Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2011

>> Mỹ điều USS Montery 'dòm' kho tên lửa Iran



Quân đội Mỹ sẽ cử một tàu chiến tới biển Địa Trung Hải trong vài tuần tới.

Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch thành lập một lá chắn phòng thủ cho châu Âu trước sự đe dọa tới từ kho tên lửa của Iran. Theo đó, tàu USS Monterey tới Địa Trung Hải trong vòng 6 tháng.

Giám đốc Tổ chức phòng thủ chống tên lửa và vũ khí hạt nhân của Mỹ, John Plumb cho biết, tàu USS Monterey sẽ rời cảng Norfolk, Virginia vào tuần tới trong nhiệm vụ tại Địa Trung Hải kéo dài 6 tháng.

USS Monterey là tàu dẫn đường tên lửa, được trang bị hệ thống Aegis nhằm phát hiện và chống tên lửa hành trình.

Với việc bổ xung thêm tàu USS Monterey, chính phủ Mỹ đã hoàn thành việc triển khai phương tiện chiến đấu cho lá chắn châu Âu trong năm 2011.




USS Monterey có trang bị hệ thống radar Aegis hiện đại, tàu sẽ thực hiện nhiệm vụ tại Địa Trung Hải trong vòng 6 tháng.

Sau khi tổng thống Mỹ Barack Obama công bố chính sách phòng thủ tên lửa vào năm 2009, ông Plumb nhận xét: “Đây là bước thực hiện đầu tiên của nước Mỹ nhằm chứng minh sự cam kết cung cấp hệ thống phòng thủ tên lửa cho quân đội Mỹ, đồng minh và các đối tác tại châu Âu. Chúng tôi nói rằng sẽ làm, và bây giờ chúng tôi đang thực hiện điều đó".

Tàu USS Monterey thuộc lớp Tinconderoga, sẽ diễn tập cùng với lực lượng Mỹ có mặt tại Địa Trung Hải và hình thành “sự hiện diện thường trực” của những tàu có trang bị hệ thống hỗ trợ tương tự như USS Monterey.

Những tàu dẫn đường cho tên lửa của quân đội Mỹ được điều động tới Địa Trung Hải trong quá khứ. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên một tàu kiểu này được triển khai nhằm hỗ trợ cho hệ thống phòng thủ tên lửa.


Quân đội Mỹ thử nghiệm tên lửa đánh chặn từ tàu chiến.

"Viên gạch" xây dựng lá chắn tên lửa cho châu Âu
Liên minh NATO đã nhất trí về lá chắn tên lửa trong cuộc họp thượng đỉnh tại Lisbon vào năm 2010. Dự án lá chắn tên lửa bị đặt nhiều dấu hỏi cho độ tin cậy của các vũ khí chống tên lửa và liệu những thiết bị đánh chặn hiện đại có thể hoàn thành nhiệm vụ đúng dự kiến hay không.

Theo ông Plumb, Mỹ sẽ tiếp tục triển khai hệ thống radar trên đất liền tại nam Âu vào cuối năm 2011. Tuy nhiên quá trình này đang gặp khó khăn khi còn tồn tại rất nhiều bất đồng trong đàm phán.


Hải quân Mỹ thử nghiệm hệ thống tên lửa đánh chặn SM-3, hiện được trang bị trên một số tàu chiến của Mỹ.

Một phần trong kế hoạch lá chắn tên lửa châu Âu chính là triển khai hệ thống đánh chặn trên bờ SM-3 tại Romania và Ba Lan vào năm 2015 và 2018.

Quân đội Mỹ cũng tiếp tục phát triển phiên bản trên bờ SM-3. Hiện tại, SM-3 đã được lắp đặt trên một số tàu hải quân.

Theo chính quyền của tổng thống Obama, chương trình phòng thủ tên lửa này chủ yếu nhằm vào nguy cơ từ chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Iran và kho tên lửa tầm trung đang phát triển “chóng mặt” của quốc gia này.

(Defence Talk)

>> Xe tăng Trung Quốc sẽ đảo lộn thị trường vũ khí



VT-1A của Trung Quốc được Viện KHKT nước này nghiên cứu chế tạo phù hợp với mục đích yêu cầu của chiến tranh hiện đại.

VT-1A nặng 49 tấn, có thiết bị nạp đạn tự động, chở được 3 người, vũ khí chính là pháo nòng trơn cỡ 125mm. Ngoài ra, trên tháp pháo còn lắp đặt một súng máy cỡ 7,62mm và súng máy phòng không 12,7mm.

Về động cơ, xe tăng VT-1A sử dụng một động cơ diesel công suất 1.200 mã lực, có tốc độ di chuyển 70km/h, hành trình tối đa là 450km. VT-1A có thể nhận dạng các chướng ngại vật, từ đó tự động điều chỉnh di chuyển với tốc độ cao nhất, có trục xoay 180 độ và chuyển hướng độc đáo.

Mức độ phòng thủ của VT-1A khá cao. Xe được trang bị lớp vỏ và một số thiết bị điện tử tiên tiến của loại xe Type-99.



Trung Quốc cho rằng VT-1A sẽ làm 'đảo lộn trật tự' thị trường vũ khí thế giới.

Phía Trung Quốc tuyên bố: Những chiếc xe tăng này đã trải qua cuộc “cải cách” lớn, có tính năng gần bằng xe tăng chủ lực chiến đấu T-80UM2 của quân đội Nga.

Lời giới thiệu của Trung Quốc về VT-1A có đoạn: "VT-1A là xe tăng xuất khẩu chính của Trung Quốc. Hệ thống tấn công và phòng thủ tiên tiến, thân xe được bọc thép chiến đấu mọi điều kiện, hệ thống tự động chữa cháy. Trung Quốc dự báo rằng loại tăng này sẽ làm thị trường vũ khí thế giới bị “đảo lộn trật tự”.

Một trong những đặc điểm của VT-1A được Trung Quốc quảng bá là khả năng "chuyển hướng trung tâm". Theo đó, trong điều kiện tác chiến thành thị, khả năng chuyển hướng trung tâm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch phương hướng tấn công tại các đường phố nhỏ hẹp, từ đó dễ dàng triển khai các khả năng tấn công của loại tăng này. Đặc biệt, xe tăng sẽ trở nên ít rủi ro hơn khi di chuyển qua cầu.

Trung Quốc tự tin với ngành công nghiệp quốc phòng
Sau khi thông tin về loại tăng trên xuất hiện tràn lan trên các trang mạng Trung Quốc, cư dân mạng nước này đã có dịp "nở mày, nở mặt". Nhiều bình luận quanh sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng Trung Quốc.

Dưới đây là một số nội dung chính:

1. Trung Quốc luôn thận trọng và có trách nhiệm trong việc xuất khẩu các loại vũ khí. Buôn bán vũ khí là công cụ kiếm lời trong chính sách quốc phòng của các quốc gia. Nước nào có kỹ thuật cao, khả năng ứng dụng vũ khí vào điều kiện thực tế lớn thì nước đó sẽ xuất khẩu được nhiều vũ khí. Việc buôn bán vũ khí mang lại một siêu lợi nhuận có thể giải quyết nhiều vấn đề về tài chính.

Nhận thức rõ điều này Trung Quốc luôn học hỏi các kỹ thuật tiên tiến của phương tây rồi kết hợp với sự sáng tạo của mình để tạo ra những vũ khí hiện đại. Chính phủ Trung Quốc luôn nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về vũ khí của Liên Hiệp Quốc và cũng là một nước không bị Liên Hiệp Quốc ban hành lệnh cấm xuất khẩu vũ khí với bất kì quốc gia nào trong khu vực cũng như trên thế giới.

2. Trung Quốc được coi là một trong những nước có kĩ thuật tiên tiến về mặt vũ khí. Trong những năm gần đây, nền quốc phòng Trung Quốc không ngừng đạt được những thành tựu mới, trình độ trang bị vũ khí đạt được một bước đột phá lớn.

Máy bay chiến đấu J-11 của Trung Quốc có tính năng tương tự như Su-27 của Nga, các tàu khu trục và tàu ngầm lớp nguyên của Trung Quốc đã gần tiếp cận được trình độ chế tạo của Nga.

Đặc biệt, trong lễ duyệt binh nhân dịp kỉ niệm 60 năm Quốc khánh, Trung Quốc đã trưng bày rất nhiều loại vũ khí hiện đại trong đó có những loại tăng chiến đấu chủ lực tiên tiến.Gần đây, máy bay chiến đấu JF-17 của Trung Quốc được đánh giá rất cao trên thị trường vũ khí quốc tế.

3. Chính trị Trung Quốc ổn định, vũ khí của Trung Quốc tương đối rẻ, chính sách phát triển hợp lí, công nghệ kỹ thuật không ngừng được nâng cao. Hiện nay, các loại vũ khí của Trung Quốc đang dần lấn lướt vũ khí của Mỹ trên thị trường vũ khí quốc tế và dần trở thành sự lựa chọn số một của một số quốc gia trên thế giới.

Từ những năm 1990, Trung Quốc đã cung cấp cho Thái Lan 6 tàu hộ vệ lớp 053. Sau một thời gian sử dụng, phía Thái lan đánh giá các tàu cùng cấp của Đức chỉ bằng ¼ tàu của Trung Quốc.

Arab trước đây luôn mua vũ khí từ Mỹ, nhưng hiện nay Trung Quốc cũng đã nhận được đơn đặt hàng về xe tăng VT-1A từ nước này. Không chỉ vậy, Uzbekistan, Kazakhstan và Turkmenistan cũng tuyên bố nhập khẩu loại tăng này của Trung Quốc.

Trên đây là những ý kiến tự nhận xét của cư dân mạng Trung Quốc. Tuy nhiên, niềm tự hào trên vấp phải một thực tế không dễ chấp nhận.

Trong đó, Trung Quốc không thể phủ nhận một số tai tiếng của ngành công nghiệp quốc phòng như việc sao chép Su-27 bất hợp pháp, công nghệ hàng không quân sự vẫn chưa tạo ra động cơ máy bay tin cậy, tuổi thọ cao... Còn máy bay JF-17 hợp tác sản xuất với Pakistan mới chỉ được nước ngoài "quan tâm, tìm hiểu"

Đặc biệt, ngành công nghiệp vũ trụ Trung Quốc đang mắc "nghi án" đã đưa người lên mặt trăng trong... bể bơi.

Dù nhiều chuyên gia Trung Quốc thể hiện niềm tự hào về sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng nhưng Bắc Kinh vẫn đang vất vả trong cuộc trường chinh gỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí mà phương Tây áp đặt từ năm 1989.

Tuy Trung Quốc không bị cấm xuất khẩu vũ khí nhưng nước này thường bị chỉ trích vì việc "quản lý vũ khí kém", khiến vũ khí Trung Quốc thường rơi vào tay các lực lượng đối lập, khủng bố ở nhiều điểm nóng trên thế giới.

Về loại xe tăng VT-1A được giới thiệu ở trên, các chuyên gia ngoài Trung Quốc nhận xét rằng, cả VT-1A lẫn Type-99 chỉ là mẫu cải tiến tổng hợp của xe tăng T-72.
(bdv)

>> Merkava MK-4 bất khả chiến bại

Xe tăng chiến đấu chủ lực Merkava Mk-4 của Israel vừa được thử nghiệm với hệ thống phòng vệ chủ động Rafale Trophy ASPRO-A.

Theo thông tin từ IDF (Israel Defence Forces), trong chiến tranh Lebanon năm 2006, hơn 40 xe tăng của Israel đã bị tiêu diệt bởi tên lửa chống tăng. Hàng năm có rất nhiều xe tăng bị tiêu diệt khi đang làm nhiệm vụ bởi các súng chống tăng cá nhân RPG do Nga sản xuất. Ngoài ra, lực lượng tăng thiết giáp của Israel cũng khó phát hiện ra chỗ trú ẩn của đối phương, dẫn đến hoạt động phản công kém hiệu quả.

Điều này đã dẫn đến nhu cầu phát triển một hệ thống bảo vệ chủ động APS (Active Protection Systems) cho các xe tăng và xe thiết giáp của quân đội Israel. Và Rafale Trophy ASPRO-A ra đời chính là kết quả của nỗ lực của giới khoa học quân sự nước này.



Xe tăng Merkava MK-4.



Rafale Trophy ASPRO-A gắn trên xe cơ giới.


Hiện Rafale Trophy ASPRO-A, hệ thống phòng vệ chủ động cho xe tăng chiến đấu chủ lực, xe bọc thép các loại, để đối phó với mối nguy hiểm đến từ tên lửa chống tăng có điều khiển và súng chống tăng cá nhân, được trang bị cho các xe tăng Merkava MK-4.

Ngày 1/3, hệ thống đã trải qua một thử nghiệm với súng chống tăng cá nhân RPG và cho kết quả khả quan.

Cơ chế hoạt động

Cảm biến của hệ thống Rafale Trophy ASPRO-A.


Bộ phận quan trọng của hệ thống Rafale Trophy ASPRO-A là radar EL/M 2133 băng tần F/G, có nhiệm vụ phát hiện, kiểm soát, phân loại các mối đe dọa từ tên lửa chống tăng. Radar có 4 ăng ten được gắn trên xe, cung cấp trường quan sát 360 độ, được hỗ trợ bởi các cảm biến.

Khi một tên lửa chống tăng hay đạn pháo chống tăng được bắn vào xe, máy tính trên xe dựa vào tín hiệu thu được về tên lửa thông qua radar và hệ thống cảm biến, sẽ thiết lập tính toán quỹ đạo bay, góc độ mà tên lửa sẽ tiếp cận xe tăng.

Khi mối đe dọa được xác định, máy tính sẽ tính toán thời gian và kích nổ hệ thống phóng các viên kim loại nhỏ về phía tên lửa chống tăng và vô hiệu hóa nó ở khoảng cách an toàn.

Hệ thống kích nổ bố trí hai bên hông của xe, sử dụng một tay nạp tự động đặt bên trong xe. Cánh tay được lập trình sẵn để hướng vụ nổ về phía mục tiêu.

Trong trường hợp tên lửa chống tăng không bị phá hủy hoàn toàn, năng lượng từ vụ nổ cũng làm giảm đáng kể, khiến quả đạn không thể thực hiện nhiệm vụ xuyên thủng vỏ giáp như mong muốn.

Ưu điểm của Trophy ASPRO-A
Trong cuộc thử nghiệm của Rafale, Trophy ASPRO-A hoành thành xuất sắc nhiệm vụ. Thậm chí, vụ thử được diễn ra trong một phạm vị hẹp vừa đủ để tiêu diệt tên lửa mà không gây tổn hại đến bộ binh đi kèm.

Theo giới thiệu của nhà sản xuất, hệ thống có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, có khả năng đối phó hiệu quả với nhiều mối đe dọa từ tên lửa chống tăng cùng lúc từ mọi hướng.

Hệ thống tỏ ra hiệu quả trong điều kiện tác chiến đô thị, nơi mà tầm nhìn của các xe tăng bị hạn chế. Hệ thống dễ dàng tích hợp trang bị lên xe tăng, xe thiết giáp các loại.

Ngoài chức năng bảo vệ chủ động cho xe tăng, hệ thống còn giúp phát hiện ra chổ trú ẩn của đối phương ngay sau khi tên lửa được phóng ra. Từ đó, đơn vị tham chiến có thể nhanh chóng tiêu diệt đối phương, loại bỏ mối nguy hiểm cho đơn vị.

Xe tăng Merkava Mk-4 vốn đã nổi tiếng bởi hệ thống giáp bảo vệ, nay được trang bị thêm hệ thống bảo vệ chủ động APS, giúp xe trở nên bất khả chiến bại.

Theo bước Israel, Mỹ cũng xúc tiến để phát triển một hệ thống tương tự để trang bị cho các xe tăng và xe thiết giáp của riêng mình.


Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

>> Top 10 tàu ngầm thế kỷ 20



Được dùng để tìm diệt kẻ thù dưới đáy biển hay chuyên chở tên lửa hạt nhân, tàu ngầm luôn đóng vai trò quan trọng trong lực lượng quân sự của các cường quốc suốt thể kỷ 20.

1. Tàu ngầm U loại VII



Tàu ngầm U loại VII được mệnh danh là "dã thú" dưới nước.

Là lớp tàu ngầm nổi tiếng nhất trong lịch sử, được mệnh danh là “dã thú” dưới nước, tàu ngầm U loại VII con át chủ bài của lực lượng tàu ngầm Đức trong chiến tranh Thế giới thứ II. Tàu có lượng giãn nước 900 tấn, trang bị 5 ống phóng ngư lôi và có kích thước nhỏ hơn các tàu khác trong hạm đội Mỹ nhưng nó luôn giành ưu thế trong các cuộc đụng độ ở Đại Tây Dương trong thế chiến II. Tuy nhiên, tổn thất của loại tàu này không phải là nhỏ, trong số 1.100 tàu được sản xuất thì có hơn 800 tàu đã bị hư hỏng, hơn 75% thủy thủ tử vong.

2. Tàu ngầm lớp Seawolf

Seawolf là tàu ngầm đắt nhất trong lịch sử.

Tàu ngầm lớp Seawolf (sói biển) có giá 4 tỷ USD thuộc loại tàu ngầm đắt nhất trong lịch sử. Chúng được thiết kế để trở thành chiến binh bất khả chiến bại trên đại dương. Loại tàu này có nhiệm vụ săn đuổi và phá hủy các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô. Tuy nhiên, vì chi phí sản xuất quá cao nên Seawolf đã bị đình chỉ sản xuất sau khi xuất xưởng được... ba chiếc tàu. Một trong số đó là tàu USS Jimmy Carter, sau này được chuyển thành tàu ngầm do thám.

3.Tàu ngầm lớp Gato

Tàu ngầm lớp Gato là "cơn ác mộng" của Nhật Bản.

Các tàu ngầm Mỹ lớp Gato là “cơn ác mộng” của các tàu Nhật trong chiến tranh Thế giới thứ II. Nhanh nhẹn, được trang bị vũ khí tốt, hiện đại, loại tàu ngầm này được sử dụng triệt để trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Gato có lượng giãn nước 1.500 tấn, trang bị 6 ống phóng ngư lôi phía trước và bốn ống phóng ngư lôi phía đuôi tàu. Chúng có thể chạy trên mặt nước 20 hải lý và chạy ngầm 9 hải lý một giờ.

4. Tàu ngầm lớp T

Tàu ngầm lớp T có thể mang tới 10 ống phóng ngư lôi.

Được biết đến với tên gọi tàu ngầm lớp Triton, loại tàu này là xương sống của lực lượng hải quân Anh trong suốt chiến tranh Thế giới thứ II. Có lượng giãn nước 1.500 tấn, tàu ngầm lớp T mang được 10 ống phóng ngư lôi. Tuy nhiên, chúng đều được trang bị ở phía trước, chứ không giống các tàu ngầm khác phóng ngư lôi ở cả phía trước và phía đuôi tàu.

5. Tàu ngầm USS Nautilus

Nautilus là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới.

USS Nautilus là tàu ngầm năng lượng hạt nhân đầu tiên của thế giới có thể hoạt động lâu dưới nước. Trước đó, các loại tàu ngầm đều chạy bằng động cơ diesel nên khi chạy dưới chúng phải sử dụng năng lượng dự trữ rất hạn chế. Năm 1955, trong chuyến “công du” đầu tiên, Nautilus đã đi quãng đường 1.100 hải lý, đoạn đường dài nhất trong lịch sử tàu ngầm thời đó.

6. Tàu ngầm X-Craft

Tàu ngầm X-Craft được coi là "em út" về kích cỡ trong gia đình tàu ngầm.

Tàu ngầm X-craft của Hải quân Anh được sử dụng vào các nhiệm vụ tấn công đặc biệt tại các khu vực hải cảng Nauy, nhờ kích thước khiêm tốn của mình. Vào năm 1943, loại tàu ngầm nhỏ bé có trọng lượng 27 tấn này được các tàu lớn hơn kéo tới gần cảng , sau khi được tàu mẹ thả ra nó đã áp sát mục tiêu đặt thuốc nổ làm hư hỏng nặng ba chiếc Tirpitz của hải quân Đức rồi nhẹ nhàng quay trở về tàu mẹ.

7. Tàu ngầm lớp Sentoku

Tàu ngầm lớp Sentoku vừa là tàu ngầm vừa là tàu sân bay

Việc thiết kế một phương tiện chiến tranh vừa là tàu ngầm vừa là tàu sân bay được cho là việc kết hợp giữa một con các và một con voi. Dù vậy, các nhà đóng tàu Nhật Bản vẫn quyết tâm thử nghiệm mô hình đó. Tàu ngầm I-400 lớp Sentoku của Hải quân Hoàng gia Nhật được sử dụng trong chiến tranh Thế giới thứ II có trọng lượng 6.500 tấn, lớn gấp ba lần kích thước của tàu ngầm lớp Gato của Mỹ có trọng lượng tương đương tàu ngầm sử dụng năng lượng hạt nhân lớp George Washington đầu những năm 1960. Tàu ngầm Sentoku có thể mang theo các thủy phi cơ M6A Seiran. Những chiếc máy bay này xuất kích nhờ máy phóng máy bay, sau khi trở về tàu nó sẽ lặn xuống nước cùng với tàu mẹ.

8. Tàu ngầm lớp Typhoon

Tàu ngầm lớp Typhoon là tàu ngầm lớn nhất thế giới.

Tàu ngầm lớp Typhoon của Liên Xô là tàu ngầm lớn nhất trên thế giới, có trọng lượng 48.000 tấn (trong khi tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Mỹ chỉ nặng chưa đến 20.000 tấn còn tàu khu trục lớp Arleigh Burke chỉ nặng 9.000 tấn). Mặc dù được xem là một “người khổng lồ”, nhưng tàu Typhoons lại “yên lặng” đến ngạc nhiên và rất khó để phát hiện. Chúng mang 20 tên lửa đạn đạo SS-N-20 (mà NATO gọi là “cá tầm”), trang bị nhiều đầu đạn hạt nhân cũng như ngư lôi và tên lửa chống tàu chiến khác.

9. Tàu ngầmU loại XXI

Tàu ngầm U loại XXI thực sự là một chiến binh nhanh nhẹn.

Có lẽ quân đồng minh phải thở phào nhẹ nhõm khi tàu ngầm U loại XXI ra đời muộn. Nếu nó được triển khai trước khi chiến tranh kết thúc kết cục của cuộc chiến Đai Tây Dương có thể bị đảo ngược. Tàu ngầm loại U XXI có rất nhiều tính năng vượt trội vào thời đó, bao gồm bộ dự trữ năng lượng dung lượng lớn có thể hoạt động liên tục vài ngày dưới nước. Ngoài ra, chiếc tàu còn có lớp vỏ được thiết kế kiểu dáng khí động học hợp lý và một ống thông hơi giúp tàu có thể nạp nhiên liệu dưới nước vì vậy, nó có thể di chuyển với tốc độ 17 hải lý mỗi giờ, tốc độ khiến các tàu chiến khác phải “hít khói”.

10. Tàu ngầm lớp George Washingto

Tàu ngầm lớp George Washington thực sự là lực lượng răn đe hạt nhân "đáng gờm".

Ẩn dưới làn nước và rất khó phát hiện, tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) thực sự là “bức tường thành răn đe hạt nhân” vững chắc. Tàu ngầm SSBN đầu tiên trên thế giới là chiếc USS George Washington, đi vào hoạt động năm 1959. Các loại tàu ngầm của Liên Xô trước đó cũng mang tên lửa đạn đạo vũ trang hạt nhân nhưng chúng vẫn sử dụng năng lượng diesel với thời gian hoạt động hạn chế. Động cơ chạy nhiên liệu hạt nhân của George Washington giúp loại tàu này hoạt động dưới nước cả tháng trời. Mỗi một tàu lớp George Washington mang tới 16 tên lửa Polaris.

(tổng hợp bdv)

>> Các thủy phi cơ huyền thoại của Hải quân Xô Viết



Là sự kết hợp “kỳ quái” giữa một chiếc tàu chạy trên đệm không khí và một chiếc máy bay, những chiếc thủy phi cơ đặc biệt này được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Lạnh.

Chúng “bay lượn” trên mặt nước với vận tốc lên đến 400 km mỗi giờ, có thể mang trọng lượng hàng hóa và binh lính nhiều hơn bất kỳ một chiếc máy bay bình thường nào. Những chiếc thủy phi cơ vẫn được gọi tên là Ekranoplan được xem là phương tiện di chuyển thú vị nhất mà con người từng tạo ra.

Hầu hết những chiếc Ekranoplan do Liên Xô thiết kế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cụ thể là công ty thiết kế Rostislav Alexeev. Một số thủy phi cơ có chiều dài 100 m và nặng trên 500 tấn. Chúng di chuyển trên mặt nước với tốc độ cao, kể cả trong điều kiện bão tố và hoàn toàn “loại bỏ” được sự theo dõi của radar nhờ vào nguyên tắc khí động lực gọi là “hiệu ứng mặt đất”.

Tất cả phi công đều quen thuộc với loại hiệu ứng này, đó là khi một chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh, nó gần như bay trên không khí một vài khoảnh khắc trước khi chạm đất. Lớp không khí dồn nén giữa phần cánh và mặt đất trở thành “tấm đệm hơi” giúp máy bay có khả năng trượt một cách uyển chuyển. Đối với trường hợp thủy phi cơ, hiệu ứng này rất hiệu quả giúp nó bay thật thấp.

Dưới đây là một số thông tin về các thủy phi cơ huyền thoại của hải quân Soviet:

KM, “Quái vật biển Caspian”
KM là thủy phi cơ loại lớn có chiều dài 100m, nặng 544 tấn, sử dụng 10 động cơ tuabin phản lực Dobryin VD-7. Cho đến nay KM vẫn giữ kỷ lục cất cánh với trọng tải lớn nhất, vượt qua trọng lượng mà máy bay chở hàng lớn nhất Antonov An 225 "Mriya" có thể mang. KM “mai danh ẩn tích” trong một thời gian dài, được thử nghiệm bí mật trên vùng biển Caspian năm 1966 và bị phát hiện bởi một vệ tinh của Mỹ.












KM là thủy phi cơ giữ kỷ lục về trọng tải cất cánh.

Tuy số lượng máy bay KM ít nhưng và các phiên bản của nó khá đa dạng với chiều dài và trọng lượng khác nhau. Tất cả phiên bản của KM đều có hình dáng kỳ quặc, được thiết kế để lướt trên đại dương với tốc độ cao và tránh radar phát hiện.

Theo các nguồn tin quân sự, Chính phủ Liên Xô đã lên kế hoạch đóng tới 100 “quái vật” biển này tại thời điểm cao trào của Chiến tranh Lạnh nhưng trên thực tế con số đó đã giảm xuống còn 24 chiếc.


Phiên bản SM-8 của "quái vật" KM.

Sau một tai nạn va chạm do nguyên nhân tầm nhìn hạn chế trong sương mù, KM đã bị cấm hoạt động trong vùng nước sâu 20 m, cản trở những nỗ lực phục hồi “quái vật biển” này. Phiên bản mới dự định sẽ thay thế KM là Orlenok, một loại thủy phi cơ tầm trung phù hợp với các nhiệm vụ vận chuyển trong quân đội.

Ấn tượng A-90 Orlyonok
Orlyonok có trọng lượng 140 tấn, dài 58 m và có chuyến bay đầu tiên vào năm 1972. A-90 chạy trên hai động cơ tuabin phản lực và một động cơ tuabin cánh quạt, có thể đạt được tốc độ 400 km mỗi giờ, khả năng di chuyển quãng đường dài 1.500 km ở độ cao từ 5 đến 10m so với mặt nước biển.







Orlyonok có ngoại hình hết sức ấn tượng.

Quân đội Liên Xô đã lên kế hoạch đóng 20 chiếc thủy phi cơ như vậy với mục đích tạo ra một hạm đội thiện chiến trên Biển Baltic. A-90 được cấp cho quân đội vào năm 1979, đến năm 1993, ba chiếc A-90 vẫn hoạt động.




Orlyonok có chở 150 binh lính và hai xe tăng.

Orlyonok có chở 150 binh lính và hai xe tăng. Sau khi Liên bang Xô Viết tan ra, nhà máy chịu trách nhiệm đóng những chiếc Orlyonok đã rơi vào tay tư nhân. Hiện Orlyonok đã đổi tên thành Volga Shipyard, và vẫn được sử dụng như máy bay cứu hộ và tìm kiếm thương mại. Trên thực tế, Orlyonok có thể vừa chở hàng hóa (với trọng lượng 50 tấn trong phạm vi 1.500 km), vừa chở hành khách (khoảng 30 người trong phạm vi 3.000 km).

VVA-14M, thủy phi cơ tầm trung
Thủy phi cơ VVA-14M là bản chuyển đổi từ máy bay VVA-14. VVA-14M có chiều dài 25, 97m, sải cánh 30 m, chiều cao 6,97 m, trọng lượng tối đa 50.000 kg với vận tốc tối đa 760 km mỗi giờ.




VVA-14M được thiết kế với mục đích triệt phá các tàu ngầm tên lửa của Hải quân Mỹ.

VVA-14M là sản phẩm của Robert Bartini, nhà khoa học và thiết kế máy bay người Nga, với mục đích triệt phá các loại tàu ngầm tên lửa Polaris của Hải quân Mỹ. Sau khi Bartini qua đời năm 1974, dự án VVA-14M sụp đổ sau 107 lần cất cánh với tổng số 103 giờ bay. Chiếc VVA-14M số hiệu 19172 duy nhất còn lại hiện đang “an dưỡng” trong bảo tàng Không quân Liên Bang Nga, Monino, Moscow. Thủy phi cơ Lun (Spasatel), “nuốt trọn” quái vật biển KM






M-160 Lun còn lớn hơn cả "quái vật" KM.

Với trọng lượng 280 tấn, chiều dài 74 m, M-160 Lun là một dòng thủy phi cơ khác cũng được ra đời từ công ty thiết kế Alexeev năm 1987 và đi vào hoạt động năm 1989. Sự khổng lồ của M-160 Lun thường được miêu tả bằng hình ảnh có thể "nuốt trọn" quái vật biển KM.


M-160 Lun được trang bị tên lửa siêu âm ZM-80 “Moskit”.
M-160 Lun được trang bị rocket siêu âm ZM-80 “Moskit” vô song, có khả năng làm chìm bất kỳ tàu địch nào. Những chiếc thủy phi cơ M-160 Lun có thể trở thành mối đe dọa lớn đối với NATO nếu như không có sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Do thiếu nguồn kinh phí để tiếp tục nghiên cứu nên dự án này đã “lặn mất tăm” trước sự nuối tiếc của nhiều người.

Người Mỹ vào cuộc
Trước sự phát triển như vũ bão của dòng máy bay thủy phi cơ Liên Xô, người Mỹ đã không thể khoanh tay đứng nhìn. Steven Hooker, kỹ sư hàng không, đã quan sát “quái vật biển Caspian” năm 1967 và quyết định thành lập công ty Aerocon, có nhiệm vụ thực hiện giấc mơ chế tạo những chiếc thủy phi cơ lớn gấp 10 lần của Nga nhưng vẫn vượt đại dương một cách nhẹ nhàng.


Mô hình thủy phi cơ mơ ước Atlantis-1 của Mỹ.

Ngoài ra, theo thiết kế, Boeing Ultra Pelican có thể mang tới 1.400 tấn (bằng 17 xe tăng cộng thêm vài trăm binh lính) với quãng đường lên tới 16.000 km. Chiếc thủy phi cơ “khổng lồ” này có độ sải cánh 106 m và dài 152 m, với vận tốc nhanh hơn 10 lần so với những chiếc tàu chở container hiện đại.



Boeing Ultra Pelican có thể mang tới 1.400 tấn.

Loại thủy phi cơ này có thể bay với “hiệu ứng mặt đất” ở độ cao 6 m trên mặt nước biển và cũng có thể hoạt động như một chiếc máy bay bình thường ở độ cao trên 6.000 m. Nếu như không có gì cản trở, giấc mơ “triển khai một sư đoàn trong vòng 5 ngày tới bất kỳ đầu trên thế giới” của Mỹ có thể trở thành hiện thực.


Bảng so sánh về kích thước của các loại thủy phi cơ so với máy bay dân dụng.

Tuy nhiên, giấc mơ thủy phi cơ khổng lồ và dã chiến của Mỹ vẫn chưa thành hiện thực. Dù vậy, các nhà công nghệ vẫn nuôi hy vọng thiết kế được "những cánh chim biển khổng lồ" mở ra một kỷ nguyên mới trong giao thông.

(tổng hợp bdv)

>> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 2)



Chiến tranh thế giới thứ hai cùng với chiến tranh lạnh chứng kiến sự phát triển các loại vũ khí chống ngầm có tầm bắn xa, chính xác và uy lực hơn. Nổi bật là súng cối và rocket chống ngầm.


>> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 1) 

Súng cối chống ngầm
 Bom chìm chống ngầm ra đời năm 1915 đã khiến những chiếc tầu ngầm U-boat lặn sâu dưới nước không còn là một mục tiêu “bất khả xâm phạm”. Tuy vậy, những thành tích bom chìm làm được chưa thể khiến các sĩ quan hải quân Anh và Mỹ hài lòng, bởi nó bộc lộ quá nhiều khuyết điểm khiến cho giới quân sự phải nghĩ đến phương án hiệu quả hơn.

Trong suốt giai đoạn từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) cho đến lúc bắt đầu chiến tranh thế giới thứ hai (1939), cơn ác mộng tầu ngầm đã tạm rơi vào quên lãng khi các nước đang mải lao đao đối phó với khủng hoảng kinh tế. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, người Đức với chiến thuật tầu ngầm kinh điển của mình đã khiến Anh và Mỹ phải vắt óc tìm cách đối phó.

Tháng 11/1940, Charles Frederich Goodeve, khoa học gia dân sự làm việc cho Hải quân Anh đã dựa trên loại súng cối bắn đạn lớn hơn cỡ nòng bố trí trên tầu (vốn thiết kế với mục đích phòng không) để phát triển súng cối chống ngầm.

Sau màn trình diễn ấn tượng của hệ thống Hedgehog đầu tiên trên tầu HMS Osprey, thủ tướng Anh Winston Churchil và đô đốc Pound rất hài lòng và hệ thống Hedgehog chính thức sản xuất hàng loạt, trang bị cho tầu chiến của hải quân Hoàng gia Anh.




Charles Frederick Goodeve - Cha đẻ của súng cối chống ngầm Hedgehog.

Hệ thống súng cối chống ngầm Hedgehog gồm 24 khẩu bắn đạn lớn hơn cỡ nòng, mỗi nòng cối được nạp sẵn một quả đạn chống ngầm cỡ 183 mm chứa 14 kg thuốc nổ TNT.

Khi hệ thống sonar (thường là loại ASDIC) phát hiện ra tầu ngầm đối phương; 24 quả đạn cối được phóng đồng loạt và sẽ rơi xuống biển, tạo thành vòng tròn đường kính 70 mét phía trên khu vực nghi có tầu ngầm với tầm bắn lên đến 230 - 250 mét.

Chính vì những chiếc ống chứa thuốc phóng còn lại sau khi phóng đạn lông nhím nên hệ thống này được đặt tên là Hedgehog, tiếng Anh có nghĩa là “Con nhím”. Những thủy thủ có kinh nghiệm có thể nạp đạn lại cho hệ thống chỉ trong ba phút là có thể bắn loạt thứ hai.



Hệ thống súng cối chống ngầm Hedgehog trên tầu chiến của Canada.

So với các loại bom chìm, hệ thống súng cối chống ngầm thực sự là một cuộc cách mạng.

Đầu tiên, do đạn của hệ thống này phát hỏa theo cơ chế chạm nổ nên thủy thủ có thể bắn Hedgehog mà không cần phải tính toán độ sâu của tầu ngầm.

Thứ hai, bom chìm khi được sử dụng sẽ đồng thời phá hủy luôn hệ thống sonar phát tín hiệu cho dù có đánh trúng tầu ngầm hay không. Điều này sẽ tạo ra một khoảng thời gian “mù” lên đến 15 phút cho các tầu săn ngầm trước khi có thể thả xuống biển một hệ thống sonar khác, cho phép tầu ngầm dễ dàng bỏ chạy hoặc đánh trả. Những thủy thủ tầu ngầm U-boat có kinh nghiệm thậm chí có thể nhận biết được những biểu hiện trước khi thả bom chìm của tầu săn ngầm và tránh né hiệu quả bằng cách đổi hướng hoặc tăng tốc đột ngột.

Còn những quả đạn Hedgehog sẽ không phát nổ khi đánh trượt tầu ngầm, do đó sau loạt đạn thứ nhất, thiết bị sonar vẫn có thể theo dõi tầu ngầm và dẫn đường cho loạt đạn tiếp theo.

Ưu thế thứ ba của Hedgehog là khả năng hủy diệt của nó. Mặc dù đầu đạn chỉ chứa 14 kg thuốc nổ (rất nhỏ so với hàng trăm kg của bom chìm) nhưng nó vẫn có thể đánh hỏng tầu ngầm chỉ với quả đạn duy nhất do khoảng cách phát nổ quá gần. Nhờ những ưu thế của mình, ngay khi ra mắt Hedgehog đã mang lại thành tích chiến đấu đáng kinh ngạc. Xác suất tiêu diệt mục tiêu lớn nhất của nó lên đến 25% trong khi với loại bom chìm tốt nhất xác suất này cũng chỉ là 7%.



Đạn chạm nổ của Hedgehog mang rất nhiều ưu điểm khi so sánh với bom chìm truyền thống



Một loạt đạn của Hedgehog tạo thành một vòng tròn đường kính lên tới 70 mét, đem lại xác suất tiêu diệt mục tiêu cao gấp hơn ba lần so với bom chìm.

Nhờ việc phát minh ra thứ vũ khí hiệu quả này, Charles Goodeve đã được tặng thưởng huân chương Order of British Empire và trở thành trợ lý riêng của đô đốc Wake Walker.

Nối tiếp thành công của Hedgehog, các phiên bản tiếp theo của hệ thống này như MK.4 Squid phát triển năm 1944 gồm ba súng phóng sử dụng đầu đạn loại 90 kg; hệ thống MK NC10 Limbo sử dụng đạn 90 kg, có thể điều chỉnh được tầm bắn từ 300 - 1000 mét.

Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, các hệ thống chống ngầm tương tự cũng được sử dụng trong hải quân Liên Xô từ cuối những năm 1940 như MBU-200 và MBU-600.



Súng cối chống ngầm Squid, phiên bản cải tiến hiện đại của Hedgehog.

Rocket chống ngầm
Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, rocket chống ngầm đã ra đời sớm ngay sau đó, sử dụng động cơ tên lửa cho mỗi quả đạn thay vì phóng đi từ súng cối giúp vũ khí này có tầm bắn xa hơn và độ chính xác cao hơn.

Trong số các hệ thống rocket chống ngầm sớm nhất phải kể đến hệ thống Mousetrap (Bẫy chuột) của Mỹ được phát triển chỉ sau Hedgehog một năm, bao gồm từ bốn đến 8 quả đạn rocket khối lượng 29 kg với đầu đạn nặng 15 kg được bắn đi từ các ray phóng.

Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả của Mousetrap cũng chỉ trong khoảng 280 mét, không khá hơn là mấy so với hệ thống Hedgehog nguyên bản.



Mousetrap của hải quân Hoa Kỳ chính là hệ thống rocket chống ngầm đầu tiên trên thế giới.


Các phiên bản rocket chống ngầm sau thế chiến thứ hai được sử dụng rộng rãi trong hải quân Mỹ và các nước thuộc khối NATO có tên chung là ASROC (Anti Submarine ROCket).

Hệ thống này được phát triển từ những năm 1960 gồm các ống phóng rocket cỡ 422 mm có thể phóng nhiều loại rocket chống ngầm khác nhau, kể cả loại ngư lôi hoặc rocket mang đầu đạn hạt nhân 10 Kiloton W-44 với tầm bắn 22 km. Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, đây là vũ khí cơ bản để đối phó với lực lượng tầu ngầm chiến lược hùng hậu của hải quân Liên Xô.



Hệ thống ASROC trang bị trên hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk của Mỹ.

Sự phát triển rocket chống ngầm hiện đại không thể không kể đến các hệ thống RBU-2500, RBU-1000, RBU-6000 và RBU-12000 của hải quân Liên Xô.

Ra đời sớm nhất trong series này là hệ thống RBU-2500 (Smerch-1) được trang bị trên hộ tống hạm lớp Petya từ năm 1957. Hệ thống này gồm hai hàng, 16 ống phóng rocket, đạn được nạp bằng tay với tầm bắn hơn hẳn hệ thống Hedgehog nguyên bản, lên đến 2.500 mét.

Không những thế, với sonar chủ động Pegas 24 kHz, RBU-2500 có độ chính xác cao và là hệ thống chống ngầm cực kỳ hiệu quả trong thời đại của nó.

Hiện nay, tuy không còn được sản xuất nhưng hệ thống rocket chống ngầm RBU-2500 vẫn đang được sử dụng trong lực lượng hải quân một số nước như Ấn Độ, Syria và Việt Nam.



Rocket chống ngầm RBU-2500 trang bị trên tầu chiến lớp Petya-III.




Hộ vệ hạm lớp Petya đang bắn thử rocket chống ngầm RBU-2500.

Hệ thống RBU-1000 và RBU-6000 là những hệ thống được phát triển từ giữa thập niên 60 của thế kỷ trước (Số hiệu 1000, 6000 ở đây dựa trên tầm bắn của vũ khí tính bằng mét) hiện là loại rocket chống ngầm phổ biến nhất trong hải quân Nga hiện nay.

Đạn rocket cỡ 300 mm (RBU-1000) hay 213 mm (RBU-6000) được phóng đi có thể được điểm hỏa do va chạm hay xuống đến độ sâu nhất định. Sau khi bắn hết một loạt đạn từ bốn đến 12 rocket, đạn rocket được nạp lại hoàn toàn tự động nhờ cơ cấu nạp phía dưới boong tầu.

Những loại rocket chống ngầm này có thể tấn công được cả tàu ngầm ở độ sâu tới 450 mét. Hiện nay, phiên bản cải tiến của RBU-6000 là RPK-8 sử dụng đạn rocket 90R có đầu dò tự dẫn có khả năng tự động bám đuổi và tấn công tầu ngầm ở độ sâu tới 1000 mét với xác suất đánh trúng lên tới 80%. Đầu nổ lõm 19,5 kg của rocket 90R cho phép nó có khả năng đánh thủng cả hai lớp thân của những tầu ngầm hiện đại nhất.

Hiện tại hệ thống RBU-6000 được sử dụng rất rộng rãi ở các nước khối Vacsava cũ và một số nước khác như Algeria, Cuba, Indonesia và Việt Nam.



Rocket chống ngầm RBU-6000 được trang bị trên khu trục hạm lớp Neutrasimiy của Nga.

Xu thế hiện nay rocket chống ngầm được sử dụng là một trong những thành phần của các hệ thống chống ngầm và chống ngư lôi; trong đó phải kể đến rocket RBU-12000 được sử dụng trong hệ thống Udav-1 của Nga trang bị trên tầu sân bay Kuznetsov hoặc hệ thống VL-ASROC của hải quân Mỹ có khả năng chống cả tầu ngầm và ngư lôi với tầm bắn xa và xác suất bắn trúng cực kỳ cao.

(bdv news)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang