Với hệ thống radar mạnh kết hợp tên lửa đối không tầm xa, sức công phá lớn - MiG-31 là "cơn ác mộng" với bất kỳ loại chiến đấu cơ nào trên thế giới. Ra đời từ cơn ác mộng của phòng không Israel và cả Không quân Liên Xô Một trong các tiêm kích đánh chặn chủ lực của Không quân Liên bang Nga ngày nay, MiG-31 là sản phẩm kế thừa MiG-25, “nỗi kinh hoàng” một thời đối với các chuyên gia quân sự phương Tây mỗi khi cất cánh. Tiêm kích đánh chặn tầm xa MiG-25 thời điểm đó có tầm bay cao lên tới hơn 20.000m, tốc độ tối đa gấp 3 lần vận tốc âm thanh (Mach 3). Sự kiện gây sửng sốt cho phương tây đó là vào năm 1971, MiG-25 cất cánh từ Ai Cập đã lượn vài vòng dạo chơi trên vùng trời Israel. Toàn bộ hệ thống phòng không và không quân Israel hoàn toàn bất lực đứng nhìn không có cách nào ngăn chặn. Tiêm kích đánh chặn F-4 của Israel đều bị MiG-25 cho "hít khói". Tuy nhiên, đây cũng là “điểm yếu chết người” của MiG-25, việc bay ở tốc độ Mach 3,2 làm động cơ bị phá hủy hoàn toàn. Vì vậy, các phi công lái MiG-25 đều được khuyến cáo là chỉ bay ở vận tốc tối đa Mach 2,5. Ngoài ra, MiG-25 còn mắc một số lỗi khác như: thiếu khả năng cơ động ở tốc độ đánh chặn, khó khăn khi hoạt động ở độ cao thấp và động cơ phản lực R-15B-300 thiếu hiệu quả với tốc độ siêu âm ở phạm vi chiến đấu ngắn. Vì lẽ đó, Liên Xô “âm thầm” nghiên cứu tiêm kích mới thay thế MiG-25. ![]() Tiêm kích "tiền bối" MiG-25. ![]() Và "người kế nhiệm", tiêm kích đánh chặn hạng nặng MiG-31. Năm 1967, chương trình phát triển bắt đầu. Giai đoạn 1972-1975, nhà máy Mikoyan chế tạo nguyên mẫu MiG-31 mang tên Ye-155MP. Ngày 16/9/1975, Ye-155MP (số hiệu 831) cất cánh lần đầu tiên dưới sự điều khiển của phi công thử nghiệm Alexandr Fedotov. Năm 1976, nguyên mẫu thứ hai bay lần đầu. Các máy bay này đều đã hoàn thiện với hệ thống điện tử đầy đủ gồm cả radar Zaslon và cảm biến hồng ngoại. Năm 1977, thêm 2 mẫu thử nghiệm nữa thử nghiệm bay. Các mẫu Ye-155MP này có sự đổi khác trong hệ thống vũ khí đó là thêm pháo 6 nòng cỡ 23mm Gsh-23M. Cuối năm 1978, chương trình thử nghiệm hoàn thành. Trong quá trình đánh giá MiG-31, một số loại máy bay khác tham gia vào như Tu-104 lắp thử radar Zaslon, MiG-21 và MiG-25 thử nghiệm hệ thống tên lửa đối không R-33). Năm 1979, dây chuyền sản xuất hàng loạt MiG-31 chính thức đi vào hoạt động. Chiếc MiG-31 cuối cùng chuyển giao năm 1994. Có tất cả 450 chiếc MiG-31 đã được sản xuất.Năm 1981, những tiêm kích đánh chặn MiG-31 đầu tiên được biên chế vào Không quân Liên Xô. Những nhầm lẫn về MiG-31 Cũng giống như các thiết kế khác của Liên Xô, MiG-31 cũng bị bủa vây trong những suy đoán của tình báo Phương Tây. Năm 1976, viên phi công phản bội tổ quốc, Viktor Belenko lái 1 chiếc MiG-25 chạy trốn sang Nhật Bản. Chỉ chờ có thế, người Mỹ như “chết đuối vớ được cọc” đã tích cực mổ xẻ MiG-25 và tìm ra được không ít bí mật. “Kẻ phản bội” Belenko có lẽ nghe phong thanh về thiết kế mới của Liên Xô nên tiết lộ của Phương tây một số thông tin về loại máy bay mới. Belenko miêu tả thiết kế mới này là chiếc “Super Foxbat” với 2 chỗ ngồi, cửa hút khí giống với MiG-23 và có khả năng đánh chặn tên lửa hành trình. Thực tế, thì MiG-31 không hề giống với bất kỳ lời nói nào của Belenko. Vệ tinh do thám của Phương Tây còn thu nhận được hình ảnh về loại máy bay lạ của Liên Xô hoạt động ở Trung tâm thử nghiệm Zhukovsky gần thị trấn Ramenskoye, họ suy đoán đây là phiên bản đánh chặn cánh cố định của chiến đấu cơ cánh cụp cụp cánh xòe và họ đặt tên nó là RAM-K. Trên thực tế, đây là chiến đấu cơ chiếm ưu thế trên không Sukhoi Su-27 “Flanker” không liên quan gì tới MiG-31. Năm 1985, NATO mới có trong tay bức ảnh đầu tiên về MiG-31 do phi công Na Uy chụp được trên vùng biển Barent. Có những phỏng đoán cho rằng Liên Xô cố tính để lộ MiG-31 nhằm “quảng cáo” cho mẫu máy bay mới này. Đặc điểm kỹ thuật Kiểu dáng khí động học của MiG-31 đáp ứng yêu cầu bay tốc độ cao ở tầm thấp. Cấu trúc thân được hình thành từ: 49% thép Nikel, 16% Titan, 33% hợp kim nhôm và 2% composite. Buồng lái MiG-31 thiết kế với hai chỗ ngồi: phi công ngồi trước và sĩ quan kiểm soát hệ thống vũ khí (Weapon system officer – WSO) ngồi sau. Sĩ quan WSO có trách nhiệm điều khiển hoạt động radar và triển khai vũ khí đối phó mục tiêu đối phương. Việc sử dụng sĩ quan WSO cho phép giảm tải khối lượng công việc cho phi công chính và tăng thêm hiệu quả chiến đấu bởi sĩ quan WSO chỉ tập trung chiến đấu. ![]() Hai vị trí ngồi của phi công và sĩ quan điều khiển vũ khí. Hai phi công đều trang bị ghế phóng khẩn cấp Zvezda K-36DM. MiG-31 là chiến đấu cơ đầu tiên trên thế giới trang bị radar quét mảng pha điện tử chủ động, N007 Zaslon. Radar có tầm hoạt động 200km, bắt bám 10 mục tiêu và tiêu diệt 4 trong số đó cùng lúc. MiG-31 còn trang bị cảm biến tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại (IRST), radar theo dõi trong khi quét (TWS), hệ thống radar cảnh báo sớm (RWR), thiết bị nhận diện bạn – thù (IFF), thiết bị truyền nhận dữ liệu không đối không và không đối đất. Về hệ thống vũ khí, tiêm kích đánh chặn MiG-31 có khả năng tiêu diệt các mục tiêu trên không ở cả tầm ngắn, tầm trung và tầm xa. Chiến đấu cơ thiết kế một pháo Ghs-6-23M (6 nòng cỡ 30mm) đạt tốc độ bắn siêu nhanh 6.000-8.000 viên/phút (lượng đạn dự trữ 206 viên) phù hợp với không chiến tầm cực gần. Hỏa lực đối không chủ lực của MiG-31 là 4 tên lửa không đối không tầm xa Vympel R-33. Tên lửa được dẫn đường bằng quán tính kết hợp radar bán chủ động. R-33 có tầm bắn khoảng 160km (hoặc 228km với biến thể R-33S). ![]() Bốn tên lửa không đối không tầm xa R-33 lắp dưới thân. R-33 lắp đầu đạn nặng 47,5kg cùng tốc độ hành trình Mach 4,5 sẽ là sự kết hợp hoàn hảo đủ sức tiêu diệt các loại máy bay trinh thám SR-71 hay “pháo đài bay” B-1, B-52 của Mỹ. Ngoài ra, MiG-31 mang được 4 tên lửa đối không tầm ngắn R-60 và 2 tên lửa tầm trung R-40TD1. Tiêm kích đánh chặn siêu âm MiG-31 trang bị hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy Solovyev D-30F6 cho phép đạt tốc độ tối đa Mach 2,83 (3.000km/h), tầm hoạt động tối đa 3.300km, trần bay trên 20.000m. Ở trần bay thấp, MiG-31 vẫn đạt tốc độ siêu âm Mach 1,2 (1.500km/h) và như vậy nó đã khắc phục được điểm yếu của MiG-25. Dù có tầm hoạt động lý thuyết lớn hơn 3.000km nhưng thực tế bán kính chiến đấu của máy bay chỉ khoảng 720km với tốc độ trung bình Mach 2,35. Biến thể nâng cấp MiG-31BM Thời kỳ Hậu Xô Viết, nền kinh tế Nga ảnh hưởng nặng nề, ngân sách quốc phòng cắt giảm mạnh dẫn tới việc nhiều loại vũ khí không được bảo dưỡng, hỏng hóc. Các đơn vị không quân MiG-31 cũng chịu chung số phận. Thời điểm năm 1996, chỉ khoảng 20% số MiG-31 còn hoạt động tốt. Khi nền kinh tế Nga khởi sắc, ngân sách quốc phòng đảm bảo thì giới lãnh đạo Nga khôi phục hoạt động MiG-31. Năm 2006, 75% số tiêm kích MiG-31 đưa vào hoạt động đầy đủ. Không quân Nga còn tiến hành hiện đại hóa MiG-31 kéo dài thời gian sử dụng đồng thời đáp ứng nhu cầu chiến tranh hiện đại. Tháng 8/2010, Quân đội Nga công bố thông tin hoàn thành chương trình nâng cấp MiG-31 thành biến thể MiG-31BM. Với việc này, MiG-31 của Không quân Nga có thể phục vụ tốt trong nhiều năm tới. ![]() Biến thể cải tiến MiG-31BM có khả năng mang nhiều vũ khí công nghệ mới. MiG-31BM được trang bị radar mảng pha Zaslon M mạnh hơn radar đời đầu lắp trên MiG-31. Zaslon M có tầm hoạt động 300-400km, theo dõi 24 mục tiêu và tiêu diệt 6 trong số đó cùng lúc. Buồng lái của máy bay tiện nghi hơn đem lại sự thoải mái cho phi công, nó được lắp màn hình HUD và màn hình màu tinh thể lỏng hiển thị thông số kỹ thuật bay cũng như tình trạng vũ khí. Vũ khí đối không chủ lực của MiG-31BM là tên lửa tầm xa R-37 mạnh hơn so với R-33. R-37 có tầm bắn từ 150-398km, tốc độ hành trình Mach 6, hệ dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động, lắp đầu đạn nổ phân mảnh 60kg. MiG-31BM mang tên lửa đối không tầm ngắn - tầm trung tiên tiến hơn như R-73 và R-77. MiG-31BM có thể thực hiện nhiệm vụ chế áp hệ thống phòng không đối phương (SEAD) bằng tên lửa chống radar Kh-31P, Kh-58. Trong nhiệm vụ không đối đất, MiG-31BM tấn công tiêu diệt mục tiêu bằng tên lửa đối đất Kh-29 hoặc tên lửa hành trình đối đất tầm xa Kh-59. Dù có tới gần 500 chiếc được chế tạo nhưng MiG-31 không hề được xuất khẩu ra nước ngoài. Sau khi Liên Xô giải thể năm 1991, cũng như nhiều loại vũ khí khác. MiG-31 được chia cho các thành viên liên bang. Liên bang Nga thừa hưởng nhiều nhất (khoảng 400 chiếc) và một số ít cho Kazakhstan. Thực tế, một vài quốc gia đã từng cố gắng nhập khẩu MiG-31. Điển hình là Trung Quốc, năm 1992 Quân đội Trung Quốc lên kế hoạch mua 24 MiG-31 của Nga. Họ dự tính nhập các bộ phận máy báy về lắp ráp tại nhà máy Thẩm Dương, với tốc độ “ra lò” 4 chiếc/tháng. Trung Quốc còn tính tới việc ký hợp đồng kèm chuyển giao giấy phép sản xuất 700 chiếc, ít nhất 200 chiếc sẽ đi vào phục vụ năm 2010. Dù vậy, hợp đồng “béo bở” này không bao giờ được thực hiện. Sau đó, Trung Quốc thay thế bằng hợp đồng mua và lắp ráp Su-27/30. Trung Quốc đã ngang nhiên vi phạm bản quyền tự ý sao chép công nghệ Su-27 và cho ra đời thiết kế trái phép J-11. |
Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011
>> MiG-31 - 'Ngôi sao' không quân Nga
>> Nhận diện 5 sát thủ đình đám của tàu sân bay
Các chiến đấu cơ của tàu sân bay, tàu chiến là con cưng của bầu trời "chiến", luôn thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận bởi tính chất đặc biệt của chúng. Các chiến đấu cơ được trang bị cho tàu sân bay hay tàu chiến đều sử dụng tàu sân bay và tàu chiến như là một đường băng, chúng được sử dụng để tấn công các mục tiêu trên không, trên biển, dưới nước và mặt đất, hoặc thực hiện các nhiệm vụ cảnh báo sớm, do thám, tuần tra, hộ tống, thả mìn, rà phá bom mìn và hạ cánh thẳng đứng. Đây là lực lượng quan trọng để giành và giữ quyền kiểm soát, quyền làm chủ biển trên chiến trường biển. Căn cứ vào phạm vi sử dụng, các chiến đấu cơ này của hải quân được chia thành nhiều loại: máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, máy bay tuần tra chống tàu ngầm, máy bay vận tải và máy bay cứu hộ. Chúng có tính năng khác nhau, tiêu chuẩn đánh giá khác nhau. Bee giới thiệu 5 loại máy bay nổi tiếng hiện đang được trang bị cho tàu chiến. 1. Máy bay tấn công Super Hornet F/A-18E/F F/A-18E/F là máy bay chủ lực hiện nay của tàu chiến hải quân Mỹ, là biểu tượng của sức mạnh hải quân Mỹ. Ở đâu có tàu sân bay Mỹ, ở đó không thể thiếu bóng dáng Super Hornet. Nó chủ yếu được sử dụng cho phòng không hạm đội, và có thể được sử dụng cho tấn công đối đất. ![]() Máy bay chiến đấu Super Hornet F/A-18E/F của quân đội Mỹ. F/A-18E/F được trang bị cho tàu sân bay dựa trên nền tảng F/A-18C. Trong đó, F/A-18E là loại 1 chỗ ngồi, còn F/A-18F là loại 2 chỗ ngồi. So với F/A-18C/D, loại máy bay này tiếp tục kế thừa được ưu điểm là độ tin cậy và khả năng bảo vệ tốt, khả năng bay tốt và phóng vũ khí có độ chính xác cao, đồng thời đã được nâng cấp về nhiều mặt gồm: thiết kế ngoại hình theo hướng tăng cường khả năng tàng hình; trang bị radar APG-79 với khả năng định vị được xe đang di chuyển hay đứng im với phạm vi tầm bắn của vũ khí điển hình, độ chính xác đạt 0,1 - 0,3 m; hành trình và tải trọng được tăng đáng kể; khả năng tấn công chính xác vào ban đêm và khả năng tác chiến thông tin tốt hơn. ![]() Các chủng loại vũ khí được lắp đặt trên Super Hornet F/A-18E/F. Các thông số chính: - Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 6/2002. - Tính năng: Dài 18,31 m, cao 4,88 m, sải cánh (chứa tên lửa) 13,62 m, (gập cánh) 9,32 m, diện tích cánh 46,45 m². Trọng lượng rỗng 13.387 kg, nhiên liệu tối đa ở bên trong 6.531 kg, nhiên liệu tối đa bên ngoài 4.436 kg, khả năng tải trọng tối đa bên ngoài là 8.051 kg, trọng lượng cất cánh (nhiệm vụ tấn công) là 29.937 kg. Tốc độ bay tối đa M1.8 +, tốc độ tối đa (lực đẩy trung bình) là M1.0 +, trần bay 15.240 m, thời gian tuần tra trên không (mang 6 quả tên lửa cự ly trung bình, 3 thùng dầu phụ 1.818 lít, cách tàu sân bay 278 km) là 2 giờ 15 phút. - Hệ thống vũ khí: 2×AIM-9 Sidewinder ở 2 đầu cánh; AIM-120 AMRAAM; AIM-7 Sparrow; AGM-84 Harpoon; AGM-88 HARM; AGM-65 Maverick; Bom AGM-154 Joint Standoff Weapon; Bom thông minh JDAM; loạt bom mục đích thông thường Mk80; CBU. 2. Máy bay chiến đấu Rafale M Rafale là máy bay chiến đấu đa năng do công ty Dassault, Pháp nghiên cứu chế tạo cho hải quân, không quân Pháp. Loại máy bay này có 2 động cơ, cánh tam giác, có tính linh hoạt cao. Máy bay chiến đấu 1 chỗ ngỗi Rafale M thiết kế cho hải quân đã đưa vào trang bị cho tàu sân bay từ năm 1998. ![]() Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi Rafale M của hải quân Pháp. Rafale có thể hoàn thành các nhiệm vụ như tấn công đối đất, chiếm ưu thế trên không vào cả ban đêm và trong mọi điều kiện thời tiết. Nó có tính cơ động và nhanh nhạy cao, có thể cất cánh và hạ cánh trong cự ly ngắn, có khả năng tác chiến vượt tầm nhìn và khả năng tàng hình nhất định. Tính năng chung của nó đan xen giữa máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba và thế hệ thứ tư. So với Rafale C, Rafale D, Rafale E, thì Rafale M đã có một số cải tiến về thân máy bay để thích ứng khi cất cánh, hạ cánh trên tàu sân bay. Mỗi chiếc Rafale có giá rất đắt, hiện chưa xuất khẩu. Ralafe đã tham gia không kích Libya vừa qua. Các thông số chính: - Thời gian đưa vào sử dụng: năm 1998. - Tính năng: Dài 15,3 m, cao 5,34 m, sải cánh 10,9 m, diện tích cánh 46 m², trọng lượng rỗng 9.060 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 21.500 kg, tốc độ tối đa 2.0 Mach, bán kính tác chiến 1.093 km. - Hệ thống vũ khí: Được trang bị một pháo 30 mm GiatM, tốc độ phóng 2.500 phát/phút; tổng cộng có 13 giá treo ở bên ngoài (loại của không quân là 14), tải trọng (đạn dược) bình thường là 6.000 kg, tải trọng tối đa 8.000 kg; khi thực hiện nhiệm vụ đánh chặn có thể mang theo 8 quả tên lửa "Mika" và 2 thùng dầu phụ; khi tấn công đối đất có thể mang theo 16 quả bom, 2 quả tên lửa "Mika" và 2 thùng dầu phụ 1.300 lít. 3. Máy bay chiến đấu Su-33 Su-33 là máy bay tác chiến chủ lực của tàu sân bay Nga, đồng thời là máy bay chiến đấu hạng nặng duy nhất được trang bị cho tàu chiến trên thế giới hiện nay, có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ như giành quyền kiểm soát trên không, phòng ngự hạm đội, chi viện trên không và do thám. ![]() Máy bay chiến đấu Su-33 đang bay với tốc độ cao. Năm 1975, trên nền tảng Su-27, Cục Thiết kế Sukhoi của Liên Xô đã bắt đầu nghiên cứu phát triển máy bay trang bị cho tàu chiến, mô hình ban đầu được đánh số là T10K. Tháng 8/1987 thực hiện chuyến bay đầu tiên, khi đó gọi là Su-27K, tháng 11/1989 lần đầu tiên được thử nghiệm trên tàu sân bay mang tên Tbilisi (tức Kuznetsov sau này), không lâu sau đổi tên thành Su-33, NATO gọi là Flanker-D. Tháng 4/1993 được trang bị cho Hải quân Nga, tháng 8/1998 chính thức được đưa vào biên chế tác chiến, hiện có 24 chiếc được trang bị cho tàu sân bay Kuznetsov của Nga. ![]() Máy bay Su-33 trên tàu sân bay của hải quân Nga. Các thông số chính: - Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 4/1993. - Tính năng: Sải cánh 14,7 m (gấp cánh 7,4 m), dài 21,185 m, cao 5,9 m, trọng lượng rỗng 17 tấn, tải trọng mang theo bên ngoài tối đa 6,5 tấn, trọng lượng cất cánh bình thường 29,94 tấn, tốc độ lớn nhất (cao 11.000 m so với mặt đất) 2.300 km/giờ, tốc độ tối thiểu là 240 km/giờ, tầm bay thực tế là 3.000 km, khoảng cách cất cánh (dốc 14 độ) 120 m, trọng lực G tối đa 8G. - Hệ thống vũ khí: 1 khẩu pháo 30 mm GSh-301 (150 viên đạn); tên lửa không đối không tầm trung R-27; tên lửa không đối không tầm gần R-73; tên lửa chống hạm siêu âm cỡ lớn Kh-41 mới, vận tốc cất cánh tối đa đạt 250 km. 4. Máy bay chiến đấu MiG-29K MiG-29K là một loại máy bay “xấu số”. Ngay từ năm 1984, chính quyền Liên Xô đã chính thức phê duyệt phát triển máy bay trang bị cho tàu chiến MiG-29K trên nền tảng của máy bay chiến đấu MiG-29; năm 1989, MiG-29K đã thử nghiệm cất cánh và hạ cánh thành công trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov; đến giữa năm 1992, hai máy bay nguyên mẫu MiG-29K đã hoàn thành 420 lần cất cánh và 80 lần hạ cánh, đặt nền tảng vững chắc trang bị máy bay này cho tàu sân bay. ![]() Máy bay chiến đấu MiG-29K Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ, do sự chi tiêu quân sự thiếu hụt nghiêm trọng, quân đội Nga không thể đồng thời phát triển và đặt mua hai máy bay MiG-29K và Su-33. Cuối cùng, lãnh đạo quân đội Nga đành phải từ bỏ MiG-29K có bán kính tác chiến và tải trọng nhỏ hơn, quyết định sử dụng Su-33. Năm 1996, để đáp ứng nhu cầu máy bay của hải quân Ấn Độ, nước có có thể mua tàu sân bay Đô đốc Gorshkov, công ty MiG của Nga đã đề xuất cải tiến MiG-29K nguyên mẫu thành MiG-29K mới cùng với phương án xuất khẩu loại máy bay này 2 chỗ ngồi. Năm 2009, Ấn-Nga đã ký kết một gói thỏa thuận, xuất khẩu máy bay MiG-29K cho Ấn Độ, số phận của loại máy bay này có bước ngoặt. Đồng thời, trong nội bộ Hải quân Nga ngày càng có nhiều tiếng nói mong muốn thay thế Su-33 của tàu sân bay Kuznetsov bằng MiG-29K mới với giá thành thấp hơn, tính năng tác chiến tổng hợp mạnh hơn, diện tích chiếm dụng ít hơn. Có thể dự kiến, MiG-29K sẽ trở thành lực lượng quan trọng của không quân Hải quân Nga trong tương lai. ![]() Máy bay MiG-29UBK của không quân Ấn Độ tiến hành thử nghiệm tiếp dầu trên không. Các thông số chính: - Thời gian đưa vào sử dụng: năm 2010, phục vụ trong Hải quân Ấn Độ. - Tính năng: Trọng lượng tối đa 22,4 tấn, động cơ là RD-33, lực đẩy là 8.300 kg, tốc độ tối đa là 2.200 km, trần bay hiệu quả là 17.500 m, phạm vi hoạt động là 1850 km; nếu chỉ mang theo 3 thùng dầu phụ, phạm vi của nó có thể đạt 3000 km; tải trọng (đạn dược) là 4,5 tấn. - Hệ thống vũ khí: 8 loại tên lửa không đối không, gồm R-60MK và R-73E tầm gần, R-77RVV-AE tầm xa và R-27ER/ET tầm trung; về mặt chống hạm, trang bị tên lửa chống radar đầu dò thụ động Kh-31, tên lửa Kh-35 và tên lửa chống radar; về mặt tấn công đối đất, trang bị 25 loại vũ khí, gồm bom dẫn đường chính xác KA B-500KR, Kh-25ML/25MP, Kh-29T, Kh-31G/31A và Kh-35U; ngoài ra còn trang bị bom không dẫn đường, tên lửa, pháo 30 mm GS H-301, luôn sẵn sàng tác chiến với 150 viên đạn. 5. Máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler EA-18G được công ty Boeing phát triển trên nền tảng Super Hornet F/A-18F hai chỗ ngồi, độ cong cao giúp nó có thể thực hiện rất tốt nhiệm vụ tấn công điện tử (AEA) trên sàn tàu sân bay hoặc trên mặt đất. EA-18G "Growler" có thể mang theo tên lửa không đối đất chống radar, có thể cất cánh, hạ cánh trong cự ly cực ngắn, đồng thời có khả năng gây nhiễu thiết bị điện tử và radar của đối phương. Nó sẽ thay thế EA-6B “Prowler” hiện nay của hải quân Mỹ (trang bị từ năm 1971). ![]() Máy bay tấn công EA-18G Growler do công ty Boeing sản xuất. "Growler" sử dụng hệ thống radar quét điện tử tiên tiến AESA, hệ thống thông tin đã được cải tiến, hệ thống hỏa lực mạnh hơn (EA-18G có 10 điểm treo vũ khí, còn EA-6B chỉ có 5 điểm treo vũ khí). Ngoài ra, EA-18G có tốc độ bay, khả năng tồn tại trên chiến trường cũng lớn hơn EA-6B. EA-18G "Growler" có khả năng tấn công điện từ rất mạnh. Dựa vào máy thu chiến thuật ALQ-218V (2) và máy làm nhiễu điện tử chiến thuật mới ALQ-99 do công ty Northrop Grumman thiết kế, EA-18G có thể thực hiện có hiệu quả cao các nhiệm vụ áp chế của hệ thống radar tên lửa đất đối không. Khác với trước đây, EA-18G có thể thông qua phân tích tần suất phóng tự động theo dõi tư liệu của đối tượng gây nhiễu, áp dụng “phương pháp trắc lượng can thiệp đường cơ sở dài” tiến hành định vị chính xác hơn đối với nguồn bức xạ để thực hiện “gây nhiễu theo kiểu bám sát-ngắm trúng”. Biện pháp này đã tập trung rất lớn năng lượng gây nhiễu, lần đầu đã thực hiện “tấn công chính xác” lĩnh vực phổ điện từ. Với việc sử dụng công nghệ trên, EA-18G có thể gây nhiễu hiệu quả radar và các thiết bị điện tử khác ngoài 160 km, vượt khỏi phạm vi tấn công của bất kỳ hỏa lực phòng không nào hiện có. Không chỉ như vậy, máy thu chiến thuật ALQ-218 (2) được lắp đặt ở đầu cánh còn là hệ thống duy nhất trên thế giới có thể gây nhiễu hệ thống thông tin của đối phương trong khi bản thân nó vẫn có khả năng nghe lén điện tử. So sánh EA-18G Growler và F/A-18F Super Hornet: [Bee news] |
Nhãn:
Cục Thiết kế Sukhoi,
Hải quân Nga,
hải quân Pháp,
Máy bay MiG-29UBK,
Máy bay tấn công EA-18G Growler,
Rafale M,
Sát thủ tàu sân bay,
Su-33,
Tàu sân bay,
Tiêm kích MiG-29K
>> 10 vũ khí sinh học đáng sợ nhất (kỳ 4)
Nhiều loại vũ khí sinh học đã gắn với lịch sử loài người từ thời cổ đại. Trái lại, có một số tác nhân mới chỉ xuất hiện được ít năm, nhất là các virus. Lý do, virus là loại sinh vật luôn thích nghi và tiến hóa với tốc độ chóng mặt. Đôi khi sự tiếp xúc gần gũi giữa người và động vật cũng chính là tác nhân tạo cơ hội cho virus tiếp cận nhanh chóng hơn. 9. Virus Nipah Khi dân số loài người tăng lên nhanh chóng, sự xuất hiện của bệnh dịch mới là không thể tránh khỏi. Đồng thời mỗi khi một loại bệnh dịch mới xuất hiện, chắc chắn rằng sẽ có người tìm cách dùng nó làm vũ khí. Virus Nipah là một loại bệnh như vậy. Căn bệnh này chỉ bắt đầu được thế giới chú ý đến từ năm 1999 khi nó hoành hành tại vùng Nipah của Malaysia, làm 265 người nhiễm bệnh và chết 105 người. 90% người nhiễm bệnh là người buôn bán lợn, tuy nhiên theo ngành y thì dơi quả mới là vật chủ tự nhiên của virus này. Cơ chế truyền nhiễm vẫn chưa được nắm rõ, hiện tại các chuyên gia cho rằng bệnh này có thể lây qua đường tiếp xúc trực tiếp hoặc với dịch cơ thể bị nhiễm. Hiện vẫn chưa có ca nào lây nhiễm từ người sang người được phát hiện. Căn bệnh này điển hình kéo dài khoảng 6-10 ngày với các triệu chứng từ nhẹ nhàng dạng cúm như sốt và đau cơ cho tới nghiêm trọng như viêm sưng não. Trong những trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân mơ màng, mất định hướng, co giật và cuối cùng dẫn đến hôn mê. Tỷ lệ tử vong là 50% và hiện tại không có cách chữa trị chính xác cho bệnh này. Virus Nipah cùng với một số loại tác nhân gây bệnh mới khác nằm trong nhóm vũ khí sinh học loại C. Hiện tại vẫn chưa có nước nào bị phát hiện sử dụng virus này làm vũ khí sinh học nhưng khả năng lây nhiễm nhanh và tỷ lệ tử vong 50% là đủ để dè chừng. 10. Virus lai gien (Chimera virus) Di truyền học hiện đai đem đến các công cụ thao tác và biến đổi gien sinh vật. Nếu không được kiểm soát, công cụ này sẽ là những vũ khí kinh hoàng trong tay kẻ xấu. Dịch hạch, đậu mùa và bệnh than là những tác nhân sinh học nguy hiểm nhất rình rập xung quanh chúng ta. Tất cả các đặc tính gây hại của chúng đều là kết quả của quá trính tiến hóa tự nhiên. Còn điều gì sẽ xảy ra khi các nhà khoa học tìm kết hợp chất liệu di chuyền của chúng với nhau? Hậu quả sẽ khủng khiếp như thế nào nếu tham vọng chiến tranh của con người kết hợp với các thành tố dữ tợn đã có sẵn của tự nhiên? Viễn cảnh này thực tế đã không còn là chuyện viễn tưởng nữa, nó đang diễn ra. Trong thần thoại Hy Lạp và La Mã, quái vật Chimera hội tụ các thành phần của sư tử, dê và rắn trên cơ thể. Các họa sỹ cuối thời Trung cổ thường mượn hình ảnh biểu tượng của Chimera để miêu tả bản chất phức tạp của tự nhiên. Trong di truyền học hiện đại, chimera hay sinh vật lai gien là dạng sinh vật có bộ gien chứa gen của các loài khác nhau. Từ cái tên của nó, chúng ta có thể hình dung các sinh vật lai gien như những ví dụ đáng ghê sợ về sự kết hợp các yếu tố tự nhiên, bởi bàn tay con người, cho mục đích bất chính. May mắn là tiến bộ trong lai gien còn có những tác dụng tích cực khác chẳng hạn việc kết hợp virus cúm với virus bại liệt để chữa bệnh ung thư não. Tuy nhiên chiến tranh sẽ tiếp tục là một phần của lịch sử loài người và do đó nhân loại khó tránh khỏi việc các tiến bộ khoa học bị lợi dụng. Chẳng hạn, tỷ lệ tử vong ở các vũ khí sinh học như đậu mùa và bệnh than có thể được các nhà di truyền học tăng lên bằng cách làm thay đổi cấu trúc di truyền của chúng. Về mặt lý thuyết, việc kết hợp gien còn tạo ra được các sinh vật gây ra hai bệnh cùng một lúc. Chương trình nghiên cứu vũ khí lai gien của Liên Xô trong khoảng thời gian cuối những năm 1980 trên thực tế đã tìm các kết hợp virus đậu mùa và Ebola để tạo thành một loại siêu virus mới. Khả năng tạo ra các chủng virus được hoạt hóa bằng những cách khác nhau cũng là một trong những cơn ác mộng có thể gặp của loài người. Các chủng virus tiềm tàng này có thể nằm yên trong một thời gian dài trước khi được kích hoạt bằng một dạng kích thích đã tính toán trước hoặc khi có sự kết hợp của hai yếu tố kích thích nhất định. Để hiểu được vấn đề, chúng ta thử hình dung một loại chất độc botulinum có thể trở nên độc hơn khi tiếp xúc với chính chất giải độc dung để chữa cho bệnh nhân. Hình thức tấn công này không chỉ khiến người chết nhiều hơn mà còn làm cho công chúng không còn tin vào đội ngũ y tế, vào các nhân viên cứu hộ và phản ứng khẩn cấp của chính quyền. Gieo nhân nào gặt quả nấy. Tất cả đúng sai tốt xấu đều do con người quyết định. Từ việc phân li từng phân tử đến giải đoán các bí ẩn của hệ gien sinh vật, khoa học thế kỷ qua đã mang đến khả năng lợi dụng và cải tạo tự nhiên. Loài người sẽ phải lựa chọn, hoặc là xây dựng thế giới tốt đẹp hơn cho mình, hoặc là phá hủy những gì chúng ta đang có [BDV news] |
Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011
>> 10 vũ khí sinh học đáng sợ nhất (kỳ 3)
Vũ khí sinh học không chỉ có thể được ngụy trang trong những sinh vật hiện lành đáng yêu mà thậm chí không cần phải ngụy trang. 6. Chất độc Botulinum Nếu không khí xung quanh chúng ta chứa chất độc Botulinum, chúng ta sẽ không có cách nào phát hiện ra được để phòng tránh. Trong dạng dùng làm vũ khí tại môi trường không khí, vi khuẩn chết người Clostridium butolinum hoàn toàn không màu và không mùi. Sau khi hít vào từ 12 đến 36 giờ, các triệu chứng đầu tiên sẽ xuất hiện: mắt bị nhòe, nôn mửa và người bệnh nuốt vào rất khó khăn. Lúc này, cơ hội duy nhất là chất giải độc botulinum và chất này buộc phải được sử dụng trước khi các triệu chứng tiêp theo xuất hiện. Nếu không, nạn nhân sẽ bị bại liệt, cơ bắp bị căng cứng và cuối cùng hệ hô hấp sẽ bị hủy hoại. Nếu không được hỗ trợ hô hấp kịp thời, Clostridium botulinum có thể gây tử vong trong vòng 24 đến 72 giờ. Vì lý do này mà C. botulinum được xếp vào vị trí còn lại trong 6 vũ khí sinh học nhóm A. Nếu có các dụng cụ hỗ trợ đưa không khí đến phổi, tỷ lệ tử vong có thể tụt từ 70% xuống 6%, tuy nhiên quá trình hồi phục cũng rất lâu. Lý do là chất độc này gắn với vị trí nơi các đầu dây thần kinh và cơ tiếp xúc với nhau để ngăn cản tín hiệu thần kinh từ não điều khiển các cơ. Bệnh nhân hồi phục cần một quá trình dài để các đầu dây thần kinh mọc trở lại trong vòng vài tháng. Ngoài ra do các tác dụng phụ của việc sử dụng vaccine, liệu pháp vaccine đối với loại vi khuẩn này không được phát triển nhiều. Đặc tính chữa bệnh của Botulinum Dẫu gây ra tỷ lệ tử vong lớn tới 70%, nhưng botulism chưa hẳn đã hoàn toàn là có hại. Một lượng nhỏ chất độc botulinum nếu được sử dụng đúng cách có thể giúp ích trong điều trị các bệnh lý thần kinh, co giật cơ mặt hoặc thậm chí xử lý nếp nhăn. Tên loại thuốc sử dụng hoạt chất này là Botox. Ngoài các triệu chứng đã nêu, C. botulinum còn một đặc tính nguy hiểm nữa là sự phổ biến của nó. Vi khuẩn này tồn tại khắp nơi trên thế giới đặc biệt trong đất và trầm tích đáy biển. Dạng bào tử của C. botulinum không gây hại trực tiếp và thường xuất hiện trên trái cây, rau và hải sản. Vi khuẩn này chỉ gây hại khi nó sản xuất ra độc chất chết người, đó là điều kiện thường gặp khi chúng ta ăn phải thức ăn ôi hỏng nơi mà nhiệt độ và hóa chất bảo quản ở điều kiện không tốt lại phù hợp để các bào tử phát triển. Các vết thương sâu và môi trường ống tiêu hóa của trẻ sơ sinh cũng là những địa điểm phù hợp cho vi khuẩn này. Sức mạnh, tính phổ biến và khả năng điều trị thấp là các yếu tố làm cho Botulinum được ưa thích trong các chương trình vũ khí của một số nước. May mắn là các kết quả nghiên cứu vũ khí trên Botulinum vẫn còn hạn chế. Năm 1990 các thành viên của giáo phái Nhật Bản Aum Shinrinkyo đã tìm cách giải phóng chất độc botulinum dạng hơi để tấn công một số mục tiêu chính trị nhưng không thể gây ra được tỷ lệ tử vong mong muốn. Sau đó khi giáo phái này chuyển sang dùng chất độc sarin năm 1995, họ đã giết hại hàng chục người và làm hàng ngàn người khác bị nhiễm độc. 7. Bệnh đạo ôn trên lúa Vũ khí sinh học không cần phải tiêu diệt trực tiếp đối phương mà mục tiêu còn có thể là tài nguyên và nguồn sống. Bệnh đạo ôn hại lúa có thể được sử dụng để phá hoại mùa màng của đối thủ và là một tác nhân cực kỳ đáng chú ý tại Việt Nam. Hủy diệt nguồn lương thực của kẻ thù là một chiến thuật đã được sử dụng lâu dài trong chiến tranh, cả trong kháng chiến chống xâm lược lẫn khi công thành chiếm đất. Khi không đủ thức ăn, hiển nhiên con người của đối thủ sẽ yếu đi, hoảng loạn, xảy ra bạo loạn và cuối cùng là chết chóc. Một số quốc gia đặc biệt là Hoa Kỳ và Nga đã đầu tư khá nhiều công sức để nghiên cứu bệnh tật và thậm chí các côn trùng dùng để tấn công các cây lương thực chủ yếu của nhân loại. Chiến thuật này có vẻ càng hứa hẹn hơn khi các nước hiện tại thiên về lựa chọn chiến lược độc canh một loại cây lương thực để đạt hiệu quả canh tác. Khi sử dụng vũ khí này, viễn cảnh nạn đói và thảm họa là không thể tránh khỏi. Những cánh đồng lúa như ở Đông Nam Á là mục tiêu hoàn hảo để bệnh đạo ôn tấn công. (Ảnh 123fr.com) Một trong các vũ khí dựa trên nguyên lý đó là bệnh đạo ôn, gây ra bởi loại nấm đạo ôn Pyricularia oryzae (còn có tên khác là Magnaporthe grisea). Lá của cây bị bệnh nhanh chóng xuất hiện các vết xước màu xám chứa hàng ngàn bào tử nấm. Sau đó, các bào tử nhanh chóng lây từ cây này sang cây khác và làm tụt mạnh sản lượng lương thực. Các nhà khoa học đã nghiên cứu được cây có tính kháng với nấm đạo ôn, nhưng trớ trêu là có tới 219 chủng đạo ôn khác nhau và muốn kháng bệnh, cây phải được đề kháng với tất cả các chủng này. Hậu quả của loại vũ khí này không phải là cái chết nhanh chóng như đậu mùa và Botulism mà lạ nạn đói, tổn thất kinh tế và các vấn đề xã hội cực kỳ nghiêm trọng, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển. Một số nước đã tìm cách dùng nấm đạo ôn làm vũ khí, trong đó có Hoa Kỳ. Khi quốc gia này quyết định dừng chương trình của mình, lượng nấm đạo ôn mà họ tích tụ được đã lên tới hàng tấn và châu Á là mục tiêu tiềm năng họ nhắm tới. 8. Dịch tả trâu bò Gạo là một mục tiêu hủy diệt tiềm tàng, và thịt cũng không được loại trừ. Bệnh dịch tả trâu bò là loại vũ khí chọn gia súc làm đối tượng tấn công. Khi Thành Cát Tư Hãn chiếm châu Âu vào thế kỷ 13, ông vĩnh viễn mang theo một loại vũ khí sinh học đáng sợ để nhân loại mãi ghi nhớ công cuộc chinh phục của mình. Đoàn gia súc cung cấp lương thực cho vị hoàng đế này đã chuyển đến một loại dịch gia súc mà ngày nay thế giới gọi tên theo tiếng Đức là Rinderpest, dịch tả trâu bò. Dịch tả trâu bò được gây ra bởi một loại virus gần giống với virus sởi, gây hại cho trâu bò và các động vật nhai lại như dê, bò rừng và hươu cao cổ. Bệnh này lây lan rất mạnh, gây sốt, mất cảm giác ăn, kiết lỵ và viêm màng nhầy. Triệu chứng bệnh sẽ tiếp diễn trong vòng sáu đến 10 ngày cho đến khi con vật chết vì mất nước. Qua thời gian, loài người đã vận chuyển động vật mang bệnh này tới tất cả mọi ngóc ngách trên trái đất, kèm theo đó thường là cái chết của hàng triệu gia súc cũng như gia cầm và các loại động vật hoang dã trong khu vực. Đôi lúc tại châu Phi dịch bệnh gây hậu quả nghiêm trọng đến mức sư tử không còn động vật hoang dã để săn mà chuyển sang ăn người và khiến cho các chủ trại súc vật tuyệt vọng mà tự vẫn. Ngày nay nhờ công nghệ vaccine và khoanh vùng dịch, căn bệnh này có thể được kiểm soát khá hiệu quả ở nhiều vùng trên thế giới. Thành Cát Tư Hãn dẫu sao cũng không cố ý làm lây truyền dịch bệnh. Còn các quốc gia hiện nay như Canada và Hoa Kỳ lại cố tìm cách sử dụng virus này cũng như phát triển các loại vũ khí dịch bệnh khác chọn gia súc gia cầm làm đối tượng tấn công [BDV news] |
>> Mỹ phát triển trực thăng siêu tốc
Mỹ sẽ phát triển trực thăng tốc độ cao mới S-97 "Raider" dựa trên kết quả thu được từ mẫu thiết kế trực thăng X2. Công ty Sikorsky Aircraft công bố hoàn thành chuyến bay thử nghiệm trình diễn công nghệ cuối cùng đối với máy bay trực thăng X2, chuyến bay được thực hiện vào ngày 14/7 tại trung tâm West Palm Beach. Đây là chuyến bay thử nghiệm thứ 23 liên tiếp với tổng thời gian bay thử nghiệm là 22 giờ. Trong tương lai, nguyên mẫu sẽ ngừng hoạt động và chuyển đến Bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia. Sikorsky sẽ bắt đầu phát triển máy bay trực thăng tốc độ cao mới S-97 Raider. Năm 2005, Sikorsky Aircraft đã thực hiện chương trình chế tạo máy bay trực thăng X2 để chứng minh tốc độ kỷ lục 460 km/h. Loại trực thăng này vẫn giữ những tính năng vốn có của máy bay trực thăng như khả năng bay ở tốc độ thấp, bay treo và chuyển sang tốc độ cao một cách nhanh gọn. Chi phí dự án là 50 triệu USD. Trong tháng 9/2010 máy bay đã thiết lập một kỷ lục tốc độ đối với máy bay trực thăng thông thường là 468km/h. Theo tổng giám đốc Sikorsky Jeffrey Pino, với kết quả của các chương trình X2 cho thấy rằng các chuyên gia của công ty có thể thực hiện các dự án lớn với ngân sách hạn hẹp và thời gian ngắn. ![]() Hình đồ họa trực thăng siêu tốc S-97. Theo ông, chương trình X2 cũng đã đào tạo thế hệ kỹ sư kế tiếp, ít trong số đó giữ vị trí chủ chốt trong chương trình S-97 Raider và máy bay trực thăng điện Firefly. Dự án này sẽ được phát triển và thử nghiệm hai nguyên mẫu trực thăng tấn công hạng nhẹ. Sau đó, Quân đội Mỹ sẽ đánh giá tốc độ và tính cơ động của máy bay và sẽ thiết kế thế hệ máy bay tiếp theo với các nhiệm vụ khác nhau. Biến thể trực thăng cứu thương được trang bị một cabin rộng chứa 6 người với khả năng tránh va đập, cabin cho hai phi công và hệ thống vũ khí. Ngoài tốc độ cao và khả năng cơ động, trực thăng có thể bay treo ở độ cao 3.100m. Các chuyến bay đầu tiên của máy bay trực thăng S-97 dự kiến năm 2014. Như X2, S-97 Raider cũng được thiết kế với hai cánh quạt đồng trục quay ngược nhau và một cánh quạt đẩy ở phía sau. Công nghệ tiên tiến khác trang bị là hệ thống kiểm soát bay từ xa, tăng cường động cơ phụ, hệ thống kiểm soát độ rung. Theo kế hoạch, máy bay trực thăng sẽ được sử dụng cho một loạt các nhiệm vụ bao gồm tiêu diệt mục tiêu mặt đất, trinh sát quân sự, hỗ trợ hàng không, tìm kiếm cứu nạn trong chiến đấu, sơ tán y tế, vận chuyển VIP, công tác hộ tống. Tháng 3/2010, công ty Sikorsky Aircraft đã cung cấp máy bay X2 cho Quân đội Mỹ để đáp ứng yêu cầu thông tin, theo chương trình giao các máy bay trực thăng trinh sát vũ trang mới nhằm thay thế loại OH-58D Kiowa Warrior đã được đưa vào sử dụng trong quân đội Hoa Kỳ từ nhưng năm 1969. [BDV news] |
Nhãn:
Công ty Sikorsky Aircraft,
Máy bay X2,
OH-58D Kiowa Warrior,
Quân đội Mỹ,
Sikorsky Aircraft,
Trung tâm West Palm Beach,
Trực thăng siêu tốc S-97
>> Hải quân Mỹ và ván bài năng lượng xanh
100 năm trước Hải quân Mỹ đã thành công trong việc làm chủ đại dương giúp nước Mỹ "cầm trịch" bàn cờ địa chính trị thế giới trong thế kỷ 20. Năm 1907, tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt gửi một hạm đội 16 tàu chiến đi thực hiện một hành trình dài 16 tháng vòng quanh thế giới. Hạm đội này có biệt danh là Hạm Đội Trắng Vĩ Đại bởi vỏ ngoài của những chiếc tàu được sơn màu trắng của tàu chiến thời bình, nhưng đội tàu tất nhiên không được gửi đi để nghỉ mát. Thời kỳ đó một cuộc chiến giữa liên minh Tây Ban Nha- Mỹ và Nga – Nhật đang cận kề và Tổng thống Mỹ cần cho thế giới thấy rằng Hoa Kỳ đang nắm trong tay sức mạnh quân sự đủ để đương đầu với đối phương ở mọi ngóc ngách của đại dương. Giờ đã là thế kỷ 21 và việc định hình các vấn đề địa chính trị có lẽ đã chuyển sang năng lượng và các vấn đề liên quan đến năng lượng như biến đổi khí hậu hoặc dầu khí. Khi chính giới Mỹ vẫn chưa thống nhất được một chính sách năng lượng hiệu quả, Hải quân Hoa Kỳ sẽ phải tự mình đối đầu với các vấn đề này. ![]() Tàu sân bay USS George Washington chạy bằng năng lượng hạt nhân, nguồn cung cấp 16% tổng năng lượng cho Hải quân Mỹ Kế hoạch "Hạm đội xanh" Từ nay đến 2016, Hải quân Mỹ có kế hoạch tổ chức “Hạm Đội Xanh Vĩ Đại” bao gồm tàu hạt nhân, tàu chạy bằng nguồn năng lượng hybrid và máy bay chạy bằng xăng sinh học. Giống như Hạm đội trắng trước đây, “Hạm Đội Xanh Vĩ Đại” có thể giúp Mỹ tuyên bố với thế giới Washington tiếp tục dẫn đầu thế giới trong kỷ nguyên năng lượng - ít nhất là về Hải quân và sức mạnh quân sự nói chung. Năm 2010, Bộ Quốc phòng Mỹ dùng hết 135 triệu thùng dầu, nhiều hơn bất kỳ một cơ quan tổ chức nào khác trên thế giới. Trong đó, Hải quân là ngành tiêu tốn xăng dầu thứ 2 chỉ sau Không quân. Các quan chức Hải quân cũng hiểu cái giá của việc đảm bảo nguồn cung dầu khí từ nước ngoài cho Mỹ bởi chính Hạm đội 5 của họ đang đảm nhiệm việc giữ an toàn nguồn cung dầu từ Trung Đông. Sự phụ thuộc vào nguồn dầu nhập khẩu có lẽ là mắt xích yếu nhất của bộ máy Quân đội Mỹ. Điểm yếu không chỉ thể hiện trên biển, trên chiến trường mà còn ảnh hưởng đến tính hiệu quả của quân đội khi Bộ Quốc phòng đang chịu sức ép rất lớn về kinh phí từ khoản nợ liên bang ở Mỹ. Trong bối cảnh giá năng lượng tăng cao, Quân đội Mỹ đã tiêu tốn 20 tỷ USD cho nhiên liệu và điện trong năm 2010. Cho dù Quân đội nhận được lợi thế quan trọng trọng là họ không bị nghị viện phủ quyết hay công chúng gây áp lực nhưng Hải quân Mỹ vẫn cam kết cho đến trước 2015 sẽ giảm 1/2 lượng xăng dầu tiêu thụ cho các xe jeep và xe tải. Đến năm 2020 các cơ sở năng lượng bờ biển sẽ sản xuất ít nhất 50% năng lượng dựa trên nguồn thay thế mới. Đồng thời 1/2 căn cứ Hải quân sẽ tự cung cấp được năng lượng. Tổng hợp lại, cho đến cuối thập niên thứ hai của thế kỷ, năng lượng tái tạo phải chiếm 1/2 tổng tiêu thụ năng lượng của Hải quân Mỹ. Cái giá để thân thiện với môi trường Hải quân Mỹ đã cải thiện vững chắc hiệu suất năng lượng tại các cơ sở trên bờ và đã đưa năng lượng tái tạo vào sử dụng tại một số căn cứ. Tuy nhiên không hẳn sẽ dễ dàng để thân thiện hơn với môi trường. Năm 2008, chỉ có khoảng 1% năng lượng mà Hải quân Mỹ tiêu thụ là từ nguồn tái tạo. Nếu nhiên liệu sinh học và các nguồn thay thế khác không đảm bảo sẵn sàng cho tác chiến thì hiển nhiên quân đội không mạo hiểm chỉ để thân thiện hơn với môi trường. Quân đội cần thứ tương đương với xăng khi sử dụng, thế nhưng, một số nhiên liệu phổ biến như ethanol không đạt hiệu suất năng lượng cần thiết cho hoạt động quân sự. Rand Corporation, tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách cho quân đội Mỹ mới đây đã đệ trình một báo cáo cho rằng việc tập trung vào nguồn năng lượng tái tạo cho hải quân và không quân là sai lầm và không thể hy vọng tiến bộ nhanh chóng. Diễn biến hoàn toàn có thể sẽ bi quan như ý kiến của Rand Corporation. Tuy nhiên, hy vọng vẫn còn rất lớn bởi thực tế đã chứng minh khoa học quân sự đã đóng góp như thế nào đối với sự phát triển chung của toàn xã hội nói chung. Hải quân Mỹ đã bắt tay với các tổ chức dân sự như Học viện Công nghệ Masachuset (MIT) thực hiện một chương trình đào tạo sỹ quan cấp trung quản lý về chính sách năng lượng, và nguồn nhân lực của Hải quân Mỹ đủ để người Mỹ đặt hy vọng. Nếu Hải quân Mỹ có thể làm cho từng thủy thủ và từng quân nhân hiểu được vấn đề, người Mỹ hoàn toàn có thể được đặt vào đúng quỹ đạo cần thiết. [BDV news] |
Nhãn:
Đô đốc Hải quân Mỹ,
Hạm Đội Trắng Vĩ Đại,
Hạm đội xanh vĩ đại,
Học viện Công nghệ Masachuset,
Tàu sân bay USS George Washington,
Theodore Roosevelt
>> Sẽ không còn độc quyền về công nghệ quân sự?
Các cường quốc mới nổi bắt đầu sở hữu công nghệ quân sự mũi nhọn đánh dấu cục diện thế giới mới đang hình thành. Gần đây, sau khi Ấn Độ bắt đầu tuyên bố bắt đầu chế tạo chiếc tàu ngầm hạt nhân thứ hai, thì Brazil cũng cho biết, họ cũng bắt đầu tự chế tạo tàu ngầm hạt nhân và cho biết, họ đã có kế hoạch này từ năm 2008: chế tạo 4 tàu ngầm thông thường và 1 tàu ngầm hạt nhân. Như vậy, khi kế hoạch này được hoàn thành, Brazil sẽ kế tiếp Ấn Độ trở thành nước sở hữu công nghệ tàu ngầm hạt nhân thứ 7 trên thế giới. ![]() Mô hình tàu ngầm hạt nhân tương lai của Brazil. Việc Ấn Độ, Brazil phát triển tàu ngầm hạt nhân không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng tàu ngầm hạt nhân là sản phẩm mũi nhọn của công nghệ quân sự, vì vậy nó được dư luận chú ý. Phá vỡ độc quyền về công nghệ quân sự mũi nhọn Đã từ lâu, chỉ có một số ít quốc gia nắm được công nghệ quân sự mũi nhọn, bao gồm máy bay chiến đấu tiên tiến, tên lửa phòng không khu vực (S-300 của Nga, Patriot của Mỹ), tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân…; ngoài ra còn bao gồm lĩnh vực công nghệ đỉnh cao như vũ khí hạt nhân, công nghệ vũ trụ… 30 năm trước, chỉ có các nước phát triển như Mỹ, Nga, Pháp, Anh có khả năng nghiên cứu chế tạo máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba. Còn hiện nay, cũng chỉ có một số nước có thể chế tạo tên lửa phòng không tầm xa như S-300, Patriot. Và rất ít nước sở hữu các công nghệ quân sự mũi nhọn như tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân. ![]() Mô hình tàu ngầm hạt nhân tự sản xuất của Ấn Độ. Việc hai nước đang phát triển Ấn Độ và Brazil bắt đầu đặt chân vào lĩnh vực tàu ngầm hạt nhân, trên thực tế đã báo hiệu xu thế phá vỡ sự độc quyền về lĩnh vực công nghệ quân sự mũi nhọn. Nâng cao toàn diện vị thế của các cường quốc mới nổi Ấn Độ và Brazil đều là những nước đang phát triển, đều là những nước thứ ba có nền kinh tế phát triển tương đối nhanh trong những năm qua, đều là thành viên của BRIC (từ chỉ nhóm các nước Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung Quốc (China) ). ![]() Tàu ngầm hạt nhân lớp Arihant do Ấn Độ tự sản xuất. Nhìn về phương Tây, các cường quốc truyền thống luôn có quyền phán quyết cuối cùng đối với các vấn đế của thế giới. Nền tảng của “bá quyền” không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngoại giao, tài nguyên, mà cuối cùng nó sẽ thể hiện ở ưu thế về sức mạnh quân sự. Mà hạt nhân của ưu thế sức mạnh quân sự chính là độc quyền những công nghệ quân sự mũi nhọn. Trên thực tế, các cường quốc truyền thống luôn muốn giữ vững vai trò độc quyền trong lĩnh vực này. Cách thức của họ là phong tỏa công nghệ, thậm chí sử dụng phương thức hành vi quốc tế ở mức độ nhất định. Điển hình nhất là sự độc quyền đối với công nghệ vũ khí hạt nhân. ![]() Nga từng cho Ấn Độ thuê tàu ngầm hạt nhân Seal. Tuy nhiên, Ấn Độ và Brazil đã bắt đầu phát triển công nghệ vũ khí hạt nhân. Lúc đầu hai nước này hận một số phản đối nhưng sau đó lại được các cường quốc truyền thống ngầm thừa nhận. ![]() Tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Ấn Độ Những điều đó cho thấy, đã đến lúc không thể tiếp tục duy trì sự độc quyền về công nghệ quân sự, đặc biệt là công nghệ quân sự đỉnh cao, xu thế truyền bá công nghệ là tất yếu. Mặt khác, các cường quốc truyền thống nới lỏng độc quyền lĩnh vực này vừa đúng vào lúc khai phá lĩnh vực công nghệ quân sự mũi nhọn mới, đây là điểm khởi đầu của sự độc quyền mới. Trên thực tế, Mỹ đang nỗ lực phát triển các công nghệ hàng không vũ trụ, máy bay không người lái, công nghệ tàng hình, và Mỹ muốn độc quyền những công nghệ mới này. Như vậy, cho dù mất đi độc quyền về công nghệ quân sự mũi nhọn truyền thống, Mỹ vẫn có thể duy trì ưu thế đầy đủ về sức mạnh quân sự. [BDV news] |
>> Washington đứng giữa ngã ba đường ở Đông Á
Washington đang đứng trước ngã ba đường với những lựa chọn khó khăn, giữ lấy đòn bẫy chiến lược Đài Loan, hay đổi lấy những bình yên hiện tại với Trung Quốc. Từ lâu Đài Loan đã nhiều lẫn gửi đề nghị đến Mỹ, thúc giục Washington bán cho họ 66 máy bay chiến đấu F-16C/D mới. Tuy nhiên đến nay đề nghị này vẫn chưa nhận được câu trả lời thỏa đáng. Đài Loan, Trung Quốc ai quan trọng hơn? Rõ ràng chính quyền Tổng thống Obama đang đứng trước ngã ba đường với những lựa chọn cực kỳ khó khăn. Đài Loan có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự hiển diện của Mỹ tại châu Á. Song mối quan hệ với Trung Quốc cũng vô cùng quan trọng. Các thượng nghị sỹ Mỹ đã nhiều lần thúc giục chính quyền Tổng thống Obama bán cho Đài Loan các máy bay chiến đấu F-16C/D mới. Chính quyền Tổng thống Obama cho biết quyết định cuối cùng sẽ được đưa ra vào đầu tháng 10/2011. ![]() Đài Loan có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hiển diện của Mỹ tại châu Á, song Trung Quốc cũng không kém phần quan trọng. Đích thân Ngoại trưởng Hillary Clinton đã trao đổi như vậy với thượng nghị sỹ John Cornyn, bang Texas vào ngày 21/7. Tuy nhiên, một quyết định cung cấp F-16 mới cho Đài Loan có thể làm đảo lộn những tiến bộ gần đây trong quan hệ Trung-Mỹ. Nhiều khả năng, thay vì cung cấp F-16 mới, chính quyền Tổng thống Obama có thể lựa chọn giải pháp nâng cấp toàn bộ 146 chiếc F-16A/B hiện nay. Năm 2010, Mỹ đã chấp nhận để nâng cấp 146 chiếc F-16 của Đài Loan lên chuẩn mới hiện đại hơn. Gói nâng cấp trị 4,6 tỷ USD đã phải đóng băng vì áp lực từ Trung Quốc, văn phòng chính phủ Mỹ đã ra thông báo cho biết gói nâng cấp F-16A/B MLU sẽ được tiếp tục sau hơn 1 năm bị đình trệ. Từ năm 2007 đến nay, Mỹ đã bán cho Đài Loan hơn 16 tỷ USD vũ khí, điều này liên tục gặp phải những phản đối và cả áp lực trả đủa từ phía Bắc Kinh. Trong năm 2010, sau khi chính quyền Mỹ thông báo gói bán vũ khí cho Đài Loan trị giá 6,4 tỷ USD đã gặp phải sự phản đối kịch liệt của Trung Quốc. Thậm chí, Bắc Kinh còn lên tiếng đe dọa trừng phạt kinh tế và đóng băng mối quan hệ quân sự giữa hai bên suốt năm 2010. Đầu năm 2011, mối quan hệ quân sự Trung-Mỹ đã có những chuyển biến tịch cực bởi những chuyến thăm của lãnh đạo quốc phòng 2 nước. Mặc dù mối quan hệ quân sự giữa hai bên đã được cải thiện, song vẫn còn một khoảng cách rất xa trong cách suy nghĩ và nhìn nhận các vấn đề của đôi bên. Sau chuyến thăm của Tham mưu trưởng liên quân Mỹ đô đốc Mike Mullen ông tỏ ra rất lo ngại trước tốc độ hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc. Tuy nhiên, hai bên vẫn tiếp tục thúc đẩy các cuộc đàm phán chiến lược. Đặc biệt, thời hạn công bố quyết định quan trọng này sẽ trùng với quốc khánh của Trung Quốc. Rupert Hammond-Chambers chủ tịch hội đồng kinh doanh Mỹ-Đài Loan cho biết. Thời điểm để đưa ra quyết định bán máy bay chiến đấu F-16 cho Đài Loan là rất khó khăn bởi nhiều lý do khác nữa. Quyết định này sẽ mắc kẹt vào chuyến thăm Trung Quốc của Phó tổng thống Mỹ Joseph Biden vào tháng tới. Cùng với đó là chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến Hawai vào tháng 11/2010 và chuyến thăm của phó chủ tịch Trung Quốc Tập Cẩn Bình đến Mỹ vào mùa đông. Rupert Hammond-Chambers bình luận rằng: “Nó không có vẻ chính đáng, rằng chính quyền Tổng thống Obama sẽ cho Đài Loan câu trả lời ngay trong chuyến thăm của hai nhân vật cấp cao của Trung Quốc. Tôi nghi nghờ rằng, kết quả đơn giản chỉ là nhắc lại quyết định hiện đại hóa số máy bay chiến đấu của Đài Loan đã được đề cập trước đây mà thôi”. Andrew Yang, thứ trưởng quốc phòng Đài Loan cho biết: “Trung Quốc sẽ rất khó chịu và vô cùng tức giận, tôi không tin Mỹ sẽ có hành động quyết liệt trong vấn đề này”. Tuy nhiên, một khi việc yêu cầu bán máy bay chiến đấu F-16 mới cho Đài Loan bị thất bại, điều đó sẽ làm tổn thương nghiêm trọng khả năng tự vệ của Đài Bắc. “Nếu chúng ta không có máy bay chiến đấu mới để thay thế cho máy bay chiến đấu đã cũ, chúng ta sẽ mất đi đòn bẩy của chính mình”, ông Yang đã nói. Ông Yang cho biết, Đài Loan có quyền mua vũ khí từ bên ngoài để bảo vệ mình trước một cuộc xâm lăng từ bên ngoài. Ông cũng cho biết rằng, quân đội cùng các nhà khoa học đang nghiên cứu phát triển một loại vũ khí xung điện từ mới EMP. Đài Loan cũng đang phát triển các loại tên lửa mới, tuy nhiên ông Yang từ chối xác nhận sự phát triển của tên lửa hành trình đối đất Hùng Phong-2E. Đài Loan lo ngại bị Mỹ "bán" cho Trung Quốc Hiện tại, quan hệ Mỹ-Trung đang có những diễn biến tích cực, một quyết định bán F-16 C/D cho Đài Loan sẽ làm phá sản mọi nỗ lực hàn gắn quan hệ hiện nay. Bắc Kinh đang cho thấy họ ngày càng trở nên cứng rắn và quyết đoán hơn trong các vấn đề liên quan đến Đài Loan và biển Đông. Thật khó có thể lường trước những phản ứng của Bắc Kinh nếu quyết định bán F-16 C/D cho Đài Loan được thông qua. Nhưng nếu không cung cấp vũ khí mới cho Đài Loan, cán cân quân sự giữa eo biển Đài Loan sẽ tiếp tục bất lợi cho Đài Bắc, một khi Đài Loan mất khả năng tự vệ trước một cuộc tấn công nếu có, sự can thiệp quân sự của Mỹ xem như đã quá muộn Thứ trưởng quốc phòng Yang cho biết: “Mất Đài Loàn vào tay Trung Quốc đó sẽ là một thảm họa đối với sức mạnh quân sự của Mỹ tại châu Á-Thái Bình Dương. Nếu Trung Quốc xây dựng được các căn cứ quân sự trên đảo Đài Loan, họ sẽ thống trị toàn bộ biển Đông và đe dọa đến sự hiển diện của Mỹ tại Đông Bắc Á". Thứ trưởng quốc phòng Đài Loan cho biết, nếu để Đài Loan rơi vào tay Trung Quốc, Washington sẽ mất đi một nhà cung cấp tình báo đáng tin cậy và quan trọng. Ông nói: “Chúng tôi đang thu thập những thứ tốt nhất và chúng tôi đang chia sẽ nó với Mỹ” Lực lượng không quân Đài Loan đang rơi vào tình trạng khủng hoảng lực lượng, các máy bay chiến đấu của họ đã bắt đầu lão hóa và xuống cấp. Trong khi đó, không quân Trung Quốc hàng năm nhận được hàng trăm máy bay chiến đấu mới. Cùng với đó là sự xuất hiện của máy bay tiêm kích thế hệ 5 J-20, tàu sân bay Thi Lang sắp được đưa vào thử nghiệm. Hiện tại không quân Đài Loan có 126 chiếc tiêm kích phòng thủ nội địa IDF, 56 chiếc Mirage-2000, 146 chiếc F-16A/B, khoảng 60 chiếc F-5E/F số máy bay F-5 này buộc lòng phải nghỉ hưu trong khoảng 1 thập kỷ tới. Mặc dù Đài Loan đã tiến hành nâng cấp 71 máy bay trong tổng số 126 chiếc tiêm kích phòng thủ nội địa IDF, nâng cấp một số máy bay tiêm kích Mirage-2000. Nếu Đài Loan không thể có được F-16C/D họ sẽ tiếp tục nâng cấp 55 chiếc IDF còn lại. Tuy nhiên điều này sẽ không thể lấp đầy khoảng cách đối với Không quân Trung Quốc. Nhiều nhà phân tích chính trị nhận định rằng, nhiều khả năng Mỹ sẽ chọn giải pháp nâng cấp 146 chiếc F-16A/B hiện tại của Đài Loan lên chuẩn mới hiện đại hơn, thậm chí là lên tới Block-52 Plus, gói nâng cấp mạnh nhất hiện nay của F-16. Điều đó sẽ phần nào trung hòa lợi ích giữa đôi bên, duy trì được mối quan hệ quân sự tốt đẹp với Trung Quốc Mỹ sẽ có thêm nhiều thời gian để củng cố những toan tính của mình tại châu Á-Thái Bình Dương. [BDV news] |
>> Kế hoạch 'vươn ra vùng biển sâu' của Hàn Quốc
Ý tưởng xây dựng một lực lượng hải quân có khả năng vươn ra khỏi thềm lục địa, tiến vào vùng biển sâu không được biết tới nhiều trong một thập kỷ qua. Nhưng điều đó không có nghĩa quốc gia “lắm tiền” này không có tham vọng phát triển hải quân tầm cỡ thế giới, mà đơn giản rằng họ không được sự chú ý nhiều như đối với người láng giềng Trung Quốc. Một hòn đảo phía nam luôn mâu thuẫn với đất liền, dân cư địa phương phản ứng kịch liệt trước sự xây dựng một căn cứ quân sự lớn, vấn đề bảo vệ rặng san hô đáy biển là một câu hỏi lớn của các nhà khoa học. Liệu đây có phải là những thông tin quen thuộc liên quan tới tranh chấp kéo dài về việc xây dựng căn cứ Mỹ tại đảo Okinawa, Nhật Bản? Câu trả lời là không. Đây là hòn đảo Jeju-do nằm phía nam của Hàn Quốc. Chính phủ quốc gia này đang lên kế hoạch xây dựng một trung tâm hải quân cỡ lớn tại làng Gangjeong – ngôi nhà trong tương lai của hạm đội tàu chiến cỡ lớn và rất hiện đại của Hàn Quốc trong tương lai không xa. Với mối đe dọa ngày càng lớn của hải quân Trung Quốc, Hàn Quốc cũng đang buộc phải “phình to” hải quân và thực hiện tham vọng sở hữu hải đội có tầm cỡ thế giới. Hải quân Hàn Quốc có những hạm đội tàu chiến mạnh Lực lượng hải quân nước sâu của Hàn Quốc được xây dựng dựa trên nòng cốt là những tàu chiến có trang bị hệ thống dẫn đường cho tên lửa phức tạp. Hai tàu chiến thuộc diện “hàng khủng” có trang bị hệ thống Aegis có trọng lượng choán nước 7.600 tấn vừa tham gia vào biên chế hải quân Hàn Quốc đã khẳng định tham vọng của quốc gia này. ![]() Tàu tấn công-đổ bộ lớp Dokdo có khả năng chuyên trở trực thăng và sắp tới là cả các máy bay không người lái. Ngoài ra, với khoảng nửa tá tàu chiến có trọng lượng choán nước 4.500 tấn cùng các tàu tấn công và tàu ngầm, hải quân Hàn Quốc có một sức mạnh đáng kể. Dokdo – tàu tấn công-đổ bộ có trọng lượng choán nước 18.000 tấn là hạt nhân dẫn đầu cho hạm đội tàu chiến chiến lược của hải quân Hàn Quốc. Dokdo lớn hơn mọi tàu chiến mà hải quân Nhật Bản và thậm chí cả hải quân Trung Quốc đang sở hữu. Đây là tàu chiến lớn nhất của các quốc gia Đông Á. Danh hiệu của Dokdo vẫn sẽ được duy trì cho tới khi Trung Quốc chính thức đưa tàu sân bay vào hoạt động. Trên thực tế, tàu sân bay của hải quân Trung Quốc khiến cho báo chí tốn nhiều giấy mực vẫn đang phải “đánh vật” với quá trình sửa chữa và chuẩn bị. Mặc dù tác dụng chính của sân bay trên tàu Dokdo là hỗ trợ máy bay trực thăng và lính thủy đánh bộ, tuy nhiên nó cũng có khả năng hỗ trợ thêm cho các máy bay chiến đấu không người lái. Và hiện tại, Hàn Quốc đang có kế hoạch chế tạo thêm một số tàu giống như Dokdo với trọng lượng nhỏ hơn. Nguyên nhân của chiến lược này Lý giải cho nguyên nhân phát triển hải quân chóng mặt, giống như người láng giềng Trung Quốc, Hàn Quốc tuyên bố đây là sự cần thiết để đưa sức mạnh quân sự vượt ra vùng biển quốc tế nhằm hỗ trợ các hoạt động gìn giữ hòa bình cũng như cứu hộ, cứu nạn khi có thiên tai xảy ra. ![]() Đảo Jeju từ lâu đã được coi là thiên đường du lịch tại Xứ sở Kim Chi. Nhưng theo các chuyên gia quân sự thì lời giải thích hợp tình hợp lý hơn chính là qui mô của nền kinh tế. Khi qui mô của nền kinh tế tăng trưởng, “phần chia” tài chính dành cho hải quân cũng lớn dần, do vậy các quốc gia sẽ tiến hành “mở rộng trước, tìm lý do sau”. Căn cứ hải quân ở phía nam đảo Jeju là một bước tiến rõ ràng chứng minh tham vọng vươn ra biển sâu của Hàn Quốc. Và quốc gia này cũng chọn địa điểm căn cứ ở phía nam nhằm tránh càng xa càng tốt "người láng giềng nóng tính" Triều Tiên ở phía bắc. Cho dù Triều Tiên được coi là kẻ thù chính của Hàn Quốc, nhưng trên thực tế, người dân 2 miền vẫn cùng một dân tộc. Sau khi hoàn thành vào năm 2014, căn cứ này sẽ là ngôi nhà mới cho khoảng 20 tàu chiến và tàu ngầm hiện đại nhất của Hàn Quốc. Căn cứ ở Jeju sẽ có khả năng chứa hai tàu chiến cỡ lớn cùng một lúc. Điều an ủi duy nhất đối với người dân đảo Jeju là căn cứ hải quân hùng mạnh mới sẽ kích thích số lượng khách du lịch tới thăm quan. Hoàn cảnh mới và tương lai của chiến lược vươn tầm hải quân của Hàn Quốc. Chiến lược đưa Hải quân Hàn Quốc vươn ra vùng biển sâu được phát triển vào cuối những năm 1990. Đây là thời kì mà mối quan hệ giữa hai miền Triều Tiên khá êm ấm khi chính sách Ánh dương của cựu tổng thống Kim Dea-jung vẫn phát huy tác dụng. ![]() Chính sách Ánh dương của cựu tổng thống Kim Dea-jung và thời kì "cơm lành canh ngọt" với Triều Tiên đã qua từ lâu. Nhưng tình hình hiện nay đã đổi khác rất nhiều. Trái ngược với việc hải quân Trung Quốc ít gây phiền nhiễu tới bờ biển Hàn Quốc, Triều Tiên lại chứng tỏ mình là một thế lực đáng gờm. Vào năm ngoái, tàu ngầm Triều Tiên đã bắn chìm tàu khu trục Cheonan và cướp đi sinh mạng của hơn 40 thủy thủ. Có vẻ các quan chức Hàn Quốc đã quá chú trọng vào tham vọng vươn ra vùng biển sâu mà lơ là mối đe dọa chính đối với quốc gia này chính là người anh em Triều Tiên ở phía bắc. Và những sự kiện đau thương xảy ra vào năm 2010 cũng đã góp phần làm thay đổi kế hoạch của hải quân Hàn Quốc. Ý tưởng “vươn ra biển sâu” càng ngày càng ít được nhắc tới và chính phủ đã rút lại “Chiến Lược Hải Quân Đại Dương”. [BDV news] |
Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011
>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 4)
>>Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1) >>Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 2) >>Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 3) Thế hệ pháo cối tự hành ưu việt của Phần Lan và các loại đạn cối thông minh có độ chính xác cao, sẵn sàng đương đầu với các thách thức trong chiến trường hiện đại. AMOS (Phần Lan) Được nghiên cứu bởi sự hợp tác của hai công ty Patria và Hagglunds từ năm 1996, hệ thống pháo cối tự hành AMOS - Advance MOrtar System nhằm đáp ứng nhu cầu trang bị trong quân đội Phần Lan và Thụy Điển. Trong đó, Patria lo phần nghiên cứu về hệ thống nạp đạn tự động từ phía cuối nòng pháo còn Hagglunds nghiên cứu chế tạo loại nòng súng cối thế hệ mới, có khả năng chịu được tốc đọ bắn cực cao. ![]() Bản thử nghiệm đầu tiên của pháo cối AMOS được đặt trên thân xe thiết giáp bánh hơi AMV. ![]() Pháo cối tự hành AMOS với thân xe thiết giáp bánh xích CV-90. Tháp pháo của hệ thống AMOS bao gồm hai nòng pháo cối cỡ 120 mm . So với pháo cối thông thường, AMOS có tốc độ bắn vượt trội vì sở hữu tới hai nòng pháo và hệ thống nạp đạn hoàn toàn tự động, giúp nó có thể đạt tốc độ bắn duy trì tới 26 phát/phút. Ngoài ra, hệ thống còn có khả năng bắn MRSI (Multiple Rounds Simulteaneous-Impact), nghĩa là AMOS sẽ thay đổi góc bắn của nòng pháo cực nhanh khi bắn khiến tất cả các viên đạn đều rơi cùng một điểm trong cùng một lúc. Trong chế độ MRSI, AMOS có thể bắn liên tiếp 16 quả đạn. Trong chế độ bắn và chạy (hit and run), AMOS có thể bắn xong 14 quả đạn và di chuyển trước khi quả đạn đầu tiên chạm đến mục tiêu khiến việc phản pháo trở nên cực kỳ khó khăn. Video mô tả chế độ bắn MRSI. Ngoài các khả năng trên, do sở hữu nòng pháo dài tới 3m, AMOS cũng có thể làm nhiệm vụ của pháo bắn thẳng với tầm bắn 1,5 km. Chức năng chính là một khẩu pháo cối, AMOS có thể bắn tất cả các loại đạn cối, kể cả các loại đạn cối “thông minh” điều khiển bằng laser với tầm bắn 10 km. Trong biến thể của Thụy Điển, AMOS sử dụng loại đạn thông minh Strix dẫn đường hồng ngoại do Saab sản xuất với tầm bắn 7 km. Theo Saab, đạn Strix có khả năng bám đuổi các mục tiêu cơ giới và phân biệt được nguồn nhiệt giữa động cơ mục tiêu phát ra và nguồn nhiệt từ đạn mồi cũng như các đám cháy. Tháp pháo AMOS hoàn toàn tự động được vận hành bởi binh lính ngồi trong thân xe, hơn nữa nó cũng được bọc giáp để chống lại các loại đạn súng bộ binh cũng như mảnh đạn pháo. Khối lượng tháp pháo thay đổi từ 3,6 tấn - 4,4 tấn tùy theo mức độ giáp bảo vệ. ![]() AMOS lắp đặt trên tầu tuần duyên CB-90 Hiện nay, quân đội Phần Lan vận hành 4 hệ thống AMOS được lắp đặt trên thân xe thiết giáp bánh hơi AMV, xe thiết giáp bánh xích CV90 và tầu tuần tra bờ biển CB90. Ngoài ra, một hợp đồng cung cấp 20 hệ thống AMOS cho quân đội cũng đã được ký kết và đang trong giai đoạn chuyển giao. NEMO (Phần Lan) Đây là biến thể rút gọn chỉ dành cho xuất khẩu của pháo cối tự hành AMOS. Phiên bản NEMO (NEw MOrtar) đầu tiên lắp đặt trên thân xe thiết giáp bánh hơi AMV được Patria giới thiệu vào năm 2006. Là biến thể rút gọn của AMOS, NEMO chỉ gồm một nòng pháo và có tốc độ bắn chỉ đạt 10 phát/phút và bắn chế độ MRSI với loạt bắn 6 quả đạn. Tuy vậy, tầm bắn và khả năng sử dụng đa dạng các loại đạn cối thông thường và thông minh của NEMO vẫn tương tự như phiên bản nội địa AMOS. ![]() NEMO là phiên bản rút gọn của AMOS với một nòng pháo và chỉ có hệ thống nạp đạn bán tự động. Ưu điểm của NEMO nằm ở khối lượng cực nhẹ của nó. Với toàn bộ khối lượng chỉ có 1,6 tấn, NEMO có thể được lắp đặt trên rất nhiều xe thiết giáp hạng nhẹ, kể cả xuồng tuần tra cao tốc. Cho đến thời điểm hiện nay, NEMO đã nhận được rất nhiều đơn đặt hàng từ các quốc gia trên thế giới. Slovenia là khách hàng đầu tiên của hệ hống này khi kí hợp đồng mua NEMO từ ăn 2006. Năm 2009, lực lượng biên phòng Arab Saudi đã đặt mua 36 hệ thống NEMO lắp trên thân xe thiết giáp LAV, lô đầu tiên của số vũ khí này sẽ được bàn giao từ tháng 4/2011. Lực lượng tuần duyên Các tiểu vương quốc Arập thống nhất cũng đặt mua 6 hệ thống NEMO lắp trên các tầu tuần duyên ![]() Hệ thống NEMO đặt trên tầu tuần duyên cao tốc. Đạn cối thông minh Công nghệ chế tạo đạn cối thông minh cũng không hề phát triển chậm hơn tốc độ ra đời của các loại pháo cối. Trong điều kiện các phương tiện chiến tranh hiện đại hầu hết đều có thể vận động liên tục trên chiến trường, các loại đạn cối thông minh được phát triển nhằm tiêu diệt các mục tiêu di động hoặc tiêu diệt nhiều mục tiêu khác nhau trên chiến trường mà không phải điều chỉnh lại nòng pháo. Một số những loại đạn cối thông minh được giới thiệu hiện nay bao gồm Strix của Thụy Điển, Kitolov-2 của Nga hay M935 (đạn cối dẫn đường chính xác, PGMM-Precision Mortar Munition) đang được Mỹ phát triển. Thế hệ đạn cối đầu tiên sử dụng phương pháp dẫn đường bằng con quay hồi chuyển với độ lệch CEP tới 360 mét ở cự ky 12 km và 630 mét ở cự ly 15 km đã không làm hài lòng quân đội Mỹ. Thế hệ đạn cối mới sử dụng hệ thống dẫn đường GPS/INS cho phép giảm độ lệch xuống mức 100 mét ở cự ly 15 km. Thậm chí, biến thể M935 mới nhất có thể đạt CEP chỉ ở mức 2 mét trong cự ly 15 km. ![]() Đạn cối M935 dẫn đường GPS/INS của Hoa Kỳ có khả năng đạt CEP chỉ 2 mét ở khoảng cách 15 km. Khác với Hoa Kỳ, Nga sử dụng loại đạn cối dẫn đường bằng laser có tên Kitolov-2. Khác với M-935, Kitolov-2 được chế tạo nhằm chống lại các phương tiện cơ giới di động. Điểm hạn chế của Kitolov-2 là mục tiêu phải luôn được chiếu laser đánh dấu trước khi đạn bay tới được mục tiêu. ![]() Đạn cối dẫn đường bằng laser Kitolov-2 với bộ chỉ điểm laser. Đầu dò của Kitolov-2 cho phép nó có thể nhận ra điểm được đánh dấu laser từ kkhoảng cách 7 km. Trong điều kiện thực chiến, Kitolov-2 có thể đánh bại các mục tiêu nằm cách xa nhau 800 mét mà không phải điều chỉnh nòng súng. Viên đạn Kitolov-2 với đầu nổ nặng 10 kg tấn công từ nóc có thể đánh bại bất cứ phương tiện cơ giới nào. Khác với hai loại đạn cối trên, loại đạn cối Strix của Thụy Điển lại sử dụng phương pháp dẫn đường hồng ngoại. Strix có thể đánh bại các phương tiện thiết giáp di động ở khoảng cách 7 km. ![]() Đạn cối dẫn đường bằng hồng ngoại Strix do Saab (Thụy Điển) sản xuất. Những khẩu pháo cối tự hành đã lấp đầy chỗ trống giữa hỏa lực chi viện của pháo tầm xa và hỏa lực bắn thẳng trong chiến trường hiện đại. Ngày nay, với các công nghệ giúp pháo cối có tốc độ bắn cực cao, khả năng di chuyển linh hoạt cùng với các loại đạn thông minh, đây chắc chắn sẽ là thứ vũ khí cực kỳ nguy hiểm của lục quân các nước trong tương lai. >>Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1) >>Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 2) >>Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 3) [BDV news] |
Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011
>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 3)
>> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1) >> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 2) Được thiết kế để có thể lắp trên nhiều loại thân xe, đường đạn được tính toán bằng máy tính hiện đại để đạt hiệu quả bắn chính xác là nét chính trong các loại pháo cối tự hành thế hệ mới. Wiesel (Đức) Sau những thử nghiệm thành công khi lắp đặt pháo cối 120 mm trên thân xe thiết giáp đổ bộ đường không Wiesel-1, Bộ Quốc phòng Đức đã quyết định phát triển các mẫu pháo cối tự hành trên thân xe Wiesel-2. Hai mẫu thử nghiệm của hệ thống này đã được thử nghiệm thành công năm 2004. Tiếp nối thành công này, năm 2009, quân đội Đức đã quyết định mua 8 hệ thống cối tự hành này với giá 9 triệu USD/xe kết hợp hai xe trinh sát chiến trường điều khiển bắn trị giá 5 triệu USD/xe. Những chiếc xe này sẽ được bàn giao trong nửa cuối năm 2011 để tiến hành những thử nghiệm thực địa cuối cùng. Sau những thử nghiệm này, quỹ dành cho chương trình phát triển có thể đủ cho việc sản xuất 38 pháo cối tự hành Wiesel-2 cùng 44 xe hỗ trợ khác như xe tiếp đạn, xe trinh sát và điều khiển bắn. Pháo cối 120 mm của Wiesel-2 có thể thực hiện các thao tác ngắm, nạp đạn và bắn trong cabin được bảo vệ toàn bộ. Hệ thống điều khiển bắn vi tính hóa cho phép khẩu cối này có thể chuyển từ trạng thái hành quân sang trạng thái sẵn sàng bắn trong thời gian nhỏ hơn 60 giây. Khung xe Wiesel-2 là loại có thể sử dụng khá tiện lợi trên chiến trường. Mặc dù bốn cuộc thử nghiệm thả dù từ máy bay đối với loại thiết giáp này đều thất bại nhưng nó vẫn có thể dễ dàng vận chuyển bằng trực thăng khi một chiếc trực thăng CH-53 Sea Stallion có thể chở theo hai chiếc Wiesel-2 một lần. ![]() Video clip giới thiệu pháo cối tự hành Wiesel-2. ![]() Wiesel-2 có thể chuyển từ trạng thái hành quân sang trạng thái chiến đấu trong thời gian nhỏ hơn 60 giây. ![]() Khung xe Wiesel-2 được thiết kế chuyên biệt để vận chuyển bằng máy bay. Một trực thăng CH-53 có thể mang theo tới hai xe thiết giáp loại này. SRAMS (Singapore) Hệ thống Pháo cối tiên tiến bắn nhanh (SRAMS - Super Rapid Advance Mortar System) đã được trang bị cho quân đội Singapore trong thời gian gần đây cùng với các xe thiết giáp bánh xích Bronco. Hệ thống SRAMS có rất nhiều ưu điểm như hệ thống nạp đạn bán tự động cho phép tốc độ bắn tối đa có thể đạt 18 phát/phút; ![]() Pháo cối SRAMS lắp đặt trên thân xe thiết giáp Bronco. ![]() Pháo cối 120 mm SRAMS được tích hợp hệ thống chống giật và làm mát nòng súng hiện đại khiến tốc độ bắn có thể đạt đến 18 phát/phút. Hệ thống làm mát nòng pháo cùng bộ phận chống giật thủy lực giúp tăng độ chính xác cùng việc điều chỉnh hướng và góc của nòng pháo cối hoàn toàn tự động hóa dưới sự điều khiển của hệ thống kiểm soát bắn vi tính hóa. Hệ thống SRAMS cũng có thể sử dụng rất nhiều loại đạn, kể cả các loại đạn cối có hỗ trợ động cơ tên lửa tăng tầm với tầm bắn lên tới 13 km. Bên cạnh khung xe thiết giáp bánh xích Bronco, SRAMS cũng có thể lắp đặt lên rất nhiều các khung xe khác như xe trinh sát hạng nhẹ Spyder của Singapore, Humvee của Mỹ hay xe RG-31 Mk5 4x4 trong bản SRAMS Singapore bán cho Các tiểu vương quốc Arập thống nhất. Cho đến thời điểm này, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất là khách hàng nước ngoài duy nhất của SRAMS với bốn hệ thống đã được chuyển giao. ![]() SRAMS lắp đặt trên xe trinh sát hạng nhẹ Spyder của Singapore. 2S9 Nona và 2S31 Vena (Nga) Bên cạnh pháo cối tự hành 82 mm 2B9 Vesilek và 2S24 trên khung xe MT-LB, Nga cũng có truyền thống khá lâu trong việc phát triển các hệ thống pháo cối tự hành 120 mm có tháp pháo riêng biệt như 2S9 Nona, 2S23 Nona-SVK và mới nhất là 2S31 Vena. Hệ thống 2S9 Nona được là hệ thống pháo cối 120 mm có tháp pháo được lắp đặt trên thân xe đổ bộ đường không BTR-D. Được tẩng bị pháo cối đa dụng 2A51 120 mm có khả năng bắn cả đạn pháo và đạn cối, 2S9 Nona có cả khả năng bắn đạn cầu vồng hay bắn thẳng. Tầm bắn của Nona có thể đạt 8,9 km với đạn nổ thông thường và 13 km với đạn có tăng tầm tên lửa. Tuy nhiên, tốc độ bắn của khẩu pháo cối này là một hạn chế, chỉ đạt từ 6 - 8 phát/phút. ![]() Hệ thống 2S9 Nona đang khai hỏa. Phiên bản 2S23 Nona SVK là một phiên bản cải tiến của 2S9 Nona dựa trên thân xe thiết giáp chở quân BTR-80. Mặc dù sử dụng nòng pháo cối mới 2A60, 2S23 Nona SVK vẫn sử dụng các loại đạn giống như 2S9 Nona. Một ưu điểm nữa của 2S23 Nona SVK là thân xe có khả năng vận động tốt hơn và ít yêu cầu bảo dưỡng hơn phiên bản trước. Tổng cộng đã có 1.000 pháo cối tư hành 2S9 Nona và 100 hệ thống 2S23 Nona SVK đã được sản xuất. Trong đó, hệ thống 2S23 Nona SVK được tin rằng đã bị copy bởi Trung Quốc để sản xuất ra pháo cối tự hành PLL-05 của họ. ![]() Pháo cối tự hành 2S23 Nona SVK đã bị Trung Quốc copy để chế tạo phiên bản cối tự hành PLL-05 của họ. Hệ thóng pháo cối tự hành mới nhất của Nga hiện nay là 2S31 Vena được phát triển từ 15 năm trước dựa trên thân xe chiến đấu bộ binh BMP-3. Hệ thống này được trang bị pháo cối 2A80 120 mm nòng trơn dài hơn hẳn các hệ thống trước đó. Pháo cối 2A80 cũng có khả năng bắn toàn bộ các loại đạn cối 120 mm cũng như các loại đạn pháo và đạn cối tự dẫn lade Kitolov-2M. Thậm chí, 2A80 có khả năng bắn các các loại đạn chỉ dành riêng cho pháo nòng xoắn. Một xe 2S31 Vena có thể mang theo 70 viên đạn với 22 viên nằm sẵn trong hệ thống nạp dạn tự động cho phép bắn nhanh. Pháo có tầm bắn tối đa từ 7,2 km với đạn thường và 13 km đối với đạn tăng tầm hỗ trợ động cơ tên lửa. ![]() 2S31 Vena là hệ thống pháo cối tự hành hiện đại nhất của Nga hiện nay. Hiện tại, hệ thống 2S31 Vena đang nằm trong danh mục có thể xuất khẩu của Nga, tuy nhiên vẫn chưa có bất kỳ một đơn đặt hàng nào khác ngoài quân đội Nga đối với hệ thống này. >> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 1) >> Các hệ thống pháo cối tự hành trên thế giới (kỳ 2) [BDV news] |
Nhãn:
Khung xe Wiesel-2,
Lục quân Đức,
Lục quân Nga,
Pháo cối SRAMS,
Pháo cối tự hành,
Pháo cối tự hành 2S23 Nona SVK,
Pháo cối tư hành PLL-05,
Pháo tự hành
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)