Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: UAV

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn UAV. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn UAV. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

>> Năm 2017, Ấn Độ sẽ có máy bay ném bom tàng hình không người lái AURA

( Nguồn :: Báo Hoàn Cầu ) Máy bay ném bom tàng hình không người lái AURA nặng 15 tấn, bay cao 10 km, sẽ đi vào hoạt động năm 2017.

>> Tổ hợp máy bay không người lái Irkut
>> UAV Mỹ trong chiến tranh Việt Nam



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái Neuron của Pháp. Được biết, máy bay ném bom tàng hình không người lái AURA do Ấn Độ tự nghiên cứu phát triển rất giống loại máy bay này.

Ngày 15/6, mạng “Hoàn Cầu” Trung Quốc đăng bài “Lộ diện máy bay ném bom tàng hình không người lái đầu tiên của Ấn Độ”.

Ngày 14/6, trang mạng “Nghiên cứu Quốc phòng” Ấn Độ cho biết, khi thăm Thụy Điển, Chủ tịch Tổ chức Nghiên cứu Phát triển Quốc phòng Ấn Độ (DRDO) kiêm Cố vấn khoa học Bộ Quốc phòng Ấn Độ V.K. Saraswat đã tiết lộ tình hình chi tiết một loại máy bay ném bom tàng hình không người lái mang tên AURA (Autonomous Unmanned Research Aircraft) mà tổ chức này đang nghiên cứu phát triển.

Căn cứ vào hình ảnh thiết kế phụ trợ 3D của AURA cho biết, loại máy bay ném bom tàng hình không người lái này rất giống máy bay không người lái Neuron của Công ty Dassault của Pháp.

Được biết, AURA có khả năng do thám tốc độ cao và khả năng phóng vũ khí, trọng lượng hơn 15 tấn, bay ở độ cao gần 10.000 m, trong thân máy bay có thể mang theo các loại vũ khí dẫn đường chính xác như tên lửa, bom dẫn đường, và tiến hành tấn công chính xác đối với mục tiêu.

Tin cho biết, Ấn Độ đã nhận được sự hỗ trợ công nghệ của Công ty Dassault Pháp cho chương trình AURA. Tờ “Tin nhanh Ấn Độ” cho biết, AURA sẽ bay thử vào khoảng năm 2015, sớm nhất sẽ đi vào hoạt động năm 2017.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay không người lái Neuron của Pháp.


http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom tàng hình không người lái AURA của Ấn Độ được thiết kế phụ trợ 3D.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom tàng hình không người lái AURA (Autonomous Unmanned Research Aircraft) do Ấn Độ tự nghiên cứu phát triển.

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

>> UAV Sentinel RQ-170 và tác chiến điện tử

Sự kiện chiếc máy bay tàng hình không người lái UAV Sentinel RQ-170 bị hạ tại Iran hiện đã trở thành tâm điểm chú ý của tất cả các nước trên thế giới. Sự kiện đã trở thành chìa khóa cho giải pháp chiến tranh phi đối xứng giữa các nước có nền công nghiệp quốc phòng siêu hiện đại và các nước nghèo, đang phát triển. Đống thời, nó cũng có thể đặt dấu chấm hết cho sự làm mưa làm gió của các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh thông minh bằng các phương tiện tác chiến điện tử có giá thành không cao nhưng hiệu quả.



http://nghiadx.blogspot.com
Đài trinh sát và gây nhiễu điện tử 1L222 "Avtobaza" (http://www.rusarmy.com).

>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 1)

Sau khi sự kiện chiếc UAV Sentinel RQ-170 bị hạ, mọi nghi ngờ đổ dồn về các thiết bị phương tiện tác chiến điện tử siêu hiện đại của Liên bang Nga. Có rất nhiều ý kiến cho rằng, đó là kết quả của một tổ hợp tác chiến điện tử mà Nga vừa xuất khẩu cho Iran, có thể điều đó đúng, nhưng nếu theo dõi toàn bộ diễn biến và phân tích, có thể phía sau bức màn đối ngoại chính trị là một tình huống chiến trường hoàn toàn khác, và đơn giản hơn rất nhiều lần.

Tổ hợp tác chiến và trinh sát điện tử Avtobasa 1L222 là tổ hợp tác chiến điện tử cơ động với các đài gây nhiễu SPN-2/SPN- 4. Nhiệm vụ chủ yếu của tổ hợp trinh sát – tác chiến điện tử là – phát hiện ở chế độ thụ động các đài phát radar, bao gồm có các đài radar hàng không rà quét mặt phẳng địa hình, radar điều khiển hỏa lực và radar dẫn đường bay trên độ cao thấp và chuyển tải thông tin đến trung tâm điều khiển tự động các radar hoạt động ở chế độ đo tọa độ góc (góc tà, góc phương vị, góc nghiêng của mục tiêu), các lớp radar, dải tần số của chúng trùng với số dải tần số lưu trữ trong các đài gây nhiệu SPN-2 hoặc SPN-4.

Nguyên lý hoạt động của tổ hợp trinh sát – tác chiến điện tử trong chế độ tự động hóa cánh anten radar đài trinh sát điện tử quay tròn đều. Tổ hợp hoạt động trên các dải tần số bước sóng dài và các dải tần số chưa được phát hiện sử dụng. Toàn bộ dải tần số hoạt động được bao trùm bởi 3 dải tần số thứ cấp A, B và V đồng bộ với các dải tần số hoạt động của đài gây nhiễu SPN-2 và SPN-4. Phát hiện các radar đang hoạt động được tiến hành trên tất cả các dải tần số thứ cấp. Xác định góc tà, góc phương vị, các thông số về mục tiêu được tiến hành theo chùm tín hiệu nhận được (15 milli giây, tốc độ quay của anten là 15 vòng hoặc 30 milli giây với tốc độ vòng quay an ten là 6 vòng/phút).

Thông tin đã được xử lý sẽ truyền về đài chỉ huy bằng cáp hữu tuyến có độ dài đến 100m và được đóng gói, chuyển tải với tốc độ là 1200 bốt (đơn vị tốc độ điện báo). Thông tin về tình huống chiến thuật trên không trung chuyển tải đến đài chỉ huy, được thể hiện trên bàn điều khiển của trắc thủ. Theo khả năng của màn hình hiển thị của trắc thủ, trắc thủ có thể xác định được góc tà, góc phương vị, thông số kỹ thuật của ra dar đang phát sóng (tần số , độ dài bước sóng và chu kỳ phát xạ sóng radar của đài radar bị phát hiện và bám đuổi. Kíp chiến đấu của tổ hợp có thể xây dựng và có được một ngân hàng cơ sở dữ liệu các đài phát ra đa các loại để dễ dàng xác định chủng loại radar, giới hạn vùng tìm kiếm mục tiêu theo góc phương vị đối với mỗi một chủng loại radar và phương tiện mang đồng thời đưa ra những giới hạn phát hiện mục tiêu với những thông số tiêu chuẩn quy định như tần số, độ dài bước sóng, tần số lặp phát xung, xác định chủng loại và thông số kỹ thuật của mục tiêu khi xử lý thông tin.

Trong tổ hợp trinh sát, tác chiến điện tử có thiết bị bảo vệ các đài gây nhiễu chống lại các tín hiệu nhiễu xạ liên tục và các tín hiệu gải lập tương đương, hệ thống tự động hóa kiểm soát trạng thái hoạt động của các thiết bị thân xe, các bộ phận và các bloc của tổ hợp. Để có thể huấn luyện kíp chiến đấu trên xe trinh sát, tác chiến điện tử có khả năng mô phỏng các tình huống tác chiến đường không.

Sử dụng tổ hợp trinh sát, tác chiến điện tử IRTR cùng với tổ hợp xe chỉ huy điều hành tác chiến cấp tiểu đoàn cho phép giảm thiểu sác suất nhầm lẫn khi xác định tần số và loại radar mục tiêu, tăng cường hiệu quả chế áp điện tử của cụm thiết bị trinh sát – tác chiến điện tử trung bình khoảng 30%.

Biên chế tổ hợp:
- Xe thiết bị với an ten thu phát trên thân xe Uran – 43203 với thùng xe kín và thiết bị lọc khí, làm mát và chống độc;
- Trạm nguồn cơ động trên thân xe KamAZ-4310;

Thông số kỹ chiến thuật tổ hợp trinh sát, tác chiến điện tử.:
kíp chiến đấu - 4 người.
Bước sóng của các tần số hoạt động: cm
Độ nhạy của các đầu thu radar -88 dB / W.
Tôc độ vòng quay của an ten - 6 / 12 vòng /phút
Công suất nguồn sử dụng – không lớn hơn 12 kW
Khoảng rồng vùng trinh sát, chế áp trong cùng một thời điểm:
- Mặt phẳng góc phương vị xác định mục tiêu - 1,0 ± 0,4 độ
- Trên mặt phẳng nghiêng:
- ở tần số thứ cấp A,B - 18 độ
- ở tần số thứ cấp V - 30 độ
Giới hạn hoạt động theo tọa độ góc:
- theo phương vị - 0-360 độ
- theo góc nghiêng:
- ở tần số thứ cấp А, B - 18 độ
- ở tần số thứ cấp V - 30 độ

Tầm xa hoạt động trinh sát của radar thụ động - 150 km
Độ chính xác khi phát hiện mục tiêu (sai số trong khoảng):
- theo góc phương vị - 0,5 độ
- theo góc nghiêng địa hình - 3 độ
Số lượng mục tiêu ( số lượng mục tiêu có thể tự động phát hiện theo góc phương vị vòng tròn) - 60
Độ chính xác khi xác định tần số của đài phát radar ±30 MHz
Thời gian lưu tình từ thời điểm phát hiện mục tiêu đến thời điểm truyển tải thông tin về xe chỉ huy tự động cấp tiểu đoàn – 50 mili giây.
Điều kiện khai thác sử dụng:
- Nhiệt độ môi trường -45 đến +40 độ.С
- Độ ẩm môi trường – đến 98% với t=+25 °C
- Áp suất khí quyển – đến 60 kPa (450 mm thủy ngân)

Sử dụng : Liên bang Nga
- 2011 . – Có trong biên chế trong hệ thống lá chắn trinh sát - chế áp điện tử chiến trường.

Nước ngoài :
Ngày 26 tháng 10 năm 2011, trên các phương tiện thông tin đại chúng có thông báo về tổ hợp 1L222 được xuất khẩu sang Iran. Ngày 05 tháng 12 năm 2011, trên các phương tiện thông tin của trang website Fightglobal có bản tin về việc người Iran đã sử dụng tổ hợp trinh sát, chế áp điện tử 1L222 để hạ chiếc máy bay không người lái công nghệ tàng hình hiện đại nhất của quân đội Mỹ RQ-170 Sentinel. Với những tính toán thông thường, bản thân sự kiện máy bay không người lái có thể có trục trặc dẫn đến hiện tượng mất điều khiển mà không cần đến tác nhân bên ngoài, những thông tin nắm bắt được hoàn toàn không trùng hợp với thực tế và vượt quá năng lực kỹ thuật của tổ hợp Avtobase theo lý thuyết để có thể hạ được chiếc máy bay không người lái tàng hình.

Dấu vết của Bạch Nga trong những sự kiện tại Iran.

Cùng với thời gian, những sự kiện về việc Iran hạ chiếc máy bay RQ-170 của Mỹ dần dần đi vào quên lãng. Có thể là những người quan tâm đến sự kiện đó bị các sự kiện khác nóng hơn lôi cuốn, hoặc cũng có thể, sự kiện sảy ra với một nguồn thông tin quá hạn hẹp. Nhưng nếu chúng ta nghiên cứu kỹ càng tất cả những thông số kỹ thuật, cũng như các tình huống đặt ra và những thông báo của cơ quan phát ngôn Iran, có thể thấy được rất nhiều các thông tin quan trọng. Việc tìm kiếm và đánh giá thông tin đó trên phương diện công nghệ khá khó khăn, nhưng có thể thấy được những dấu vết quan trọng.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay trinh sát không người lái tàng hình RQ-170

Sau khi bản tin về sự kiện bắt được chiếc máy bay không người lái tàng hình RQ-170 Sentinel gần như nguyên vẹn trừ những xây sước không đáng kể, trên trang The Christian Science Monitor xuất hiện một bài phỏng vấn của phóng viên tờ báo này với một kỹ sư nào đó người Iran, dường như có tham gia trực tiếp vào quá trình hạ chiến máy bay tàng hình. Bài phỏng vấn này được coi là nguồn tin căn bản để giải mã những khả năng có thể xảy ra khi Iran hạ chiếc RQ-170. Theo lời của người kỹ sư này, quá trình hạ chiếc máy bay tàng hình được tiến hành thành hai giai đoạn: Gia đoạn 1 bằng phương pháp sử dụng các tổ hợp kỹ thuật tác chiến điện tử làm nhiễu loạn và bịt hoàn toàn kênh chuyển tải thông tin tín hiệu radio giữa máy bay và trung tâm chỉ huy, điều khiển bay, theo kênh truyền thông này là sự trao đổi và truyền tải mệnh lệnh từ trắc thủ điều khiển bay đến máy bay RQ-170. Khi không nhận được tín hiệu điều khiển, RQ-170 tự động bật chế độ avtopilot.

Cần phải khẳng định rằng, để dẫn đường bay trong điều kiện không có thông tin điều khiển bay, máy bay sẽ tự động bay về căn cứ, để làm được điều đó, máy tính điều khiển máy bay phải định vị và tìm đường bằng hệ thống định vị vệ tinh GPS. Các nhà khoa học Iran biết chắc chắn được điều đó và vào thời điểm cần thiết đã đưa những thông tin giả về tọa độ của máy bay vào hệ thống điều khiển. Kết quả là Sentinel lầm lẫn khi xác định một sân bay trên lãnh thổ Iran là sân bay của Mỹ, được bố trí ở Afganixtan. Sự việc mất thông tin về hệ thống dẫn đường quán tính là yếu tố chính dẫn đến sai lầm của hệ thống máy tính điều khiển máy bay – nếu như người kỹ sư Iran thực sự có tham gia vào chiến dịch hạ RQ-170, thì yếu tố định vị theo hệ thống GPS là chìa khóa then chốt trong toàn bộ chiến dịch này.

Nhưng người Mỹ đã từ chối hoàn toàn giả thiết của tiến trình sự kiện. Theo tuyên bố chính thức từ Lầu năm góc, RQ-170 bị hạ hoàn toàn do hệ thống máy tính trên máy bay bị hỏng, và tại sao máy bay không bị vỡ tan ra từng mảnh là do hệ thống bay an toàn hoặc một nguyên nhân may mắn nào đó. Đồng thời, có nhiều quân nhân Mỹ, trong đó có cả những người có cấp hàm cao, cho rằng đấy chỉ là một maket rất giống thật chứ không phải là chiếc RQ-170. Giả thiết của người kỹ sư Iran giấu tên cũng có thể được loại trừ bởi kiến trúc của hệ thống GPS. 

Chúng ta đều biết, hệ thống GPS có hai cấp độ sử dụng L1 và L2, được dành cho các hoạt động quân sự và dân sự. Tín hiệu vệ tinh trong tần số L1 hoàn toàn mở, còn tín hiệu L2 được mã hóa dành riêng cho các loại vũ khí, trang bị quân sự. Theo lý thuyết có thể phá mã của L2 và đưa các thông tin giả lập vào cho Sentinel, nhưng hoản toàn không có chút thực tế kỹ thuật nào để phá một hệ thống tuyệt đối mật như vậy, và cũng không có khả năng ứng dựng thực tế! Đồng thời cũng hoàn toàn không rõ ràng, tần số tín hiệu nào chiếc RQ -170 đang sử dụng, dân sự hay quân sự. Người Iran có thể gây nhiễu hoàn toàn tần số của GPS, đồng thời đưa các tín hiệu giả dân sự cung cấp cho chiếc Sentinel với những thông số cần thiết. trong trường hợp này, Sentinel theo lập trình giả định sẽ tìm kiếm bất cứ một tín hiệu nào từ vệ tinh, dân sự hay quân sự và đã tiếp nhận nguồn thông tin mà các kỹ sư điện tử viễn thông Iran cung cấp để hạ cánh an toàn xuống sân bay Iran.

Lần theo dấu vết này, chúng ta sẽ tìm đến một góc khuất hay nhất trong vở kịch máy bay tàng hình không người lái. Nền công nghệ của Iran hoàn toàn không có khả năng tạo ra được một hệ thống thiết bị điện tử tầm cỡ thế giới như vậy. Đương nhiên, Iran sẽ phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía bên ngoài, hoặc sự hỗ trợ tự bản thân nó tự tìm đến. Trong các bản tin về sự kiện Sentinel nhiều lần được nhắc đến tổ hợp gây nhiễu và chế áp điện tử 1L222 Avtobasa của Liên bang Nga, nhưng phải chăng chỉ có Nga tham gia vào tiến trình hạ bệ chiếc máy bay siêu hiện đại này?

Trên thực tế, 1L222 chỉ là một thành phần rất nhỏ trong hệ thống tác chiến điện tử vô cùng phức tạp. Trong thời kỳ Liên bang Xô viết, hệ thống tác chiến điện tử được nghiên cứu và triển khai không chỉ có trên đất nước Nga, mà rộng khắp trên tất cả các nước cộng hòa của Liên bang Xô viết. Sau thảm họa tan rã của CCCP, rất nhiều hệ thống tác chiến điện tử hiện đại có thể còn lại trên lãnh thổ của những quốc gia độc lập, có nhiều cơ sở nghiên cứu không còn tồn tại sau hàng chục năm sóng gió và khó khăn kinh tế, nhưng cũng có những cơ sở vẫn đứng vững, và tiếp tục hoạt động, nghiên cứu phát triển. Thực tế có nhiều các trung tâm nghiên cứu và phát triển ở Belarusia, nơi mà có thể được coi là đồng sự tham gia bí mật, với lý do là quan điểm đối ngoại của Phương Tây với Belarusia, cũng tương tự như Iran là những nước không thể tin tưởng. Và hoàn toàn không võ đoán, nếu như một hệ thống thiết bị hiện đại trong trường hợp cụ thể này đã tham gia bổ xung vào một hoạt động chính trị nhằm củng cố vị thế của mình cùng như là một cuộc thử nghiệm.

Tập đoàn trang thiết bị điện tử hàng đầu của Belarusia trong lĩnh vực điện tử quân sự là Trung tâm nghiên cứu thiết kế và thử nghiệm "Radar” tại thành phố Minsk. Các sản phẩm của Bạch Nga tương đối rộng rãi, từ các trạm trinh sát phát hiện nguồn bức xạ radar đến các tổ hợp chế áp điện tử có khả năng gây mất truyền dẫn liên lạc từ hàng trăm nguồn phát xung khác nhau. Trong tất cả các trang thiết bị tác chiến điện tử đó, trong sự kiện Sentinel tổ hợp gây sự chú ý nhiều nhất là "Optima-3" và "Tuman."

Hai tổ hợp ày được chế tạo để chế áp hoàn toàn tín hiệu của hệ thống định vị vệ tinh GPS của Mỹ. Optima – 3 phát ra bức xạ xung hai tần số gây nhiễu có cấu trúc rất phức tạp, cho phép chế áp hoàn toàn tất cả các thành phần của tín hiệu từ vệ tinh, Nhưng cũng có thể người Iran không sử dụng Optima, do các đài chế áp điện tử của Belarusia được chế tạo rất đồng bộ và gọn, cho phép khả năng cơ động nhanh chóng từ vị trí chiến đấu này sang vị trí chiến đấu khác, loại đài chế áp này rất phù hợp cho các hoạt động chế áp vũ khí chính xác trên chiến trường ( tên lửa hành trình, máy bay không người lái tầm thấp và các thiết bị bay tàng hình khác) nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến công suất phát xung. Theo tuyên bố của các chuyên gia, Optima – 3 phát tín hiệu gây nhiễu có công suất lớn hơn 10W. Có thể nói kW lớn hơn hàng chục W, nhưng con số đã nêu không đủ mạnh để chế áp các thiết bị bay trên độ cao lớn, đồng thời tầm xa tác chiến của tín hiệu gây nhiễu chỉ đạt đến 100 km theo mặt phẳng ngang.

Tổ hợp gây nhiễu và chế áp điện tử hệ thống dẫn đường định vị vệ tinh GPS, GLONASS



http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com
Optima - 3




Thiết bị gây nhiễu và chế áp điện tử Tuman -2

Nhưng tổ hợp Tuman có vẻ như là đài chế áp điện tử phù hợp hơn để gây nhiễu toàn bộ thiết bị định vị và dẫn đường. Hệ thống Tuman được chế tạo để chế áp hoàn toàn các tần số của hệ thống GPS và GLONASS. Đài chế áp điện tử được phát triển Tuman – 2 để chế ngự các vệ tinh điện thoại Inmarsat và Iridium. Những đặc điểm khác nhau giữa Optima và Tuman là khả năng lắp đặt trên các phương tiện mang, Optima – 3 chỉ có thế lắp đặt trên các trạm mặt đất, còn Tuman có thể lắp đặt trên máy bay trực thăng, máy bay chiến đấu hoặc vận tải, cũng có thể lắp đặt trên các máy bay không người lái. Theo thiết kế, bức xạ gây nhiễu của thiết bị đặt trên phương tiện bay tương đương như bức xạ gây nhiễu của thiết bị đặt trên mặt đất. Tầm xa gây nhiễu của thiết bị cũng đạt đến 100 km. Khi công tác chuẩn bị tốt thì hiệu quả đạt được của hai loại đài phát tương đương như nhau, mặc dù có những nghi ngờ về các thông số kỹ chiến thuật của các thiết bị.

Như vậy, về hệ thống GPS định vị và dẫn đường quán tính, có thể nói đã được phân tích khá đầy đủ. Nhưng vấn đề hoàn toàn không đơn giản như vậy. Nếu như người kỹ sư ẩn danh Iran thực sự là một kỹ sư điện tử viễn thông và đã tham gia vào chiến dịch hạ chiếc RQ-170 Sentinel, vấn đề còn lại là tìm ra một hệ thống, hệ thống có khả năng đưa các thông tin giả lập về tọa độ vào máy bay không người lái. Về lý thuyết, đài gây nhiễu hoàn toàn có thể không đơn thuần chỉ phát xung gây nhiễu, mà có thể truyển tải thông tin với những thông số nhất định. Đó là về lý thuyết, còn về thực tế, giải pháp này có thể được áp dụng cho các đài phá các tần số từ hệ thống GPS hay không, hoàn toàn không có câu trả lời. Cũng có khả năng các nhà kỹ sư thành phố Minsk có thể nhìn thấy trước được vấn đề, và đã thiết lập hệ thống thu nhập và giả lập các thông số tọa độ tương tự như GPS hoặc GLOLASS hay Bắc đẩu, nhưng cố gắng giữ bí mật không công bố rộng rãi..

Như chúng ta đã thấy, các thiết bị tác chiến điện tử được sản xuất để chế áp hoặc gây nhiều hay giả lập các tín hiệu của hệ thống định vị vệ tinh không chỉ có ở Mỹ hoặc ở Liên bang Nga. Nhưng theo một nguyên nhân nào đó không thể hiểu nổi, tất cả các quân nhân và các nhà phân tích đều ngả về phía các phương tiện tác chiến của Nga. Chỉ có một tổ hợp Avtobasa cũng đã gây nhiều tiếng vang trên các phượng tiện thông tin đại chúng và tốn khá nhiều giấy mực.

Ví dụ: Nguyên đại sứ Mỹ tại Liên hiệp quốc, ông John Bolton đã đánh giá rất cao những tính năng kỹ chiến thuật của các trang thiết bị tác chiến điện tử của nền công nghiệp quốc phòng liên bang Nga, mặc dù cách nói của ông cựu đại sứ tương đối gián tiếp – lời phát biểu của ông cựu đại sứ đại khái như sau: nếu như các phương tiện gây nhiễu tác chiến điện tử của Liên bang Nga tiếp cận Iran, thì đối với Mỹ đó là những vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Nhưng đối với các phương tiện tác chiến điện tử từ Belarusia, vì sao đó ông ta không nhắc đến, cùng có thể đơn giản là ngài cựu đại sứ không biết. Nhưng Teheran có thế biết, và không những biết, mà có thể khai thác sử dụng nó hiệu quả. Như vậy chiếc máy bay xấu số RQ-170 Sentinel của tháng 12 có thể không phải là chiếc máy bay kém may mắn đầu tiên, và cũng chẳng phải chiếc cuối cùng.

Xét trên góc độ vũ khí trang bị, đại đa số các loại máy bay không người lái và vũ khí chính xác đều dựa trên cơ sở phát xạ sóng radio để dẫn đường, định vị, xác định mục tiêu và tấn công mục tiêu, có nghĩa là phụ thuộc vào các hệ thống GPS, GLONASS hay Bắc Đẩu. Sự phát triển của hệ thống chế áp điện tử GPS giá rẻ sẽ làm thay đổi mọi quan điểm chiến tranh, khi các khí tài vũ khí trang bị có độ chính xác cao bị tách rời khỏi radar và hệ thống định vị, điều đó đồng nghĩa với tên lửa Tomahawk với giá tiền lên đến hơn 1 triệu USD và các trang thiết bị vũ khí thông minh và đắt đỏ sẽ trở thành loại vũ khí, phương tiện phi điều khiển dưới các dụng của nhiễu, chế áp điện tử và hoàn toàn bị vô hiệu hóa nếu các nước nghèo, trong các tuyến phòng thủ có được hệ thống tác chiến điện từ với các trang thiết bị rẻ tiền đến từ Minsko.

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

>> UAV Mỹ trong chiến tranh Việt Nam

Trong chiến tranh Việt Nam người Mỹ đã sử dụng các loại vũ khí, khí tài quân sự tiên tiến nhất mà họ mới phát triển.


http://nghiadx.blogspot.com
Người Mỹ đã thử nghiệm những cỗ máy UAV thô sơ của mình trong chiến tranh Việt Nam. Trong ảnh một chiếc UAV QH-50 trên tàu khu trục USS Allen M. Sumner tham chiến từ tháng 4 đến tháng 6/1967.

Trong số đó có cả dự án nghiên cứu máy bay không người lái của Cơ quan nghiên cứu các dự án tiên tiến.

Việt Nam được Mỹ coi là chiến trường thực tế để Mỹ thử nghiệm các vũ khí mới, cũng như điều chỉnh các dự án nghiên cứu đầy tham vọng của Lầu Năm Góc.

Một phần của những sửa đổi này vẫn là bí ẩn lịch sử, trong khi một số thử nghiệm đã may mắn trở thành những người sáng lập của một xu hướng mới trong ngành công nghiệp quốc phòng.

Và ở đây không chỉ nói về những phương tiện vận tải với áo giáp và vũ khí. Một trong những phương tiện bay chiến đấu không người lái đầu tiên của thế giới cũng xuất hiện trong thời gian chiến tranh Việt Nam.

Những cỗ máy không người lái đầu tiên xuất hiện vào cuối thập niên 1940. Khi đó, các quốc gia hàng đầu thế giới đang bận rộn với việc phát triển loại máy bay trực thăng và xác định vị trí của nó trong chiến tranh hiện đại. Ví dụ, vào năm 1947 ở Liên Xô lần đầu tiên máy bay trực thăng Ka-8 đã có chuyến bay thành công.

Các dự án tương tự như vậy cũng xuất hiện ở phía bên kia bờ đại dương, nhưng trong sô vô vàn những con "chuồn chuồn" siêu nhẹ mà người Mỹ đã tạo ra, có một sản phẩm mà Liên Xô đặc biệt quan tâm đó là XRON-1 Rotorcycle do công ty Gyrodyne chế tạo.

Người Mỹ đã lên kế hoạch cỗ máy này sẽ được sử dụng cho Hải quân để tìm kiếm kẻ thù, ... Nhưng vào thời điểm đó Quân đội Mỹ đã có gần như đầy đủ các loại máy bay trực thăng chống tàu ngầm, ngay cả khi chuyển đổi từ mô hình "cơ bản". Vì vậy, chỉ có 10 mẫu XRON-1 được chế tạo.

http://nghiadx.blogspot.com
XRON-1 Rotorcycle trong giai đoạn thử nghiệm

Công ty Gyrodyne dường như đã rất thất vọng, bởi 4 năm sau chuyến bay đầu tiên của XRON-1 Rotorcycle, vào năm 1959 một UAV khác đã được cất cánh, mà sau đó cỗ máy này được gọi là DSN-1.

Việc tạo ra một trực thăng điều khiển bằng radio được bắt đầu từ lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, và chương trình này được gọi là DASH.

Đầu tiên, Thủy quân lục chiến Mỹ chỉ muốn có được một cỗ máy trinh sát không người lái, nhưng sau đó yêu cầu đã được thay đổi, và DSN đã nhận được những chi tiết mới, đó là khả năng truyền dữ liệu về trung tâm. Ngay sau đó tất cả những UAV nghiên cứu theo hướng này đều được đổi tên thành QH-50.

http://nghiadx.blogspot.com
DSN-1 thực nghiệm trên biển

Đề tài này cũng đã nhận được sự quan tâm của cả Hải quân. Nhưng họ không muốn chỉ dừng lại ở mục đích trinh sát, mà yêu cầu thiết bị này phải có khả năng tìm kiếm tàu ​​ngầm đối phương vượt quá giới hạn của các thiết bị hiện có trên tàu chiến.

Sau đó, Hải quân yêu cầu một biến thể UAV có thể mang theo một quả ngư lôi. Nhưng vì một số nguyên nhân, tất cả những cỗ máy này, dù đã được chế tạo hoàn chỉnh, phần lớn đã không thể bay được.

Lúc này đã xuất hiện các chỉ trích cho rằng, có phi công thì nhiệm vụ sẽ được thực hiện dễ dàng và thuận tiện hơn, và đương nhiên cũng cho kết quả tốt hơn.

Ngoài ra, thiết bị vô tuyến vẫn còn lỗi, dẫn đến nhiều chiếc trực thăng không người lái vào thời điểm đó đã bị rơi, vì vậy người ta đã từ chối sử dụng.

Hẳn nhiên chẳng có vị chỉ huy nào muốn vào thời điểm quan trọng một quả ngư lôi được thả xuống nước cùng với một cỗ máy. Do đó, thời điểm này người ta đã quyết định giới hạn nó chỉ ở mục đích tìm kiếm, trinh sát.

Có thể nói Gyrodyne và các nhà đặt hàng đã có một vài năm thú vị với những phần công việc khá lý thú.

Vào cuối tháng 9/1967, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cần đến một một loại công cụ cho phép giám sát tình hình trên phần lãnh thổ được ủy thác. Một lần họ không muốn theo đuổi phương án sử dụng máy bay hoặc trực thăng, mà dành sự quan tâm đối với máy bay không người lái với số lượng không nhỏ.

Đến tháng 9/1967, để phù hợp với nhiệm vụ hiện hành, QH-50 được trang bị thiết bị truyền hình. Nhưng điều này ở Thủy Quân Lục Chiến được coi là không đủ, và ngày 28/9/1967 của cơ quan nghiên cứu các dự án tiên tiến ARPA (sau này là DARPA) đã phát động một thiết kế mang tính cách mạng vào thời điểm đó là Blow Low. Mục đích của dự án là tạo ra các máy bay không người lái cả các tính năng tấn công.


http://nghiadx.blogspot.com
Hai chiếc UAV QH-50S nỗi khiếp đảm với chính người Mỹ

Đầu tiên, người ta thử treo trên súng M-60 trên UAV QH-50. Các màn trình diễn thật ấn tượng, nhưng tính chính xác, nói một cách nhẹ nhàng, là không có.

Sau đó họ đã cố gắng thay thế chất lượng bằng số lượng – bằng cách sử dụng súng máy M134 minigun. Kết quả không chỉ là gây ấn tượng, mà còn là nỗi khiếp đảm khó tưởng tượng, không chỉ các mục tiêu tiềm năng, mà còn cả người điều khiển UAV- cũng bị nguy hiểm. Và ngay cả bộ phận nạp đạn cũng có vấn đề: cơ số đạn mà QH-50 có thể mang chỉ đủ cho một vài lần bắn.

Ngoài ra, với phương án sử dụng "minigun" đã phải bỏ đi các thiết bị truyền hình, tất cả vấn đề nằm ở khả năng tải trọng có hạn của UAV, mà vào thời điểm đó không cho phép có nhiều lựa chọn tốt cùng lúc.

Thậm chí theo yêu cầu của hải quân, người ta đã tích hợp cho QH-50 cả ngư Mk43 và Mk44. Nhưng tất cả những gì vượt quá trọng tải cho phép đều là không thể và làm cho thiết bị trở nên vô dụng.

http://nghiadx.blogspot.com
Biến thể UAV QH-50 được trang bị hai quả ngư lôi

Sau khi thử một số phương án vũ khí, Gyrodyne và ARPA xác nhận sử dụng bộ đôi UAV QH-50, trong đó một chiếc làm nhiệm vụ phát hiện và chỉ thị mục tiêu, chiếc khác trang bị vũ khí tiêu diệt mục tiêu, là phương án hiệu quả hơn cả.

Các vũ khí thuận tiện và phù hợp nhất cho UAV, lần lượt được xác nhận, gồm hai phương án: hai bộ rocket Hydra-70 và súng phóng lựu. Trong trường hợp thứ hai dưới bụng của QH-50 người ta đã thay gá súng type M5 bằng súng phóng lựu tự động XM129 40-mm.

Ngoài ra, chúng còn được bổ sung thêm hai bộ phóng bom chùm XM18. Một trong những cải tiến mới nhất đối với QH-50 là giá treo hệ thống chỉ thị mục tiêu bằng tia laser, nhưng cải tiến này không được sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
"Nguy hiểm" và cồng kềnh

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam Thủy quân lục chiến và Hải quân Mỹ đã đóng băng các dự án UAV của mình. Những cỗ máy này bị xếp vào kho, trong khi vũ khí và thiết bị truyền hình được tách ra và sử dụng vào mục đích khác.

Bấy giờ QH-50 đã được sử dụng làm bia mục tiêu cho việc đào tạo các phi công Mỹ. Tuy nhiên, việc này cũng chỉ kéo dài một thời gian.

Đến giữa những năm 1980, do việc mua những loại bia mục tiêu chuyên biệt dành cho huấn luyện phi công có giá rẻ hơn nhiều so với trước, nên UAV QH-50 còn lại được thu hồi và cất vào kho.

http://nghiadx.blogspot.com
Người Mỹ luôn đi trước thế giới về công nghệ UAV

Tuy nhiên, các thiết bị điều khiển vô tuyến trên tất cả các biến thể máy bay không người lái gần như không thay đổi, mà người ta chỉ tăng tầm hoạt động xa hơn, từ 35 đến 130 km ở các mẫu sau này.

Ngoài ra lực lượng hải quân tại thời điểm đó đã yêu cầu tiến hành thiết lập bảng điều khiển thứ hai đối với thiết bị này. Theo đề nghị của họ, một bảng điều khiển phải được đặt trên boong, và bảng thứ hai đặt tại Trung tâm chỉ huy (Command Post). Đây là giải pháp hợp lý, bởi vì các thông tin từ máy bay không người lái sẽ nhanh chóng được gửi tới nơi cần thiết nhất.

Ngoài ra, còn một điều thú vị nữa là tất cả các biến thể trực thăng cũng như UAV QH-50 ở thời điểm đó đã không có vỏ bọc thân và đều bay với động cơ lộ ra ngoài.

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

>> Tổ hợp máy bay không người lái Irkut


Máy bay không người lái UAV trong giai đoạn ngày nay trở thành phương tiện bay không thể thiếu được của hầu hết các ngành, các lĩnh vực quan trọng trong đời sống và đặc biệt, trong chiến lược kinh tế Hải dương. Hàng máy bay Irkut giới thiệu hai phương án máy bay UAV đa nhiệm có thể thực hiện các loại nhiệm vụ khác nhau trong quân sự, an ninh cũng như trong dân sự.

Máy bay không người lái UAV Irkut - 200

Tổ hợp thiết bị máy bay trinh sát tìm kiếm điều khiển từ xa Irkut-200 là tổ hợp thiết bị tự động hoạt động thu thập các thông tin thời gian thực như ảnh chụp hàng không, video, thiết bị quan sát hồng ngoại và radar trinh sát, theo dõi địa hình, tập hợp thông tin và xử lý thông tin, đồng thời xác định tọa độ các vật thể trên mặt đất theo sự lựa chọn của trắc thủ điều khiển. Đồng thời máy bay trinh sát không người lái có thể sử dụng để vận chuyển những khối hàng nhỏ gọn và thật sự cần thiết ( thuốc cứu thương, dụng cụ y tế) trong những trường hợp đặc biệt quan trọng.


http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay UAV Irkut -200


Tổ hợp bao gồm có hai máy bay không người lái, hệ thống điều khiển từ xa và trang thiết bị hậu cần kỹ thuật.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống điều khiển UAV Irkut-200


Máy bay có thể thực hiện các chuyến bay liên tục trong vòng 12 h và truyền tín hiệu từ những trang thiết bị mang trên thân máy bay về trung tâm – hệ thống điều khiển và chỉ huy trên mặt đất, được bố trí trong khoachr cách là 200 km. máy bay có thể cất cánh và hạ cánh không cần thiết các trang bị hàng không đặc biệt, có thể cất cánh từ những khoảng đất trống hoặc đường nhựa có chiều dài 250 m. Trong cấu tạo thiết kế của máy bay không người lái UAV có sử dụng vật liệu composit, đảm bảo độ bền cao khi khối lượng máy bay tương đối nhẹ. Cấu trúc máy bay cho phép tháo rời hoặc lắp các bộ phận mà không cần dùng các trang bị đặc chủng, UAV Irkut-200 theo mô hình khí động học với cánh đuôi dạng chữ T điều khiển. Động cơ của UAV – DVS có công suất 60 mã lực với dự trữ dầu bay là 60kg. Cất cánh và hạ cánh sử dụng bánh xe càng máy bay với sự điều khiển từ hệ thống điều khiển trên mặt đất. Khi máy bay đã ở trên không – hệ thống bay chuyển sang trạng thái autopilot.

Những ưu điểm của tổ hợp máy bay không người lái là: khả năng tự động hóa các hoạt động của máy bay rất cao, không đòi hỏi những trang thiết bị hàng không đặc chủng, đồng thời giá thành khai thác sử dụng và bảo trì hệ thống để phục vụ lâu dài rất rẻ..

Thông số kỹ chiến thuật:

Sải cánh, m — 5,34

Chiều dài, m — 4,53

Chiều cao, m — 1,68

Tải trọng cất cánh max, kg — 200

Tải trọng hữu ích trên thân, kg — 50

Lượng dầu dự trữ, kg — 60

Trần bay hoạt động hiệu quả, m — đến 500

Trần bay cao nhất trên mặt biển, m — 5000

Thời gian bay liên tục, giờ — 12

Bán kính hoạt động theo radar dẫn đường, km — đến 200

Tốc độ cực đại, km/h — 210

Tốc độ hành trình tiết kiệm, km/h — 140

Chiều dài đường băng cất cánh, m — 250

Kíp lái và điều khiển, đội kỹ thuật phục vụ , người. — 4-5

Tổ hợp bay tự chọn máy bay không người lái – tầu lượn Irkut-850.

Tổ hợp máy bay không người lái Irkut-850 được sử dụng nhằm mục đích trinh sát, theo dõi và truyền tải thông tin mục tiêu. Irkut-850 có thể sử dụng để vận tải các gói hàng hoặc trang bị nhỏ. Mục đích chính của tổ hợp là thu thập các thông tin như ảnh, tín hiệu radar, quay video, quan sát và thu video tín hiệu hồng ngoại, tin hiệu được truyền hình ảnh thực, trong không gian 3 chiều thời gian thực, đồng thời xử lý tín hiệu chống trùng lặp chống nhòe và chống nhiếu, đồng thời xác định tọa độ các mục tiêu trên mặt đất theo lựa chọn của trắc thủ điều khiển máy bay.

http://nghiadx.blogspot.com
Tầu lượn - UAV Irkut 850


Tổ hợp bao gồm hai thiết bị điều khiển tầu lượn tự chọn loại Stemme S-10VT, hệ thống điều khiển trang thiết bị và các trang thiết bị hỗ trợ kỹ thuật.

Máy bay được thiết kế theo mô hình tầu lượn, có khả năng hoạt động ở trạng thái có người lái và (điều khiển từ xa) autopilot. Chuyển trạng thái từ điều khiển có người lái sang trạng thái điều khiển từ xa, autopilot không cần bất cứ những nội dung kỹ thuật nào đặc biệt. Để cất cánh và hạ cánh có thể sử dụng các bãi đất rộng, yêu cầu không nhiều sự chuẩn bị.

Máy bay – tầu lượn không người lái Irkut-850 thực hiện chuyến bay trong thời gian 12h và truyền thông tin thu được theo thời gian thực từ các cảm biến được lắp đặt trên máy bay về đài điều khiển trên mặt đất trong bán kính hoạt động là 200km.

Những ưu điểm của tổ hợp: Tính tự động hóa ở cấp độ cao, những yêu cầu về trang thiết bị hàng không. Giá thành khai thác sử dụng và bảo trì bảo dưỡng tương đối thấp.



Tính năng kỹ thuật của tổ hợp máy bay không người lái Irkut-850:

Sải cánh, m — 23,0

Chiều dài, m — 8,42

Chiều cao, m — 1,80

Tải trọng cất cánh cực đại, kg — 860

Tải trong có ích, kg — 200

Tầm cao bay hoạt động, m — đến 3000

Trần bay thực tế ở chế độ điều khiển từ xa, m: — 9000

Trần bay thực tế khi có phi công, m: — 6000

Thời gian bay khi không có phi công, chế độ điều khiển từ xa, h: — 12

Thời gian bay khi có phi công h: — theo khả năng chịu đựng

Bán kính hoạt động theo bán kính truyền thông tin, km — đến 200

Vận tốc cực đại km/h — 270

Tốc độ hành trình km/h — 165

Chất lượng khí động học đạt được — 51

Tốc độ gió khi cất cánh, m/s — 10

Chiều dài đường băng, m — 300

Kíp lái máy bay và người phục vụ, ng. — 5

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

>> Anh, Pháp hợp tác sản xuất UAV chiến đấu tàng hình


Khó khăn tài chính buộc Anh và Pháp tăng cường các chương trình hợp tác phát triển vũ khí.



http://nghiadx.blogspot.com
UAV chiến đấu tàng hình thế hệ mới


Theo hãng Reuters ngày 16.2, tại cuộc gặp của Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy và Thủ tướng Anh David Cameron ở Paris ngày 17.2 sẽ công bố ý định của hai nước bắt đầu hợp tác phát triển một máy bay không người lái (UAV) tàng hình thế hệ mới (next-generation unmanned stealth aircraft). Theo các nguồn thạo tin, hai bên đã đạt được thỏa thuận trong lĩnh vực này vào năm 2010. Việc phát triển máy bay sẽ do Dassault Aviation (Pháp) và BAE Systems (Anh) đảm nhiệm.

Thông tin đăng trước tiên trên nhật báo Pháp Les Echos và được 5 nguồn giấu tên xác nhận với Reuters cho hay, mẫu chế tạo UAV sẽ xuất hiện vào năm 2020. Kinh phí ban đầu cho dự án hệ thống máy bay chiến đấu không người lái (unmanned combat air system - UCAV) sẽ là “mấy chục triệu euro”.

Hãng DPA cũng dẫn nguồn Les Echos cho hay, dự án này “hiển nhiên là một ví dụ hợp tác song phương trong thời kỳ hậu kỷ nguyên của các tiêm kích Rafale và Eurofighter (post-Rafale and post-Eurofighter (era)".

Văn phòng Tổng thống Sarkozy và Dassault Aviation đều không muốn đưa ra bình luận. Một nguồn tin am hiểu dự án cho biết, “tại cuộc gặp thượng đỉnh sẽ công bố quyết định cụ thể phát động chương trình”.

Đại diện của ВАЕ Systems tuyên bố rằng, trong cuộc gặp thượng đỉnh Pháp-Anh sắp tới (từng dự định tổ chức vào tháng 12.2011), các chính phủ Anh và Pháp sẽ công bố “các bước đi và ý định tiếp theo” về việc phát triển UAV tàng hình và chế tạo mẫu trình diễn công nghệ.

Tháng 11.2010, ông Sarkozy và Cameron đã ký thỏa thuận về quốc phòng và an ninh nhằm đẩy mạnh phối hợp nỗ lực của hai nước nhằm hợp tác của quân đội hai bên và hợp tác phát triển vũ khí trang bị. Cùng năm, công ty ВАЕ cho biết họ đang đàm phán với Dassault Aviation về việc phát triển một UAV trinh sát-tiến công. Đúng như dự đoán, tại cuộc gặp giữa các ông David Cameron và Nicolas Sarkozy ngày 17.2, hai bên đã đạt được thỏa thuận về việc hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực phát triển UAV.

Ông Cameron tuyên bố, quan hệ đối tác chiến lược mới trong lĩnh vực UAV nhằm tạo điều kiện sử dụng hiệu quả tối đa “các khả năng thuộc chủ quyền”, trong đó có phát triển các hệ thống UCAV (unmanned combat air vehicle).

http://nghiadx.blogspot.com
Watchkeeper


Kể từ năm 2011, Dassault và BAE Systems đã hợp tác phát triển các UAV độ cao trung bình, thời gian bay dài MALE. Theo ông Cameron, quan hệ đối tác sẽ sâu sắc thêm nhằm nghiên cứu các rủi ro kỹ thuật của hệ thống. “Chúng tôi đang sốt ruột chờ đợi việc đưa ra các quyết định tiếp theo nhằm giảm rủi ro để các yêu cầu quốc gia tương ứng của chúng tôi được thực hiện bằng cách hiệu quả nhất về kinh tế, ông Cameron nói. Trong năm nay cho đến đầu năm tới, Pháp có thể bắt đầu thử nghiệm UAV Watchkeeper của công ty Thales ở Anh.

Năm 2013, hai nước sẽ xây dựng “một chương trình trình diễn” UAV chiến đấu. Trong năm nay, sẽ hoàn thành việc xác định các yêu cầu thiết kế kỹ thuật do Dassault và BAE Systems đảm nhiệm.

“Công việc này sẽ là chế tạo một bệ mang cơ sở để phát triển các công nghệ chín muồi làm cơ sở cho UAV chiến đấu, có khả năng hoạt động ở các khu vực có đe dọa cao”, ông Cameron nói.

Hai bên cũng sẽ tiếp tục hợp tác nhằm đưa vào khai thác và xây dựng hệ thống bảo đảm vật chất kỹ thuật liên kết cho máy bay vận tải quân sự А400М của công ty Airbus. Năm 2013, các máy bay A400M đầu tiên sẽ được nhận vào trang bị của Không quân Pháp.

Năm 2012, Anh và Pháp sẽ bắt đầu nghiên cứu tiềm năng nâng cấp các tên lửa có điều khiển MBDA Storm Shadow và Scalp.

Theo ông Cameron, Anh và Pháp sắp tới sẽ ký biên bản về việc hợp tác phát triển một loạt tên lửa chống hạm mới.

Tổng giám đốc chi nhánh Thales ở Anh Victor Chavez nói rằng, “trong những năm gần đây, Uav đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các chiến dịch quân sự nên hoàn toàn tự nhiên là các phương tiện này đang ở trung tâm chú ý của các chương trình quốc tế phát triển vũ khí trang bị. Anh và Pháp muốn tiếp tục dẫn đầu trong việc sử dụng các UAV, cũng như sẽ tiến hành hợp tác hoàn thiện UAV trinh sát Watchkeeper nhằm tránh chi phí trùng lặp”.

Tập đoàn công nghiệp hàng không vũ trụ châu Âu EADS đã bày tỏ bất bình với việc Dassault Aviation và BAE Systems né tránh hợp tác phát triển UAV Talarion mà EADS đang tự lực phát triển mấy năm nay. EADS cũng không bình luận tin về việc phát triển UAV chiến đấu tàng hình mới của Anh-Pháp.

Anh coi việc tăng cường hợp tác kỹ thuật quân sự với Pháp như một cách để duy trì khả năng quốc phòng của nước này trước yêu cầu tiết kiệm ngân sách.

Hai tuần trước, Pháp đã giành thắng lợi lớn ở Ấn Độ khi chính phủ Ấn Độ tuyên bố lựa chọn tiêm kích Rafale trong cuộc thầu cung cấp 126 máy bay chiến đấu trị giá 15 tỷ USD. BAE Systems là nhà thầu quốc phòng lớn nhất của Anh, nhưng lợi nhuận của công ty sút giảm do sự cắt giảm kinh phí của các dự án quốc phòng, nhất là ở Mỹ và Anh.

(Vietnamdefence

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

>> Trung Quốc đã có được UAV RQ-170 Sentinel?



Trung Quốc rất có thể đã có được công nghệ trong chiếc UAV trinh sát tàng hình RQ-170 Sentinel của Hoa Kỳ

Gần đây, có tin đồn rằng Trung Quốc cuối cùng cũng đã tiếp cận được với chiếc UAV trinh sát tàng hình RQ-170 Sentinel bị bắn rơi ở Iran. Nếu điều này thực sự xảy ra, Trung Quốc sẽ có thể làm chủ các công nghệ chủ yếu có trong RQ-170 và sử dụng chúng trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ của họ.


http://nghiadx.blogspot.com


Đặc biệt, Trung Quốc có thể xây dựng các biện pháp để đối phó với các máy bay tàng hình của Mỹ nếu chúng trinh sát dọc theo biên giới nước này. Iran có đầy đủ những lý do chính trị, quân sự cũng như tài chính, để trao cơ hội này cho Trung Quốc.

Mặc dù một số quan chức Iran rất tự tin khi khoe khoang rằng nước này đã có thể làm chủ công nghệ Sentinel, tuy nhiên theo các chuyên gia, Iran còn lâu mới có thể khai thác được công nghệ tiên tiến sử dụng trong UAV tàng hình của Mỹ, nếu không muốn nói là nước này gần như không có khả năng đó.

http://nghiadx.blogspot.com


Nhưng nếu như Iran thực sự trao cho Trung Quốc cơ hội có được RQ-170 thì đây sẽ là bước đi rất thông minh của quốc gia Hồi giáo này. Trao RQ cho Trung Quốc đồng nghĩa với việc Iran có thể tiếp cận một cách rộng rãi hơn với công nghệ Trung Quốc cũng như tăng cường mối quan hệ với nước này trong cuộc đối đầu với phương Tây về chương trình hạt nhân của mình.

Trung Quốc là nhà cung cấp vũ khí đáng tin cậy cho Iran kể từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước, bao gồm việc cung cấp các máy bay chiến đấu F -7, tàu tuần tra cao tốc, tên lửa chống tàu, cũng như giúp đỡ trong việc phát triển các tên lửa đạn đạo của Iran.

Gần đây, nguồn tin không chính thức từ hãng thông tấn Iran cho biết rằng, các quan chức Nga và Trung Quốc đã đưa ra các yêu cầu để có thể tiếp cận chiếc UAV trinh sát tàng hình của Hoa Kỳ.

http://nghiadx.blogspot.com


Sau khi mối quan hệ Trung - Xô trở nên lãnh đạm vào những năm 1960, Trung Quốc đã tích cực copy công nghệ của Liên Xô để hiện đại hóa quân đội.

Đồng thời, thông qua các nước thứ ba, Trung Quốc cũng đã tiếp cận với một số loại máy bay và công nghệ hàng không vũ trụ của Mỹ. Và rất khó để xác định mức độ “truy cập” của Trung Quốc vào các sản phẩm này. Ví dụ điển hình nhất là việc Trung Quốc tiếp cận các máy bay chiến đấu F -16 của Không quân Pakistan.

Trong hai thập kỷ qua, trình độ công nghệ của máy bay quân sự Trung Quốc và khả năng sản xuất các hệ thống hàng không vũ trụ phức tạp đã phát triển một cách nhanh chóng. Điều đó có nghĩa rằng, Trung Quốc có thể copy công nghệ của bất cứ loại vũ khí nào kể cả UAV hiện đại và bí mật nhất của Mỹ, Sentinel.

http://nghiadx.blogspot.com


Ví dụ, trong thiết kế của máy bay chiến đấu J -10, Trung Quốc đã sử dụng các hợp kim tối tân và vật liệu composite với mật độ cao và trọng lượng thấp.

Trung Quốc cũng đã phát triển máy bay chiến đấu J -11 B dựa trên cơ sở máy bay Su-27 của Nga, và có những bước tiến lớn trong việc nội địa hóa sản xuất.

Sự xuất hiện của một nguyên mẫu máy bay chiến đấu tàng hình J -20, lần đầu tiên cất cánh vào tháng Giêng năm nay, cho thấy rằng, Trung Quốc có thể sử dụng công nghệ tàng hình trong việc xây dựng và phát triển các máy bay chiến đấu thế hệ mới.

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2011

>> Những công nghệ quân sự nổi bật 2011 (kỳ 2)



Bài toán tự động hóa trong kỹ thuật quân sự đòi hỏi các nhà khoa học không những phải làm cho vũ khí ngày càng thông minh, mà còn đảm bảo nhân bản hơn.

Kỳ 2: Cuộc đua trong không gian Điều khiển học

Thấy được hiệu quả của máy bay không người lái (UAV) khi thực hiện nhiệm vụ trinh sát, nhiều quốc gia đã rầm rộ phát triển phương tiện này trong năm 2011.

UAV "rợp trời"

Gần đây nhất, Trung Quốc bắt đầu những chuyến bay thử nghiệm UAV tầm xa HQ-4 với thiết kế độc đáo, kết hợp kiểu cánh truyền thống và cánh đuôi ngược dài. Trước đó, Israel hoàn thành chương trình thử nghiệm UAV trinh sát tầm xa Eitan có kích thước “khổng lồ” (dài 15m, sải cánh 26m). Eitan có thể hoạt động liên tục trên không 36 giờ, ở độ cao 13.000km. Theo nhà sản xuất, các hệ thống phòng không, thậm chí là S-300, không thể phát hiện được hoạt động của UAV này.

Ở Ấn Độ, Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng (DRDO) dự định thiết kế UAV dùng năng lượng mặt trời có thể hoạt động liên tục 1 tháng trên không. Loại UAV này lắp thiết bị điện tử tiên tiến phục vụ do thám tầm xa, thu thập dữ liệu và truyền thông tin trong thời gian thực qua nhiều kênh.


http://nghiadx.blogspot.com
Tương lai UAV - máy bay ném bom tàng hình không người lái X-47B.

Tại triển lãm hàng không MAKS 2011, Tập đoàn Vega (Nga) giới thiệu UAV Lutch có trọng lượng 800kg, tốc độ đạt 270km/h, bay liên tục trên không 18h. Lutch không chỉ có nhiệm vụ do thám mà còn mang được vũ khí để thực hiện tấn công mục tiêu trong trường hợp cần thiết.

Tuy nhiên, UAV tiêu biểu nhất của năm 2011 phải kể đến máy bay ném bom tàng hình không người lái X-47B. UAV này có kiểu dáng tương tự máy bay ném bom chiến lược B-2 nhưng kích thước nhỏ hơn. Nó được trang bị động cơ phản lực cho phép hoạt động liên tục trên không 6 giờ liên tục, tầm bay gần 4.000km. X-47B thiết kế với khoang trong thân chứa khí tài trinh sát, tên lửa, bom có điều khiển. Đây là loại UAV vũ trang duy nhất hiện nay trên thế giới có khả năng cất hạ cánh trên tàu sân bay.

Đạo đức không xác định bằng thuật toán

Sự phát triển mạnh mẽ của UAV đang tạo ra kỷ nguyên mới trong kỹ thuật quân sự. Sử dụng UAV trong trinh sát và chiến đấu tạo được lợi thế nhất định đối với nhưng nước sở hữu nó. Nhưng nó đặt ra một vấn đề về tính nhân đạo. UAV với khả năng tự động hóa cao có thể tự động lựa xác định, phân biệt, chọn mục tiêu, thực hiện truyền thông thời gian thực với trung tâm xử lý… như những gì thể hiện trong chiến dịch tiêu diệt Osama bin Laden ở Pakistan.

Thế nhưng, đến giờ UAV vẫn chỉ là “robot bay” trong khi phương tiện này lại được trao nhiệm vụ của những người lính. Thật khủng khiếp khi sự nhầm lẫn mục tiêu có thể gây ra cái chết của hàng trăm dân thường - điều thường xảy ra ở Afghanistan, Pakistan, Iraq…

Nhiều cuộc tranh cãi nổ ra xung quanh vấn đề này, các nhà khoa học quân sự tiếp tục đưa ra các lập luận chứng minh giá trị sử dụng UAV. Ronald Arkin - Giáo sư về robot ở Viện Công nghệ Georgia (Mỹ) tin rằng có thể lập trình robot theo Công ước Geneva để các UAV từ chối nhiệm vụ trái với quy tắc của xung đột quốc tế.

Tuy nhiên, các nhà phân tích chính trị băn khoăn về cái gọi là quy tắc và đạo đức bị các phần mềm kiểm soát. Không ai có thể xác định được những giá trị đạo đức mà các lập trình viên đã đưa vào bộ nhớ của các robot hay UAV. Cho dù các nhà lập trình có cố gắng để trang bị thêm các quy tắc giao chiến trong bộ nhớ của các robot hay UAV, nó vẫn là những "chiến binh máu lạnh" ngoài chiến trường. Bất kỳ thứ gì trong tầm ngắm đều dễ dàng biến thành mục tiêu.

http://nghiadx.blogspot.com
Quân đội Iran khoe xác UAV RQ-170 bị bắn rơi.

Trong khi X-47B là mẫu thử nghiệm được chủ động quảng bá, thì RQ-170, một UAV hiện đại khác của Mỹ lại xuất hiện trong tình huống bất đắc dĩ khi Iran tuyên bố đã “ép hạ cánh” trinh thám cơ tàng hình không người lái này vào đầu tháng 12/2011. RQ-170 là phương tiện trinh thám “tối mật”.

Không rõ thời gian đưa vào phục vụ và hầu như chẳng có hình ảnh nào bị rò rỉ cho tới năm 2009 khi nó vô tình xuất hiện trước ống kính phóng viên trên đường băng căn cứ Không quân Mỹ ở Kandahar (Afghanistan). Vậy mà Iran tuyên bố đã dùng tác chiến điện tử để chiếm quyền kiểm soát của RQ-170 bằng khí tài điện tử cũ kỹ của Nga là Hệ thống trinh sát điện tử mặt đất 1L222 Avtobaza. Điều này đã gây sốc với nhiều chuyên gia Mỹ. Không chỉ vậy, Iran còn tuyên bố sẽ “giải thiêng” công nghệ mật trong RQ-170.

Đối phó với hacker

Năm 2011 cũng đánh dấu những nét mới của hình thái chiến tranh mạng. Nhiều trang mạng của Bộ Quốc phòng các nước, các tập đoàn công nghiệp quân sự trên thế giới bị đánh cắp thông tin.

Giữa năm 2011, đại diện Tập đoàn Lockheed Martin tuyên bố mạng máy tính công ty bị hacker tấn công trên quy mô lớn. Không lâu sau, công ty Mitsubishi Heavy Industry – nhà thầu quốc phòng lớn nhất Nhật Bản bị nhóm tin tặc tổ chức tấn công kiểm soát 80 máy tính. Ở Hàn Quốc, hàng chục trang web của chính phủ, văn phòng Tổng thống, Bộ Ngoại giao, Cơ quan Tình báo bị tấn công khiến trang mạng tê liệt.

Nghiêm trọng hơn, gần đây tạp chí Wired công bố thông tin về hệ thông điều khiển máy bay không người lái của Mỹ khi được thực hiện nhiệm vụ tại Afghanistan đã bị nhiễm một loại virus. Nó xâm nhập vào buồng điều khiển của các loại UAV Predator và Reaper – nơi ghi lại lệnh của phi công khi học thực hiện nhiệm vụ từ xa.

Tuy Không quân Mỹ ngay lập tức trấn an rằng vụ việc hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. Nhưng điều này cũng làm dấy lên lo ngại về việc đối phương nắm quyền điều khiển UAV để sử dụng cho âm mưu xấu. Trong khi đó, Mỹ cũng dính “nghi án” tấn công hệ thống mạng máy tính của quân đội Lybia, cắt đứt liên lạc giữa trạm radar cảnh giới và đơn vị tên lửa phòng không có thể đe dọa máy bay NATO.

Trước tình hình phức tạp, các nước đẩy mạnh việc thành lập đơn vị tác chiến mạng. Nga đang thử nghiệm hệ thống phòng thủ mạng đảm bảo khả năng chống lại tất cả những cuộc tấn công của hacker. NATO cũng lên kế hoạch lập đơn vị phản ứng nhanh mang tên Cyber Red Team. Thậm chí, Mỹ còn tuyên bố dùng đòn phóng tên lửa chính xác đến bất cứ nơi đâu trên trái đất để trừng phạt hacker.

Trong những năm qua, trang mạng (cơ quan chính phủ, báo chí, trang tin…) cũng là mục tiêu tấn công của Hacker nước ngoài. Trước tình hình phức tạp, tại buổi tọa đàm về bảo đảm an toàn cổng thông tin điện tử diễn ra ngày 6/7/2011, Thiếu tướng Nguyễn Viết Thế - Cục trưởng Cục Tin học nghiệp vụ (Bộ Công an) cho biết nước ta sớm thành lập Bộ tư lệnh phòng vệ điện tử và an ninh mạng.

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

>> 'Rất khó để giải mã công nghệ UAV của Mỹ'



Một quan chức giấu tên của Mỹ đã nói với CBS News rằng, nhiều khả năng máy bay không người lái (UAV) mà Iran chiếu trên truyền hình là của Mỹ.

Và UAV bị Iran đem ra trưng bày là có thể là một trong những phương tiện bay tinh vi nhất của Quân đội Mỹ, vị quan chức này tiết lộ thêm.

Lầu năm góc từ chối đưa ra bình luận nhưng một số quan chức Mỹ giấu tên cho biết đang phân tích đoạn video để xác nhận đó có phải là chiếc RQ-170 thật hay không.

CBS News cho biết thêm, chiếc UAV mà Iran công bố gần như còn nguyên vẹn, các bánh xe đã được che khuất bởi các biểu ngữ tuyên truyền được treo dưới cánh. Nội dung của tấm biểu ngữ bên trái là "Mỹ không thể xâm hại đối với chúng tôi" và tấm bên phải ghi nội dung "Chúng tôi đã đè bẹp được Mỹ".


http://nghiadx.blogspot.com
Hình ảnh mà Iran công bố là UAV RQ-170 của Mỹ.


Chiếc UAV được Iran trưng bày cho thấy không có dấu hiệu hư hại lớn có nghĩa là phương tiện này đã tiếp đất ở điều kiện tốt.

Iran cho biết trên truyền hình rằng các kỹ sư quân sự nước này sẽ phá hệ thống bảo mật và "giải mã" phần mềm lẫn phần cứng của UAV này. (>> chi tiết)

CBS News cũng cho biết, Mỹ đã lên kế hoạch thực hiện một nhiệm vụ bí mật để giành lại xác UAV của họ (>> xem thêm). Tuy nhiên sau đó kế hoạch đã bị hủy bỏ do nhiệm vụ không khả thi. Nếu điều này là sự thật thì rõ ràng UAV mà Iran công bố chính là RQ-170 hiện đại, một cái giá đáng để Mỹ lên kế hoạch thực hiện một cuộc phiêu lưu quân sự mới ở Iran.

Trong khi việc lấy lại được xác UAV này từ tay của Iran là rất khó khăn, Mỹ thêm phần lo ngại khả năng Iran có thể thu thập được các thông tin chi tiết về cơ chế và các cảm biến máy bay, và một điều tồi tệ hơn là họ sẽ chia sẻ với Nga và Trung Quốc (>> chi tiết).

P.W. Singer, nhà nghiên cứu về tự động hóa quốc phòng tại Viện Brookings nói: “Các chuyến bay từ Moscow và Bắc Kinh đến Tehran có thể khá đông đúc trong mấy ngày qua”. Ông Singer nói rằng công nghệ cần tìm kiếm nhất trên chiếc máy bay có lẽ là hàng loạt các máy cảm biến, bao gồm các radar tiên tiến hơn tất cả những gì cả Nga và Trung Quốc đang sử dụng.

Tuy nhiên, chuyên gia vũ khí Joseph Cirincione dẫn ra những khó khăn mà Iran sẽ gặp phải. "Bạn có thể biết được kích thước, biết được thành phần hóa học, nhưng nó rất khó để có thể thực hiện được hiệu quả của các bộ phận mà các chuyên gia kỹ sư Iran đang cố gắng tìm kiếm", ông Cirincione cho biết.

Còn Dennis M. Gormley, một chuyên gia về tên lửa và máy bay không người lái tại trường ĐH Pittsburgh nói bản thân việc tháo lắp chiếc máy bay sẽ rất khó khăn, thậm chí đối với cả lực lượng quân đội tiên tiến. “Trừ phi có người đưa ra bản vẽ thiết kế kỹ thuật của chiếc UAV, công việc sẽ không dễ dàng. Trong bất kỳ mảng thiết bị hàng không nào, người ta phải phải tái tạo chính xác các dung sai.”

Phá sản âm mưu do thám bằng RQ-170?

Có một sự thật mà Mỹ thông báo, đó là, họ bị mất tín hiệu điều khiển liên lạc với một UAV khi nó bay qua vùng phía Tây Afghanistan. Về vấn đề này, các nguồn tin giấu tên của Mỹ lại cho biết chiếc UAV RQ-170 đang thực hiện nhiệm vụ do thám để thu thập thông tin tình báo ở sâu trong lãnh thổ Iran.

Theo các chuyên gia hoạt động của UAV này là một phần của chương trình do thám thường xuyên bằng những máy bay không người lái hiện đại bậc nhất, khó bị phát hiện nhất.

Trên thực tế, RQ-170 một trong những UAV hiện đại đã tham gia chiến dịch tiêu diệt Bin Laden, và rất có thể nó được dùng để giám sát chương trình hạt nhân của Iran và Triều Tiên. Các chuyên gia độc lập nói rằng, ngoài các video camera, gần như chắc chắn chiếc máy bay không người lái đó còn được trang bị các thiết bị nghe trộm viễn thông và các máy cảm biến có khả năng phát hiện ra một lượng nhỏ đồng vị phóng xạ và những hóa chất khác mà có thể do nghiên cứu hạt nhân thoát ra. Bởi yếu tố nhạy cảm này, thông tin về RQ-170 rất hạn chế, hình ảnh về nó chỉ bị lộ 1 lần ở sân bay ở Kandahar, Afghanistan, vào năm 2009.

Nếu thực sự Iran bắt được chiếc RQ-170 và các kỹ sư nước này, hoặc cộng sự của họ ở Nga và Trung Quốc, khui được các công nghệ mật trong đó, các chương trình do thám quân sự hiện tại của Mỹ sẽ bị phá sản và Lầu Năm Góc buộc phải chi nhiều khoản tiền để thiết kế các kế hoạch mới.

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

>> Mỹ tạo tiền lệ xấu trong chiến tranh tự động



Với cách sử dụng hệ thống UAV của Mỹ, việc bạn lái một chiếc xe bus chẳng khác điều khiển một chiếc xe tăng.

Chiến tranh tự động đang trở thành vấn đề toàn cầu. Nhiều quốc gia trên thế giới nỗ lực để sở hữu máy bay không người lái (UAV) – vũ khí mà Mỹ đã sử dụng để tiêu diệt hàng trăm chiến binh Hồi giáo cực đoan ở Pakistan. Trước khi xu hướng này lan rộng, nền dân chủ phải hành động để làm tăng tính rõ ràng và hiệu lực của các quy ước quốc tế trong việc sử dụng vũ khí.

Tuy nhiên, Mỹ dường như đang đi ngược lại với tiến trình đó. Cường quốc số một thế giới này đã mở rộng chiến dịch máy bay không người lái đến tận Yemen và Somalia.

Để tiến hành chiến dịch, Mỹ áp dụng những quy tắc mơ hồ, không công khai hay thực chất là những quy tắc bất hợp pháp. Đây là một chiến lược hết sức nguy hiểm.

Sử dụng máy bay không người lái để đối phó với kẻ thù là biện pháp tương đối rẻ, mức độ rủi ro thấp. Nhưng nó đã hợp pháp hóa, tạo thành tiền lệ cho các quốc gia khác thực hiện sách lược này một khi đạt được khả năng tương tự như nước Mỹ.

Chiến tranh UAV leo thang

Sự nổi lên của UAV là một câu chuyện đáng chú ý. 10 năm trước, quân đội Mỹ có chưa đến 60 chiếc máy bay loại này trong kho vũ khí. Nhưng ngày nay, con số này đã tăng lên hơn 6.000 chiếc. Trong số này, nhiều loại máy bay không người lái chỉ được sử dụng với mục đích giám sát, tuy nhiên một vài loại có thể mang tên lửa và bom.

Ví dụ như chiếc Predator C Avanger có thể bay ở độ cao cách 53.000 feet (tương đương 16.154m) so với mực nước biển và có thể bay liên tục trong 20 giờ đồng hồ, tấn công các mục tiêu trên mặt đất. Loại máy bay này có thể mang theo số vũ khí nặng 3000 pounds (tương đương với 1.362 kg).



http://nghiadx.blogspot.com
Phụ nữ Pakistan biểu tình phản đối các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái


Một bí mật đã bị tiết lộ, đó là CIA đang tiến hành một chương trình máy bay không người lái lớn ở Pakistan.

Theo như số liệu được thống kê bởi New America Foudation (trụ sở tại Washington), từ năm 2004 đến năm 2007, Mỹ đã sử dụng 9 máy bay không người lái để tấn công Pakistan.

Năm 2008, năm cuối cùng của chính quyền Tổng thống George W.Bush, con số này là 33 máy bay. Sau khi tổng thống Obama lên nhậm chức, số UAV tại Pakistan vọt lên đến 53 chiếc (năm 2009) và 118 chiếc ( năm 2010).

Tháng 6/2011, tờ Wall Street Journal tiết lộ rằng CIA sẽ tiến hành một chương trình tương tự ở Yemen - nơi mà quân đội Mỹ thường chiến đấu tiêu diệt lực lượng Al- Qaeda vài năm gần đây.

Sau đó, tờ Washington Post cũng đã có bài viết về các cuộc tấn công bằng UAV đầu tiên của Mỹ vào các phiến quân ở Somalia.

Nếu như những báo cáo này là chính xác, thì họ đã chỉ ra cho chúng ta thấy được một sự leo thang đáng kể của cuộc chiến tranh bằng máy bay không người lái mà Mỹ đang che giấu. Những cuộc chiến này hầu như không có sự phô trương và tranh luận công khai.

UAV – giấy phép chiến tranh?

Thực tế, ưu điểm nổi bật của hệ thống UAV là chúng tạo ít gây tai tiếng cho nước Mỹ. Không có phi công phải ngồi trong máy bay và chịu đe dọa thể xác trực tiếp. Máy bay được điều khiển từ xa, đôi khi là cách xa hàng ngàn dặm và các cuộc tấn công thường được tiến hành ở các vùng xa xôi hẻo lánh, nằm ngoài tầm quan sát của báo chí. Chính phủ Mỹ cũng không thông tin công khai về các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái này.

Tuy nhiên, việc chính quyền Obama ngày càng nhờ cậy nhiều vào UAV khiến cho không chỉ nước Mỹ mà cả nhân loại phải trả giá đắt. Để có thể hiểu tại sao, hãy nghĩ đến những lời ông Obama tuyên bố hồi đầu tháng 9/2011: "Những ai gây tổn hại cho nước Mỹ sẽ “không thể trốn khỏi vòng công lý, cho dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới”. Ẩn chứa trong phát ngôn đó phải chăng là một thông điệp ngầm: Chúng tôi chính là pháp luật. Chúng tôi sẽ tìm ra và tiêu diệt mọi mối đe dọa, không cần phải nói lý do.

Sử dụng UAV, Mỹ đã che giấu tiến trình và tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trên không. Quân đội Mỹ cũng không cung cấp thông tin về các quy trình, kết quả của các cuộc tấn công. Giả thiết, có xảy ra những trường hợp bắn giết nhầm mục tiêu, các quân nhân hay các nhà thầu tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm như thế nào?

Ông Philip Alston – giáo sư luật nổi tiếng của ĐH New York đã phát biểu trong một báo cáo gửi lên Liên Hợp Quốc rằng: “Kết quả của các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái đã thay thế những tiêu chuẩn cụ thể và hợp pháp ban đầu bằng một giấy phép không rõ ràng, cho phép quân đội Mỹ giết người, tạo ra một khoảng trống trách nhiệm”.

Việc mở rộng phạm vi địa lý của các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái khiến vấn đề thêm lớn. Dù lực lượng tình báo Mỹ đã bị cấm tham gia vào các vụ ám sát từ năm 1976, nhưng hiện nay Washington vẫn khẳng định quyền của mình dựa theo những điều luật trong nước và quốc tế. Mỹ cho rằng họ được phép thực hiện các “hoạt động chết người” ngoài những chiến trường truyền thống, dựa trên lý lẽ đó, Mỹ đang chiến đấu chống lại lực lượng al- Qaeda “và các lực lượng có liên quan”.

Vì thế, dựa vào cái công thức: hành động bí mật, giải thích mơ hồ mà Mỹ đưa ra để ngụy biện cho việc tiêu diệt mục tiêu bằng UAV thì "việc bạn lái một chiếc xe tăng Abrams cũng chẳng khác gì bạn lái một chiếc xe bus".

Quả thực Mỹ có quyền để mắt tới những mục tiêu – Nguyên nhân đe dọa quốc gia nghiêm trọng trong trường hợp chưa bắt giữ được họ. Đó là tự vệ. Tuy nhiên chính quyền Obama đã tự tuyên bố, cho phép mình cái quyền được sử dụng lực lượng gây chết người, không có bất cứ giới hạn nào về địa lý, về thời gian và cũng không có gợi ý nào để biết cách thức mà quân đội Mỹ sử dụng để xác định ai sẽ là người bị liệt vào “các lực lượng liên quan”.

Phải chăng Mỹ không cần phải biện minh về các hành động giết người. Liệu đây có phải là tiền lệ mà Mỹ muốn thiết lập cho các quốc gia sẽ sở hữu hệ thống máy bay không người lái? Ai sẽ là người đứng lên để chống lại nạn ám sát tự động này?

Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2011

>> Mỹ mua UAV Switchblade



Lenta đưa tin, hôm 7/9, quân đội Mỹ vừa ký kết một hợp đồng cung cấp loại UAV siêu cơ động không người lái Switchblade với công ty kỹ thuật công nghệ AeroVironment.

Theo thông cáo báo chí của AeroVironment, giá trị của hợp của đồng là 4,9 triệu USD.

UAV Switchblade là một thiết bị bay không người lái cực nhẹ và có kích thước nhỏ gọn, nó có thể mang theo một đầu đạn và tiến công bằng cách lao thẳng vào một mục tiêu nhất định.

UAV mới này có thể cho vào trong một ba lô và người lính có thể phóng nó bằng tay trên chiến trường.

http://nghiadx.blogspot.com
UAV Switchblade của công ty AeroVironment.

Nhà sản xuất cho biết, Switchblade cho phép tấn công mục tiêu với độ chính xác tuyệt cao và không có hỗ trợ của pháo binh. Bởi vì UAV này được trang bị động cơ điện hầu như không phát ra tiếng ồn.

Ngoài ra, khi tiếp cận đến gần mục tiêu định trước, UAV này có thể tắt động cơ và bay vòng tấn công mục tiêu ở chế độ tàu lượn.

Máy tính mô đun cho phép điều khiển, giám sát chuyển động của UAV ở chế độ ngoại tuyến. Việc phát hiện mục tiêu được thực hiện bằng truyền hình video về chỉ huy trong thời gian thực.

Để nâng cao hiệu quả của UAV, các kỹ sư đã thiết kế làm cho nó có thể hủy bỏ nhiệm vụ hiện tại và chuyển sang một nhiệm vụ hay một mục tiêu khác.

Lựa chọn này cho phép tránh được tự phá hủy không chỉ là UAV trong trường hợp mục tiêu chuyển động bất ngờ mà còn tránh được thương vong đáng tiếc cho dân thường.

Theo lãnh đạo AeroVironment, ông Tom Herring, Switchblade không chỉ có thể cải thiện thành phần tình báo của quân đội, mà còn có thể là một phương tiện bảo vệ hiệu quả trong điều kiện chiến đấu.

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

>> UCAV đầu tiên của châu Âu sắp ra mắt



Theo ARMS-TASS, tại trung tâm bay thử nghiệm ở Ispra, miền nam nước Pháp đang tiến hành lắp ráp máy bay không người lái tấn công đầu tiên của châu Âu có tên nEUROn.

Các kỹ thuật viên đang tiến hành lắp ráp cánh tam giác (được sản xuất bởi công ty EADS và CASA) vào thân máy bay (được chế tạo bởi công ty SAAB) được trang bị động cơ tuốc bin phản lực Adour Mk951 có công suất 29 kN.

Ngoài ra, còn các công đoạn lắp hệ thống điện, thuỷ lực, điều hoà không khí và hệ thống khởi động động cơ.

Việc lắp ráp thân sau máy bay (do công ty HAI của Hy Lạp chế tạo), nắp của khoang vũ khí (công ty Alenia), các giá treo vũ khí và cơ cấu điều khiển của nó (công ty Ruag) cũng như cửa hút khí cũng đang ở giai đoạn cuối.

Công việc cuối cùng nhưng rất quan trọng là xử lý bề mặt để đảm bảo khả năng tàng hình của UAV.


http://nghiadx.blogspot.com
Mô hình máy bay không người lái vũ trang nEUROn.


Theo kế hoạch, công đoạn lắp ráp UAV sẽ phải hoàn tất vào cuối năm 2011. Sau đó sẽ bắt đầu thử nghiệm khả năng điều khiển trên đường băng và chuyến bay đầu tiên sẽ được thực hiện vào giữa năm 2012.

Nhằm đảm bảo an toàn cho các chuyến bay, trên UAV được trang bị tới 3 hệ thống dự phòng và 2 hệ thống điều khiển bay. Tuy nhiên, chuyến bay đầu tiên của UAV này sẽ được thực hiện trên khu vực có nước nhằm giảm thiểu rủi ro.

Việc thử nghiệm về hiệu quả tán xạ của bề mặt UAV được thực hiện trong buồng kiểm tra đặc biệt. Cuối cùng chuyến bay để đánh giá về khả năng tàng hình thực tế của UAV bằng các radar trên máy bay Rafale, radar của hệ thống phòng không mặt đất và các phương tiện khác.

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

>> Trung Quốc chế tạo UAV chiến lược




Trung Quốc đang phát triển một loại máy bay không người lái (UAV) tầng cao, thời gian bay dài, có thể cạnh tranh với RQ-4 Global Hawk của Mỹ.




Mô hình XIanlong tại triển lãm Chu Hải


Các bức ảnh UAV này chụp trên đường băng của tập đoàn chế tạo máy bay Thành Đô, hãng đang phát triển tiêm kích J-20, được đăng trên trang China Defense Mashup.

UAV được cho là có tên là Xianlong. Trước đó, có tin Trung Quốc chỉ có ý định thực hiện dự án UAV này mà mô hình của nó đã được trưng bày tại triển lãm hàng không Chu Hải vào tháng 11.2010.

Theo các bức ảnh thì UAV của Trung Quốc được lắp một động cơ phản lực, cánh có dạng hình tên thông thường.

Cánh đuôi ngang hình tên ngược, hơi ngắn hơn cánh nâng và nối với cánh nâng bằng các cánh con (đầu cánh).

UAV có một cánh đứng đuôi.

Hiện chưa rõ tính năng kỹ thuật của Xianlong.




Xianlong (china-defense-mashup.com)

UAV trinh sát tầng cao RQ-4 Global Hawk của Mỹ có khả năng bay với tốc độ 800 km/h và bay xa đến 24.900 km. Thời gian bay liên tục của nó là 36 giờ. Thiết bị trên khoang của Global Hawk gồm các sensor độ nét cao, các hệ thống tác chiến điện tử, tiếp phát tín hiệu và trinh sát điện tử.

[Vietnamdefence news]


Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

>> Trung Quốc - Israel muốn thoát khỏi sự theo dõi của Mỹ?



Tư lệnh Hải quân Trung Quốc Đô đốc Ngô Thắng Lợi đã có chuyến thăm chính thức đến Israel nhằm thúc đẩy mối quan hệ quân sự giữa đôi bên.

Tại Thủ đô Tel Aviv, Đô đốc Ngô Thắng Lợi đã có cuộc hội đàm với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Israel ông Ehud Barak, Tư lệnh Hải quân Israel, Đô đốc Eliezer Marom.

Nội dung cuộc hội đàm giữa các quan chức cấp cao hai bên không được công bố, tuy nhiên theo một nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Israel, chuyến thăm có liên quan tới những thay đổi về thương mại quốc phòng giữa 2 nước.

Từ lâu nay, quan hệ thương mại quốc phòng giữa Tel Aviv và Bắc Kinh phải chịu sự chi phối từ phía Washington. Phía Mỹ nhiều lần lên tiếng cảnh báo và phủ quyết các hoạt động chuyển giao công nghệ từ Israel cho Trung Quốc, đất nước mà Washington luôn coi là đối thủ cạnh tranh chiến lược, nếu không muốn nói là “kẻ thù tiềm năng”.

Trước đó, Washington ép Israel phải hủy bỏ hợp đồng chuyển giao các công nghệ của tiêm kích Lavi, hợp đồng trị giá 1 tỷ USD hệ thống chỉ huy và cảnh báo sớm trên không Phalcon, ngăn cấm Israel bán các máy bay trinh sát không người lái cho Bắc Kinh.


Đô đốc Ngô Thắng Lợi trong buổi hội đàm với Bộ trưởng BQP Ehud Barak.

Không chỉ vậy, Israel phải tham vấn ý kiến của Washington trước khi thực hiện bất kỳ hợp đồng mua bán vũ khí ra nước ngoài.

Tuy nhiên, sau cuộc hội đàm với Đô đốc Ngô, một quan chức cấp cao giấu tên của Bộ Quốc phòng Israel cho biết: “Chính sách của chúng tôi đối với người bạn Mỹ gần gũi vẫn không thay đổi”. Đồng thời, ông này vẫn tìm cách từ chối giải thích mục đích chuyến thăm của Tư lệnh Hải quân Trung Quốc.

Thực tế cho thấy, mối quan hệ thương mại quân sự với Israel mang lại cho Trung Quốc một lối đi mới, một cách gián tiếp để tiếp cận công nghệ cao từ phương Tây.

Việc mua lại bản vẽ khí động học của máy bay tiêm kích Lavi đã bị hủy bỏ của Israel mang lại cho công nghiệp hàng không quân sự Trung Quốc một lối thoát để tạo nên J-10, xương sống cho lực lượng không quân nước này.

Israel là quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng rất mạnh, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao và là nước dẫn đầu thế giới trong công nghệ phát triển các UAV.

Mối quan hệ với Israel có ý nghĩa đặc biệt với Trung Quốc. Hiện nay, rất nhiều công nghệ từ Israel xuất hiện trong các hệ thống vũ khí hiện đại của Bắc Kinh.

Tuy nhiên, mối quan hệ của Bắc Kinh với Tel Aviv luôn bị Washington theo dõi chặt chẽ và tới nay, Tel Aviv không thể tự quyết định trong các mối quan hệ thương mại quân sự với Trung Quốc.

Nhận định về chuyến thăm này của Đô đốc Ngô, các nhà phân tích chính trị cho rằng, bất kể kết quả của cuộc hội đàm giữa đôi bên như thế nào, Tel Aviv vẫn phải nhìn “nét mặt” của Washington trước khi quyết định các hợp đồng thương mại quân sự với Bắc Kinh.
[BDV news]


Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

>> Triển vọng thị trường tiêm kích thế hệ 5



Từ năm 2025 trở đi, PAK FA và F-35 sẽ là các sản phẩm không thể thay thế trên thị trường tiêm kích đa năng thế giới, đánh giá của Trung tâm Phân tích mua bán vũ khí thế giới TsAMTO (Nga).


Đến lúc đó, tuyệt đại đa số các nước trên thế giới, những nước chú ý thích đáng đến việc phát triển không quân chiến đấu, sẽ thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu mua sắm các tiêm kích thế hệ 4, 4+ và 4++, và đặt ra trước họ sẽ là vấn đề mua sắm máy bay thế hệ 5 để thay thế cá máy bay lạc hậu thế hệ 4 những đời đầu, được chuyển giao trong thập niên 1990.

F-22 Raptor hiện đại, đắt tiền, song không được phép xuất khẩu

F-22 Raptor là máy bay tiêm kích thế hệ 5 đầu tiên được nhận vào trang bị sau gần 20 năm phát triển. Chiếc F-22A đầu tiên được Không quân Mỹ (USAF) đưa vào trang bị vào năm 2004. Ban đầu, USAF định mua 381 chiếc F-22. Tháng 12.2004, theo quyết định của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, số lượng này giảm xuống còn 180 chiếc. Năm 2005, USAF đã xin tăng được lên 183 chiếc. Bất chấp những nỗ lực của lãnh đạo USAF nhằm tiếp tục mua sắm F-22, Bộ Quốc phòng Mỹ tháng 4.2009 đã quyết định dừng chương trình mua sắm F-22. Cuối năm 2009, sau cuộc thảo luận kéo dài ở Quốc hội Mỹ, chương trình mua sắm tiếp F-22 đã bị hủy bỏ do giá cao. Theo các hợp đồng đã ký trước đó, việc sản xuất F-22 sẽ kéo dài đến đầu năm 2012, sau đó, dây chuyền lắp ráp F-22 tại các nhà máy của Lockheed Martin sẽ bị đóng cửa.

Tuy nhiên, vẫn có cơ hội nhỏ để được phép xuất khẩu F-22 và giữ lại dây chuyền lắp ráp máy bay. Lúc đó, các khách hàng mua F-22 trước hết có thể là Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Saudi Arabia. Tuy nhiên, phương án này xem ra cực kỳ khó xảy ra.



F-35 Lightning II sẽ là một trong hai loại tiêm kích thế hệ 5 thống trị thị trường thế giới sau năm 2025


F-35 Lightning II thay cho F-22 Raptor

Vì thế, sự cạnh tranh chủ yếu sau 2025 sẽ diễn ra giữa PAK FA của Nga và F-35 Lightning II của Mỹ.

Ưu thế của F-35 là xuất hiện trên thị trường sớm hơn máy bay Nga từ 5-7 năm. Mặt khác, ưu thế này lại mất giá trị khi mà nhiều nước hiện có lực lượng không quân tiêm kích đông đảo trong giai đoạn đến năm 2025 vẫn tiếp tục mua tiêm kích thế hệ 4+ và 4++, mà việc cung cấp F-35 trong giai đoạn đến năm 2025 vẫn chỉ bó hẹp cho những nước là thành viên tham gia chương trình F-35. Hơn nữa, không phải tất cả những quốc gia này sau đó sẽ mua F-35 hay sẽ mua F-35 ở số lượng được công bố ban đầu. Đó là vì chương trình bị đội giá lên, cũng như bị chậm nhiều so với tiến độ.

Tổng thầu chương trình F-35 là Lockheed Martin, ngoài ra còn hai nhà thầu phụ là Northrop Grumman và BAe Systems. Các đối tác của Mỹ trong chương trình F-35 ở giai đoạn phát triển và trình diễn hệ thống là 8 nước Anh, Hà Lan, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Đan Mạch, Nauy và Australia. Singapore và Israel tham gia chương trình với tư cách thành viên không chia sẻ rủi ro.

Điểm yếu rõ ràng của chương trình F-35 là tất cả các nước muốn mua F-35 sẽ chỉ có thể mua máy bay thông qua cơ chế bán vũ khí cho nước ngoài theo chương trình FMS (Foreign Military Sales), vốn không có quy định về các hợp đồng đền bù hay huy động nền công nghiệp sở tại, điều này là cực kỳ bất lợi cho những nước đặt trọng tâm phát triển công nghiệp hàng không nội địa.

Người ta đưa ra tính toán ban đầu dựa trên việc các nước đối tác có thể mua 722 máy bay: Australia - đến 100 chiếc, Canada - 60, Đan Mạch - 48, Italia - 131, Hà Lan - 85, Nauy - 48, Thổ Nhĩ Kỳ - 100 và Anh - 150 (90 cho không quân và 60 cho hải quân). Nhu cầu của hai nước đối tác không chia sẻ rủi ro Singapore và Israel tương ứng là 100 và 75 chiếc. Tổng cộng là 897 chiếc, cộng với đơn đặt hàng của UsaF, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ là 3.340 chiếc.

Cộng với số lượng F-35 có thể bán cho các khách hàng khác, đến năm 2045-2050, tổng số F-35 sản xuất ra dự đoán là 4.500 chiếc. Tuy nhiên, ngay bây giờ, do giá cả tăng lên, lượng F-35 mua sắm đã bị điều chỉnh mạnh theo hướng giảm đi, trước hết là từ phía Mỹ.

Trong số các khách hàng tiềm năng không phải là thành viên chương trình F-35, cần lưu ý đến Tây Ban Nha, nước này đã bày tỏ ý định mua F-35B. Đài Loan cũng tỏ ra muốn mua F-35B trong tương lai.
Máy bay tiêm kích F-35 được xem như ứng viên tiềm năng giành thắng lợi trong các cuộc thầu của Không quân Nhật (đến 100 chiếc) và Hàn Quốc (60 chiếc).

Hiện tại, đó là toàn bộ danh sách các khách hàng có khả năng “dễ thấy nhất” mua F-35, mặc dù Lockheed Martin cũng đang đàm phán với nhiều nước khác, kể cả ở châu Á và Cận Đông.

F-15SE Silent Eagle và Su-35 - giải pháp thay thế tạm thời

Xét tới những vấn đề khó khăn có thể nảy sinh ở nhiều khách hàng tiềm năng của F-35, hãng Boeing đã phát triển mẫu chế thử tiêm kích F-15SE Silent Eagle có sử dụng các công nghệ của máy bay thế hệ 5, trong đó có lớp phủ làm giảm độ bộc lộ radar, bố trí thích ứng các hệ thống vũ khí, thiết bị avionics số, những như cánh đứng đuôi hình chữ V.

Boeing dự kiến thị trường tiềm năng của F-15SE là 190 chiếc. Máy bay đầu tiên có thể bàn giao cho khách hàng nước ngoài vào năm 2012.

F-15SE trước hết là dành cho thị trường xuất khẩu. Boeing dự định chào bán F-15SE cho không quân Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Israel và Saudi Arabia, vốn là những nước hiện đang sử dụng F-15. Boeing cũng hy vọng rằng, không quân các nước đã dự định mua F-35 Lightning II, cũng sẽ quan tâm đến việc mua F-15SE do giá cả F-35 tăng quá cao nên không thể mua tiêm kích thế hệ 5 này.

Tuy nhiên, triển vọng của F-15SE bị hạn chế về mặt thời gian. Nó có thể cạnh tranh với các nhà sản xuất khác chỉ trong giai đoạn quá độ, tức là đến năm 2025, khi mà đa số các nước đã thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu về tiêm kích thế hệ 4.

Ở giai đoạn quá độ này, công ty Sukhoi của Nga, theo chiến lược dài hạn đã hoạch định, chủ yếu trông cậy vào việc xúc tiến tiêm kích Su-35.

Su-35 là máy bay tiêm kích đa năng, siêu cơ động, hiện đại hóa sâu thế hệ 4++, có sử dụng các công nghệ của thế hệ 5, bảo đảm có ưu thế đối với các tiêm kích cùng loại.

Trong khi vẫn giữ diện mạo khí động đặc trưng cho họ máy bay Su-27/30, tiêm kích Su-35 là một máy bay mới về chất. Cụ thể, nó có độ bộc lộ radar thấp, hệ thống avionics mới dựa trên hệ thống thông tin-điều khiển, radar trên khoang mới với anten mạng pha có thể bám và bắn đồng thời nhiều mục tiêu hơn và phát hiện mục tiêu ở cự ly xa hơn.

Su-35 lắp động cơ 117S có điều khiển vector lực đẩy. Động cơ này được chế tạo trên cơ sở hiện đại hóa sâu động cơ AL-31F và có lực đẩy 14,5 tấn, lớn hơn 2 tấn so với động cơ cơ sở. Động cơ 117S là mẫu chế thử của động cơ máy bay thế hệ 5.

Su-35 là sự trông cậy của Sukhoi trong tương lai gần trên thị trường tiêm kích thế giới. Máy bay này sẽ chiếm lĩnh vị trí giữa tiêm kích đa năng Su-30МК và PAK FA thế hệ 5.

Su-35 sẽ cho phép Sukhoi duy trì khả năng cạnh tranh cho đến khi tiêm kích thế hệ 5 PAK FA ra thị trường. Lượng Su-35 xuất khẩu chủ yếu sẽ thực hiện trong giai đoạn 2012-2022.

Từ góc độ xúc tiến ra thị trường thì một yếu không kém phần quan trọng là khả năng cải tạo thích ứng Su-35 để sử dụng vũ khí phương Tây.

Su-35 dự kiến được xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á, châu Phi, Cận Đông và Nam Mỹ. Trong số các khách hàng tiềm năng của Su-35 có Venezuela, Brazil, Sirya, Ai Cập và có thể cả Trung Quốc. Ngoài ra, bất chấp lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hiệp Quốc đối với Libya, chiến dịch quân sự của NATO chống Tripoli, sự thay đổi lãnh đạo Libya sau đó đi kèm với việc thay đổi ưu tiên đối ngoại, hay thậm chí khả năng chia cắt nước này thành hai nhà nước thì Libya trong tương lai trung hạn vẫn nằm trong số các khách hàng tiềm năng mua máy bay Nga.

Không quân Nga dự định thành lập 2-3 trung đoàn Su-35. Chương trình Su-35 dự kiến có tổng sản lượng 200 chiếc, trong đó gần 140 chiếc là để xuất khẩu.

Đồng thời với việc dừng cung cấp Su-35 thì PAK FA bắt đầu xuất hiện trên thị trường (dự kiến từ năm 2020).



PAK FA T-50 sẽ quyết định vị thế cường quốc chế tạo máy bay chiến đấu của Nga


PAK FA T-50 đối thủ chủ yếu của F-35 Lightning II

Các tính năng kỹ thuật công bố của PAK FA tương đương với tiêm kích tối tân nhất hiện nay là F-22 có nhiệm vụ giành ưu thế trên không của Mỹ.

Biên dạng máy bay sẽ bảo đảm khả năng tàng hình của nó. Ngoài ra, việc sử dụng các lớp phủ đặc biệt và vật liệu hấp thụ chứ không phản xạ tín hiệu radar sẽ làm cho máy bay hầu như vô hình trước radar đối phương.

Các máy bay F-16C/E, F-15C/E và F/A-18A-F sẽ không thể đối kháng PAK FA. Còn F-35 thì ngay hiện thời đã gặp khó khăn trong đối kháng với Su-35 với bề mặt tán xạ hiệu dụng thấp của nó. Khi tính tàng hình tiếp tục tăng lên ở PAK FA thì F-35 sẽ còn gặp khó khăn nhiều hơn nữa.

Theo dự báo, trong khuôn khổ chương trình sản xuất tính toán cho toàn bộ chu trình sản xuất, tức là đến khoảng năm 2055, sẽ sản xuất không dưới 1.000 chiếc PAK FA. Lượng đặt hàng dự kiến của Không quân Nga sẽ là 200-250 máy bay.

Hiện tại, các quốc gia tham gia chương trình PAK FA là Nga và Ấn Độ. Đơn đặt hàng Ấn Độ ở giai đoạn đầu ước tính là 250 chiếc. Sau đó, chắc chắn đơn đặt hàng sẽ tăng lên ít nhất 1,5 lần. Chương trình mua sắm dự kiến sẽ kéo dài từ năm 2018-2045.

Số lượng PAK FA các nước khác dự kiến mua sắm như sau:




Lôi kéo Pháp tham gia chương trình PAK FA

Phạm vi địa lý xuất khẩu PAK FA có thể rộng hơn nhiều so với dự kiến ở trên nhờ sự tham gia của các nước SNG. Cũng không loại trừ khả năng, nhiều nước Tây Âu, trước hết là Pháp trong tương lai cũng sẽ mua PAK FA được cải tạo thích ứng theo yêu cầu của các nước phương Tây.

Xét tới yếu tố Pháp là nhà thầu phụ lớn nhất của công ty Sukhoi và RSK MiG trong việc trang bị các loại trang thiết bị cho các tiêm kích Su-30МК và MiG-29 xuất khẩu, trình độ hợp tác của hai nước trong lĩnh vực máy bay quân sự là rất cao. Điều đó cho phép xem Pháp như một ứng viên chính ở Tây Âu mua PAK FA.

Sự tham gia của Pháp vào chương trình phát triển tiêm kích thế hệ 5 của Nga là có thể xảy ra. Hơn nữa, hiện tại, phương án này tại thời điểm hiện tại là khả năng duy nhất để Pháp giữ được vị thế của mình trên thị trường máy bay quân sự thế giới sau năm 2020.

Pháp có thể tham gia chương trình giống như Ấn Độ với tư cách đối tác chia sẻ rủi ro trong việc phát triển biến thể PAK FA theo yêu cầu của Không quân Pháp dựa trên mẫu PAK FA cơ sở.

Pháp luôn có quan điểm “đặc biệt” khi hoàn toàn định hướng vào khả năng của công nghiệp hàng không của mình. Pháp không phải là khách hàng mua Eurofighter Typhoon của châu Âu lẫn F-35 của Mỹ. Hiện tại, Pháp chủ yếu dựa vào tiêm kích Rafale. Nhưng công try Dassault Aviation không có khả năng tự lực phát triển tiêm kích thế hệ 5.

Cần lưu ý là trong những điều kiện nhất định, không loại trừ cả phương án Đức có thể mua PAK FA. Khả năng Tây Ban Nha tham gia chương trình PAK FA là thấp vì Madrid nghiêng về hướng mua F-35.

Hiện tại, có thể thấy, các nước Tây Âu trong tương lai sẽ đứng trước sự lựa chọn giữa PAK FA và F-35, bởi vì thời gian để phát triển tiêm kích thế hệ 5 của châu Âu đã không còn nữa. Ví dụ, thời gian dành cho chương trình phát triển tiêm kích thế hệ 4 Eurofighter là hơn 20 năm (các nước tham gia là Anh, Đức, Italia và Tây Ban Nha, hai trong số đó là Anh и Italia đồng thời là khách hàng mua F-35).

Việc chương trình F-35 làn “chia rẽ” Tây Âu trong vấn đề xây dựng chương trình chế tạo tiêm kích thế hệ 5 tiêu chuẩn của châu Âu có thể xem như một “thắng lợi” lớn của Mỹ. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến giai đoạn 3, giai đoạn cuối của chương trình mua sắm Eurofighter bởi lẽ những nước đã lựa chọn mua F-35 vì lý do tài chính sẽ không thể thực hiện đầy đủ kế hoạch mua sắm Eurofighter, đồng thời phải tài trợ cho các đợt mua sắm F-35 đầu tiên (đó là Anh và Italia). Nghĩa là hiện tại thì khả năng dù là giả định chế tạo tiêm kích thế hệ 5 của Tây Âu đã bị loại bỏ hoàn toàn.

Trong khi đó, Nga sẽ hoàn toàn đủ sức, khi xét tới sự hợp tác đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực với Pháp và Đức, tranh giành các thị trường này và thị trường nhiều nước Tây Âu và Đông Âu khác.

Một khi Pháp và Đức bắt tay tham gia chương trình PAK FA với Nga và Ấn Độ thì sẽ tạo ra một liên minh hùng mạnh, có thể bảo đảm một khả năng cạnh tranh xứng đáng với F-35 trên thị trường thế giới cho đến khi các cường quốc hàng đầu thế giới chuyển sang tiêm kích thế hệ 6 vốn sẽ là các loại không người lái vào năm 2060-2070.

Chương trình sản xuất F-35 sẽ kết thúc vào khoảng năm 2045-2050, PAK FA vào khoảng năm 2055. Từ đó cho đến hết thế kỷ ХXI, Mỹ và Nga sẽ tập trung vào việc bảo dưỡng các máy bay đã cung cấp. Đồng thời, trong giai đoạn này sẽ bắt đầu sự chuyển đối sang tiêm kích đa năng thế hệ 6 không người lái.

Tiêm kích thế 6 - Máy bay không người lái

Việc chuyển hoàn toàn sang các hệ thống máy bay không người lái là tất yếu, tuy nhiên nó sẽ chỉ thực sự bắt đầu không trước thập niên 2060 và sẽ chỉ liên quan đến các cường quốc thế giới hàng đầu. Việc chuyển dần sang máy bay không người lái vào nửa cuối thế kỷ XXI được tạo điều kiện bởi sự hoàn thiện kỹ thuật của các hệ thống máy bay, cũng như những hạn chế thuần túy sinh lý học của các phi công trong việc điều khiển máy bay tiêm kích. Ở các nước hàng đầu thế giới, các máy bay có người lái dự kiến sẽ được thay thế bằng máy bay không người lái vào gần cuối thế kỷ XXI, tức là vào thời điểm loại bỏ những tiêm kích thế hệ 5 cuối cùng vốn được chuyển giao vào năm 2050-2055.

[VietnamDefence news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang