Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

>> Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung: Lựa chọn nào cho nước Nga? (Phần 1)



“Sự tham gia của các nhà khoa học và kỹ sư Nga vào việc “hoàn thiện” sản phẩm của Trung Quốc là một trong những trang bí ẩn nhất của sự hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung”


http://nghiadx.blogspot.com


Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung Quốc mà mới 10 năm trước còn mang lại phần lớn thu nhập cho xuất khẩu vũ khí Nga thì hôm nay không thể tự hào với những hợp đồng vũ khí lớn. Hơn nữa, nhờ quan hệ đối tác này, Trung Quốc trong 20 năm gần đây đã có sự đột phá mà chỉ sự tiến bộ trong thập niên 1950 mới có thể sánh được. Hợp tác ký thuật quân sự Nga-Trung có những thành quả nào và triển vọng gì trong tương lai?

Lịch sử lặp lại

Việc nối lại hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Moskva và Bắc Kinh và sự tăng trưởng vũ bão của nó có liên quan chặt chẽ tới 2 thời điểm then chốt của lịch sử cận đại: bình thường hóa quan hệ Xô-Trung cuối những năm 1980-đầu những năm 1990 và ngược lại là sự chỉ trích gay gắt của các nước phương Tây đối với chính sách của ban lãnh đạo Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Kết quả là sau khi mất quyền tiếp cận công nghệ quân sự hiện đại của phương Tây, Trung Quốc cần có nguồn cung ứng thay thế mà chỉ có thể là Liên Xô mới có thể giữ vai trò đó.

Tình hình còn có đặc điểm là quân đội Trung Quốc vào cuối thập kỷ 1980 vẫn hoặc là được trang bị các vũ khí sao chép trực tiếp các loại vũ khí Liên Xô thời thập niên 1940-1950, hoặc là các mẫu vũ khí chế tạo dựa trên các hệ thống của Liên Xô với những thay đổi nhỏ. Đồng thời, Trung Quốc vẫn tiếp tục nghiên cứu và sao chép các mẫu vũ khí Liên Xô kể cả sau khi quan hệ song phương hầu như bị cắt đứt vào đầu thập niên 1960. Các mẫu vũ khí trang bị cần thiết họ lấy được bằng những con đường vòng thông qua các nước thế giới thứ ba đã mua vũ khí của Moskva.

Các mục tiêu của Trung Quốc trong “hiệp 2” hợp tác kỹ thuật quân sự với Nga cũng như 40 năm trước là cực kỳ thực dụng:

- trang bị cho các binh chủng then chốt vũ khí hiện đại mua từ Liên Xô/Nga;
- sao chép các mẫu vũ khí trang bị, hệ thống, tổng thành then chốt để triển khai sản xuất loạt chúng ở Trung Quốc;
- phát triển trường phái thiết kế thông qua hợp tác với các tổ chức nghiên cứu khoa học và giáo dục của Liên Xô/Nga thuộc chuyên ngành tương tứng.

Chính logic này được thể hiện trong tất cả các hợp đồng vũ khí Trung-Nga trong 20 năm qua. Trong các hành động của phía Nga, ít ra là cho đến đầu những năm 2000, thật khó phát hiện một cách tiếp cận có hệ thống. Nó hiện diện một cách khách quan trong thập niên 1950, khi mà tiến hành chuyển giao cho Bắc Kinh vũ khí trang bị khá hiện đại, Liên Xô hạn chế sự tiếp cận của đồng minh Trung Quốc tới các công nghệ trọng yếu thời đó. Những hạn chế này cùng với những thảm họa nội bộ trong thập niên 1960 là nguyên nhân chính làm chậm lại nghiêm trọng sự phát triển công nghiệp quốc phòng Trung Quốc sau khi Liên Xô chấm dứt viện trợ. Hiện nay, mấy chục năm sau, Trung Quốc dự định lấy lại những gì đã bỏ lỡ.

Tất cả đều là hàng Nga

Tình trạng khó khăn nhất đối với Trung Quốc là ngành chế tạo máy bay. Vào đầu thập niên 1990, không quân Trung Quốc chủ yếu được trang bị vũ khí trang bị thế hệ 1 và 2. Đó là các máy bay tiêm kích J-5 và J-6, các mẫu tương đương MiG-17 và MiG-19 của Liên Xô. Chúng đã cấu thành nền tảng không quân chiến thuật Trung Quốc, thậm chí việc sản xuất loạt J-6 ở Trung Quốc chỉ chấm dứt vào đầu thập niên 1980, tức là sau hơn 20 năm so với Liên Xô. Trong thời gian này, Trung Quốc đang sản xuất J-7 (saop chép MiG-21) cho không quân của họ. Trung Quốc cũng xuất khẩu loại máy bay này. Tiêm kích hiện đại nhất của Trung Quốc lúc đó là J-8, vốn vẫn là mẫu cải tiến từ MiG-21. Nặng và lớn hơn MiG-21, máy bay này có khả năng cơ động kém đối với một máy bay của thập kỷ 1980 và không có triển vọng phát triển. Cũng lạc hậu như thế là đội máy bay tiến công, bao gồm tiêm kích-bom Q-5 Fantan, được phát triển dựa trên MiG-19, và các máy bay ném bom H-5 (Il-28) và H-6 (Tu-16).

Chuyên gia quân sự nổi tiếng Konstantin Makienko cũng nêu lên một nhược điểm chí mạng của không quân Trung Quốc cuối thập niên 1980-đầu thập niên 1990: “ngoài việc không quân Trung Quốc được trang bị các vũ khí trang bị “đồ cổ”, họ hầu như không có kinh nghiệm sử dụng chiến đấu kể cả ở cấp chiến thuật, lẫn chiến lược, cũng như gặp khó khăn liên quan đến việc huấn luyện nhân lực tồi, hạ tầng yếu kém và chỉ huy trình độ thấp. Cả trong chiến tranh Triều Tiên lẫn chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979, không quân Trung Quốc đều không tham gia tích cực. Nhìn chung, giống như cả quân đội Trung Quốc, không quân Trung Quốc có tiềm lực không đáng kể và khả năng sẵn sàng chiến đấu thấp”.

Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc đã có kế hoạch dựa vào 2 chương trình chính. Chương trình thứ nhất là mua sắm từ Nga tiêm kích hạng nặng Su-27 để sau đó triển khai sản xuất theo giấy phép máy bay này. Chương trình thứ hai là phát triển tiêm kích hạng nhẹ J-10 dựa trên dự án Lavi của Israel mà họ mua được vào ngay cuối thập kỷ 1980. Nhiệm vụ này tuy vậy Trung Quốc vẫn không thể tự lực giải quyết.

Nửa đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã mua 2 lô tiêm kích Su-27. Trong những năm 1992-1996, họ đã nhận được từ Nga 36 chiếc Su-27SK một chỗ ngồi và 12 chiếc Su-27UBK hai chỗ ngồi. Cuối năm 1996, Nga và Trung Quốc đã ký hợp đồng sản xuất theo giấy phép máy bay Su-27 tại nhà máy ở Thẩm Dương, Trung Quốc với số lượng 200 chiếc. Trong không quân không quân Trung Quốc, máy bay này được đặt tên là J-11. Trong khi nghiên cứu làm chủ việc sản xuất loạt, các công trình sư Trung Quốc đồng thời cố gắng sao chép máy bay này và các tổng thành chính của nó, và đến cuối thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, họ đã đạt được những thành công nhất định khi bắt đầu sản xuất J-11 mà không dùng các bộ linh kiện của Nga.

Tuy nhiên, vào nửa cuối thập niên 1990, mẫu máy bay Su-27 cơ sở, trước hết dùng để giành ưu thế trên không đã không còn thỏa mãn hoàn toàn không quân Trung Quốc vì họ cần có một máy bay đa năng để tác chiến chống cả mục tiêu trên không lẫn trên mặt đất.

Tháng 8.1999, đến hợp đồng bán cho Trung Quốc 40 Su-30МКК, loại máy bay khác với Su-27SK ở chỗ có khả năng sử dụng tên lửa không-đối-không tối tân nhất thời đó RVV-AE, cũng như mang các loại vũ khí không-đối-diện có điều khiển khác nhau, được ký kết. Một hợp đồng khác cung cấp 43 máy bay này cũng được ký kết vào năm 2001, sau đó, Trung Quốc đã mua thêm 24 Su-30МК2. Đến nay, Su-30 về khách quan đang là nền tảng sức mạnh của không quânTrung Quốc.

Tuy vậy, các máy bay Su-30 của Trung Quốc thua kém đáng kể về tính năng so với các mẫu Su-30 dành cho không quân Ấn Độ vì chúng được trang bị hệ thống avionics tương đối lạc hậu và không có các động cơ có điều khiển vector lực đẩy. Thật khó nói nằm sâu đằng sau sự hạn chế về tính năng này là việc Nga không muốn chuyển giao cho Trung Quốc các công nghệ quân sự mới nhất hay là Nga muốn Trung Quốc tăng càng nhanh càng tốt số lượng máy bay hiện đại của không quân Trung Quốc mà không quá chú ý đến mức độ “tiên tiến” của chúng.

Sự giúp đỡ hữu ý và vô tình

Song song với việc làm chủ các máy bay Su-30 do Nga cung cấp và J-11 được sản xuất ở Trung Quốc, họ cũng tiếp tục phát triển các máy bay nội địa tiên tiến, trong đó nổi bật là 3 loại: tiêm kích “hạng trung” J-10 dựa trên thiết kế Lavi của Israel, tiêm kích hạng nhẹ FC-1, vốn là MiG-21 cải tiến cơ bản, và tiêm kích thế hệ 5 được giữ trong vòng bí mật một thời gian dài J-20. Trong đó, J-20 xem ra đã được chế tạo không dựa vào một mẫu chế thử nước ngoài cụ thể nào mà là thành quả của nhiều công trình nghiên cứu và thử nghiệm. Tuy nhiên, các công trình sư J-20 vẫn chịu ảnh hưởng rõ ràng của nước ngoài.

Bên cạnh đó, J-10 và FC-1, tuy là các máy bay đã hoàn chỉnh sẵn sàng đã có thể không thể ra đời nếu không có sự hỗ trợ kỹ thuật của nước ngoài. Việc vạch mặt chỉ tên những viện nghiên cứu và liên hiệp cụ thể của Nga đã tham gia hoàn thiện các máy bay này có lẽ không có ý nghĩa vì cả các chuyên gia máy bay lẫn những người không chuyên đều biết rõ họ là những cơ quan nào. Vấn đề nằm ở chỗ khác: sự hợp tác đó là xác đáng đến đâu với Nga? Cần nói ngay rằng, việc đổ lỗi chỉ cho các tổ chức nghiên cứu ấy là không công bằng và vô nghĩa: trong hoàn cảnh hầu như không có tài trợ từ phía nhà nước Nga, các nhà lãnh đạo các viện nghiên cứu, thiết kế đã buộc phải tìm những ai có thể trả tiền cho công việc của họ, và không phải lỗi của họ khi mà khách hàng chính trong nhiều trường hợp lại là Trung Quốc.

Sự tham gia của các nhà khoa học và kỹ sư Nga vào việc “hoàn thiện” sản phẩm của Trung Quốc là một trong những trang bí ẩn nhất của sự hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung vốn đã được bảo mật khá chặt chẽ. Tuy không biết các chi tiết cụ thể của sự hợp tác này, ngày nay, chúng ta có thể thấy rõ các hậu quả của nó: Trung Quốc đã chế tạo, thử nghiệm và đưa vào sản xuất loạt 2 loại tiêm kích có khả năng cạnh tranh khá mạnh với các máy bay Nga trên thị trường bên ngoài. Loại FC-1 rẻ tiền và thô sơ cạnh tranh với các dự án MiG-21 hiện đại hóa sâu của Nga, cũng như với máy bay MiG-29 các đời đầu đã qua sử dụng, còn loại J-10 phức tạp, nặng và tiên tiến hơn thì cũng hướng vào cùng phân khúc thị trường mà MiG-29 cải tiến, kể cả MiG-35, cũng như các biến thể “trẻ hơn” của Su-27 nhằm vào.

Một loại tiêm kích khác mà Trung Quốc cũng không thể chế tạo nếu thiếu sự hỗ trợ của Nga - đó là J-11, nhưng ở đây tình hình hơi khác một chút. Sau khi chuyển giao cho Trung Quốc 2 lô Su-27 và họ triển khai sản xuất máy bay này theo giấy phép, Nga đã bảo mật khá chặt chẽ các bí mật công nghệ của máy bay này. Nửa cuối thập niên 1990 và đầu những năm 2000 đã xảy ra một số vụ bê bối gián điệp liên quan đến các âm mưu của tình báo Trung Quốc đánh cắp thông tin công nghệ chi tiết về cấu tạo Su-27 và các tổng thành then chốt của nó mà họ không tự lực làm nhái được.

Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn làm được J-11 “của mình”, nhưng đến nay, theo ý kiến chung của các chuyên gia, nó vẫn chưa đạt được tính năng của một mẫu chế thử. Những vấn đề căn bản là ở dự trữ làm việc của các động cơ do Trung Quốc sản xuất, tính năng của hệ thống avionics và dự trữ làm việc chung của khung thân. Tuy vậy, dưới hình thức đó, J-11 cùng với J-10 vẫn có khả năng tăng cường đáng kể sức mạnh của không quân Trung Quốc khi chúng thay thế các máy bay quá lạc hậu J-7 và J-8. Nó cũng có thể thu hút sự quan tâm ở thị trường bên ngoài. Trong số các khách hàng nhiều khả năng nhất là các nước tương đối nghèo, chẳng hạn ở châu Phi và Mỹ Latinh, cần có máy bay hiện đại và sẵn sàng trả 30-40 triệu USD cho một máy bay chiến đấu.

Một máy bay Trung Quốc “gốc Nga” khác là máy bay trên hạm J-15, được chế tạo hoàn toàn theo kiểu “kẻ cướp”.

Ngay vào cuối thập niên 1990, người Trung Quốc đã đề nghị Nga bán 50 chiếc Su-33, nhưng trong quá trình dàm phán, họ đã giảm số lượng máy bay định mua xuống còn 2 chiếc, sau đó phía Nga ngừng đàm phán vì lo ngại hợp đồng này sẽ làm thất thoát công nghệ như đã xảy ra với J-11.

Năm 2005 (theo nguồn khác là năm 2001), Bắc Kinh đã mua từ Ukraine máy bay Т-10К, một trong những mẫu chế thử đầu tiên của Su-33, và đầu tháng 6.2010, họ tuyên bố đã hoàn thành chế tạo mẫu chế thử tiêm kích trên hạm mới. Sự chậm trễ kéo dài đó là do khó khăn liên quan đến công nghệ cánh gấp của tiêm kích trên hạm. Tuy vậy, một số báo chí Trung Quốc dẫn nguồn công ty thiết kế J-15 đưa tin rằng, máy bay này không phải là sao chép Su-33 (với lý do Su-33 có thiết bị avionics, radar và tên lửa lạc hậu) mà là thiết kế cải tiến của J-11B (sao chép Su-27).

Tháng 7.2010, xuất hiện đoạn video bay thử J-15, còn theo tờ Hoàn Cầu (Trung Quốc) thì chuyến bay đầu tiên của J-15 diễn ra ngày 31.8.2009.

Ngày 25.4.2011, trên các diễn đàn Trung Quốc xuất hiện những bức ảnh đầu tiên của máy bay mới. Hôm sau, báo chí chính thức của Trung Quốc cũng đăng tải các bức ảnh này. Trên các bức ảnh thấy rõ là máy bay được trang bị cánh gấp, có ống đuôi ngắn và khung càng được gia cường. Các bức ảnh được chụp tại sân nhà máy số 112 của hãng chế tạo máy bay ở Thẩm Dương, đông bắc Trung Quốc. Dự đoán, việc thử nghiệm sẽ kéo dài mấy năm nữa và máy bay sẽ được nhận vào trang bị sau năm 2015.

Được coi là bước đột phá mạnh mẽ hơn là việc chế tạo J-20. Tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc đã thực hiện chuyến bay đầu tiên, theo thông tin hiện có, là vào tháng 1.2011. Trên internet đã xuất hiện khá nhiều bức ảnh chụp máy bay này và các chuyên gia trong lĩnh vực hàng không trổ tải trong việc tìm kiếm các mẫu chế thử. Nhưng rõ ràng là máy bay này không phải là mẫu sao chép trực tiếp, cũng chẳng phải là “tư duy mới có tính sáng tạo” đối với một máy bay tương tự nào đó của nước ngoài. Nhiều khả năng đây là sản phẩm tự lực, mặc dù được chế tạo bằng việc sử dụng các giải pháp kỹ thuật học mót của nước ngoài. Theo các chuyên gia, J-20 Đại bàng đen của hãng Thành Đô có rất nhiều chi tiết giống và sao chép hoàn toàn các chi tiết của các tiêm kích F-22 và F-35 của Mỹ và máy bay thử nghiệm MiG 1.44 của Nga. Ví dụ, vòm kính buồng lái và phần mũi của J-20 giống với F-22, cách bố trí các bộ hút khí và cấu tạo của chúng cũng gần giống F-22 và F-35. Phần đuôi không có cánh đuôi ngang mà chỉ có 2 cánh đứng dưới thân và 2 động cơ đặt gần nhau tương tự MiG 1.44. Hình dáng cánh đứng đuôi quay toàn phần giống với F-35.

Kết quả nửa vời

Trong 20 năm qua, Bắc Kinh đã đạt được tiến bộ rõ ràng và không nghi ngờ trong việc phát triển và sản xuất trang bị kỹ thuật hàng không khi “nhảy vọt” từ các máy bay thế hệ 1, 2 lên thẳng các máy bay thế hệ 4 và 4+, và hơn nữa là đã chế tạo được mẫu chế thử máy bay chiến đấu thế hệ 5. Tuy vậy vẫn còn sớm để nói đến sự phát triển vững chắc của công nghiệp hàng không Trung Quốc và triển vọng xán lạn của nó. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, Trung Quốc liên tục thể hiện khả năng sao chép và đưa vào sản xuất loạt, dù là không phải không có khó khăn các hệ thống vũ khí nào đó, nhưng họ rất hiếm khi có thể khoe khoang về việc tiếp tục phát triển cái đã sao chép được. Vì thế, chỉ sau 2-3 thập kỷ, Trung Quốc lại lâm vào tình thế kẻ đuổi theo và cần đến sự hỗ trợ của nước ngoài.

Các triệu chứng tái diễn tình hình này ngay bây giờ đã hiển hiện rõ: khi tìm cách sao chép các động cơ AL-31F lắp trên Su-27, Trung Quốc đã lâm vào tình huống khi mà các đối thủ chính là Nga và США đã có các động cơ thế hệ mới, trong khi động cơ WS-10 mà Trung Quốc sao chép từ AL-31F hiện vẫn chưa đạt đến các thông số do nhiệm vụ kỹ thuật đặt ra. Vì thế, đang xuất hiện nhiều tin đồn về khả năng Trung Quốc mua các động cơ mới của Nga, tuy nhiên trong thập kỷ này, thương vụ đó không còn quá hấp dẫn đối với Nga như trong thập niên 1990. Kết quả là câu hỏi về việc tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc sẽ bay bằng loại động cơ nào vẫn còn để ngỏ.

[BDV news]


>> Tên lửa chống hạm siêu thanh Moskit 3М-80



Tránh khỏi tên lửa 3M-80 "Moskit" là điều không thể, kẻ thù chỉ có thể phát hiện thấy tên lửa 3-4s trước khi nó lao vào tầu. Tên lửa 3M-80 mang 1 động năng rất lớn , nó có khả năng xuyên thủng bất kể 1 lớp tầu nào và gây lên 1 vụ nổ từ bên trong...





Tổ hợp tên lửa chống hạm siêu thanh "Moskit" với tên lửa có cánh 3M-80(3M-80M) được phát triển bởi viện thiết kế "Cầu vồng" trong năm 1973. Lãnh đạo viện, tổng công trình sư И.С.Селезнева. Hoàn thiện hệ thống dẫn đường trên tên lửa 3M-80 là "Бе-12".
Tên lửa 3M-80 là tên lửa siêu thanh có trần bay thấp trên mặt biển. Nó thuộc lớp tên lửa chống hạm dự định thay thế tên lửa hạng nhẹ KR-P-15.
"Moskit" là tổ hợp tên lửa chống hạm duy nhất trên thế giới có tốc độ siêu âm trên 2M nhưng lại có trần bay rất thấp. Đã có hơn 30 phát minh, sáng chế cùng các công trình khoa học được áp dụng vào tổ hợp tên lửa "Moskit". Ví dụ như tổ hợp tên lửa "Moskit" lần đầu tiên được lắp Động cơ phản lực dòng thẳng (Прямоточный воздушно-реактивный двигатель - ПВРД) kết hợp với bệ phóng lom tựa như búp bê lật đật (Một loại búp bê có thể làm bằng gỗ, nhựa có độ thăng bằng cao nhờ 1 viên bi ở đáy hình cầu của búp bê-Tiếng Nga gọi loại búp bê này là :"матрешкa").

Hệ thống điều khiển tên lửa lửa được phát triển bởi Liên hiệp nghiên cứu-Chế tạo Quốc gia " Altair" (ГосНПО «Альтаир»-государственное научно-производственное объединение), dưới sự lãnh đạo của С.Климов. Để hoàn thiện tổ hợp, tên lửa đã được tiến hành thử nhiệm tại căn cứ "Бе-12".

Ban đầu với phương án trang bị "Moskit" trên tầu nổi ,như tầu khu trục, tầu mang tên lửa. Năm 1984 tổ hợp tên lửa "Moskit" được tiếp nhận trang bị cho khu trục lớp "Hiện đại" đề án 956 (Современный» (проект 956). Trên khu trục dự án 956 được lắp đặt 2 tổ hợp phóng KT-190. Đề án trang bị tên lửa 3M-80 trên máy bay bị kéo dài , phải tới giữa năm 1992 và 1994 mới thực hiện được ( Tại thành phố Комpоnоvка ).
Tên lửa có cánh 3M-80 sử dụng trong tổ hợp tên lửa "Moskit" được chế tạo để tiêu diệt các tầu chiến, tầu vận tải, tầu hộ vệ có lượng choán nước đến 20.000t .Hoặc các nhóm tầu tấn công, tầu đổ bộ, trong điều kiện có sự đối phó của các thiệt bị điện tử , ra da định vị hoặc ra da cảnh báo sớm của đối phương. Tên lửa 3M-80 có khả năng chống lại tác hại của 1 vụ nổ hạt nhân sảy ra gần nó.

Tên lửa 3M-80 hoạt động dựa trên nguyên lý khí động học sơ đồ (X) phân bổ khí động lực trên bề mặt tên lửa. Động cơ hỗn hợp 2 chế độ với động cơ phản lực dòng thẳng (Прямоточный воздушно-реактивный двигатель - ПВРД) đây là động cơ phản lực không khí sử dụng nhiên liệu rắn và Động lực đẩy tên lửa (Thay máy gia tốc) khi xuất phát bằng thuốc súng. Tên lửa sau 3-4 giây được phóng đi, thuốc súng sẽ qua vòi phun bởi luồng không khí lùa vào buồng đốt và bị đốt cháy- Đây chính là quá trình gia tốc cho tên lửa để đạt tốc độ siêu thanh . Động cơ phản lực dòng thẳng (Прямоточный воздушно-реактивный двигатель - ПВРД) được phát triển bởi phòng thiết kế 670 (ОКБ-отдельное конструкторское бюро 670), lãnh đạo phòng là М.М.Бондарюк. Động cơ sau đó được chuyển cho phòng thiết kế chế tạo động cơ " Liên minh"để hoàn thiện (МКБ-моторостроительное конструкторское бюро) .

Hệ thống điều khiển tên lửa với đầu dẫn quán tính, rada dẫn đường chủ động và bị động cung cấp khả năng bắn chúng mục tiêu cao trong điều kiện có sự đối phó của ra da đối phương. Với các mục tiêu là các tầu nhỏ, các nhóm tầu tấn công sác xuất trúng đích là 0,99. Với tầu hộ tống, tầu đổ bộ là 0,94. Sau khi tên lửa dời bệ phóng nó bay theo hình "quả đồi" sau đó hạ thấp độ cao đến 20m. Trước khi đến gần mục tiêu, trần bay của tên lửa chỉ còn 5-7m ( Trên ngọn sóng).




1/Hệ thống dẫn đường chủ động-Thụ động , 2/Hệ thống dẫn đường định vị, 3/Đầu đạn ,4/ Ống phun , 5/ Điều khiển dẫn động , 6/ Động cơ phản lực nhiên liệu rắn , 7/ Bin , 8/ Rada đo độ cao.







Sơ đồ tác chiến tên lửa 3M-80.
Từ tên xuống dưới:
Tốc độ xuất phát của tên lửa 200-470m/s
Tốc độ tối đa: 3M.
Tốc độ : 2,5M.
Trần bay :5-15m.
Tầm bắn 150km.
Tầm bắn 250km.





Quả tên lửa 3M-80.

Tránh khỏi tên lửa 3M-80 "Moskit" là điều không thể, kẻ thù chỉ có thể phát hiện thấy tên lửa 3-4s trước khi nó lao vào tầu. Tên lửa 3M-80 mang 1 động năng rất lớn , nó có khả năng xuyên thủng bất kể 1 lớp tầu nào và gây lên 1 vụ nổ từ bên trong. Đây là đòn tấn công nhấn chìm không những các lớp tầu chiến tầm trung mà còn cả những tuần dương nữa. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự trong nước (Nga) và nước ngoài tên lửa 3M-80 "Moskit" là tên lửa chống hạm tốt nhất trên thế giới.

Ngoài lớp khu trục đề án 956 và tầu chống ngầm cỡ lớn " Đô đốc Chabanenko" đề án 11551 (БПК пр. 11551 «Адмирал Чабаненко" БПК- большой противолодочный корабль). tên lửa 3M-80 "Moskit" còn được trang bị trên tầu mang tên lửa trong đề án 12411. Trong đề án này 3M-80 "Moskit" được lắp ở giữa tầu 2 hệ thống phóng KT 152M. Rất ít tên lửa 3M-80 "Moskit" được trang bị trên thủy phi cơ trong đề án 1239. Tên lửa 3M-80 "Moskit" còn được trang bị trên máy bay Hải quân để bảo vệ bờ biển.

Biến thể của tên lửa 3M-80 là tên lửa 3M-80M với tầm bắn xa hơn được phóng thử từ máy bay của hãng hàng không "Арсеньевской авиационной компании «Прогресс» им. Н.И.Сазыкина".

Tổ hợp tên lửa 3M-80 "Moskit" không ít lần được chưng bầy tại hội chợ triển lãm vũ khí tại Chile , ab- Dhabi(UEA) và hội chợ triển lãm MAX ( Ngoại ô Moscow).

Tổ hợp tên lửa 3M-80 "Moskit" được chính thức xuất khẩu sang TQ trang bị tổ hợp hoàn thiện trên khu trục.
Tên lửa 3M-80-X41 là tên lửa được trang bị trên máy bay, đây là tên lửa "không- Đối hạm" được thiết kế cho các máy bay tiêm kích như SU-33(SU-27K) hoặc trên máy bay ném bom SU-32KHN( CУ-32ХН) hoặc cho các máy bay có khả năng cất hạ cánh trên các tầu sân bay SU-27K(SU-33). Tên lửa 3M-80-X41 được cheo dưới thân dưới động cơ máy bay.


Tính năng kỹ thuật:

1/ Mô tả chung:

-Nhà phát triển: Viện thiết kế chế tạo động cơ "Cầu vồng" (МКБ «Радуга»)
-Nhà sản xuất: Nhà máy "Tiến bộ" Thành phố Arsenev (г.Арсеньев)
-Tên gọi: «Моsкiт» (3М-80)
-Mã hiệu: П-270 «Москит» Х-41
+Tên gọi của NATO : SSN-22 «Sunburn»
+Loại đầu dẫn Quán tính+ Rada định vị chủ động-Thụ động

2/ Cấu hình , trọng lượng tính năng kỹ thuật:

-Chiều dài: 9,385m.
-Sải cánh: 2,1m.
-Đường kính: 0,76m.
-Đường kính tên lửa với cấu hợp cánh: 1,3m.
-Thời gian bảo quản trạng thái chiến đấu: 1,5 năm.
-Trọng lượng phóng: (3М-80 ) 3950kg.
(3М-80Е) 4150-4500kg.

-Đầu đạn: 300 (320)kg.
-Trọng lượng hỗn hợp nổ: 150kg

3/ Thiết bị động năng:

-Nhà phát triển : Phòng thiết kế chế tạo động cơ "Liên minh" thành phố:Turaevo (МКБ "Союз" г.Тураево)
-Động cơ phản lực không khí dòng thẳng: 3D83 (3Д83).
-Tốc độ phóng: 1.8-2.5M.
-Thời gian phóng: 0.5s
-Thời gian chuẩn bị phóng: 250s.

4/ Thông số bay:

-Tốc độ trung bình: 2,35M
-Tốc độ tối đa: 2,8M.
-Tầm bắn : (3М-80) 10-90km hoặc 250km.
(3М-80Е ) 120 hoặc 250km.
-Trần bay: 7-20m.
-Tốc độ phóng: 200-470m/s.
-Trần phóng: 12km.
-Góc ngoặt : +/- 60 o.
-Nhiệt độ ứng dụng: +/-60.
-Thời gian phóng loạt 4 quả : 15s.
-Nhịp độ phóng giữa các loạt: 5s.








[BDV news]


>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 2)



Khi các ứng viên trải qua được những cuộc kiểm tra gắt gao về y tế và tâm lý, họ được tuyển chọn và trở thành học viên.

>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 1)

Bắt đầu khóa huấn luyện cơ bản, cực kỳ khó khăn, mức độ huấn luyện của khóa chỉ có thể so sánh với huấn luyện phi công vũ trụ. Khóa dài 26 tuần (½ năm) và được chia thành 3 giai đoạn.

Giai đoạn 1 có 7 tuần, 1 ngày học tập dài 15 giờ. Học viên phải chạy vượt chướng ngại vật trên đoạn đường dài, bơi, chèo thuyền, vượt qua những tuyến vật cản.

Từng ngày tải trọng huấn luyện càng tăng lên, yêu cầu huấn luyện cũng càng ngày càng khắc nghiệp hơn. Đồng thời, huấn luyện viên luôn luôn đặt ra những bài tập gây nhiễu, ví dụ: đổ dầu lên mặt nước và đốt, hoặc buộc học viên phải bơi cạnh chiếc bè, phía trên có đặt thuốc nổ và kích nổ.

Tuần huấn luyện cuối cùng là tuần huấn luyện chịu đựng tải trọng vượt quá sức chịu đựng của con người và trạng thái tâm lý vô cùng căng thẳng.

Trong thời gian này, học viên chỉ được ngủ không quá 3-4 giờ mỗi ngày. Học viên phải hành quân liên tục 100 km với đầy đủ vũ khí trang bị, sau đó bơi với bộ quần áo lặn wetsuit khoảng 10 hải lý (18,5 km), kéo theo một vật nặng khoảng 40 kg.

Giai đoạn huấn luyện thứ nhất này, từ hàng vài trăm người, lượng học viên chịu đựng được còn độ khoảng 15 đến 20 học viên.


Xạ kích dưới đáy biển.



Súng tiểu liên bắn dưới nước APM


Giai đoạn hai kéo dài khoảng 11 tuần, ở giai đoạn này, học viên nghiên cứu sử dụng các phương tiện, thiết bị lặn ngầm, các kỹ thuật công binh phá nổ, chiến thuật tổ nhóm ít người trong nước và trên đất liền, sử dụng vũ khí lạnh và vũ khí nóng (bao gồm cả vũ khí thông thường và vũ khí đặc chủng).

Học viên học nhẩy dù, leo núi hoặc những bức tường dựng đứng, điều khiển các phương tiện cơ động ngầm dưới mặt nước và trên mặt nước, đồng thời sử dụng các phương tiện giao thông trên bộ thông dụng khác, kể cả xe nâng hạ bằng điện trên bến cảng.

Tất nhiên, nội dung trọng tâm huấn luyện vẫn là các hoạt động tác chiến dưới nước, khả năng tiềm nhập từ dưới nước vào vị trí đã chọn và rút lui xuống dưới nước từ trên bờ.

Một lượng thời gian rất lớn học viên phải học kỹ thuật chiến đấu tay không trên bộ, tay không và có dao găm (loại thông thường và loại lưỡi lê nhọn). Các chàng học viên trẻ tuổi phải nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ pháp gây shock, gây tổn thương và hạ sát đối phương.

Trong quá trình thực hiện các bài huấn luyện thường lựa chọn ra những nhóm nhỏ, phù hợp hoạt động ăn ý với nhau. Bởi các phân đội (tổ 2-4 người) cần phải hoạt động chính xác, đồng bộ, như bộ máy của một chiếc đồng hồ cơ khí hoàn hảo. Đó là yêu cầu mãi rũa sự ăn ý, hiểu nhau đến từng cử động trong quá trình các bài huấn luyện tác chiến.

Kết thúc giai đoạn 2 khóa huấn luyện, học viên được trả thi bằng bài kiểm tra bảo vệ và phòng thủ các điểm chốt trên bờ biển hoặc chiến hạm chống lại các lực lượng đặc nhiệm hải quân ngầm của đối phương trong các cuộc diễn tập như một trận đánh. Bài thi sẽ kiểm tra đánh giá khả năng hoạt động tác chiến dưới nước ở các độ sâu khác nhau.

Định hướng, quan sát trong điều kiện tầm nhìn rất hạn chế, tiến hành hoạt động tác chiến, theo dõi đối phương, cắt đuôi khỏi sự theo dõi của đối phương, ngụy trang ẩn nấp trên bộ… Những học viên trả thi có kết quả tốt được đưa về các đơn vị lính thủy đánh bộ để nâng cao kỹ năng chiến đấu.

Giai đoạn 3 kéo dài 8 tuần. Các huấn luyện viên có kinh nghiệm theo dõi học viên hàng ngày hàng giờ. Sau đó các chiến sỹ đặc nhiệm lặn ngầm một số được giữ lại ở đơn vị lính thủy đánh bộ, một số quay về lực lượng PDSS, ở đó họ tiếp tục được huấn luyện.

Những người có tiềm năng hơn cả được mời tham gia 2 năm huấn luyện trong một trung tâm huấn luyện đặc biệt của trinh sát đặc nhiệm công kích hải quân.

Đây là trung tâm huấn luyện lực lượng đặc biệt tinh nhuệ Denphin. Cách đây không lâu, căn cứ của nó nằm trên bờ hồ Balkhash nước cộng hòa Kazakhstan, hồ muối mặn có diện tích 17.000 km2, sâu đến 226m.

Ở đây, học viên phải nhẩy dù với mọi độ cao, bắt đầu từ độ cao 200m đến độ cao nhất trên tầng bình lưu xuống mọi địa hình khác nhau – mặt nước, rừng, đồi núi, thảo nguyên, hoang mạc trong mọi điều kiện thời tiết, thời gian và khí hậu.

Tuột xuống từ máy bay trực thăng bằng dây trong 28 giây ở độ cao 40m, và không dùng dây, nhẩy từ độ cao 5m xuống nước, học viên được học phương pháp từ trong tàu ngầm lao vào nước biển thông qua ống phóng ngư lôi. Học viên học các kỹ năng đánh tàu, cửa chắn tàu, đê biển, cầu cống, đánh chiếm sân bay, vị trí chỉ huy, các điểm kết nối thông tin liên lạc...

Đồng thời, học viên học cách tồn tại và sống trong mọi điều kiện khí hậu thời tiết, trên mọi địa bàn phức tạp nhất như ở đầm lầy, trên sa mạc… đồng thời có khả năng tự cởi trói, trốn tù, chịu đựng tra tấn, có khả năng làm việc với mọi đài thông tin liên lạc, sử dụng độc dược và sử dụng tât cả các loại phương tiện, thiết bị dân dụng và quân sự.

Kỹ năng xạ kích từ các loại vũ khí trong nước và nước ngoài chiếm một thời lượng rất lớn trong huấn luyện. Trong các loại vũ khí mà Denphin sử dụng, có những loại không hề có ở nước ngoài, ví dụ như súng tiểu liên APS-55.



Chuẩn bị tác chiến.


Nhưng quan trọng nhất, tại sao đặc công ngầm Delphin có thể vượt hơn cả các đội đặc nhiệm tương đương trên thế giới, đó là khả năng vượt qua mọi tuyến vật cản dưới nước và vận động qua mọi tuyến phòng thủ tưởng chừng như tuyệt đối không thể vượt qua. Ví dụ: Trong đêm biển động, sóng lớn, đổ bộ từ trực thăng ở khoảng cách mục tiêu là 15 hải lý (28km) nhiệm vụ đặt ra là bí mật luồn sâu vào căn cứ hải quân của đối phương và phá nổ một mục tiêu được bảo vệ cẩn mật.

Tuyến vật cản thứ nhất là bãi mìn ngầm dưới nước, có thể kích nổ từ trên bờ bằng sóng âm từ những trạm điều khiển theo tín hiệu của sonar.

Tuyến vật cản thứ 2, các dây phát tín hiệu dăng dày dưới mặt nước từ nhiều hướng khác nhau.

Tuyến phòng thủ thứ 3, Lưới nổ với những khối nổ nhậy được gắn chặt. Lưới không thể cắt được và bơi luồn dưới lưới cũng không được, phía trên là đèn pha công suất lớn với những khẩu súng máy phòng thủ bờ biển hạng nặng, nếu bơi lên phía trên lưới sẽ bị bắn nát.

Nhưng các thành viên delphin đã bí mật luồn qua mọi tuyến phòng thủ, vượt qua một vách núi dựng đứng, bí mật, không một tiếng động họ vô hiệu hóa lực lượng lính canh. Sau đó gài thuốc nổ và rút lui an toàn.

Trong biệt đội Delphin, các tổ được huấn luyện chuyên sâu theo từng vùng tác chiến, Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông Nam Á, Nam và Tây Nam Phi, Trung cận đông, các nước ở khu vực Địa Trung hải... Sau giai đoạn huấn luyện ở Trung tâm Delphin, họ được chuyển về đóng quân tại Sevastopol, ở đó, những họ nghiên cứu các bài tập với cá heo, chiến đấu chống lại các động vật dưới biển được huấn luyện để chống người nhái. Tập luyện chiến đấu chống lại người nhái của đối phương.

Khi các huấn luyện viên xác định, học viên Delphin đã hoàn toàn sẵn sàng, delphin được tham gia vào các hoạt động tác chiến. Nhưng bắt buộc mỗi năm, đặc công nước phải trải qua một khóa huấn luyện với các trang thiết bị mới, vũ khí mới, các thiết bị y tế mới, đồng thời học hỏi các kinh nghiệm của các chiến sỹ đặc công nước khác và các lực lượng đặc công nước ngoài qua các trận đánh của 1 năm qua.

Mọi chiến dịch do lực lượng đặc nhiệm Hải quân delphin tiến hành đều không thể thiếu được sự hỗ trợ tuyệt đối của các nhóm khoa học hải dương. Các nhóm đã cung cấp đầy đủ thông tin về địa hình hải dương, nơi Delphin tiến hành tác chiến (thông tin về hải lưu, địa hình bờ biển, vị trí thuận lợi để đổ bộ, những vị trí ẩn nấp tự nhiên, nhiệt độ, những sinh vật có thể gây nguy hiểm cho con người ở vùng nước tác chiến, độ trong của nước biển, thời gian và cao độ cũng như mực nước thấp nhất của thủy triều và rất nhiều các thông tin quan trọng khác…).

Các chuyên gia hải dương thực hiện kết nối thông tin tín hiệu âm thanh dưới nước, sử dụng thiết bị sonar định hướng, định vị vị trí trên bản đồ hải dương và bờ biển, tạo màn ngụy trang che dấu vị trí đổ bộ từ tàu xuống biển và từ biển lên tàu.

Thông thường các phân đội bảo đảm khoa học kỹ thuật làm việc trên các con tàu nghiên cứu hải dương học hoặc trên các con tàu – nhà máy sản xuất thủy sản lưu động trên đại dương.

[BDV news]


Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

>> Đảo Hải Nam xuất hiện máy bay quân sự mới?



Các trang mạng quốc phòng Trung Quốc đồng loạt ca ngợi biến thể JH-7B, theo đó, loại máy bay này vượt qua Su-34. Có nguồn tin cho biết, có 6 chiếc JH-7B xuất hiện ở đảo Hải Nam.

Những điểm khác biệt

JH-7B Leopard-III là biến thể được nâng cấp từ JH-7A với nhiều cải tiến quan trọng, trong đó theo trang mạng Milchina JH-7B là một biến thể tiêm kích bom có khả năng tàng hình.

JH-7B được phát triển trên cơ sở bộ khung của JH-7A nhưng được kéo dài hơn để phù hợp với các thiết bị mới. Cụ thể là động cơ mới với lực đẩy tốt hơn cùng hàng loạt các thiết bị điện tử tiên tiến.

Động cơ mới WS-12B cung cấp lực đẩy tăng lên đến 15% so với động cơ cũ được trang bị trên JH-7. Lực đẩy tối đa không được công bố, động cơ này có đường kính lớn hơn nhưng lại ngắn hơn so với động cơ cũ. Động cơ WS-12B được cho là một nâng cấp trở lại của động cơ WS-12 trước đó đã bị hủy bỏ do kém chất lượng.



JH-7B có thực sự vượt trội so với Su-34 hay không?


Thân và cánh của máy bay được thiết gia tăng sử dụng vật liệu composite, chủ yếu ở hai cánh chính và cánh đuôi đứng, mặc dù thân máy bay dài hơn nhưng không làm tăng trọng lượng. Thân máy bay được phủ một lớp sơn đặc biệt có khả năng hấp thu sóng điện từ. Đây chính là điểm nổi bật để JH-7B có khả năng tàng hình.

Cùng với các sửa đổi tại cánh đuôi đứng và cánh tà, các biện pháp che chắn hồng ngoại, diện tích phản hồi radar của JH-7B giảm xuống đáng kể, theo cả chiều dọc và chiều ngang. Mặc dù không công bố chi tiết về RCS của JH-7B nhưng trang mạng Xinjunshi bình luận, đây là một khả năng chưa từng có trong khu vực.

Buồng lái của JH-7B được mở rộng hơn, được trang bị nhiều hơn các thiết bị điện tử tiên tiến. Một radar mãng pha khẩu độ tổng hợp mới cung cấp khả năng giám sát mặt đất tốt hơn. Một số thông tin cho rằng JH-7B được trang bị một radar quét mãng pha điện tử chủ động, radar AESA, cung cấp khả năng giám sát không đối không và không đối đất cùng lúc.



JH-7 thao diễn.


JH-7B được trang bị các thiết bị giám sát và phát hiện mục tiêu đa chức năng, thiết bị gây nhiễu radar toàn diện, máy tính mới với bộ vi xử lý mạnh hơn. Các thiết bị điện tử trên máy bay được nối mạng với nhau thông qua đường truyền cáp quang tốc độ cao.

Bài viết trên trang Xinjunshi tuyên bố, hiệu suất tổng thể của JH-7B tăng đến 5 lần so với biến thể trước, và đây “hoàn toàn không phải là sự cường điệu hóa”.

Còn theo trang mạng Milchina, hiện tại có khoảng 6 mẫu thử nghiệm JH-7B đang đóng quân trên một căn cứ không quân trên đảo Hải Nam.

Theo đó, rất nhiều thiết bị mới đã được trang bị cho 6 chiếc JH-7B này để tiến hành các cuộc thử nghiệm đánh giá cuối cùng. Để đảm bảo JH-7B không xảy ra thiếu sót, Trung Quốc đã đề xuất một cuộc nghiên cứu mới đối với JH-7B với sự tham gia của Ukraine.

"Su-34 của Trung Quốc và hơn thế"

Không quân Trung Quốc được cho là thiếu các máy bay tấn công tầm xa, thiếu các máy bay ném bom mới. JH-7B sẽ là một máy bay tấn công và ném bom chiến thuật, tương tự như vai trò của Su-34 trong không quân Nga.

Trang mạng Milchina gọi JH-7B là "Su-34 của Trung Quốc", ngoài ra còn không tiếc lời so sánh JH-7B với Su-30 và Su-34, theo đó, máy bay của Trung Quốc có tầm bay lớn hơn, tải trọng vũ khí cũng lớn hơn. JH-7B còn có khả năng tàng hình hoàn toàn có thể thực hiện các cuộc xâm nhập mạng lưới phòng không đối phương đối phương.

Trang mạng Michina dẫn lời các chuyên gia quân sự cũng tiết lộ cấu hình vũ khí JH-7B gồm một pháo nòng kép 23mm, với tốc độ bắn 6.000 phát/phút. Dưới cánh và bụng của máy bay được thiết kế tới 15 điểm treo vũ khí, đây là máy bay thứ 2 sau F-15E của Mỹ có 15 điểm treo vũ khí.

JH-7B có khả năng mang theo tất cả các loại vũ khí có trong trang bị hiện nay. Từ tên lửa không đối không PL-8, PL-12, đến tên lửa chống hạm như C-601, C801/802, tên lửa chống tàu Kh-31A của Nga, tên lửa chống radar Kh-31P, bom thông thường, bom có điều khiển (bằng laser). JH-7B có khả năng mang tới 4 tên lửa chống hạm YJ-82, thay vì 2 tên lửa như biến thể cũ.

Đặc biệt JH-7B được trang bị hệ thống chỉ thị và nhắm mục tiêu gắn ngoài tương tự như hệ thống chỉ thị mục tiêu FLIR được trang bị trên các chiến đấu cơ của châu Âu. Cung cấp chỉ thị mục tiêu và dẫn hướng chính xác cho các vũ khí dẫn đường bằng laser, đây là điều khác biệt so với Su-34 của Nga, trang mạng Milchina bình luận.

Phần mềm điều khiển bay fly-by-wire tiên tiến với 4 kênh tín hiệu cùng với một hệ thống kiểm soát dự phòng. Bộ vi xử lý trung tâm đạt tiêu chuẩn MIL-STD -1750A của quân đội Mỹ. Cải thiện đáng kể độ tin cậy và an toàn trong hoạt động.

Theo dự kiến, Trung Quốc sẽ phát triển tiếp các biến thể mới tiếp theo là JH-7C với một số cải tiến ở cánh đuôi đứng. Cuối cùng là biến thể JH-7E đây là biến thể được thiết kế với vai trò tác chiến điện tử chuyên dụng, tương tự như vai trò của E/A-18G của Hải quân Mỹ.

Kết thúc bài viết của mình các trang mạng quốc phòng Trung Quốc bình luận, JH-7B là một nhân tố mới trong cơ cấu tác chiến của không quân Trung Quốc.

Tuy năng lực thực sự của JH-7B vẫn chưa được xác minh rõ ràng nhưng việc đem so sánh với các hệ thống vũ khí của Nga đã trở thành một truyền thống trên các trang mạng quốc phòng Trung Quốc. Suy cho cùng đó cũng là một cách để khuếch trương lòng tự hào dân tộc, cho dù giữa những tuyên bố và thực tế còn rất khác xa nhau. Không hiểu, khi thiết kế máy bay, người Nga có cảm thấy cần so sánh sản phẩm của mình với may bay Trung Quốc hay không?

[BDV news]


>> Bí ẩn vụ tai nạn tàu đổ bộ Zubr



Cuối tháng 5/2011, tàu đổ bộ đệm khí cao tốc Zubr (do Trung Quốc đặt hàng) gặp tai nạn ngay khi chuẩn bị hạ thủy ở Ukraine.

Tàu đổ bộ “nhảy dù”

Cụ thể, khi 2 cầu trục trong xưởng lắp ráp của Nhà máy đóng tàu đệm khí Morie (Ukraine) chuẩn bị hạ tàu đổ bộ đệm khí cao tốc Zubr xuống đất, thì một cầu trục bị phá hủy và sập xuống cùng con tàu này.

Các tấm giáp bị văng khỏi tàu, phần trước con tàu bị phá hủy hầu như hoàn toàn, thân tàu bị biến dạng nghiêm trọng. Hiện tại, con tàu đang treo lơ lửng trên một dầm cầu trục còn lại vì chẳng ai dám lên cần cầu để hạ nó xuống. Đây là tàu đổ bộ đầu tiên do Ukraine đóng cho Trung Quốc theo hợp đồng ký năm 2009.




Tàu đổ bộ đệm khí cao tốc Zubr.


Theo một số nguồn tin, các dầm cầu trục đã hoạt động không đồng bộ khiến cấu trúc một cầu trục sập đổ do quá tải, làm 2 người chết và 2 người bị thương.

Nhưng thiệt hại lớn nhất là chiếc cầu trục sập đổ đã làm biến dạng các kết cấu chịu tải của thân nhà xưởng. Bên ngoài, nhà xưởng có vẻ còn nguyên, nhưng bên trong thì không còn sử dụng được nữa. Nguyên nhân ban đầu được cho là lỗi của con người.

Năm 2009, Công ty xuất khẩu vũ khí Ukrspetsexport (Ukraine) đã ký với Trung Quốc hợp đồng trị giá gần 350 triệu USD để đóng 4 tàu lớp Projekt 12322 Zubr Zubr (2 chiếc đóng tại Ukraine, 2 chiếc đóng ở TQ theo giấy phép, với sự tham gia của chuyên gia Ukraine).

Mùa thu năm 2010, Công ty đóng tàu Morie ở Feodosya, Crimea, Ukraine đã khởi đóng 2 tàu đệm khí Zubr theo hợp đồng này.

Thèm khát công nghệ

Hải quân Trung Quốc rất thèm khát công nghệ đóng tàu Zubr để tăng cường khả năng tác chiến đổ bộ. Họ đã đàm phán với Nga hơn 10 năm trời để mua Zubr cùng công nghệ, song vô hiệu.

Một trong những nguyên nhân đàm phán đổ vỡ là Viện thiết kế TsMKB Almaz của Nga, hãng thiết kế Zubr chỉ chấp nhận chuyển giao tài liệu kỹ thuật của Zubr sau khi Trung Quốc đã mua 10-15 tàu do họ đóng.




Nga cũng có thể không muốn bán công nghệ tàu Zubr cho Trung Quốc vì loại tàu này sẽ có khả năng làm thay đổi cán cân quân sự ở Viễn Đông. Ngoài ra, Zubr có thể được Trung Quốc sử dụng để chống lại chính Nga trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ sau này.

Bị Nga từ chối, Trung Quốc nhanh chóng ký hợp đồng với Ukraine. Việc lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đồng ý thanh toán phần lớn nợ nần của Nhà máy Morie cho thấy, họ rất quan tâm đến hợp đồng.

Thắng lợi lớn nhất đối với Trung Quốc là theo hợp đồng, họ đã nhận được các tài liệu kỹ thuật của Zubr. Việc mất hợp đồng lẫn công nghệ tàu Zubr làm cho Viện TsKMB Almaz của Nga, cơ quan thiết kế tàu Zubr, rất tức giận và gây ra tranh cãi về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ với phía Ukraine.

Ngày 30/5/2011, Ủy ban liên ngành điều tra nguyên nhân tai nạn đã bắt đầu làm việc ở Feodosya. Công ty Morie không loại trừ khả năng phía Trung Quốc đòi tiền bồi thường, thậm chí hủy hợp đồng. Vì Trung Quốc tội gì phải mất tiền cho Ukraine nếu họ có thể tự đóng lấy tàu.

Theo một số nguồn tin, Trung Quốc đã nhận được bộ tài liệu kỹ thuật thiết kế trước thời hạn. Đa số cán bộ của công ty Morie hiện đang làm việc ở Trung Quốc để gấp rút xây dựng một nhà máy giống hệt.

Như vậy, với tài liệu kỹ thuật trong tay, không lâu nữa, Trung Quốc với sự giúp đỡ của các chuyên gia Ukraine sẽ có khả năng đóng các tàu đổ bộ Zubr với số lượng tùy thích.

Tàu đổ bộ đệm khí cao tốc lớn nhất thế giới

Zubr dùng để vận chuyển, đổ bộ binh khí kỹ thuật và các đơn vị đổ bộ lên bờ biển không được chuẩn bị trước và chi viện hỏa lực cho lực lượng đổ bộ. Tàu cũng có thể vận chuyển thủy lôi và rải các bãi thủy lôi.

Thời Liên Xô, các tàu Zubr được đóng tại Nhà máy đóng tàu Morie (Ukraine) và hãng TsKMB Almaz ở St. Petersburg (Nga). Ngoài Nga, Ukraine, chỉ có 5 nước khác có khả năng chế tạo tàu đổ bộ đệm khí cao tốc là Anh, Mỹ, Australia, Canada và New Zealand.

Ưu điểm nổi bật của Zubr là kết hợp được tốc độ cao, trọng tải lớn và khả năng lội nước độc đáo. Zubr hiện có trong trang bị của hải quân Nga và Hy Lạp, còn các tàu trong trang bị của Ukraine đã bị loại bỏ. Zubr có thể chở 3 xe tăng chủ lực, tổng trọng lượng 150 tấn; hoặc 10 xe bọc thép chở quân có tổng trọng lượng 131 tấn và 140 lính đổ bộ; hoặc 8 xe chiến đấu bộ binh, tổng trọng lượng 115 tấn; hoặc 8 xe tăng bơi. Tàu có 4 khoang chở lính đổ bộ đủ chỗ cho 140 người. Khoang chở binh khí kỹ thuật có thể dùng để chở thêm 366 lính (tổng cộng gần 500 lính).



Tàu đổ bộ Zubr.

Tàu có thể chạy với tốc độ hơn 60 hải lý/h (gần 120 km/h) trên mặt đất, mặt nước, mặt băng và vượt vật cản dạng “tường đứng” cao 1,5 m. Tàu được trang bị 5 động cơ turbine khí. Các máy phát turbine khí cho Zubr cũng được sản xuất loạt tại Nhà máy Zarya-Mashprojekt ở Nikolayev, Ukraine.

Đại học đóng tàu quốc gia Nikolayev mang tên Đô đốc Makarov đang tiếp tục phát triển các công nghệ mới cho tàu đệm khí, đặc biệt là lớp vỏ mềm (giữa thân và bề mặt, giúp tàu vượt vật cản và sóng), một trong những thành phần trọng yếu nhất của tàu đệm khí. Một khi chế tạo được lớp vỏ mềm mới, Ukraine sẽ làm chủ hoàn toàn công nghệ tàu đệm khí Zubr.

Tàu Zubr có lượng giãn nước 555 tấn; chiều dài tối đa 57,3 m, chiều rộng tối đa 25,6 m; chiều cao tối đa trên đệm khí 21,9 m; tốc độ toàn phần hơn 60 hải lý/h; 5 động cơ turbine khíx10.000 mã lực, cự ly hành trình hơn 300 hải lý ở tốc độ 60 hải lý/h và 1.000 hải lý ở tốc độ 55 hải lý/h, thời gian hoạt động độc lập 5 ngày, thủy thủ đoàn 27 người.

Vũ khí gồm hệ thống rocket phóng loạt A-22 Ogon với 2 bệ phóng MS-227 mỗi bệ 22 nòng, bắn đạn phóng rocket 140 mm (cơ số đạn 66 quả) tầm bắn 800-4.500 m và hệ thống điều hỏa lực; 2 ụ pháo tự động 30 mm АК-630 (cơ số đạn 3.000 viên) và hệ thống điều khiển hỏa lực MR-123-02; 8 hệ thống tên lửa phòng không vác vai Igla. Vũ khí thủy lôi của tàu gồm một bộ thiết bị dùng để rải 20-80 quả thủy lôi tùy theo chủng loại.

[BDV news]


>> Trung Quốc thách thức trật tự hàng hải thế giới?



"Trung Quốc đã thực hiện một chiến lược phát triển song song cả 2 mặt thế và lực, nhằm tăng cường sức mạnh trên biển. Các nước phương Tây chớ có coi thường".


Dưới đây là bài phân tích chi tiết về vấn đề này của ông Robert C. O'Brien – một chuyên gia luật uy tín, một nhà phân tích chính trị, người từng đại diện cho Mỹ tại Liên Hợp Quốc, hiện là quản lý đối tác của văn phòng công ty luật Arent Fox tại Los Angeles.


Ông Robert C. O'Brien


Dưới đây là nội dung bài viết:

Trong vài thập kỉ qua, khi các nước phương Tây “mải mê chinh chiến” với các phần tử Hồi giáo cực đoan ở Trung Đông và Trung Á, Trung Quốc đã nỗ lực xây dựng sức mạnh hàng hải ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương một cách nhanh chóng và ấn tượng.

Trong nhiều năm liền, Trung Quốc tập trung ngân sách quân sự cho Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA).

Tháng tới, Trung Quốc sẽ ra mắt tàu sân bay đầu tiên. Điều này khiến thế giới, đặc biệt là các nước đồng minh của Mỹ ở châu Á lưu ý và đặt ra câu hỏi liệu nhiều thứ sẽ thay đổi chóng mặt như thế nào.

Quốc gia đông dân này có tham vọng hàng hải to lớn. Không muốn chúng chỉ là giấc mộng, Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực chưa từng thấy kể từ sau khi Hoàng đế Đức Wilhelm II thành lập hạm đội High Seas – một hành động bước ngoặt, mang tính thách thức hải quân Anh vào thế kỉ trước.

Hai hướng mũi nhọn trong chiến lược biển của Trung Quốc

Thứ nhất, Trung Quốc tìm cách hạn chế sự can thiệp của các cường quốc hàng hải, trong đó có Mỹ ở vùng Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải).

Mục tiêu của Trung Quốc là nhằm thiết lập một sức mạnh biển theo cách tương tự Mỹ đã làm ở vùng Caribe vào thế kỉ 20, từ đó có thể triển khai hoạt động hải quân trên toàn cầu.

Bên cạnh đó quốc gia này sẽ tìm cách thống trị nguồn tài nguyên thiên nhiên và các quần đảo tranh chấp như Trường Sa và chuỗi đảo Senkaku. Đồng thời đại lục cũng muốn thu hồi Đài Loan một cách “nhẹ nhàng”, trong trường hơn cần thiết, phải dùng đến vũ lực thì cũng không bị Mỹ can thiệp.

Suốt hơn một thập kỉ qua, Trung Quốc luôn tìm cách đối đầu, quấy rối các tàu dân sự, quân sự của Mỹ và các nước châu Á. Điều này chứng tỏ quyết tâm theo đuổi những mục tiêu trên của Trung Quốc chưa bao giờ suy giảm.

Mũi nhọn thứ hai trong chiến lược biển của Trung Quốc là tìm kiếm uy tín quốc tế và phô trương tiềm lực ở các tuyến đường trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Một nguyên nhân sâu xa của hành động này là vì nền kinh tế phát triển bùng nổ khiến Trung Quốc ngày càng lệ thuộc vào khoáng sản và dầu lửa nhập khẩu từ châu Phi và Trung Đông.

Giờ đây, Trung Quốc không muốn chỉ ngồi một chỗ “trông chờ” các cường quốc khác bảo vệ eo biển Malacca và các tuyến đường biển ở Thái Bình Dương nữa mà muốn tự mình chịu trách nhiệm.

Dành nhiều tiền cho vũ khí hơn quân nhân

Năm nay (2011), Trung Quốc dự định chi cho quân sự 91,5 tỷ USD, tăng mạnh so với con số 14,6 tỷ USD vào năm 2000. Quốc gia này cũng thừa nhận 1/3 khoản tiền khổng lồ này là dành cho hải quân.

Tuy nhiên, chắc chắn những con số này đã được nói giảm đi nhiều. Trung Quốc vốn nổi danh thiếu minh bạch trong chi phí quốc phòng, các nhà phân tích tin rằng con số thực tế còn lớn hơn những gì đã công khai.

Số tiền Trung Quốc chi trả cho binh lính, thủy thủ, phi công chỉ là một phần nhỏ trong ngân sách. Trái lại, ở các nước phương Tây, tiền lương, trợ cấp, lương hưu lại khoản chi lớn nhất.

Chính điều khác biệt này cho phép Trung Quốc dành nhiều tiền hơn vào hệ thống vũ khí. Không giống như các nước phương Tây vốn đang phải cắt giảm chi tiêu quốc phòng, Trung Quốc sẽ còn tiếp tục chi “mạnh tay” hơn trong những năm tới.

Trung Quốc đã xây dựng chiến lược phòng vệ dựa trên hai nền tảng xương sống là tên lửa chống hạm Đông Phong 21 (DF – 21D) – được coi như “sát thủ tàu sân bay” cùng với một hạm đội tàu ngầm tấn cống hiện đại và mở rộng.

Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ - Đô đốc Robert F. Willard – đã mô tả về DF 21- D đang ở giai đoạn đầu phát triển khả năng hoạt động, tức là nó có thể hoạt động nhưng không nhất thiết được triển khai.

Các nguồn tin từ Đài Loan cho hay, Trung Quốc đã triển khai ít nhất 20 tên lửa chống hạm. Cho dù đưa vào sử dụng trong thời điểm hiện tại hay tương lai gần, Hải quân Mỹ tin rằng Trung Quốc có khả năng do thám, giám sát, điều khiển từ trên không để kiểm soát mặt đất, hỗ trợ DF-21 hoạt động dễ dàng.

Trung Quốc cũng đã sử dụng "dàn cảm biến phi không gian" (có thể là các loại UAV ) để cung cấp thông tin về mục tiêu cho các tên lửa chống hạm. Với tầm bắn 2.600km như trong báo cáo gần đây, loại tên lửa này sẽ khiến cho tàu các nước khác bất an khi hoạt động gần đại lục.

Chương trình tàu ngầm của Trung Quốc được phát triển mạnh mẽ. Gần như suốt thời kì Chiến tranh Lạnh, tàu ngầm của Trung Quốc chủ yếu là từ thời Liên Xô, rất lạc hậu.

Trong những năm 1990, Trung Quốc đã mua tàu ngầm tấn công điện – diesel lớp Kilo của Nga và đã từ đó đến nay đã tung ra hai tàu ngầm tấn công điện – diesel lớp Tống (Song) tự chế. Không chỉ có vậy, quốc gia này còn phát triển và hạ thủy tàu tấn công điện – diesel lớp Nguyên (Yuan) công nghệ cao.

Các chuyên ra phân tích cho rằng, trong vài năm tới Trung Quốc cũng sẽ triển khai các tàu ngầm hạt nhân lớp Thương (Shang) nhằm củng cố thêm sức mạnh của hạm đội tàu ngầm.

Chắc chắn Trung Quốc đã “đánh hơi” khả năng tiêu diệt tàu ngầm của Mỹ suy yếu đáng kể từ sau Chiến tranh Lạnh, cho nên mới có một loạt động thái như trên.

Trung Quốc cũng đã triển khai nhiều tàu sân bay và chiến đấu cơ tàng hình thế hệ thứ 5, thú hút được sự chú ý của thế giới.

Tàu Thi Lang vốn là tàu Varyag mua lại từ Ukraina hiện đang được sửa chữa và sẽ hạ thủy trong thời gian sắp tới. Con tàu có nguồn gốc từ Liên Xô này lớn hơn các tàu sân bay châu Âu nhưng lại nhỏ hơn 1/3 so với các tàu lớp Nimitz của Mỹ.

Trung Quốc đã công khai xác nhận đang chế tạo một tàu sân bay nội địa lớn hơn và có thể sẽ cho hạ thủy vào năm 2014. Đồng thời, quốc gia này cũng lên kế hoạch về một tàu sân bay thứ 3 chạy bằng năng lượng thường và 2 tàu sân bay khác chạy bằng năng lượng hạt nhân. Ba con tàu này hiện vẫn nằm trên bản vẽ và dự tính sẽ hoàn thành vào năm 2020.

Trung Quốc sẽ sử dụng các máy bay tiêm kích trên hạm là J-15 Flying Shark (Cá mập bay) mà năng lực có thể sánh với F-14 Tomcat đã về hưu của hải quân Mỹ. Loại chiến cơ này có nhiều điểm giới hạn do được chuyên chở trên tàu sân bay. Tuy nhiên với sự phát triển của khoa học công nghệ cùng hệ thống máy phóng lắp trên tàu, trong tương lai Trung Quốc có thể đưa J-15 theo kịp chiến đấu cơ F-18 Super Horner của Mỹ.

Quốc gia tham vọng này có thể đã phát triển các máy bay chỉ huy và kiểm soát trên không AWACS và hệ thống cảnh báo trên tàu sân bay. Trên mạng internet hồi tháng 5/2011 đã xuất hiện một bức ảnh cho thấy một góc mô hình chiếc AWACS nhỏ dựa trên E-2 Hawkeye và Yak-44 – thiết kế của Liên Xô.

Nhìn nhận chương trình hàng không mẫu hạm của Trung Quốc với việc tàu USS Enterprise “về hưu", Mỹ sẽ có 10 tàu sân bay để thực thi các cam kết trên khắp thế giới, Trung Quốc có thể có 5 tàu sân bay ở khu vực châu Á Thái Bình Dương.

Các phương tiện truyền thông phương Tây cũng chú ý đến J-20 Black Silk - chiến đấu cơ tàng hình, hai động cơ thế hệ thứ 5 của Trung Quốc. Chiến cơ này lớn hơn F-22 Raptor của Không lực Mỹ và có thể ngang bằng về khả năng chiến đấu (dù một số nhà quan sát Mỹ cho rằng nó giống với F-35 Joint Strike Fighter hơn, nhưng không tinh vi bằng).

Mẫu nghiên cứu của J-20 đã có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên kéo dài khoảng 15 phút hồi tháng 1/2011 từ một sân bay ở tây nam Thành Đô. Hoạt động này diễn ra cũng thời điểm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ lúc đó – ông Robert Gate có cuộc gặp gỡ với chủ tịch Hồ Cẩm Đào ở Bắc Kinh. Sự kiện này đã phát đi một thông điệp chính trị mạnh mẽ, đồng thời chiếc J-20 cũng trở thành tâm điểm của những bản tin thời sự tối trên khắp thế giới.

Nhiều người tin rằng con đường chế tạo J-20 một phần là thông qua việc thu gom các mảnh vỡ từ chiếc F-117 Night Hawk của Mỹ bị bắn rơi ở Serbia và đánh cắp thông tin trên mạng về các máy bay tiêm kích tấn công hỗn hợp từ tay các nhà thầu quốc phòng Mỹ. (Các nhà lập kế hoạch Mỹ cũng cho rằng các kĩ sư Trung Quốc đã tìm hiều phần đuôi cánh quạt của chiếc trực thăng tàng hình bị bỏ rơi trong các cuộc tấn công Osama Binladen ở Pakistan).

Những thành tựu nhanh chóng và to lớn của Trung Quốc về quốc phòng đã khiến các nhà quan sát phương Tây ngạc nhiên. Rõ ràng trước đây, họ luôn đánh giá thấp về sức mạnh cũng như quyết tâm vươn lên của Trung Quốc, đặc biệt là hải quân.

Thế nhưng giờ đây cần nhìn nhận rõ ràng rằng, trật tự hàng hải mà hải quân Anh – Mỹ thống trị suốt hơn 200 năm qua đang có những thách thức mới do Trung Quốc gây ra. Phản ứng của Mỹ trước thách thức này sẽ quyết định đến cán cân quyền lực ở châu Á Thái Bình Dương trong phần còn lại của thế kỷ.

[BDV news]


Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

>> Xe tải bay không người lái của Israel



Khi các nguy cơ từ chiến trường đô thị như tên lửa vác vai, pháo phòng không hạng nhẹ càng phổ biến, trực thăng sẽ phải nhường chỗ cho các UAV vận tải.

Trong quân đội của các nước phát triển, các nhiệm vụ đặc biệt sâu trong lãnh thổ thù địch thường được giao cho các đội đặc nhiệm và phương tiện di chuyển chủ yếu bằng trực thăng.

Tương tự, trực thăng cũng là phương tiện chủ yếu để thực hiện các nhiệm vụ tải thương và tiếp tế trên chiến trường.




Trong thời điểm hiện nay, trực thăng là phương tiện ưa thích để vận chuyển quân và hàng hóa trong cự ly ngắn của quân đội các nước phát triển.


Trực thăng có nhiều ưu điểm như có thể dễ dàng hạ cánh ở bất cứ địa hình nào, tốc độ cao, cực kỳ cơ động trên chiến trường. Tuy nhiên, trực thăng cũng bộc lộ khá nhiều nhược điểm như: kích cỡ lớn, chi phí vận hành cao, luôn phải mang theo ít nhất từ một đến hai phi công khiến tải trọng hữu ích bị giảm xuống; đồng thời nếu trực thăng không may bị bắn rơi thì đó là tổn thất rất lớn cho quân đội cả về người và của.

Trong điều kiện tác chiến đô thị hiện đại, khi các phương tiện phòng không như tên lửa vác vai (MANPADS), súng máy phòng không rất phổ biến và có khả năng sát thương cao, việc sử dụng máy bay trực thăng là hết sức nguy hiểm.

Trước yêu cầu của chiến trường hiện đại, vừa cần một phương tiện có các ưu điểm của trực thăng như cất cánh thẳng đứng, tốc độ cao, lại có thể khắc phục nhược điểm trên.

Công ty thiết bị hàng không đô thị của Israel (Israel Urban Aeronautic) đã nghiên cứu thiết kế phương tiện bay không người lái Air MULE nhằm đáp ứng các yêu cầu này.



Air MULE trong một thử nghiệm bay mới đây.


AirMULE được thiết kế hình dáng khí động học tương tự UAV Panda cũng của công ty IUA sản xuất. Cấu tạo của thiết bị bao gồm bộ phận động cơ nâng được ấn dưới thân và hai rotor với cánh quạt ẩn phía sau có thể quay theo nhiều hướng để hỗ trợ nâng, đẩy thiết bị bay về phía trước hay rẽ và thực hiện các động tác thao diễn.

Cấu trúc này giúp thiết bị Air MULE có khả năng cất hạ cánh thẳng đứng như trực thăng nhưng lại không hề cần diện tích lớn cho cánh quạt nâng khổng lồ, tiếng động ồn ào và nguy cơ tổn thương các cánh quạt do va chạm.

Khối lượng cất cánh tối đa của Air Mule có thể đạt 1.406 kg và mang theo lượng hàng hóa hay hành khách với tổng khối lượng 227 kg ( tương đương với 2 binh lính trang bị đầy đủ vũ khí hay các phương tiện cứu thương). Tầm hoạt động của thiết bị đạt 480 km với vận tốc trung bình 180 km/h.

Theo kịch bản, MULE sẽ được tải đầy hàng hóa và tự bay ra khu vực chiến trường đã định bằng dữ liệu GPS đã được nạp sẵn. Tại vị trí cần tới, thiết bị sẽ hạ cánh chính xác nhờ vào các bộ phát tín hiệu dẫn hướng đặt dưới mặt đất. Hàng hóa được dỡ ra khỏi MULE sẽ nhanh và an toàn hơn rất nhiều so với vận chuyển bằng các phương tiện bay thông thường.

Thậm chí, trong chuyến bay trở về, MULE có thể vận chuyển 2 thương binh về hậu phương để cứu chữa. Trong điều kiện chiến trường, Air MULE có khả năng vận chuyển tới 500 kg hàng hóa một lần trong cự ly 50 km. Khi đó, một chiếc Air MULE sẽ có khả năng vận chuyển tới 6.000 kg hàng hóa trong 24 giờ và một phi đội 10 - 12 chiếc Air MULE sẽ có khả năng đảm nhận tiếp tế hậu cần và tải thương cho 3.000 lính chiến đấu.




Air MULE sẽ đống một vai trò lớn trong tác chiến đô thị tương lai.


Theo nhà sản xuất cho biết, những chiếc Air MULE được sản xuất bằng các vật liệu composite siêu nhẹ và bền với động cơ nâng cực khỏe. Đồng thời, thiết bị được trang bị hệ thống vi xử lý tiên tiến, 4 hệ thống kiểm soát bay riêng biệt cho từng động cơ.

Thiết kế của Air MULE giúp nó có khả năng hoạt động trong điều kiện thời tiết xấu với vận tốc gió lên tới 92 km//h. Đồng thời, nhờ khả năng giảm thiểu tiếng ồn và vật liệu chế tạo hấp thụ sóng radar, thiết bị này có tính tàng hình cao trên chiến trường.




UAV Panda.




Thiết bị bay vận chuyển hành khách có người lái X-Hawk.


Hiện nay, ngoài Air MULE, IUA cũng đang phát triển nhiều mẫu vũ khí có cơ chế hoạt động tương tự như UAV Panda nặng 15 kg; phiên bản thiết bị bay vận chuyển hành khách, hàng hóa có người lái X-Hawk với khả năng mang theo đến 10 hành khách và có tốc độ tới 463 km/h.

Công ty cho biết giá cả các phương tiện này được tính toán ở mức hợp lý và chúng có thể được bán cho các khách hàng có nhu cầu. Trước mắt, năm 2008, Urban Aeronautic đã ký thỏa thuận hợp tác với công ty Tata Advance Systems để sản xuất phiên bản Air MULE cho thị trường Ấn Độ. Đồng thời, công ty cũng đã tính đến khả năng mở rộng thị trường cho thiết bị sang đến cả khối EU.




Thiết kế và kích thước chi tiết của Air MULE


Thông số chính của thiết bị bay Air Mule:

Kích cỡ không tính rotor: Dài 6,2 mét; Rộng: 2,15 mét; Cao: 1,8 mét
Khối lượng rỗng: 771 kg; Khối lượng nhiên liệu và hàng hóa tối đa mang theo: 635 kg
Khối lượng cất cánh tối dda: 1.406 kg
Công suất động cơ: 940 mã lực
Tốc độ tối đa: hơn 180 km/h
Trần bay tối đa: 3.600 mét
Thời gian bay tuần tiễu tối đa: 5 giờ
Đường kính rotor nâng: 1,8 mét.



[BDV news]


>> 10 máy bay quân sự nhanh nhất thế giới


Dưới đây là top 10 loại máy bay quân sự có tốc độ bay cao nhất thế giới hiện nay.

1. Máy bay tiêm kích đánh chặn MiG-25: 3,2М



Máy bay đánh chặn tầm cao, siêu âm của Liên Xô, do Viện thiết kế Mikoyan-Gurevichh thiết kế.


Là máy bay huyền thoại, đã lập một số kỷ lục thế giới, trong đó có cả kỷ lục tốc độ, song bị giấu kín giống như nhiều chuyện khác ở Liên Xô. Theo lời tổng công trình sư R.А. Belyakov, việc máy bay vượt quá tốc độ 3M làm giảm tuổi thọ của khung thân máy bay, nhưng không làm hư hỏng máy bay hoặc động cơ. Một số phi công cho biết, MiG-25 đã nhiều lần vượt ngưỡng tốc độ 3,5М, nhưng kỷ lục đó không được ghi nhận chính thức.

Ngày 6/9/1976, Viktor Belenko, phi công Không quân Liên Xô đã lái một chiếc MiG-25 đào tẩu sang Nhật Bản. Chiếc máy bay đã được trả lại sau khi đã được dỡ tung đến từng chiếc đinh vít. Các máy bay mới đã được cải tiến và có ký hiệu MiG-25PD, tất cả các máy bay có trong trang bị được hiện đại hóa và đặt ký hiệu là MiG-25PDS.

Belenko tại sân bay Hakodate đã dùng súng ngắn bắn để ngăn chặn người Nhật tiếp cận chiếc MiG-25, yêu cầu che kín máy bay, nhưng ủy ban điều tra vụ việc đã kết luận rằng, việc bay sang Nhật là có chủ mưu, mặc dù không có mục tiêu phản bội rõ ràng.

2. Máy bay trinh sát SR-71 của hãng Lockheed: 3,2М




Máy bay trinh sát chiến lược siêu âm của Không quân Mỹ, còn có tên không chính thức là Blackbird. Máy bay này nổi danh ở độ tin cậy kém, trong 34 năm, Mỹ đã mất 12 chiếc trong số 32 chiếc hiện có.

Thủ đoạn chính để tránh đạn tên lửa của SR-71 là bốc cao và tăng tốc. Năm 1976, SR-71 Blackbird đã lập kỷ lục tuyệt đối về tốc độ trong số các máy bay có người lái trang bị động cơ dòng thẳng là 3.529,56 km/h.

3. Máy bay đánh chặn tầm xa MiG-31: 2,82М


Máy bay tiêm kích đánh chặn siêu âm, mọi thời tiết, tầm xa, 2 chỗ ngồi. Là máy bay chiến đấu thế hệ 4 đầu tiên của Liên Xô. MiG-31 dùng để đánh chặn và tiêu diệt mục tiêu bay ở độ cao nhỏ, cực nhỏ, trung bình và lớn, cả ngày lẫn đêm, khi đối phương sử dụng nhiễu radar tích cực và tiêu cực, cũng như mồi bẫy nhiệt. Một tốp 4 chiếc MiG-31 có khả năng kiểm soát khoảng không có chiều rộng 800-900 km.

Tốc độ tối đa cho phép: 3.000 km/h (2,82 М)

4. Máy bay tiêm kích F-15 Eagle của McDonell Douglas: 2,5М


Máy bay tiêm kích chiến thuật mọi thời tiết, thế hệ 4 của Mỹ, dùng để giành ưu thế trên không. Được nhân vào trang bị năm 1976.

Tốc độ tối đa ở độ cao lớn: 2.650 km/h (>2,5M)

5. Máy bay ném bom chiến thuật F-111 của General Dynamics: 2,5М


Máy bay ném bom chiến thuật tầm xa, 2 chỗ ngồi, máy bay yểm trợ chiến thuật với cánh có dạng hình học thay đổi (cánh cụp-xòe).

Tốc độ tối đa ở độ cao lớn: 2.655 km/h (2,5M)

6. Máy bay ném bom chiến thuật Su-24: 2,4М


Máy bay ném bom chiến thuật, cánh cụp-xòe của Liên Xô, dùng để tấn công bằng tên lửa, bom, trong điều kiện thời tiết tốt và phức tạp, cả ngày lẫn đêm, kể cả ở độ cao nhỏ tiêu diệt có ngắm chống các mục tiêu mặt đất và mặt nước.

Một số phi công cho biết, máy bay được trang bị cơ cấu lái tự động autopilot có khả năng lái máy bay ở độ cao nhỏ, chẳng hạn duy trì máy bay bay ở độ cao 120 m so với mặt đất.

7. Máy bay tiêm kích đánh chặn F-14 Tomcat của Grumman: 2,37М


Máy bay đánh chặn, tiêm kích-bom phản lực thế hệ 4, cánh có dạng hình học thay đổi. Được phát triển trong thập niên 1970 để thay thế các máy bay Con ma (F-4 Phantom).

8. Máy bay tiêm kích Su-27: 2,35М

Máy bay tiêm kích đa năng cơ động cao của Liên Xô, do Viện OKB Sukhoi phát triển và dùng để giành ưu thế trên không.

Nhờ có khả năng điều khiển vector lực kéo, máy bay có thể thực hiện các thao tác cơ động kỳ diệu như “Rắn hổ mang” và “Vòng tròn Frolov” (bay vòng tròn lộn ngược). Các thuật bay cao cấp cho thấy khả năng giữ máy bay rơi khi ở các góc tấn vượt quá góc tới hạn.

9. Máy bay tiêm kích đa năng MiG-23: 2,35М


Máy bay tiêm kích đa năng của Liên Xô có cánh dạng hình học thay đổi. MiG-23 đã tham gia nhiều cuộc xung đột vũ trang những năm 1980.

Tốc độ tối đa ở độ cao lớn: 2,35М

10. Máy bay tiêm kích F-14D Tomcat của Grumman: 2,34М


Khác với các biến thể trước đó, biến thể F-14D có radar mạnh hơn AN/APG-71 của Hughes, cho phép bám 24 mục tiêu, bắt và phóng tên lửa đồng thời chống 6 mục tiêu trong số đó, ở các độ cao và cự ly khác nhau, có thiết bị avionics và cabin cải tiến. Tổng cộng, đã chế tạo 37 máy bay loại này, ngoài ra có 104 F-14A được nâng cấp thành F-14D.

>> Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Mỹ nhận lệnh phá hủy



Cơ quan báo chí Không quân Mỹ cho hay, vụ thử nghiệm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Minuteman III tại California đã thất bại.



Phóng thử tên lửa đạn đạo Minuteman III




Mô phỏng quá trình hoạt động của tên lửa Minuteman-III.


Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Minuteman III được phóng tại căn cứ không quân Vandenberg vào hồi 3h1 ngày 27/7 giờ địa phương.

Sau khi rời bệ phóng 6 phút, các chuyên gia phát hiện tên lửa bay lệch các tham số cho trước.

Để tránh các hậu quả đáng tiếc xảy ra, các chuyên gia đã quyết định phá hủy tên lửa trên Thái Bình Dương ở khu vực đảo san hô vòng Kwajalein tại quần đảo Marshall, AP cho biết.

Hiện nguyên nhân thất bại chưa được xác định. Tuy nhiên, Không quân Mỹ khẳng định, các nhân viên đã hành động đúng hướng dẫn không để xảy ra sai xót nào. Đây là vụ thử tên lửa Minuteman III lần thứ 2 trong tuần gần đây từ bệ phóng cố định tại căn cứ Vandenberg gặp rắc rối về kỹ thuật.

Ngày 22/7, khi còn trên bệ phóng, tên lửa không thể nhận lệnh phóng từ máy bay liên lạc Boeing E-6 Mercury và kết quả là Minuteman III không chịu nhúc nhích. Mặc dù, gặp sự cố nhưng tên lửa vẫn tiêu diệt mục tiêu ở đảo san hô vòng Kwajalein.

Tên lửa Minuteman III (tên gọi đầy đủ - LGM-30G Minuteman-III) là tên lửa đạn đạo xuyên lục địa được bố trí tại căn cứ mặt đất, hiện được biên chế cho Không quân Mỹ.

Theo một số nguồn tin công khai, Không quân Mỹ đang sở hữu 500 tên lửa dòng này với 550 đầu đạn hạt nhân.

Hiện nay, tên lửa Minuteman III thường trực chiến đấu tại các căn cứ North Dakota, Wyoming và Montana. Một vài năm gần đây, tên lửa Minuteman III đang trải qua quá trình nâng cấp, do vậy Không quân Mỹ thường xuyên tiến hành thử nghiệm loại tên lửa này.

[BDV news]


>> Nga hiện đại hóa radar đóng ở Azerbaijan



Theo hãng tin ITAR - TASS, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov đã đưa ra đề xuất tiếp tục khai thác trạm radar Gabala trên lãnh thổ Azerbaijan.




Trạm Gabala đóng vai trò quan trọng trong hệ thống phòng thủ tên lửa của nước Nga.


Tuyên bố này được đưa ra trong cuộc gặp gỡ giữa ông Anatoly Serdyukov và Bộ trưởng Quốc phòng Azerbaijan Safar Abiyev.

Ông Serdyukov cho biết thêm, “Về trạm radar Gabala, chúng tôi đã đề xuất chuẩn bị mở rộng và nâng cấp hơn nữa. Nga có kế hoạch rõ ràng để hiện đại hoá trạm radar Gabala”.

Sau ngày 15/8, người đứng đầu Bộ Quốc phòng Nga sẽ thảo luận chi tiết từng điểm của thỏa thuận về việc khai thác trạm radar Gabala với Bộ trưởng Quốc phòng Azerbaijan. Tại cuộc thảo luận rộng rãi sẽ thông qua các vấn đề gia hạn hợp đồng cho thuê và ký một thỏa thuận mới.

“Chúng tôi cũng sẽ thảo luận các vấn đề liên quan đến hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực quân sự và kỹ thuật - quân sự. Chúng tôi đã có một mối quan hệ khá tốt đẹp trong các lĩnh vực này. Chúng tôi sắp kết thúc kế hoạch của năm 2010, còn kế hoạch năm 2011, chúng tôi tự tin rằng sẽ thực hiện tất cả kế hoạch đó theo lịch trình," ông Serdyukov nói.

Năm 2002, Nga đã thuê trạm Gabala đặt trên đất Azerbaijan với giá 14 triệu USD/năm với thời hạn hợp đồng 10 năm (hết hạn vào tháng 12/2012). Nga sử dụng trạm radar này để kiểm soát khoảng không vũ trụ phía nam của mình và cảnh báo sớm các tên lửa đạn đạo từ Iran, Pakistan và Ấn Độ.

Trạm radar Gabala (hay còn gọi là Trung tâm phân tích thông tin DTV) bắt đầu được xây dựng từ năm 1976 và đưa vào sử dụng năm 1985. Các chỉ số kỹ thuật có khả năng hoạt động đến năm 2012.

Phạm vi hoạt động của trạm radar lên đến 8.000 km, có thể phát hiện các vụ phóng tên lửa và theo dõi quỹ đạo bay của chúng từ tận Ấn Độ Dương cũng như kiểm soát toàn bộ không phận Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, Ấn Độ và tất cả các quốc gia Trung Đông.

Cấu tạo trạm Gabala là trung tâm ăng ten mảng pha với kích thước 100x100 m, đảm bảo phát hiện các mục tiêu ở khoảng cách 6.000 km với phương vị quan sát 110 độ.
Gabala có tốc độ, độ chính xác cao, khả năng miễn dịch tiếng ồn. Gabala có thể phát hiện và theo dõi khoảng 100 mục tiêu cùng lúc.

Hiện nay có 1.400 binh lính Nga có mặt tại để bảo vệ và duy trì hoạt động cho trạm. Các vấn đề về trạm radar Gabala đã thường xuyên là chủ đề của các cuộc tranh luận nội bộ, cả trong quốc hội Azerbaijan.

[BDV news]


>> Hé lộ về lực lượng tuyệt mật của Liên Xô (kỳ 1)



Phương Tây có rất nhiều thông tin về lực lượng trinh sát đặc nhiệm công kích và chống phá hoại của nhưng hầu như không có chút thông tin nào về đặc nhiệm Hải quân Liên Xô.

Rõ ràng, việc không chút thông tin nào của các lực lượng đặc nhiệm hải quân phản ánh trạng thái giữ bí mật tuyệt đối về các lực lượng đặc nhiệm này.

Thứ nhất: Trong lĩnh vực huấn luyện chiến đấu, chiến thuật triển khai các hoạt động tác chiến, trang thiết bị kỹ thuật và vũ khí trang bị của Liên Xô đã vượt cả các nước trong khối quân sự Bắc đại tây dương.

Thứ hai: trong những năm 1970 – 1980 các lực lượng đặc nhiệm Hải quân Liên Xô đã tham chiến trong nhiều nước trên thế giới (ví dụ như Angola, Arab, Nicaragoa, Etyopia và nhiều khu vực có xung đột khác). Nhận trách nhiệm cho những hoạt động của họ thông thường là lực lượng đặc nhiệm hoặc lực lượng quân đội của các nước bạn bè hữu nghị với Liên Xô. Nói chung, những hoạt động của đặc nhiệm Hải quân Liên Xô thời điểm đó là tối mật.




Delphin tập kích từ biển chống hải tặc với súng lục đặc biệt.


Lịch sử hình thành lực lượng đặc nhiệm hải quân Liên Xô bắt đầu bằng một câu chuyện. Tháng 10/1955 tuần dương hạm Liên Xô mang tên nhà cách mạng Gruzia Ordzhonikidze cập cảng Portsmouth của nước Anh.

Trên boong tầu có 2 nhà lãnh đạo Liên Xô, Khrushchev và Bulganin. Các lãnh đạo Liên Xô có cuộc gặp gỡ và hội đàm với thủ tướng nước Anh ở London. Trong thời gian tuần dương hạm Ordzhonikidze đỗ trên bến cảng, một thợ lặn, đại úy hải quân bậc II Hoàng gia Anh Lionel Crabb đã lặn xuống bên dưới của chiến hạm.

Các chuyên gia quân sự Hải quân Hoàng gia Anh rất quan tâm đến cấu trúc thiết kế của chân vịt chiến hạm, các chuyên gia cho rằng nhờ có cánh quạt chân vịt hợp lý mà chiến hạm Liên Xô có khả năng đạt tốc độ 35 hải lý/giờ trong trạng thái hoạt động hải trình tiết kiệm của động cơ tuốc bin.

Nhưng nhiệm vụ tình báo công nghiệp của ngài đại úy hải quân Crabb đã bị tình báo Liên Xô phát hiện. Khi vị sĩ quan Anh "tò mò" với thiết kế ở phần đuôi tàu, cánh quạt chân vịt chiến hạm "vô tình" quay vài vòng và ngài Crabb tử thương. Phía Hải quân Liên Xô lấy làm rất tiếc và vô cùng xin lỗi.

Các cán bộ chuyên viên của Bộ quốc phòng Liên bang Liên Xô sau sự kiện đó đã nghiên cứu vấn đề cần phải thành lập lực lượng đặc nhiệm trinh sát công kích của lực lượng hải quân. Tổ nghiên cứu phương án thành lập đội đặc nhiệm bắt đầu làm việc.

Cuối cùng vào năm 1957, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái G.K Giucov ra mệnh lệnh thành lập lực lượng đặc nhiệm Hải quân. Nhưng sau khi bị thuyên chuyển, những hoạt động liên quan đến việc thành lập đặc nhiệm Hải quân bị dừng lại.



Delphin tập kích bằng ngư lôi cao tốc Sirena.


Chỉ đến năm 1967, có nghĩa là 10 năm sau, mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Hải quân Liên Xô về việc thành lập đội huấn luyện thợ lặn hải quân của hạm đội Cờ đỏ Biển Đen được thực hiện.

Nhiệm vụ theo chương trình đặt ra của đội huấn luyện thợ lặn hải quân là thử nghiệm các thiết bị lặn ngầm, triển khai các hoạt động huấn luyện lặn ngầm, thực hiện các công việc dưới nước trong vùng nước của các căn cứ hải quân, nghiên cứu địa hình bờ biển…

Nói chung, những nhiệm vụ thường xuyên dưới nước của các phân đội bảo đảmgiữ bí mật với cấp trên, họ luyện tập theo một chương trình riêng biệt. Trong những cuộc tập trận lớn về đổ bộ đường biển, lực lượng lặn ngầm hải quân đã thể hiện hoàn toàn bất ngờ.

Các chiến sỹ đặc công nước không chỉ trinh sát địa điểm đổ bộ thích hợp nhất, họ còn chiếm luôn bàn đạp đầu cầu. Xuất hiện từ dưới nước, ở chỗ chẳng có ai ngờ, lực lượng lặn ngầm đã đè bẹp mọi ổ hỏa lực của đối phương, tiêu diệt các xe tăng và pháo tự hành, pháo bờ biển, cắt toàn bộ đường liên lạc hữu tuyến và vô tuyến.

Không những thế, lực lượng lặn ngầm đã sử dụng rất thông minh và hiệu quả chất nổ và súng tiểu liên, khả năng tác chiến tuyệt vời của lực lượng người nhái đã làm cho tất cả các tướng lĩnh và nguyên soái, những người mang trên vai kinh nghiệm từ đại chiến thế giới lần thứ 2 kinh ngạc đến không giới hạn. Căn cứ vào những kết quả đạt được trong các cuộc diễn tập.

Chỉ lệnh Bộ quốc phòng cho phép chuyển đổi đội huấn luyện thợ lặn hải quân thành lực lượng đặc nhiệm hải quân người nhái (viết tắt là PDSS).

Vào năm 1969 các đội PDSS được thành lập trong biên chế của Hạm đội Ban Tích, hạm đội Вiển bắc, hạm đội Thái bình dương. Các lực lượng chống đặc nhiệm ngầm được thành lập tại tất cả các căn cứ hải quân lớn, đặc biệt là các căn cứ tầu ngầm trang bị tên lửa và ngư lôi với các đầu đạn hạt nhân.

Sau khi các lực lượng quân đội Liên Xô rút quân khỏi Đông Đức, Ba Lan, các nước vùng Ban Tich, sau khi hạm đội Biển Đen bị phân rã, một phần của lực lượng đặc nhiệm hải quân PDSS bị giải thể, ngoài ra, các lực lượng còn lại đều được biên chế lại với lực lượng hạn chế.



Thực hiện nhiệm vụ hải kích (tấn công từ biển).


Năm 1970, Trung tâm tình báo quân sự của Bộ tổng tham mưu GRU thành lập đơn vị trinh sát đặc nhiệm công kích hải quân với mật danh Delphin (Cá heo), là một đơn vị không có chiến sỹ, chỉ có sỹ quan và sỹ quan chuyên nghiệp, Denphin có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ tối mật chống lại các căn cứ quân sự hải quân nước ngoài.

Chiến thuật tác chiến, kỹ thuật và phương pháp huấn luyện, phương tiện, vũ khí, trang thiết bị - tất cả mọi vấn đề, các chuyên gia Liên Xô phải bắt đầu từ con số 0, thực tế những vấn đề cơ bản này trước đây chưa hề có, ngoại trừ một số những phương án tác chiến sáng tạo hoặc các cuộc thử nghiệm.

Dù như vậy, sau những năm phát triển, theo những thông số và báo cáo đạt được trong những nhiệm vụ trinh sát và phá hoại căn cứ đối phương, lực lượng Delphin không những đuổi kịp các lực lượng đặc nhiệm của Hải quân Mỹ, Anh, Pháp, Liên bang Đức, Italy mà còn vượt hẳn họ về khả năng tác chiến và hoàn thành nhiệm vụ.

Tuyển chọn vào lực lượng PDSS chủ yếu là lực lượng lính thủy đánh bộ - tình nguyện, được sự giới thiệu của các sỹ quan chỉ huy. Người dự tuyển cần phải có tinh thần rất vững vàng, có khả năng giữ bình tĩnh trong các tình huống khắc nghiệp, không sợ bóng đêm, không gian đóng kín, cô độc.

Họ có khả năng chịu đựng những tải trọng lớn, chịu được áp lực nước ở độ sâu đáng kể hơn 40m, sự thay đổi áp suất qua các tầng nước sâu.

[BDV news]


>> Trung Quốc phát triển tàu ngầm tấn công động lực hạt nhân



Trung Quốc có thể đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc phát triển tàu ngầm tấn công Type-095. Trang mạng Milchina đã tiết lộ sự phát triển của tàu ngầm này.




Type-095 có khả năng mang theo các tàu ngầm tấn công không người lái để tiến hành các cuộc tấn công ở độ sâu tới 1.100 mét. Ảnh minh họa


Trang mạng Milchina cho biết, tàu ngầm hạt nhân tấn công Type-095 đang bước vào giai đoạn phát triển đầu tiên.

Đây là thế hệ tàu ngầm hạt nhân thứ 3 của Trung Quốc và sẽ là một bất ngờ lớn đối với phương Tây.

Trong hạm đội tàu ngầm Trung Quốc, đang thiếu những tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân. Loại tàu ngầm hạt nhân tấn công duy nhất hiện này là Type-093 tồn tại khá nhiều nhược điểm. Độ ồn khi hoạt động tương đối lớn, tàu dễ bị phát hiện bởi các loại sonar hiện đại.

Sự cần thiết phải bổ sung thêm đội tàu ngầm hạt nhân tấn công càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bở tàu sân bay Thi Lang sắp được hoàn thành, cần có thêm nhiều tàu ngầm để bảo vệ cho tàu sân bay này.

Dự án phát triển tàu ngầm hạt nhân tấn công mới Type-095 được khởi đóng vào năm 2010. Tàu được thiết kế để có thể hoạt động ở độ sâu từ 300-450 mét. Ngoài ra tàu ngầm Type-095 còn có khả năng triển khai tàu ngầm tấn công không người lái. Ứng dụng công nghệ dẫn hướng bằng cáp quang hiện đại, tàu ngầm tấn công không người lái có thể tiến hành các cuộc tấn công từ độ sâu tới 1.100 mét.

Hiện trên thế giới, chỉ có Hải quân Mỹ có thể tiến hành các cuộc tấn công ở độ sâu tương tự. Việc đạt được khả năng tấn công từ 1.100 mét sẽ cho phép Trung Quốc ngăn chặn các cuộc tấn công tiềm tàng từ các tàu ngầm hạt nhân tấn công của Mỹ.

Dự kiến tàu sẽ được đưa vào sử dụng trong năm 2020, và đây sẽ là lực lượng bảo vệ chính dưới nước cho nhóm tác chiến tàu sân bay Trung Quốc trong tương lai.

Theo thông tin được công bố bởi Thời báo Đài Bắc (Taipei Times), tàu ngầm tấn công Type-095 sẽ được thiết kế theo các công nghệ của phương Tây chứ không dựa vào công nghệ Nga như các thế hệ tàu ngầm trước đây. Độ ồn khi hoạt động sẽ giảm xuống đáng kể, đạt mức của tàu ngầm lớp Akula đời đầu của Nga.

Tuy nhiên, một số nhà phân tích phương Tây nhận định độ ồn của Type-095 chỉ ở mức tương đương hoặc nhỉnh hơn một chút so với tàu ngầm lớp Victor-III của Nga.

Tàu ngầm Type-095 sẽ được trang bị 6 ống phóng ngư lôi 533 hoặc 650mm. Tương tự Type-093, ống phóng này có khả năng phóng tên lửa chống hạm tầm xa HY-4, tầm bắn từ 300-500km, được công ty công nghệ cơ điện Sea Eagle phát triển.

Ngoài ra, tàu ngầm Type-095 cũng có thể được triển khai một biến thể phức tạp của tên lửa hành trình HY-4 có tầm bắn khoảng 3.000km. Song khả năng này được cho là nhầm lẫn với một dự án tàu ngầm hạt nhân chiến lược mới Type-096.

Hiện tại, tàu ngầm này được cho là đang bước vào giai đoạn phát triển đầu tiên, mọi thông tin có được đều ở mức dự đoán và không có gì là chắc chắn và cụ thể. Đó cũng là tình hình chung của tất cả các loại vũ khí được phát triển tại Trung Quốc trong thời gian gần đây.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang