nhàn (73 tuổi) cũng đã làm nghề này từ bé.

Với người dân làng Tranh Khúc, việc gói bánh kinh doanh cũng được tính toán tỉ mỉ. Từ khâu đong gạo, đỗ xanh thật chuẩn thậm chí cân đo trọng lượng miếng thịt trước khi gói.


au khi gói, bánh được luộc bằng hệ thống nồi hơi công nghiệp, trước khi đưa ra thị trường.

>> Hương vị tết quê



tet que

TS - Gió xuân nhè nhẹ mang theo cái se se lạnh của ngày cuối đông còn vương trên chiếc khăn choàng của Ngoại. Mưa xuân rắc bụi cho buổi sớm mai thêm ngọn nắng xuân giòn ngọt, hây hây trên đôi má của chị Gái. Trước thềm, chậu hoa vạn thọ, hoa cúc vàng đang đung đưa mình làm thẫn thờ mấy chú bướm chàng ong...

Ôi hương vị Tết quê đã xa rất xa bỗng ùa về với một cảm xúc nguyên vẹn. Đã mười năm xa quê, nhưng mỗi cuối năm điệp khúc “về quê ăn Tết” vẫn cứ day dứt trong lòng những người con xa xứ, lâng lâng hoài niệm về những ký ức xa xưa.

Làm sao quên được không khí thôn xóm chuẩn bị đón Tết. Mọi người ai ai cũng nhanh nhẹn hơn, vội vã hơn thường ngày. Nhà nhà quét dọn sân vườn, lau chùi bàn ghế, đánh bóng lư đồng, quét vôi tường cũ, trang hoàng nhà cửa chuẩn bị đón Tết. Mọi người ai cũng vui vẻ, hoạt náo hơn. Mấy bé trai bé gái trong xóm bỗng ngoan hơn, làm việc nhiều hơn để được mẹ mua cho quần áo mới.

Làm sao quên được những phiên chợ quê ngày giáp Tết! Mọi người đi chợ từ tờ mờ sáng. Trên đôi quang gánh của họ là trái bí, trái bầu, bó rau, cặp gà, cặp vịt hoặc thúng dưa giạ gạo. Tiếng leng keng của chiếc xe ngựa chở hàng, tiếng bước chân vội vã của mấy bà mấy chị, tiếng gọi nhau í ới làm huyên náo cả xóm thôn. Chợ quê bỗng nhộn nhịp, đông vui lạ thường.

Làm sao quên được những đêm thức ngồi cùng bên bà bên mẹ dệt bánh in, đổ bánh thuẫn. Bánh in được làm từ bột gạo nếp xay khô, đem phơi sương rồi trộn với đường trắng, dùng khuôn gỗ dệt thành những cái bánh xinh xắn. Bánh thuẫn thì được làm với trứng gà, bánh làm ra sao cho nở đẹp 5 cánh đều nhau thì năm mới làm ăn mới phát tài phát lộc.

Làm sao quên chiều 30 Tết, bên nồi bánh chưng còn nghi ngút khói, mẹ vớt những cái bánh chưng thơm nồng mùi nếp mới, mùi lá chuối xanh, chuẩn bị làm mâm cơm họp mặt gia đình. Trên bàn thờ nghi ngút khói hương, được trang hoàng lộng lẫy với bình hoa, mâm ngũ quả, bánh mứt... Chiều cuối năm bỗng nghiêm trang hơn, linh thiêng hơn.

Làm sao quên được những trò chơi dân gian mang đặc tính miền quê. Con sông Gò Bồi vốn hiền hoà cần mẫn bỗng trở nên nhộn nhịp với hội đua ghe. Cứ mồng 2 Tết, dặt dìu trai gái kéo nhau về sông Gò Bồi xem hội đua ghe, đã trở nên một nét văn hoá đặc sắc của quê nhà. Chính nơi con sông Gò Bồi này, nhà thơ Xuân Diệu đã từng tắm tuổi thơ mình với đầy ắp những kỷ niệm ngọt ngào. Dù đi xa mấy mươi năm, Xuân Diệu cũng không thể nào quên mùi nước mắm ở vạn Gò Bồi, hương vị bánh ít lá gai mềm dẻo, mùi bánh tráng nướng giòn rụm...

Làm sao quên được những ngày Tết quê giản dị, hiền hoà và thân mật! Mấy chị gái quê quanh năm đối mặt với ruộng đồng chưa một lần biết đến hộp phấn thỏi son, Tết đến bỗng điệu đàng hẳn ra. Chị nào cũng má đỏ hây hây, diện những bộ quần áo mới còn thơm nguyên mùi vải, thẹn thùng đứng sát nhau nhìn ngắm dòng người đi tảo mộ, lễ chùa. Xa xa, thấp thoáng bóng dáng ai đi thăm đồng ngày đầu năm. Gió xuân mơn man ngọn lúa non quyện trong hương đồng gió nội ngan ngát một hương vị rất lạ: Hương vị Tết quê.

(Sưu tầm)

>> Tìm hiểu 'lão làng' của Hải quân Trung Quốc





Type 037 là thế hệ tàu tuần tra chống ngầm đầu tiên của Hải quân Trung Quốc, được phát triển từ những năm 1950 - 1960.
Quá trình hình thành Type 037
Tàu tuần tra chống ngầm lớp Type 037 của Hải quân Trung Quốc (PLAN), NATO gọi là lớp tàu Hải Nam, là loại tàu rất đáng tin cậy đa năng và cũng được các binh sĩ hải quân nước này ưa thích.

Khoảng 120 chiếc tàu tuần tra chống ngầm Type 037 đã được đóng, hiện nay vẫn còn khoảng hơn 50 chiếc phục vụ trong Hải quân Trung Quốc. Nếu tính trên thế giới, vẫn còn khoảng 50 mẫu của loại tàu nàytrong lực lượng hải quân của nhiều nước khác. Trong khi Type 037 được thiết kế và đóng là chiếc tàu chống ngầm, nhưng lại được sử dụng để thực hiện nhiệm vụ tuần tra trên biển.


Tàu ngầm lớp Type 037 (Hải Nam) trong biên chế Hải quân Trung Quốc.

Sự phát triển của chương trình Type 037 là thành quả sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu của Trung Quốc và thất bại thử nghiệm tác chiến của tàu tuần tra cỡ lớn lớp Kronstadt của Liên Xô.

Trung Quốc đã nhập khẩu 6 trong số 20 chiếc tàu lớp Kronstadt đầu tiên có tải trọng 300 tấn từ Liên Xô vào năm 1956, lắp ráp hai chiếc từ các bộ phận do Nga chế tạo, và 12 chiếc sau đó được đóng tại các nhà máy đóng tàu Thượng Hải và Quảng Châu vào năm 1957.


Tàu chiến lớp Kronstadt của Liên Xô được chào đón trong những ngày đầu về đến Trung Quốc.

Thời kỳ đó, Hải quân Trung Quốc cần đẩy nhanh tốc độ đóng tàu để phục vụ tác chiến duyên hải, đối phó với Đài Loan. Các tàu lớp Kronstadt của Liên Xô trước đây không đáp ứng yêu cầu của về tốc độ, hỏa lực tấn công, khả năng chống gió, độ tin cậy, và tầm hoạt động… Vì vậy, tàu tuần tra chống ngầm có tải trọng 300 tấn mới trở thành yêu cầu cấp bách.

Trong năm 1959, Hải quân Trung Quốc (PLAN) nỗ lực thực hiện để thay thế các tàu lớp Kronstadt bằng loại tàu có kích cỡ và tải trọng tương đương. Tất cả công việc được giao cho Viện 701 của Học viện Hải quân dưới sự kiểm soát trực tiếp của Bộ Tư lệnh Hải quân.

Phụ trách dự án là ông Xu Zhenqi, cố vấn của Viện 701, người được đánh giá như một huyền thoại của Hải quân Trung Quốc. Ông Xu tốt nghiệp Trường Không quân và Tàu ngầm ở Phúc Kiến, Hải quân Quốc Dân Đảng, và phụ trách giám sát chất lượng các chiến hạm Trung Quốc được mua từ nước ngoài.

Năm 1952, ông Xu được bổ nhiệm làm Trưởng phòng thiết kế, Cục Xây dựng và Sửa chữa tàu Hải quân, sau đó được bổ nhiệm là chuyên viên thiết kế cao cấp. Ngoài công việc thiết kế Type 037, ông Xu còn phụ trách chương trình phát triển Type 062. Cho đến khi mất vào năm 1982, tất cả tàu chiến lớn của Hải quân Trung Quốc đều có dáng dấp thiết kế ban đầu của ông.

Thông số kỹ thuật và trang bị vũ khí của Type 037
Ban đầu, thông số kỹ thuật mà các cố vấn Liên Xô đưa ra có đôi chút thay đổi so với lớp tàu Kronstadt (thiết kế của Hải quân Trung Quốc mang tên Type 6604), rút độ cao đường mớn nước và giảm chiều dài thân tàu xuống còn 52 mét.

Tuy nhiên, khi tiến hành thử nghiệm trên mô hình mẫu đã phát hiện con tàu không đạt tốc độ tối đa theo yêu cầu là 28 hải lý/giờ. Sau nhiều cuộc thử nghiệm đã xây dựng và thông qua được bản tái thiết kế chuẩn là giảm chiều rộng và tăng chiều dài thân tàu lên 58,8 m; tàu có bốn động cơ diesel Type 40II với công suất 2.200 mã lực. Đồng thời, tốc độ tối đa của mẫu thiết kế mới đã tăng từ 24 lên đến 28 hải lý/giờ.


Tàu Type 037 được trưng bày tại công viên. Thông số cơ bản của Type 037: Lượng giãn nước (tấn): chuẩn: 375; hết tải: 392; Kích thước (mét): dài: 58,8; rộng: 7,2; cao: 2,2.

Việc không đủ không gian làm việc trong phòng máy là một trong những thiếu sót quan trọng hơn khi thiết kế tàu lớp Kronstadt. Để khắc phục sự cố kỹ thuật này, phòng động cơ của Type 037 đã được tăng lên bằng cách di chuyển phòng của thủy thủ đoàn về phía trước bốn mét, do đó quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo trì được thuận tiện hơn.

Một số nhà phân tích dự đoán Type 037 là loại tàu tuần tra OS-1 của Liên Xô trước đây được cải tiến mở rộng, một cáo buộc mà các nhà thiết kế Trung Quốc kiên quyết phản bác vì Trung Quốc không bao giờ nhập khẩu bất kỳ chiếc tàu OS-1 nào.

Thân tàu của Type 037 được đóng hoàn toàn bằng tấm kim loại cơ bản và có 2 tầng. Tầng 1 là kho chứa đạn dược, buồng nghỉ của thủy thủ đoàn và phòng máy. Trong khi tầng trên là phòng chỉ huy, định hướng, radar, chống ngầm.

Về vũ khí, kho vũ khí chống ngầm của Type 037 bao gồm:

- Bốn ống phóng 5 nòng RBU 1200 được gắn cố định với bệ ở sườn tàu.
- Hai dàn vũ khí ngầm, mỗi dàn 4 ống BMB-2. Hệ thống định vị chống ngầm ban đầu VS-1 được thay thế bằng hệ thống SJD-3 bắt đầu hoạt động từ ngày 19/12/1976; tuy nhiên, hiện vẫn chưa có thay đổi về mẫu thiết kế của Type 037.


Pháo phòng không.


Dàn rocket chống ngầm.
Trong giai đoạn thiết kế, các tháp pháo đơn 85mm của Kronstadt đã bỏ và thay bằng hai khẩu pháo lòng kéo Type 66, loại 57/70 mm. Type 66 là loại pháo được nâng cấp từ pháo phòng không Type 59 57mm (AAA) với khả năng hỏa lực đã được mở rộng lên rất lớn (tốc độ bắn: 270 viên/phút, tầm bắn lên đến 12km) và độ chính xác cao hơn, nhưng lại giảm tầm bắn của súng bắn tăng Kronstadt 85 mm (18 viên/phút, tầm bắn lên đến 15 km).

Hải quân Trung Quốc muốn sử dụng pháo tự động nòng kép AK230 30 mm của Liên Xô là hệ thống vũ khí thứ hai trang bị cho Type 037. Tuy nhiên, do quá trình thiết kế và sản xuất của AK230 bị trì hoãn, nên Hải quân Trung Quốc đã sử dụng pháo 2 nòng Type 61 25mm/60 có tốc độ bắn 270 viên/phút và đạt tầm xa 3km để thay thế.
(China Defense)

>> Hợp tác hải quân Trung - Xô qua các thời kỳ (kỳ 2)



Đầu những năm 1990, quan hệ Trung - Xô được cải thiện, thời kỳ này quân đội Trung Quốc hiện đại hóa mạnh mẽ hải - lục - không quân với sự trợ giúp đặc lực từ Nga.

Xung đột biên giới Trung - Xô 1969 đã làm mối quan hệ giữa hai quốc gia "anh em" này đóng băng suốt một thời gian dài, tất cả sự viện trợ kinh tế và quân sự cho Trung Quốc hoàn toàn bị cắt đứt. Nền công nghiệp quốc phòng Trung Quốc thời điểm đó vẫn chưa đủ khả năng độc lập phát triển nếu không có sự giúp đỡ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật của Liên Xô. Kết quả, hải – lục – không quân Trung Quốc không được hiện đại hóa trong thời gian dài, trở nên kém cỏi trước các cường quốc quân sự tiên tiến.

Đầu những năm 1980, Trung Quốc từng bước thiết lập trao đổi hợp tác quốc phòng với Mỹ và phương tây. Thời kỳ này Trung Quốc nhận được một số phương tiện khí tài quân sự từ các đối tác mới nhưng họ thừa khôn ngoan để không cho Trung Quốc vực dậy nền quốc phòng. Năm 1989, những vấn đề chính trị trong nước của Trung Quốc đã bị Mỹ và phương Tây lấy làm cớ để cắt đứt quan hệ quân sự.

Đứng trước tình thế khó khăn và nhu cầu cần thiết phải hiện đại hóa, Trung Quốc đành phải quay sang cầu viện người anh em Liên Xô. Năm 1989, tổng thống Liên Xô, Mikhail Gorbachev thăm Trung Quốc thiết lập lại mối quan hệ mới sau nhiều năm gián đoạn. Hai chính phủ đã ký nhiều bản hợp đồng liên quan tới chuyển giao trang bị vũ khí mới.

Năm 1991, Liên Bang Xô Viết tan vỡ, kinh tế nước Nga lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do đó, các hợp đồng mua bán vũ khí khổng lồ là cứu cánh cho nước Nga thời hậu Xô Viết. Năm 1991, Liên Xô bán 24 chiến đấu cơ chiếm ưu thế trên không Sukhoi Su-27 cho Trung Quốc.

Bản hợp đồng hải quân đầu tiên ký năm 1992, Trung Quốc đặt đóng hai tàu ngầm tấn công chạy động cơ diesel lớp Kilo (Type 877EKM). Hai tàu được đóng tại nhà máy Krasnoye Sormovo (Niizhny Novgorod) và chuyển giao trong tháng 2 và tháng 11/1995.

Sau đó, Trung Quốc ký mua thêm 2 tàu ngầm Kilo cải tiến (project 636) đóng ở nhà máy Admiralty (Saint Petersburg) và chuyển giao lần lượt trong năm 1997-1998. Ước tính, trị giá 4 tàu ngầm khoảng 1 tỷ USD.

Ngày 3/5/2002, Rosoboronexport ký hợp đồng đóng 8 tàu ngầm Kilo (Type 636) trang bị hệ thống tên lửa diệt hạm Club-S với tổng trị giá 1,6 tỷ USD.

Theo một số thông tin, 5 chiếc do nhà máy Admiratly đóng, hai chiếc do Sevmash và một chiếc do Krasnoye Sormovo đóng.


Khu trục hạm Sovremenny.

Tháng 8/1997, Trung Quốc chi 885 triệu USD mua hai khu trục hạm lớp Sovremenny (project 956) và hợp đồng với nhà máy Severnaya Verf hoàn thiện hai tàu đang đóng dở này.

Hai tàu này mang tên Yekaterinburg và Alexander Nevsky được đóng năm 1988-1989 nhưng do thiếu kinh phí nên dự án bị bỏ dở nửa chừng. Khi hợp đồng với Trung Quốc ký thì công việc mới hoàn thành mức 70% và 30%.

Cuối năm 1999, cả hai khu trục Sovermenny được chuyển giao cho hải quân Trung Quốc. Chiến hạm lớp Sovremenny trang bị hệ thống điện tử và vũ khí tiên tiến của nước Nga. Trước đó, chưa có một tàu chiến nào của Trung Quốc sánh được với lớp tàu này.

Hai tàu chiến Sovremenny đã tăng cường đáng kể sức chiến đấu của hải quân Trung Quốc trong tác chiến vùng biển xa.

Tháng 1/2002. Trung Quốc ký hợp đồng với Rosoboronexport trị giá 1,5 tỷ USD đóng hai tàu khu trục Sovremenny cải tiến (project 956EM). Nhà máy đóng tàu Severnaya giành chiến thắng trong bản hợp đồng đắt giá này. Không có nhiều thông tin liên quan tới trang bị của project 956EM, nhưng có thể nó tương tự phiên bản 956U đóng cho hải quân Liên Xô. Project 956EM vũ trang tổ hợp tên lửa chống hạm Yankhont thay vì Moskit và nâng cấp hệ thống phòng không.

Trung Quốc đã thể hiện mối quan tâm không chỉ mua tàu chiến mà nhập khẩu công nghệ vũ khí hải quân đặc biệt là tên lửa chống hạm.

Năm 1997, Zvezda – Strela ký hợp đồng với Trung Quốc cùng hợp tác sản xuất tên lửa đối hạm siêu âm X-31 mà tên hiệu của Nga là KR-1 còn Trung Quốc là YJ-91. Ngoài ra, Trung Quốc và Nga tiến hành nhiều cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển giao công nghệ tên lửa chống hạm 3M80E Moskit, 3M55E Yankhont và 3M54E Club.

Tháng 4/2002, Trung Quốc nhập khẩu thành công hai hệ thống tên lửa hải đối không tầm xa S-300FM Rif-M (SA-N-6) lắp trên khu trục hạm Type 052B do Trung Quốc đóng. Các vị lãnh đạo hải quân Trung Quốc bày tỏ sự quan tâm tới pháo hạm tự động do Nga thiết kế.

Năm 1998, Trung Quốc mua một pháo hạm tự động Ak-176 cỡ 76mm lắp cho tàu tấn công lớp Houjian (project 520T) để thử nghiệm.

Trong lĩnh vực không quân hải quân, năm 1993 Trung Quốc mua hai trực thăng săn ngầm Kamov Ka-28 để thử nghiệm. Sau đó, họ mua tiếp 4 chiếc Ka-28 và đặt hàng 4 chiếc Ka-27PS. Tháng 1/2003, Trung Quốc ký hợp đồng mua 28 chiến đấu cơ đa năng Su-30MKK với khả năng chống hạm trị giá khoảng 1 tỷ USD.

Với sự "tiếp trợ" kỹ thuật mới từ Nga, hải quân Trung Quốc từ đầu những năm 1990 đã có bước phát triển đột phá, mạnh mẽ. Hải quân Trung Quốc từ lực lượng trang bị lạc hậu đã trở thành lực lượng có tiềm lực mạnh mẽ trên thế giới.

Hải quân Trung Quốc ngày nay được tổ chức thành 3 hạm đội chính với số quân hơn 200.000 người. Mỗi hạm đội tổ chức đầy đủ với các đơn vị tàu chiến nổi, tàu ngầm, không quân thuộc hải quân, tuần tra bờ biển... .

(Moscow Defence Brief)

>> Hợp tác hải quân Trung- Xô qua các thời kỳ (kỳ 1)



Với sự giúp đỡ của Liên Xô, từ con số 0, Trung Quốc đã xây dưng lực lượng hải quân hùng hậu.

Năm 1954, Liên Xô và Trung Quốc ký thỏa thuận quan trọng trong lĩnh vực quốc phòng, theo đó Liên Xô trợ giúp Trung Quốc xây dựng và phát triển hải quân giải phóng nhân dân Trung Hoa (People Liberation Army Navy - PLAN).

Ngay trong năm 1954-1955, hải quân Xô Viết chuyển giao cho Trung Quốc: 4 tàu khu trục lớp Gnevny; 4 tàu ngầm tấn công hạng trung lớp Srednyaya, 4 tàu ngầm cỡ nhỏ lớp Malyutka (seri XV); 8 tàu ngầm lớp Kronshtadt; 6 tàu quét mìn lớp T43 và nhiều tàu phóng lôi (khoảng 12 tàu lớp P6 và 90 tàu thuộc đề án 123K).

Khu trục hạm Gnevny.

Bên cạnh việc chuyển giao tàu do Liên Xô chế tạo, Trung Quốc còn nhận viện trợ một số tàu nước ngoài gồm: 2 tàu hộ tống của Nhật (chiến lợi phẩm sau thế chiến II) và 6 tàu quét mìn của Mỹ (các tàu thuộc chương trình cho Liên Xô vay vũ khí).

Nhờ sự hỗ trợ của chuyên gia Liên Xô, Hải quân Trung Quốc còn sữa chữa, trục vớt một số vũ khí như tuần dương hạm hạng nhẹ Chungkinh, sửa chữa và đưa vào biên chế hải quân Trung Quốc năm 1960.

Chỉ trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã phát triển đội tàu chiến đa dạng, tổ chức huấn luyện hải quân quy mô lớn và bước đầu hình thành không quân của hải quân. Năm 1955, số lượng cố vấn và các chuyên gia Liên Xô làm việc ở Trung Quốc lên tới 2.500 người.

Với sự hỗ trợ từ Liên Xô, Trung Quốc bắt đầu phát triển công nghiệp đóng tàu quân sự. Các cơ sở đóng tàu được xây dựng ở Giang Nam, Thượng Hải, Quảng Đông. Ngay sau khi hoàn thành xây dựng, nâng cấp nhà máy đóng tàu, Trung Quốc triển khai ngay việc sản xuất một số tàu chiến theo thiết kế Liên Xô.

Chương trình đầu tiên là dự án đóng tàu ngầm diesel hạng trung lớp Whiskey (đề án 613). Tất cả bộ phận tàu ngầm được chuẩn bị ở nhà máy Krashoye Sormono (Liên Xô), tiếp đó được chuyển tới lắp ráp tại Thượng Hải.

Các cuộc thử nghiệm được tiến hành ở cảng Lữ Thuận năm 1957. Sau đó, Trung Quốc tiếp nhận tài liệu kỹ thuật và Liên Xô cung cấp vật liệu thép, bộ phận điện tử, trang bị vũ khí cho nhà máy của Trung Quốc. Tới năm 1964, Trung Quốc đã chế tạo được tất cả 18 tàu ngầm lớp Whiskey.

Tàu hộ tống lớp Riga chủ yếu lắp pháo và giàn phóng rocket săn ngầm.

Tàu quét mìn lớp T43 (đề án 254).


Trong khoảng thời gian đó, Trung Quốc cũng xúc tiến đóng mới các tàu chiến nổi, công việc được giao cho nhà máy ở Thượng Hải và Quảng Đông chế tạo 4 tàu hộ tống lớp Riga (Trung Quốc gọi là Type 01).

Năm 1956-1965, Trung Quốc đóng tiếp 21 tàu quét mìn lớp T43 (Type 010) và sản xuất hàng loạt tàu phóng ngư lôi thuộc lớp P6.

Năm 1959, Liên Xô trợ giúp Trung Quốc tiếp thu một số công nghệ hải quân mới mà đặc biệt là các kiểu tàu chiến và tàu ngầm trang bị tên lửa. Trong giai đoạn 1959-1961, Trung Quốc tiếp nhận nhiều tài liệu liên quan tới tàu ngầm diesel lớp Golf (đề án 629) trang bị hệ thống tên lửa D-1 kết hợp tên lửa đạn đạo chiến thuật R-11FM, tàu ngầm tấn công lớp Romeo, khu trục hạm lớp Kotlin và tàu tấn công tốc độ cao lớp Komar và Osa mang tên lửa hành trình đối hạm P-15 Termit (SS-N-2 Styx).


Tàu tên lửa Komar (đề án 183R).


Tàu tên lửa lớp Osa (đề án 205).

Hải quân Trung Quốc còn mua từ hạm đội Thái Bình Dương các tuần dương hạm lớp Kirov (đề án 26 bis), bốn khu trục hạm lớp Ognevoy và hộ tống hạm lớp Riga để tăng cường hơn nữa sức mạnh trên biển.

Theo chỉ thị của Tổng bí thư ĐCS Liên Xô, Nikita Khrushchev, Liên Xô giúp Trung Quốc nghiên cứu phát triển năng lượng hạt nhân và có thể xây dựng hạm đội tàu ngầm hạt nhân. Tuy nhiên, do những căng thẳng và xung đột giữa hai quốc gia trong những năm 1960 nên Liên Xô rút toàn bộ chuyên gia về nước đồng thời hủy bỏ chuyển giao tài liệu cho Trung Quốc, nên ý định phát triển tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc không thành hiện thực.

Thành quả bước đầu

Với sự giúp đỡ của Liên Xô và cố gắng của đội ngũ chuyên gia non trẻ, Trung Quốc đã xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh trên biển đủ các lớp tàu. Đầu những năm 1960, Trung Quốc cải tiến và tự sản xuất hàng loạt lớp tàu, nhưng nhìn chung vẫn mang đậm thiết kế gốc của Liên Xô.

Tàu ngầm Type 033 do Trung Quốc chế tạo.

Trong giai đoạn từ 1960-1980, nhà máy ở Thượng Hải tổ chức sản xuất tàu ngầm tấn công Type 033 (dựa vào thiết kế lớp Romeo của Liên Xô). Theo một số nguồn tin khác nhau thì có 84-88 chiếc Romeo được sản xuất. Sau này, các tàu ngầm Type 033 được Trung Quốc xuất khẩu cho Triều Tiên và Ai Cập.

Từ 1967 tới 1992, Trung Quốc đóng 17 khu trục hạm Type 051 lớp Luda. Đây là lớp tàu Trung Quốc đã sao chép và cải tiến từ đề án 56 (lớp tàu Kotlin) của Liên Xô.


Khu trục hạm lớp Kotlin.


Và đây là khu trục hạm lớp Luda của Trung Quốc trang bị sáu tên lửa đối hạm CSS-N-1.

Giữa những năm 1960, Trung Quốc cho ra phiên bản cải tiến tàu tấn công tốc độ cao Type 204 (lớp Hoku) và Type 021 (lớp Huangfeng) theo thiết kế tàu tên lửa lớp Komar và Osa.

Trong lĩnh vực tên lửa, năm 1959 Liên Xô chuyển cho phía Trung Quốc các tài liệu cơ bản liên quan tới tên lửa hành trình đối hạm P-15 Termit.Trung Quốc nhanh chóng sao chép P-15 để chế tạo tên lửa diệt hạm SY-1/HY-1 (NATO đặt tên là CSS-N-1).


Tên lửa hành trình đối hạm SY-1.


Năm 1970, Trung Quốc tiếp tục đưa ra phiên bản SY-2 nới rộng tầm bắn lên 90 km. Giai đoạn 1980-1990, Trung Quốc phát triển tiếp tên lửa hành trình HY-4 (tầm bắn 150km). Ngoài vai trò trang bị trên tàu chiến, họ cũng tự chế tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển.

Đầu những năm 1980, máy bay ném bom chiến lược H-6D (sao chép Tu-16 của Liên Xô) được cung cấp tên lửa không đối hạm YJ-6 (C-601). YJ-6 cũng là sản phẩm dựa trên P-15 Termit.
(còn tiếp)

Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

>> Bán vũ khí: Chính sách chia để trị của Trung Quốc đối với Đông Nam Á



Trung Quốc tăng cường bán vũ khí sang Đông Nam Á.

Tạp chí Kanwa Asian Defence số tháng 11.2010 khẳng định, những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng ráo riết xúc tiến vũ khí của mình vào các thị trường Đông Nam Á và có được những thành công rõ nét.

Trong cả khu vực, chỉ có Philippines, Việt Nam và Brunei không mua vũ khí Trung Quốc. Tất cả các nước Đông Nam Á còn lại đều có trong trang bị các mẫu vũ khí Trung Quốc. Tình hình này trở thành thực tế sau tháng 6.2009 khi Trung Quốc chính thức cung cấp cho Malaysia 16 hệ thống tên lửa phòng không vác vai FN6 và đây là lần đầu tiên Kuala Lumpur mua trực tiếp vũ khí Trung Quốc.

Nhận được nhiều vũ khí Trung Quốc nhất là Thái Lan. Ngoài hợp đồng mua bán 2 tàu tuần tra, năm 2008, hai nước đã ký hợp đồng chuyển giao công nghệ sản xuất hệ thống rocket phóng loạt WS1B với các tên lửa không điều khiển, cũng như tiếp tục hiện đại hóa hệ thống và chuyển sang dùng tên lửa có điều khiển. Đây là dự án lớn nhất phát triển công nghệ tên lửa trong quân đội Thái.

Căng thẳng giữa Thái Lan và Campuchia những năm gần đây đã tăng mạnh, bên cạnh đó Campuchia và Myanmar cũng là các khách hàng chủ chốt của vũ khí Trung Quốc. Thái Lan là nước đầu tiên mua tên lửa chống hạm Trung Quốc С802А tầm bắn 180 km. Theo dư luận, tên lửa chống hạm này đang được xúc tiến mạnh vào Myanmar, nhưng thông tin này không được các nguồn tin Myanmar xác nhận.

Ở chính Myanmar, thương vụ thành công nhất năm 2009 là việc Trung Quốc bán một số lượng không nêu cụ thể tăng МВТ2000. Do Myanmar thiếu ngoại tệ chuyển đổi tự do, một số chi tiết của hệ thống ngắm bắn đã được đơn giản hóa, nhưng dẫu sao các xe tăng này cũng vẫn là loại xe tăng uy lực nhất khu vực. Đồng thời, Trung Quốc cũng đã xúc tiến tăng Т-96 vào Thái Lan, tuy nhiên do hạn chế ngân sách, Thái Lan đã buộc phải đóng băng kế hoạch mua vũ khí Trung Quốc.

Ở Campuchia, phần lớn tàu pháo của hải quân nước này do Trung Quốc sản xuất. Trung Quốc đã xuất khẩu sang Campuchia không dưới 2 tàu nhỏ, trong đó 1 chiếc là loại Р46С, trang bị 1 pháo 37 mm và 1 súng máy phòng không, chiếc thứ hai là tàu cao tốc Р200С. Cả 2 đều được đóng ở xưởng đóng tàu Jiangxi.

Tại Malaysia, tất cả vũ khí Trung Quốc, trừ tên lửa phòng không vác vai FN6 là được nhập khẩu trực tiếp, đều được mua nhờ sự giúp đỡ của Pakistan. Các hệ thống này bao gồm hệ thống tên lửa phòng không QW1/Anza Mk II hiện đã có trong trang bị của Lục quân Malaysia, cũng như hệ thống tên lửa chống tăng HJ8F/C.

Tại triển lãm Defence Services Asia 2010 (Malaysia), đoàn Trung Quốc đã giới thiệu một bộ thiết bị tích hợp các hệ thống phòng không TH-S311, được phát triển dành riêng cho các hệ thống FN6. Thành phần then chốt của việc hiện đại hóa là bố trí 1 chiếc ô tô trang bị radar, hệ thống nhìn đêm và hệ thống trao đổi dữ liệu. Sau hiện đại hóa, FN6 có thể sử dụng thông tin chỉ thị mục tiêu từ radar và hoạt động được trong mọi thời tiết. Ngoài ra, một đại đội FN6 có thể dùng để tác chiến chống các mục tiêu tốp. Hệ thống này hiện đang được chào bán cho Malaysia.

Từ năm 2008, Trung Quốc ráo riết xúc tiến FN6 vào thị trường Brunei.

Tại Indonesia, các nỗ lực xúc tiến vũ khí trang bị của Trung Quốc đã gặt hái thành công. Hải quân và lục quân nước này hiện có trong trang bị các hệ thống tên lửa phòng không Trung Quốc QW1. Trong khi đó, không quân Indonesia sẽ nhận được các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa QW3, lần đầu tiên được xuất sang một nước thứ ba. Hải quân Indonesia cũng đã mua tên lửa chống hạm С802.

Các nỗ lực mới đây của Trung Quốc nhằm xâm nhập thị trường Indonesia còn đang ngày càng ấn tượng hơn. Hiện nay, Indonesia bày tỏ quan tâm đến tên lửa có điều khiển SY400 tầm bắn 200 km, sử dụng hệ dẫn quán tính và GPS, có sai số vòng tròn xác suất 30 m. Rõ ràng là các nước Đông Nam Á, trong đó có Malaysia, đang rất nỗ lực để mua sắm các hệ thống tên lửa chiến thuật-chiến dịch.

Trước đó, PT PAL của Indonesia đã có chút ít kinh nghiệm trang bị tên lửa mới mua sắm từ nước ngoài cho tàu của họ. Các nguồn công khai đã đưa tin rằng, trong trang bị của Hải quân Indonesia hiện có các tên lửa chống hạm Trung Quốc С-802 lắp trên 5 tàu tên lửa nhỏ FPB-57 sêri 5. Các tàu nhỏ này đóng ở Indonesia theo giấy phép dựa trên thiết kế Albatros của Đức với vũ khí tiêu chuẩn là tên lửa chống hạm Exocet. Một phân hãng của PT PAL đã lắp đặt tên lửa Trung Quốc cho các tàu FPB-57.

Phân hãng này cũng đang cố gắng lắp đặt tên lửa chống hạm Yakhont của Nga cho các tàu corvette và frigate của Indonesia. Thông tin này xuất hiện vào tháng 5-8.2010. Theo đó, số lượng tên lửa mua về là không dưới 120 quả.

Việt Nam và Philippines, theo Kanwa, là hai nước duy nhất ở Đông Nam Á mà Trung Quốc không xúc tiến chào bán vũ khí. Nguyên nhân chính là các nước này đang tranh chấp với Trung Quốc về quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.

Bằng việc bán vũ khí, Trung Quốc đang tiến hành chiến lược ngoại giao “chia để trị” trong khu vực Đông Nam Á. Nói cách khác, sử dụng thủ đoạn “viễn giao, cận công” và tích cực bán vũ khí, Trung Quốc đang cố gắng trói tay Malaysia, Indonesia và Brunei. Malaysia và Trung Quốc đang có tranh chấp về hòn đảo Layang, nhưng có vẻ vấn đề này không nằm trong số các ưu tiên của Bắc Kinh hiện nay.

Cần lưu ý rằng, việc Trung Quốc bán vũ khí vào khu vực đã gây nên phản ứng dây chuyền, nhất là do sự xuất hiện của các hệ thống tên lửa tầm xa.

Hệ thống rocket phóng loạt WS1B

Đối với các nước Đông Nam Á, hệ thống rocket phóng loạt WS1B/2 và SY400 tầm bắn 180-200 km thuộc vào hàng vũ khí chiến lược. Một khi Thái Lan và Indonesia mua các hệ thống này, Malaysia, Myanmar và thậm chí Campuchia chắc chắn sẽ buộc phải mua các hệ thống như vậy. Campuchia cũng đang sử dụng các hệ thống rocket phóng loạt Type 81 của Trung Quốc, còn Nga xúc tiến vào Malaysia hệ thống rocket phóng loạt Smerch.

Với việc mua xe tăng МВТ2000, lục quân Myanmar trở thành lục quân mạnh thứ hai ở Đông Nam Á sau Malaysia.

Nhờ việc củng cố quan hệ quân sự với Myanmar, Trung Quốc có lẽ có thể xây dựng được các lực lượng mới để kiềm chế Ấn Độ trong khu vực và đó là yếu tố then chốt trong vấn đề vũ trang cho Myanmar. Nước này là điểm chiến lược mà cả Ấn Độ và Trung Quốc đều muốn kiểm soát. Tuy nhiên, trong lĩnh vực bán vũ khí, Ấn Độ thua Trung Quốc hầu như trên mọi lĩnh vực, Kanwa kết luận.

(vietnamdefence)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang