Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Washington DC

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Washington DC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Washington DC. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2011

>> Thời của Mỹ đã qua, sắp tới là thời của Trung Quốc?



[BDV news] Trong bối cảnh báo giới nước ngoài dồn dập đưa tin về “ngày tàn” của Washington, truyền thông Mỹ cũng phải thừa nhận, cường quốc số 1 thế giới đang “tụt dốc không phanh”.

Trang bìa của Foreign Policy mới đây chạy dòng tít “Mỹ hết thời. Đó là sự thật”, trong đó tác giả Gideon Rachman nhấn mạnh, Washington sẽ không còn có được cảm giác “cầm trịch” như trong thời gian 17 năm từ khi Liên Xô tan rã đến khi cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra hồi năm 2008.

Cùng quan điểm này, TIME, tạp chí nổi tiếng của Mỹ cũng “giật tít": “Vâng, quả thực là nước Mỹ đang trượt dốc”. Tác giả của bài báo này là Fareed Zakaria, chuyên gia phân tích chính sách đối ngoại danh tiếng của Mỹ.

Ông Fareed Zakaria khẳng định, người Mỹ dường như không thể trụ vững trước những “giông tố đang ập đến”. Ngoài ra, chuyên gia này cho rằng, những thay đổi về kinh tế và chính trị của Mỹ hiện nay giống như việc sắp xếp lại bàn ghế trên con tàu Titanic.

Tuy nhiên, không phải đến bây giờ người Mỹ mới “ngộ” ra thực tế bi quan này. Từ năm 1988, kênh truyền hình Cassandras đưa ra hàng loạt số liệu chứng minh cho nhận định bi quan của mình.

Cụ thể, Washington tụt hạng từ thứ nhất xuống vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng các quốc gia đầu tư cho nghiên cứu và phát triển nhiều nhất. Ngoài ra, tiết kiệm trong nước rớt xuống thứ hạng 84 và tuổi thọ trung bình xuống vị trí 27. Không chỉ vậy, tỷ lệ tốt nghiệp ĐH không ngừng suy giảm cũng đẩy Mỹ từ ngôi vị số 1 xuống thứ 12.

Cùng thời điểm đó, học giả Paul Kennedy cũng gây chấn động dư luận với nhận định thời hoàng kim của Mỹ đã qua và Washington sắp rớt xuống vị trí thứ 2 trong cuốn “Thăng trầm quyền lực” của mình.

Theo ông Paul, sự tụt dốc của Mỹ có thể chậm lại song không thể đảo chiều. Chuyên gia này còn quả quyết: “Tốc độ xuống dốc của Mỹ còn cao hơn Nga trong vài thập kỷ qua”. Không lâu sau khi cuốn sách được xuất bản, bức tường Berlin sụp đổ và sau đó là sự tan rã của Liên Xô.



TIME thừa nhận sự xuống dốc của Mỹ.

Giới quan sát cho rằng, cơ sở cho những nhận định bi quan của giới học giả Mỹ cả trước đây và bây giờ chính là sự đe dọa của một cường quốc khác đối với vị trí số 1 của Mỹ.

Nếu như giới chuyên gia Mỹ trước đây lo ngại về mối nguy từ Liên Xô thì dư luận Washington hiện “cảnh giác” với Trung Quốc. Theo kết quả thăm dò của Gallup hồi tháng trước, 52% người Mỹ cho rằng, Trung Quốc là cường quốc kinh tế số 1 thế giới.

Trái ngược với tâm lý bi quan của dư luận Mỹ, Tổng thống Obama dường như vẫn rất tin tưởng vào vị thế của Mỹ. “Tôi tin rằng, chúng ta có đủ nguồn lực trong tay để có thể phát triển hơn nữa và chứng tỏ cho thế giới thấy rằng, thế kỷ 21 vẫn là thế kỷ của nước Mỹ”.

Tuy nhiên, theo nhà phân tích Bernd Debusmann của Reuters, nhận định của ông Obama có đúng hay không phải đến năm 2030 mới rõ.


Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

>> Vì sao Mỹ dùng vũ lực với Libya, còn Yemen và Bahrain thì không?


[BDV news] Cả ba nước đều sử dụng vũ lực để "xử lý" các cuộc biểu tình nhưng Mỹ chỉ lên kế hoạch phản ứng quân sự với mỗi Libya. Hai nước còn lại chỉ bị phản đối bằng lời bởi họ là đồng minh của Mỹ.

Khi cuộc nổi dậy lan ra khỏi Bắc Phi thì Washington tỏ ra thận trọng với cách tiếp cận riêng biệt đối với mỗi nước bởi sự ổn định tại các quốc gia giàu dầu mỏ dường như quan trọng hơn là hy vọng của Mỹ về các phong trào phản kháng.

Cụ thể, Yemen có ý nghĩa rất quan trọng đối với Washington trong cuộc chiến chống al-Qaeda. Điều này khiến chính quyền Obama phải hết sức thận trọng trong việc gây áp lực tới đâu đối với Tổng thống Yemen Ali Abdullah Saleh.

Nói cách khác, “Mỹ rất sợ rằng nếu ông Saleh đi, Yemen sẽ sụp đổ”, bà Marina Ottaway, Giám đốc chương trình Trung Đông tại Carnegie Endowment for International Peace ở Washington nhận định. Tương tự, ở Bahrain, Mỹ có căn cứ hải quân lớn nên cũng không phản ứng quân sự.

“Mỹ luôn luôn thuyết giảng những giá trị mà chính họ không thể sống theo. Cuối cùng thì quyền lợi của Mỹ luôn là trên hết”, bà Marina khẳng định.



Mỹ chỉ lên kế hoạch phản ứng quân sự với mỗi Libya. Ảnh minh họa.

Ngay cả với Libya, sự thận trọng mới cũng đang được thể hiện. Chính quyền ngần ngại một thời gian trong việc ủng hộ quyết định áp dụng vùng cấm bay, bởi lo ngại rằng điều này có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh thứ ba của My tại một quốc gia Hồi giáo, sau Afghanistan và Iraq.

Và Mỹ chỉ quyết định việc này sau khi nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia Arab và các đồng minh châu Âu.

Và hiện vẫn chưa rõ Mỹ sẽ đóng góp quân sự tới mức nào đối với khu vực cấm bay được Liên Hiệp Quốc hậu thuẫn, cũng như chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông Gaddafi thành công trong việc níu giữ quyền lực.

Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử và làn sóng biểu tình tràn qua khu vực, người ta có thể nói rằng thận trọng là một chính sách hợp lý, nếu nhìn từ quan điểm Mỹ.

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

>> Trung Quốc triển khai 'siêu' tên lửa nhắm vào Đài Loan



Cục trưởng Cục an ninh Đài Loan Tsai Teh-sheng vừa thông báo: “Trung Quốc triển khai loại tên lửa mới, rất mạnh là Đông Phong 16 nhắm vào Đài Loan. Đây là tên lửa tầm xa và nó tăng sự đe dọa Đài Loan”.
Ông Tsai từ chối cung cấp thông tin chi tiết về kỹ thuật của tên lửa mới của Trung Quốc; cũng như số lượng tên lửa mà Trung Quốc triển khai nhưng khẳng định Đông Phong 16 là tên lửa mạnh nhất của Bắc Kinh từng nhắm vào Đài Bắc.




Nhiều chuyên gia quân sự Đài Loan dự đoán Trung Quốc hiện có hơn 1.600 tên lửa nhắm vào hòn đảo này. Chúng chủ yếu được đặt ở Phúc Kiến và Giang Tây.

Liberty Times dẫn một nguồn tin quân sự Đài Loan giấu tên cho biết, ngoài việc tăng số tên lửa, Trung Quốc còn sửa chỉnh sửa nhiều máy bay chiến đấu cũ, biến chúng thành những máy bay không người lái với sự trợ giúp công nghệ của Israel. Mục đích cuối cùng là giúp các chiến đấu cơ này thoát khỏi hệ thống phòng không Đài Loan và tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trên đảo.

Ở tầm cao hơn, Trung Quốc triển khai 45 trong tổng số 60 vệ tinh trên vũ trụ thu thập tin tức tình báo cho các hoạt động quân sự.

Nhà phân tích Lin Cheng-yi của Học viện Academia Sinica khẳng định, Trung Quốc không còn diễn tập quân sự ở Phúc Kiến, khu vực đối diện Đài Loan mà chuyển sang các khu vực khác nhưng Bắc Kinh chưa bao giờ dừng việc tăng cường sức mạnh vũ trang, gia tăng các hoạt động quân sự tại các khu vực miền Nam, Bắc, thậm chí là phía Đông Đài Loan, tới tận Guam.

Còn theo Bộ Quốc phòng Mỹ, từ khi ông Mã Anh Cửu lên lãnh đạo Đài Loan, quan hệ đôi bờ ấm hẳn lên nhưng Trung Quốc vẫn chưa loại trừ khả năng dùng quân đội thống nhất Đài Loan.


Quan hệ đôi bờ ấm lên nhưng Trung Quốc vẫn tăng cường vũ khí nhắm vào Đài Loan.

Do đó, Đài Loan rất tích cực tăng cường vũ trang nhưng do "ngại" Trung Quốc, chẳng mấy nước dám bán cho Đài Loan thứ gì, ngay cả Mỹ cũng không phải ngoại lệ.

Tới nay, Washington chuyển giao cho đảo một số loại vũ khí và mỗi lần làm vậy, họ lại bị Trung Quốc phản đối gay gắt. Điển hình là thương vụ bán 6,4 tỷ USD vũ khí cho Đài Loan hồi tháng 1/2010, khiến quan hệ Bắc Kinh-Washington lạnh nhạt.

Sau vụ này, có lẽ Mỹ "chùn tay" nên từ đó tới nay, Mỹ chỉ làm rất ít để đối phó với tình trạng mất cân bằng về quân sự ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc với Đài Loan.

(theo AP news )

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2011

>> Trung Quốc có phải là kẻ hiếu chiến? (1)



Sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc gần đây đối với biển Hoa Đông và Biển Đông và dọc biên giới Trung - Ấn đã làm dấy lên một cuộc tranh cãi gay gắt. Phải chăng Bắc Kinh cuối cùng sẽ chứng tỏ mong muốn đòi chiếm đất thực sự?

Phải chăng chỉ là cách thể hiện trong một thời gian ngắn của chủ nghĩa dân tộc trong bối cảnh các lãnh đạo đang chạy đua vào các vị trí ở Bộ Chính trị và Ủy ban trung ương Đảng năm 2012, hay đây là những đoạn hồi rời rạc cho thấy một sự tiếp diễn hơn là thay đổi?

Chính sách đối ngoại dựa trên phát triển hòa bình và hài hòa xã hội
Tôi sẽ bắt đầu bằng cách nhấn mạnh rằng việc đánh giá tình hình đối ngoại của chúng ta dựa trên các trụ cột cơ bản của chủ nghĩa xã hội với các đặc trưng Trung Quốc, phát triển hòa bình và tạo một xã hội hài hòa. Ưu tiên cao nhất của chúng ta kể cả trong chính sách đối ngoại là củng cố các trụ cột này trong nước.



Những mối đe dọa lớn nhất đối với sự ổn định mà chúng ta đang phải đối mặt vẫn là từ bên trong. Tôi không cần nhắc nhở các thành viên Ban lãnh đạo Đảng rằng mỗi năm chúng ta có hơn 20 triệu người di cư ra thành phố tìm việc làm, rằng chúng ta đang phải đối mặt với sự chênh lệch kinh tế ngày càng lớn giữa các tỉnh duyên hải và các tỉnh phía Tây; rằng bức tranh dân số sẽ biến thiên nghiêm trọng trong thập kỷ tới; các vấn đề sinh thái và môi trường đang gia tăng; nguyên liệu đầu vào năng lượng và hàng hóa trong năm qua vẫn chưa chắc chắn; và chúng ta cần phải luôn luôn cảnh giác trước những bong bóng và sức nóng quá mức trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mình.

Các mối đe dọa lớn nhất đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng là từ bên trong, nhưng đó là nhờ các mối liên hệ bên ngoài nguy hiểm. Tôi muốn nói đến những nguy cơ của chủ nghĩa ly khai ở Tân Cương, Tây Tạng và Đài Loan.

Cách đây hai năm, trong bài báo cáo của mình, tôi bắt đầu bằng vấn đề Đài Loan, nhưng nay người đứng đầu chính quyền Đài Loan Mã Anh Cửu đã quay lưng lại với các hành động đòi độc lập nguy hiểm của chính quyền DPP tiền nhiệm, và hiện chiến lược của chúng ta nhấn mạnh tới sự phát triển hòa bình để thúc đẩy thống nhất đã đạt được một số tiến bộ. Tuy nhiên, chủ nghĩa ly khai ở Tân Cương và Tây Tạng đang trở thành những vấn đề cấp bách hơn, dù tình hình đã bình yên hơn trong một năm vừa qua tại các khu vực này.

Kiềm chế và đảo ngược các xu hướng ly khai này sẽ tiếp tục cho thấy các chiến lược chính sách đối ngoại của chúng ta trong bối cảnh các đồng nghiệp của tôi tại Ban Mặt trận Thống nhất và Văn phòng các vấn đề về Đài Loan đang nỗ lực bảo vệ chính sách một Trung Quốc và đề phòng một sự đảo ngược của các xu hướng có lợi trong 5 thập kỷ qua.

Chiến lược chính sách đối ngoại của chúng ta vận hành theo nguyên tắc phát triển hòa bình và xã hội hài hòa. Chúng ta sẽ tận dụng tối đa các thể chế và diễn đàn quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, ASEAN + 3, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và các cuộc đàm phán sáu bên để ngăn chặn chủ nghĩa đơn phương của Mỹ hoặc các cường quốc khác và bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ, duy trì một xã hội quốc tế hài hòa và thế giới đa cực. Đồng thời, chúng ta sẽ khẳng định lại các lợi ích cốt lõi ở Biển Đông và các vùng lân cận phù hợp với sức mạnh đang lớn dần của chúng ta.

Quan hệ quan trọng nhất: Mỹ
Như Chủ tịch Hồ Cầm Đào đã tuyên bố tại cuộc gặp các Đại sứ của Trung Quốc ở nước ngoài hồi năm ngoái, cách xử lý thận trọng quan hệ Trung - Mỹ sẽ vẫn là trụ cột chính cho một chiến lược chính sách đối ngoại thành công. Chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm một "đối tác chiến lược" với Washington về lâu dài, dù phải thừa nhận rằng chính quyền của Obama không sẵn lòng sử dụng cụm từ này hơn Bush.

Chúng ta vẫn chống lại những lời kêu gọi của các chuyên gia nước ngoài về việc thành lập một G-2 giữa Mỹ với Trung Quốc, vì điều này sẽ đẩy chúng ta vào cái bẫy trách nhiệm quốc tế có thể không phù hợp với chủ trương phát triển hòa bình và xây dựng một xã hội hài hòa.

Tuy nhiên, chúng ta sẽ tiếp tục hướng tới một chế độ quản lý chung hai cực với Washington, dựa trên sự tôn trọng các lợi ích cốt lõi của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ, và sự nhận thức rằng Trung Quốc đã trở thành trung tâm quyền lực quan trọng nhất ở châu Á.

Chúng ta cũng thận trọng đánh giá chính quyền Obama. Tất cả các ứng cử viên tổng thống Mỹ ở phe đối lập, kể từ thời Nixon, đều sử dụng "quân bài Trung Quốc" - hứa hẹn một chính sách cứng rắn hơn về nhân quyền hoặc Đài Loan nếu đắc cử. Các ứng cử viên McCain và Obama đã không động đến chiến lược đe dọa Trung Quốc và dường như sau khi trở thành tổng thống, Obama mới có khả năng xây dựng trên mối quan hệ ổn định mà Bush để lại.

Các dấu hiệu ban đầu từ Washington cho thấy Obama sẽ cam kết tự kiềm chế, thừa nhận gánh nặng lớn của Mỹ ở Iraq và Afghanistan và các xu hướng suy giảm trong nền kinh tế Mỹ. Obama cũng dường như lo lắng về các mâu thuẫn bên trong như hệ thống chăm sóc y tế của Mỹ. Lời hứa đảm bảo chiến lược của ông và sự trì hoãn các cuộc gặp với thủ lĩnh tinh thần của người Tây Tạng Đạt lai Lạt ma, cũng như việc hoãn bán vũ khí cho Đài Loan có vẻ như cho thấy ông hiểu tương quan sức mạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng. Tuyên bố chung tháng 11/2009 với thỏa thuận tôn trọng "các lợi ích cốt lõi" của nhau là một thành tựu lớn trong bối cảnh chúng ta đang tìm cách ngăn cản Mỹ hoãn thực hiện Tuyên bố chung về việc bán vũ khí cho Đài Loan.

Tuy nhiên, có thể chúng ta đang hiểu sai về chính quyền Obama. Dấu hiệu đầu tiên cho thấy một đường lối cứng rắn hơn là bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tại đối thoại Shangri-la ở Singapore tháng 6 vừa qua, mở lại cái được gọi là học thuyết "mối đe dọa Trung Quốc". Cuộc đối thoại kinh tế và chiến lược Mỹ - Trung hồi tháng Năm đã thành công, song quan điểm của chính quyền Mỹ còn cứng rắn hơn trước. Có vấn đề nhất là bài phát biểu của Ngoại trưởng Clinton tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), trong đó bà đứng về phía Việt Nam và các nước Đông Nam Á để chống lại "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc ở Nam Hải (mà Việt Nam gọi là biển Đông - người dịch). Chúng ta sẽ có thể trung hòa Philippines trong cuộc tranh cãi này bằng cách sử dụng các kênh và quỹ thông thường, nhưng Việt Nam, Malaysia và cả Indonesia dường như hoan nghênh sự can thiệp không có cơ sở của bà Clinton và logic chiến tranh Lạnh của bà về quyền tự do hàng hải.

Cách tiếp cận mặt trận liên minh để ổn định các quan hệ với Washington cũng đang thay đổi. Trong quá khứ, cộng đồng doanh nhân Mỹ hiểu rõ quan điểm của Trung Quốc và chống chủ nghĩa bảo hộ, ủng hộ các yếu tố bè phái hoặc chính sách ngăn chặn tại Mỹ. Nhưng gần đây, một số bộ phận trong cộng đồng doanh nhân đã tham gia học thuyết "mối đe dọa Trung Quốc" khi than phiền rằng các chính sách phát triển kinh tế hợp pháp, như cải tiến bản địa, là một dạng bảo hộ.


Ảnh: Telegraph.co.uk

Nói chung, chúng ta nên đánh giá sức mạnh Mỹ một cách thận trọng. Trong quá khứ chúng ta đôi lúc đã đánh giá quá cao sức mạnh Mỹ - ví dụ sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh - nhưng đôi khi cũng đánh giá thấp sức mạnh này. Chúng ta đã rất ngạc nhiên rằng chỉ vài năm sau khi Mỹ rút quân khỏi Somalia, chính quyền Clinton đã huy động một lực lượng do NATO dẫn đầu tấn công Serbia dưới danh nghĩa bảo vệ quyền tự quyết và nhân quyền cho Kosovo. Đây là một tiền lệ đáng ngại.

Bài học cho chúng ta là Mỹ đã từng là một cường quốc kiên cường về lịch sử. Tình trạng suy yếu của Mỹ do tình hình tài chính hiện nay và các cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan gây ra, rõ ràng sẽ thúc đẩy chủ nghĩa đa cực. Chúng ta có thể đẩy nhanh xu hướng này, nhưng không phải là bất chấp nguy cơ đối đầu với Mỹ. Chúng ta cũng không nên dựa quá nhiều vào các trông chờ trong nước rằng có thể uốn Mỹ theo cách của mình.

Việc mua trái phiếu chính phủ Mỹ đã đặt chúng ta vào một tình huống bấp bênh hơn nhiều so với Bộ Tài chính ở Washington. Chúng ta đã cho phép định giá lại đồng nhân dân tệ, nhưng vẫn chưa sẵn sàng chuyển sang một hệ thống tỷ giá hối đoái do thị trường ấn định hay tạo ra lượng cầu hàng hóa nội địa để bù vào lãi suất tiết kiệm cao hơn của Mỹ.

Giả định thực tế của chúng ta phải là Mỹ sẽ vẫn là trung tâm quyền lực nhất trong một thế giới đa cực trong ít nhất một thập kỷ nữa và Trung Quốc sẽ vẫn phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục trung thành với chỉ dẫn chiến lược của Đặng Tiểu Bình là "giấu mình chờ thời", trong khi tìm kiếm các cơ hội để "đạt được một điều gì đó".

(tổng hợp bdv)

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2011

>> Năng lực phòng thủ của Việt Nam



Trong bối cảnh an ninh vùng ngày càng phức tạp, Giám đốc Viện nghiên cứu quốc phòng Hudson tại Washington DC, Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam cần mở rộng phạm vi tìm đồng minh quân sự.




Tiến sĩ Richard Weitz đồng thời cũng là bình luận viên của trang Second Line of Defense. Trả lời phỏng vấn của BBC Tiếng Việt, ông đánh giá về năng lực quốc phòng của các quân binh chủng mà Việt Nam hiện có, cũng như các vấn đề liên quan đến khả năng Hà Nội mua vũ khí từ Washington.

Trước câu hỏi cần mua vũ khí tới mức nào là đủ sau khi Việt Nam đã đặt mua một số tàu ngầm hạng Kilo từ Nga để phòng thủ biển, Tiến sĩ Richard Weitz nhận xét:

Richard Weitz: Một mình Trung Quốc là đã đủ đè bẹp Việt Nam. Nhất là mấy năm gần đây, hải quân Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh trên nhiều phương diện. Họ vừa tự sản xuất vũ khí, vừa mua vũ khí từ Nga, nhiều hơn gấp nhiều lần lượng vũ khí Việt Nam mua.

Thế nên, có thể nói là Việt Nam đã áp dụng chiến lược "xù lông nhím". Tức là dương oai nhưng không làm tổn hại đến Trung Quốc nhằm tránh bị cuốn vào cuộc chạy đua vũ trang. Và Việt Nam có cả chiến lược cân bằng quyền lực từ bên ngoài nữa. Điều đó dễ nhận thấy.

Chẳng hạn như năm ngoái, Việt Nam tổ chức viếng thăm cảng, diễn tập quân sự. Vừa đủ để Bắc Kinh nghĩ rằng mình không nên dính dáng vào chiến tranh trên biển với Việt Nam bởi vì mình sẽ chịu một số thiệt hại, và có thể Hoa Kỳ còn can thiệp vào nữa.

BBC Tiếng Việt: Thế còn không quân Việt Nam thì sao? Chúng ta biết gì về lực lượng này?

Richard Weitz: Tôi nghĩ đây là bộ phận yếu nhất. Từ trước tới nay, không quân và hải quân yếu hơn cả trong số các binh chủng của quân đội Việt Nam.



Tiến sĩ Richard Weitz cho rằng với Việt Nam thì mua vũ khí từ Hoa Kỳ dễ hơn là nhận các khóa huấn luyện quân sự

Ngược lại, về phía Trung Quốc, như chúng ta vừa thấy trong vài tuần qua, họ đã và đang sản xuất thêm nhiều phi cơ có sức công kích mạnh mẽ. Thế nên tôi nghĩ giữ gìn an ninh không phận sẽ là phần khó khăn nhất.

Có lẽ Việt Nam dễ thua trên mặt trận này ngay từ lúc lâm trận, trừ khi có Hoa Kỳ hoặc bên nào đó can thiệp vào. Tuy nhiên chiến lược của Việt Nam là không gây chiến tranh với Trung Quốc mà giữ cho mình đủ mạnh để đề phòng những việc như vậy xảy ra.

BBC Tiếng Việt: Trong bài viết của mình, ông có nhắc đến việc chính quyền cộng sản Việt Nam thừa hưởng một số vũ khí từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũ và của cả Hoa Kỳ sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Khả năng Hoa Kỳ giúp Việt Nam nâng cấp kho vũ khí này tới đâu thưa ông?

Richard Weitz: Tôi nghĩ nâng cấp vũ khí thì dễ dàng hơn và rẻ hơn là bán cả kho vũ khí cho Việt Nam. Có nhiều lý do để Hoa Kỳ tham gia vào các dự án này, khác hẳn với cách làm của Nga hay của các nước cung cấp vũ khí truyền thống.

Tuy nhiên, cũng có một số hạn chế vì kho vũ khí xưa đã quá cũ kĩ. Thế nên nếu nâng cấp cũng không tăng thêm bao nhiêu năng lực quốc phòng của Việt Nam.

Tất nhiên, mục đích của việc đó là để phát tín hiệu cho Bắc Kinh thấy Hoa Kỳ có quan tâm tới Việt Nam, chứ không phải chỉ khoanh tay đứng nhìn một khi có chiến tranh xảy ra giữa Việt Nam và Trung Quốc.

BBC Tiếng Việt: Ông cũng đề cập đến những trở ngại hoặc chống đối từ các đồng minh Đông Nam Á của Hoa Kỳ như Singapore và Thái Lan. Tiếng nói của họ nặng ký đến đâu khi kêu gọi Hoa Kỳ ngừng bán vũ khí cho Việt Nam?

Richard Weitz: Cái đó còn tùy vào việc họ cảm thấy như thế nào trong quan hệ với Trung Quốc. Trong mắt họ, Việt Nam từng bị nhìn nhận là nước rất hung hãn (a very aggressive country), từng chiếm đóng Campuchia...Các nước láng giềng cũng đã từng có nỗi sợ về Việt Nam.


Hiện Nga là nước cung cấp phi cơ cho một số nước châu Á

Nhưng mấy năm gần đây Việt Nam cư xử có trách nhiệm hơn và chính sách đối ngoại cũng trở nên gắn bó với chiến lược của khối ASEAN, hòa nhập vào hướng đi chung của khối Đông Nam Á, ngoại trừ một số vấn đề đối nội.

Chính quyền Việt Nam, như chúng ta biết vẫn còn rất chuyên chế, hạn chế nhân quyền nhiều hơn các nước khác, chỉ không gay gắt bằng Miến Điện mà thôi.

Nhưng về mặt ngoại giao thì tôi nghĩ không có quan ngại gì thường trực về Việt Nam. Cho nên tùy vào việc các nước đó quan ngại tới đâu về Trung Quốc hay về Việt Nam hoặc các hành động mà hai nước này có thể gây ra.

Các nước láng giềng Đông Nam Á chắc chắn không muốn 'tái khởi động' (restart) chuyện Việt Nam bước vào con đường hung hãn.

Nhưng họ cũng không muốn Trung Quốc bước ra khỏi cách đi mà Bắc Kinh đã tuyên bố, đó là nước này sẽ không chủ động giải quyết xung đột với quốc gia trong khu vực bằng vũ lực.

BBC Tiếng Việt: Nhưng Việt Nam, theo nhận định của ông, chỉ là một khách hàng mua vũ khí tiềm năng của Hoa Kỳ. Họ phải làm gì để thay đổi hiện trạng để đạt được điều họ muốn từ Hoa Kỳ?

Dĩ nhiên, về phần nào đó là đây quyết định của cả hai. Phía Hoa Kỳ phải quyết định có bán vũ khí cho Việt Nam hay không, cũng như việc cần phải giải quyết thế nào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Trong thời gian tới điều đó sẽ rõ thôi.

Việt Nam thì phải tự quyết định xem họ có muốn mua vũ khí từ Hoa Kỳ hay không. Cả hai quốc gia cần phải quyết định chung. Họ cũng cần phải suy nghĩ xem Trung Quốc và các nước láng giềng trong khu vực sẽ phản ứng ra sao.

Nhưng tôi nghĩ vấn đề nằm ở chỗ tiền bạc nhiều hơn là ở ngoại giao. Tức là Việt Nam sẽ được lợi nhiều hơn từ việc khởi động mối quan hệ mua bán vũ khí quốc phòng với Hoa Kỳ so với những mất mát có thể phát sinh từ việc các nước láng giềng lo ngại và tị hiềm về chuyện mua bán vũ khí.

BBC Tiếng Việt: Việc Việt Nam mua vũ khí của Hoa Kỳ liệu có vấp phải trở ngại nào từ chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ, hoặc các nhóm vận động hành lang hay không?

Richard Weitz: Từ trước tới giờ các nhóm đấu tranh cho nhân quyền và tự do luôn phản đối, nhất là từ các Việt kiều rời Việt Nam khi cuộc chiến kết thúc năm 1975.

Tuy nhiên, những gì Trung Quốc làm trong năm qua đã thu hút sự chú ý vào nhu cầu làm sao có được bảo đảm rằng sức mạnh đang lên của Trung Quốc chỉ giúp củng cố chứ không gây tổn hại đến sự ổn định khu vực. Nhiều trở ngại truyền thống có thể được dàn xếp.

Điều quan trọng là phải gửi tín hiệu cho Bắc Kinh về những gì đã xảy ra như diễn tập quân sự chung hay tuyên bố về hợp tác hạt nhân, một loạt các bước đi khác Việt Nam và Hoa Kỳ đang triển khai nhằm gần lại nhau trong năm qua. Vì tôi luôn nêu quan điểm rằng hiện có một quan ngại chung trong vùng về Trung Quốc.

BBC Tiếng Việt: Ông biết gì về những chương trình tập huấn quân sự cho Việt Nam từ Hoa Kỳ? Bởi chúng ta đều biết rằng mua vũ khí là một chuyện, nhưng có biết sử dụng hay không lại là một chuyện khác.

Richard Weitz: Huấn luyện quân sự còn khó hơn cả việc mua bán vũ khí. Hoa Kỳ từng gặp khó khăn với do có những quan ngại về nhân quyền. Có lẽ đối với Việt Nam thì tình thế còn khó khăn hơn nữa.

Tuy nhiên, có thể áp dụng một lối đi khác, đó là Việt Nam học lại từ các nước đã được Hoa Kỳ tập huấn quân sự. Giới quân sự Hoa Kỳ cũng huấn luyện các những chuyên gia để họ đi đào tạo các đối tượng khác, tất nhiên chủ yếu là cho chính lực lượng quân sự của họ. Nhưng công tác này có thể bao gồm cả các lực lượng quân sự của các nước khác nữa. 

(bbc vietnamese)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang