Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

>> Indonesia sẽ không có “Cuồng phong” Tornado

Nga đã từ chối tham gia đấu thầu cung cấp các hệ thống Rocket phóng loạt (MLRS) cho Indonesia.

>> Chiến thuật phòng thủ bờ biển và hải đảo của Liên Bang Nga

Tổng Giám các công ty Rosoboronexport Nicholas Dimidyuk cho biết trong một cuộc phỏng vấn được công bố vào thứ tư (02/5) trên trang vpk-news.ru rằng Nga đã từ chối tham gia đấu thầu cung cấp các hệ thống Rocket phóng loạt (MLRS) cho Indonesia, với lý do là Nga đã không đáp ứng được một số điều kiện dự thầu.



http://nghiadx.blogspot.com
"Cuồng phong" Tornado

Được biết, Indonesia đã công bố gói thầu mua các hệ thóng rocket phóng loạt vào cuối tháng 2 năm nay.

"Trong thời gian gần đây chúng tôi đã quyết định không tham gia đấu thầu vì các MLRS Tornado của Nga không đáp ứng được một số chi tiết kỹ thuật trong điều kiện dự thầu. Bạn hiểu rằng không ai muốn để lãng phí thời gian và cũng không ai muốn đối tác của mình hiểu nhầm" - Dimidyuk cho biết .

Ông cho biết rằng Indonesia đã đề nghị Nga cung cấp biến thể MLRS Tornado 6 nòng nặng 22 tấn (biến thể gốc 12 nòng nặng 43 tấn). Dimidyuk cho biết Nga cũng đã được đề xuất thành lập một trung tâm bảo dưỡng kỹ thuật cho MLRS Smerche ở Indonesia và chuyển giao công nghệ sản xuất đạn dược cho quốc gia Đông Nam Á này.

http://nghiadx.blogspot.com
Tornado được thiết kế để thay thế cho các hệ thống MLRS hiện đang phục vụ trong Lục quân Nga là Uragan, Smerche và Grad.


Indonesia là một trong những nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất của Nga trong khu vực Đông Nam Á. Trước đó, Nga đã cung cấp cho Indonesia 5 máy bay tiêm kích Su-30MK và 5 Su-27SKM, 10 trực thăng Mi-35 và 17 trực thăng Mi-17, 17 xe bọc thép xe chiến đấu bộ binh BMP-3F, 48 BTR-80A và 9000 AK-102.

Mới đây, Phó Tổng Giám đốc của Rosoboronexport Victor Komardin nói với các phóng viên rằng Nga sẽ ký một hợp đồng cung cấp cho Indonesia 37 BMP-3F trị giá 100 triệu đôla.

http://nghiadx.blogspot.com
MLRS 9A52-4 Tornado có thể sử dụng tất cả các loại rocket trang bị trên Smerche

Hệ thống rocket phóng loạt “Cuồng phong” Tornado được thiết kế để thay thế cho các hệ thống MLRS hiện đang phục vụ trong Lục quân Nga là Uragan, Smerche và Grad.

MLRS 9A52-4 Tornado (biến thể gốc 6 ống phóng rocket cỡ 300mm) có thể sử dụng tất cả các loại rocket trang bị trên Smerche, bao gồm loại nổ mảnh, đạn cháy, nhiệt áp hay rocket chứa nhiều mìn chống bộ binh hay chống tăng.


http://nghiadx.blogspot.com
Tornado được xây dựng trên cơ sở khung gầm xe tải KamAZ-63501

Một quả rocket thông thường dài 7,6m và nặng 800kg, tầm bắn tối đa với đạn thông thường là 70km. Một loạt bắn của “Cuồng phong” bao trùm diện tích 320.000 mét vuông.

Tornado được xây dựng trên cơ sở khung gầm xe tải KamAZ-63501 8 bánh, sử dụng động cơ diesel tăng áp giúp tăng công suất lên 360 mã lực. Kíp lái 2 người.

Đạn rocket được điều khiển bắn từ bên trong xe lẫn bên ngoài, bắn phát một, bắn loạt hay bắn tất cả các ống phóng.

http://nghiadx.blogspot.com
Tornado được đánh giá là một trong những rocket phóng loạt hàng đầu thế giới

MLRS mà Indo muốn có được từ Nga đó là biến thể 12 nòng 9A53. Biến thể 9A53 Tornado trên khung xe MZKT-7930 8x8 sử dụng tới hai thùng phóng mang 12 quả rocket loại 220mm hay 300mm.

Nó cũng đã được lên kế hoạch để thay thế cho loại pháo phản lực BM-27 Uragan vốn đã ngừng sản xuất và BM-30 Smerche.

>> Quân đội Singapore: hiện đại và thách thức

Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế, Singapore đang chứng tỏ vị thế không hề kém cạnh trong sân chơi quốc phòng khu vực với nhiều thương vụ lớn gần đây. 



http://nghiadx.blogspot.com
Mức chi quốc phòng trên đầu người của Singapore chỉ kém Israel, đối tác chiến lược số 1 của đảo quốc này.

Ryo Hinata-Yamaguchi, nhà phân tích anh ninh đến từ Nhật Bản đã có bài viết bình luận về Quân đội Singapore, đăng tải trên The Diplomat.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Hiện đại hóa

Đầu tháng 4/2012, đảo quốc sư tử này đã chính thức khởi động hệ thống chỉ huy, điều khiển, truyền tin, máy tính và tình báo tích hợp (hệ thống C4I), đặt dấu mốc quan trọng trong chương trình hiện đại hóa quân đội mang tên “Dự án Lực lượng Vũ trang Singapore thế hệ 3”.

Với bước tiến này, Singapore tiếp tục khẳng định lực lượng vũ trang nước mình là tiên tiến và công nghệ cao nhất trong số các nước ở khu vực Đông Nam Á.

Ngân sách quốc phòng của Singapore năm 2011 là 9,6 tỷ USD, chiếm khoảng 26% ngân sách chính phủ và bằng 5% GDP.

Nhiều nhà phân tích tính toán, với số dân chỉ khoảng 5 triệu người, quốc gia này chi trả ngân sách quốc phòng trên mỗi đầu người hơn bất kỳ quốc gia nào, ngoại trừ Israel.

Quốc phòng luôn là ưu tiên hàng đầu kể từ khi Singapore giành độc lập vào năm 1965. Khi đó, Thủ tướng Lý Quang Diệu, người khai sinh ra đất nước đã viết trong cuốn sách của mình với tựa đề “Những sự thật khó khăn” rằng: “Không có nền quốc phòng mạnh mẽ thì sẽ không có Singapore, thay vào đó, Singapore chỉ trở thanh một vệ tinh bị hăm dọa bởi những người hàng xóm”.

Singapore có quan hệ quốc phòng gần gũi với Israel. Nó giải thích vì sao những công ty quốc phòng Israel là lựa chọn trong các thương vụ quốc phòng chủ yếu của nước này, ví dụ như những máy bay tiếp dầu trên không và các máy bay chống tàu ngầm cánh cố định.

Bên cạnh dự án C4I, Bộ Quốc Phòng nước này còn tiến hành nhiều thương vụ mua bán khác, đặc biệt là tăng cường khả năng đổ bộ và đột kích chính xác.

Các hợp đồng mua bán với các đối tác nước ngoài là sự cải tiến toàn diện cho mọi lực lượng: lục quân, hải quân và không quân. Một số cái tên nổi bật như tàu đổ bộ có sân đỗ trực thăng (LPDS), các tàu khu trục tàng hình lớp Formidable, chiến đấu cơ đa nhiệm F-15SG và F-16D; Phương tiện chiến đấu bộ binh Bionix II và máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW) Gulfstream 550.

Hồi cuối năm 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Eng Hen còn tuyên bố, Singapore đang có tính khả năng mua cả chiến đấu cơ F-35.

Trở ngại

Dù có cấu trúc lực lượng khá ấn tượng, vẫn còn 2 vấn đề lớn đối với lực lượng vũ trang của Singapore ở mức chiến lược và chiến thuật.

Thứ nhất, các kế hoạch quốc phòng của nước này thường dựa nhiều trên kịch bản thay vì các mối đe dọa thực tế. Trong khi đó, nước này có có những mối quan hệ bất ổn với hai láng giềng là Malaysia và Indonesia.

Hơn nữa, những quan tâm an ninh của đảo quốc này quá rộng. Ví dụ, Singapore gửi lực lượng tham gia vào Lực lượng Đặc nhiệm Kết hợp 115 nhằm chống cướp biển trên Vịnh Aden.

Nhược điểm của việc tham gia vào quá nhiều vai là, quân đội sẽ phải xem xét quá nhiều kịch bản (trong khi nhiều kịch bản có thể dần trở thành một giả thuyết nguy cơ thay vì xung đột thật sự). Khi đó, năng lực của Singapore bị kéo dãn quá mức.


http://nghiadx.blogspot.com
Tham gia vào nhiều nhiệm vụ, lực lượng của Singapore sẽ bị kéo dãn về năng lực cũng như trọng tâm an ninh.


Trở ngại thứ hai, do thiếu chiều sâu chiến lược, lực lượng vũ trang nước này luôn phải duy trì ở mức độ sẵn sàng cho hoạt động rất cao.

Lợi ích của việc này là tính kỷ luật cho quân đội, sẵn sàng ứng phó trong tình thế nguy cấp chỉ với thời gian ngắn.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, nước này có khả năng đầy đủ để ngăn chặn một mối đe dọa không? Nếu không, Singapore có đủ sức chịu đựng để duy trì lực lượng của mình trong tình trạng dự phòng kéo dài như thế nào.

Trong cả hai trở ngại này, Singapore không có một lựa chọn giải quyết vẹn đôi đường, xuất phát từ những đặc điểm địa chính trị tự nhiên.

Giải pháp

Do đó, trước mắt Singapore cần thoát khỏi sự loay hoay tìm kiếm, phát triển những năng lực mà tập trung sử dụng "năng lực quân sự” sẵn có.

Nếu không có sự cân bằng thích hợp, những kế hoạch quốc phòng của nước này sẽ trượt vào bẫy “kế hoạch dựa trên công nghệ” - điều chỉ đem lại những gánh nặng kinh tế và tăng nguy cơ tạo ra những bất ổn chiến lược về sau.

Điều này không có nghĩa Singapore cần một cuộc cải tổ trên quy mô rộng tất cả kế hoạch quốc phòng. Thay vào đó, nước này nên tập trung và việc tinh chỉnh và cân bằng những đổi mới công nghệ trong lực lượng vũ trang với những yêu cầu chiến lược, thay vì chỉ quá chú trọng vào công nghệ.

Ví dụ, khi hệ thống C4I đưa vào hoạt động, lực lượng vũ trang nên hoàn chỉnh các quy trình và phương thức làm sao để 3 nhánh quân sự có thể huy động theo một cách thống nhất, gắn kết và hiệu quả.

http://nghiadx.blogspot.com
Singapore nên phát triển theo chiều sâu, kết hợp các lực lượng vũ trang thay vì chỉ dựa quá nhiều vào công nghệ tiên tiến.

Thêm vào đó, đảo quốc này nên khuyến khích và cổ vũ cho một nền văn hóa quân sự, yếu tố mà theo đó mọi nhánh của lực lượng vũ trang đều có thể hòa hợp.

Tiếp cận với cách quản lý khả năng quân sự, nước này có thể cho phép lực lượng vũ trang của mình duy trì mức độ sẵn sàng hoạt động cao.

Điều quan trọng nhất, những khía cạnh hoạt động và chiến thuật quân sự phải cùng tiến thay vì chỉ hướng tới khía cạnh công nghệ.

Đảm bảo thế cân bằng này là chìa khóa cho Singapore giành được lợi thế trong vấn đề an ninh khu vực.

>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 2)

Triệt để lợi dụng thế địa lý để phát triển phương thức chiến tranh du kích hiện đại trên biển, đó là chiến thuật thứ nhất của Hải quân Việt Nam. Tiếp đó, thứ hai là nghệ thuật bố trí và sử dụng lực lượng.


>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 1)


Kỳ 2 : Bố trí những quả đấm thép

Trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, có rất nhiều sư đoàn thiện chiến của ta luôn nằm trong sự theo dõi gắt gao của CIA, bộ tham mưu Việt Nam Cộng Hòa. Bởi lẽ những sư đoàn như sư 325, sư 10 mà ở đâu thì hướng chính của chiến dịch là ở đấy.

Khu trục hạm tên lửa Gepard 3.9 của Hải quân Việt Nam là lực lượng hiện đại nhất của Hải quân tầm châu lục. Với tính năng kỹ chiến thật mà nó có thì thực sự là một đối thủ nguy hiểm nhất cho bất cứ tàu ngầm, tàu mặt nước nào khi phải đối đầu.

Vì vậy, biết được tàu Gepard 3.9 ở đâu, hoạt động như thế nào trước và khi tác chiến xảy ra, là một yêu cầu bức thiết, sống còn của Bộ Tham mưu địch.

Có lẽ rất nhiều người cho rằng trong thời đại công nghệ cao, vệ tinh quân sự dày đặc trên bầu trời thì việc phát hiện một chiếc xe máy còn dễ dàng, cỡ như Gepard 3.9 có gì là khó khăn.

Đương nhiên đó chỉ là lý thuyết. Một sư đoàn với hàng ngàn con người, phương tiện, được rất nhiều lực lượng như trinh sát, tình báo, điện tử…hiện đại của Mỹ mà vẫn không theo dõi được để đến nỗi có cú điểm huyệt Buôn Ma Thuột thì chưa thể khẳng định được điều gì với Gepard 3.9 nó ở đâu, làm gì…

Vệ tinh quân sự chỉ xác định được những cái giống Gepard 3.9 trong khi đó hàng giả để che mắt đánh lừa vệ tinh còn thật hơn cả hàng thật.

Nga đã từng cho ra đời hàng loạt xe tăng khủng, tên lửa khủng, tàu chiến khủng nhưng giả còn thật hơn cả thật. Nghĩa là người Nga đã sản xuất 1 kho vũ khí đủ lớn các loại mô hình vũ khí có tính năng nhiệt và điện tử tương đương với các vũ khí thật.

Điều này cho phép người Nga có thể ẩn giấu, trộn lẫn trang thiết bị giả tạo và trang thiết bị chiến đấu lừa địch mà vệ tinh quân sự dù kỹ thuật chụp ảnh tân tiến đến mấy cũng không phân biệt được thật giả.

Trong chiến tranh, biết được địch ở đâu chính xác, che giấu được ta là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi. Đặc biệt trong chiến tranh hiện đại với vũ khí công nghệ cao thì đây là yếu tố sống còn.

Phòng thủ Tổ quốc từ hướng biển, yếu tố bí mật che giấu lực lượng này ta có nhiều lợi thế hơn địch. Thời tiết, núi cao, cảng sâu…là những khó khăn ngăn trở, làm cho độ chính xác của vệ tinh địch không cao khi xác định tọa độ, phân biệt mục tiêu (dù chưa có sự ngụy tranh của ta).

Do vậy hiệu suất của vũ khí công nghệ cao như tên lửa, pháo sẽ rất thấp. Ta ở trong vùng tối, địch ở ngoài vùng sáng.


http://nghiadx.blogspot.com
Thủy thủ kiểm tra tàu chuẩn bị đi biển

Kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh với Mỹ; thế địa lý Việt Nam và với sự sáng tạo, độc đáo của con người Việt thì chắc chắn những “quả đấm thép” của Hải quân Việt Nam sẽ ở những nơi mà địch biết được khi đã bị trúng huyệt kiểu như Buôn Ma Thuột hay pháo binh ở Điện Biên Phủ.

Bởi vậy, câu trả lời Gepard 3.9 ở đâu, làm gì trước và khi xảy ra tác chiến thì chỉ có Bộ Tham mưu Hải quân Việt Nam mới biết.

Nhưng chắc chắn nó sẽ ở nơi đắc địa thuận lợi mà “một địch muôn người”. Nghĩa là nơi đó ít đánh thắng được nhiều, dễ tấn công và phòng thủ.

Không những Gepard 3.9 mà bất kỳ tàu chiến nào của Hải Quân Việt Nam dù độc lập tác chiến hay hợp đồng tác chiến thì lực lượng này phải nằm trong tầm bảo vệ của lực lượng kia, chúng có trách nhiệm sở trường, sở đoản bổ sung cho nhau và nằm trong thế trận phòng thủ nhiều tầng nhiều lớp có chiều sâu của cả nước.

Nếu như KILO phục kích thì ít nhất cũng không có lực lượng săn ngầm nào của địch có thể gây nguy hiểm cho nó bởi chúng sẽ bị tiêu diệt bởi các lực lượng khác bảo vệ KILO…

Trong nghệ thuật tác chiến chúng ta vẫn và sẽ thực hiện phương châm: “Những gì mà công nghệ không thể làm được thì chiến thuật có thể”.

Vì Việt Nam còn nghèo, khoa học công nghệ chưa phát triển, tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi công nghệ (vũ khí trang bị) của ta đảm bảo cho một số nhiệm vụ tác chiến như có thể tấn công trực tiếp vào căn cứ địch thì việc bố trí, sử dụng lực lượng này sẵn sàng xuất phát tấn công làm cho địch phải co về đối phó, hoang mang, không phải là điều gì quá khó khăn.

Trong chiến tranh, những nước đem quân đi tấn công xâm lược nước khác thì khu vực tác chiến, không gian chiến tranh chỉ tồn tại ngay tại nước bị xâm lược. “Chính quốc” thì hòa bình, êm ắng, dân họ không biết gì mùi khói bom thuốc đạn. Nếu như mở một cuộc chiến mà chính họ cũng sẽ bị những đòn giáng trả liệu họ có dám không?

Mỹ chưa dám tấn công Iran là vì lý do đó. Mỹ chỉ quen đem bom đạn dội vào quốc gia khác nhưng cứ thử xem khi dân Mỹ cũng phải hứng chịu bom đạn khi bị giáng trả thì sẽ như thế nào?

Vì vậy, đòn đánh vào căn cứ địch, nơi chúng xuất phát là một đòn đánh cực hiểm trên cả 3 lĩnh vực chính trị, quân sự và kinh tế, trong đó đòn chính trị là hiểm nhất, hậu quả khủng khiếp nhất, nó có thể đánh sập ý chí xâm lược.

Đương nhiên, Hải quân Việt Nam ngoài việc tăng cường sức mạnh chúng ta phải triệt để lợi dụng thế núi, thế biển để bố trí lực lượng, sẵn sàng cho đòn đánh này.

Chuẩn bị nhiều phương án tác chiến sử dụng lực lượng hiện đại, công nghệ cao đồng thời cả những phương án tác chiến trong điều kiện mà công nghệ không thể để giáng trả quân xâm lược.

Tăng cường sức mạnh cho Hải quân Việt Nam mà không tăng cường để phục vụ cho đòn đánh này là quá ngây thơ, nhút nhát, sợ địch. Nhưng điều này, “nhút nhát, sợ địch” lại không nằm trong từ điển quân sự Việt Nam (Tướng Giáp).

Việt Nam đã qua lâu rồi thời kỳ quân xâm lược có quyền đem bom đạn dội vào, gây ra bao đau thương tang tóc mà không bị giáng trả tại đất nước họ. Bài học cho Hải quân Mỹ ở cảng Sài Gòn, Cửa Việt; bài học cho Không quân Mỹ ở Utapao (Thailand) còn đó.

Ngày nay, sự giáng trả còn khủng khiếp hơn nhiều. Chỉ biết nhao lên tấn công chọc thủng lưới đối phương mà không nghĩ là có lúc mình phải vào lưới nhà nhặt bóng thì chưa phải là trận đấu hiện đại đỉnh cao.

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

>> Trung Quốc có thực sở hữu 1800 đầu đạn hạt nhân ?

Mặc dù các quan chức Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố quy mô hạt nhân của nước này vẫn đang ở mức nhỏ, không thể so sánh với Mỹ, Nga...

Tạp chí “Sứ giả quân sự” của Nga dẫn lời Giáo sư Victor Korablin, nguyên giảng viên Học viện Khoa học Quân sự Nga cho hay, mặc dù các quan chức Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố quy mô hạt nhân của nước này vẫn đang ở mức nhỏ, không thể so sánh với Mỹ, Nga và các cường quốc khác. Tuy nhiên, kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc có thể có tới 1.800 đầu đạn hạt nhân.

Hiện Trung Quốc đang có 1.800 đầu đạn hạt nhân?

Ông Korablin cho biết: “Những thống kê hiện nay về số lượng đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc đang tồn tại nhiều số liệu khác nhau, từ 240-300 đầu đạn đến 10.000 đầu đạn. Vì vậy, tôi đang có gắng đưa ra một kết luận riêng về số lượng đầu đạn hạt nhân của quốc gia láng giềng này”.

Hiện nay, Trung Quốc đang có một ngành công nghiệp hạt nhân phát triển rất mạnh, hoàn toàn có khả năng tự sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, từ một loại tên lửa mang đầu đạn hạt nhân đến bom hạt nhân.

Nhìn vào thực trạng sản xuất vật liệu hạt nhân của Trung Quốc có thể thấy, đến năm 2011, ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc đã sản xuất được tổng cộng 40 tấn vật liệu hạt nhân cấp độ vũ khí, đủ để sản xuất 3.600 đầu đạn hạt nhân (1.600 đầu đạn hạt nhân uranium và 2.000 đầu đạn hạt nhân plutonium).

Tất nhiên, không phải tất cả số vật liệu hạt nhân trên của Trung Quốc đều dùng để chế tạo vũ khí hạt nhân, mà một nửa trong số này là dành cho việc dự trữ.



http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom tầm xa H-6 của Trung Quốc


Theo ông Korablin, nếu giả thuyết này là đúng thì Trung Quốc có thể có từ 1.600-1.800 đầu đạn hạt nhân. Dự kiến Trung Quốc sẽ đưa 800-900 đầu đạn đi vào hoạt động.

Tuy nhiên, ông Korablin cũng cho biết, đây chỉ là tính toán của riêng mình.

Vũ khí hạt nhân của Trung Quốc được phân chia như sau: bom hạt nhân B-4 chủ yếu được lắp đặt trên máy bay ném boom Q-5 và một số máy bay tấn công chiến thuật khác.

Bom hạt nhân B-5 chủ yếu được lắp đặt trên máy bay ném boom tầm xa H-6.

Ngoài ra, B-5 còn được lắp đặt trên tên lửa đạn đạo tầm trung DF-4, tên đạn đạo xuyên lục địa DF-5A, DF-31.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa JL-1 trong một lần phóng thử từ tàu ngầm

Còn tên lửa đạo chiến lược JL-1 và JL-2 thường được lắp đặt trên các tàu ngầm.

Ông Korablin cho biết thêm, tương lai của ngành công nghiệp hạt nhân của Trung Quốc sẽ phủ thuộc chủ yếu vào yếu tố bên ngoài, như việc Mỹ triển khai hệ thống lá chắn tên lửa trên toàn thế giới và việc Ấn Độ tăng cường phát triển vũ khí hạt nhân.

Do Trung Quốc từ chối công khai số lượng đầu đạn hạt nhân của nước mình, bởi vậy, tương lai của năng lực hạt nhân Trung Quốc phải dựa vào đánh giá của các chuyên gia.

Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay năng lực hạt nhân của Trung Quốc đang bị đánh giá thấp. Số lượng đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc có thể nhiều hơn nhiều so với con số mà các chuyên gia phương Tây đã từng đưa ra.

Ông Korablin cho rằng, thỏa thuận giữa Mỹ và Nga về các hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân hiện nay cần phải tính đến yếu tố Trung Quốc.

Đồng thời hai cường quốc này cần đưa Trung Quốc vào cuộc đàm phán đa phương về việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Nếu không quá trình cắt giảm vũ khí hạt nhân sẽ không được thúc đẩy và không có nhiều hiệu quả.

>> Không quân Nga năm 2020 ?

Quân đội Nga đang đẩy nhanh những bước phát triển vượt bậc và hiện đại các loại máy bay tân tiến phục vụ chiến đấu.
Công cuộc hiện đại hóa này còn nhằm tăng cường sức mạnh làm chủ trên không, đối trọng với các cường quốc và sẵn sàng đẩy lui những âm mưu đe doạ tới an ninh quốc gia Nga.

Những số liệu thống kê dưới đây được công bố bới tạp chí Topwar của Nga sẽ cung cấp thông tin một cách cơ bản nhất số lượng và chủng loại máy bay sẽ xuất hiện trên bầu trời nước Nga tính đến năm 2020.

http://nghiadx.blogspot.com


Số liệu này dựa trên những hợp đồng đã được ký kết cho việc hiện đại hóa và phát triển máy bay tính đến thời điểm hiện tại.

Máy bay tiêm kích

Tính đến năm 2020, Quân đội Nga sẽ nâng tổng số máy bay chiến đấu lên tới 439 chiếc.

Trong đó, máy bay chiến đấu MiG-29SMT/UBT sẽ được tăng lên thành 34 chiếc, máy bay MiG-29K/KUB là 24 (tính đến năm 2015), 100 máy bay MiG-31BM, 96 máy bay Su-27SM, 5 chiếc Su-27SM, Su-27SM3 bằng 12 chiếc, Su-30M2 bằng 12 đơn vị, Su-35 bằng 96 đơn vị.

Riêng máy bay PAK-FA T-50 đến năm 2015 sẽ mua 10 máy bay và đến năm 2020 số lượng máy bay loại này sẽ được nâng lên 60 chiếc.

Máy bay cường kích

Số lượng máy bay tấn công cũng sẽ được nâng lên thành 474 chiếc vào năm 2020, trong đó máy bay Su-24M2 chiếm 150 chiếc, máy bay Su-25SM/UBT là 200 chiếc và 124 máy bay Su-34.

Máy bay vận tải quân sự, số lượng máy bay này cũng sẽ được nâng lên đáng kế với tổng số là 157 chiếc, trong đó có 100 máy bay IL-476, 42 máy bay AN-124-100M và 15 máy bay AN-140.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay tiêm kích hạng nặng Su-35.

Máy bay cảnh báo sớm

Cuối năm 2011, Không quân Nga đã tiếp nhận một máy bay loại này. A-50U là biến thể hiện đại hóa của máy bay cảnh báo sớm A-50. Đến năm 2020 số lượng máy bay này sẽ được tăng lên thành 20 chiếc.

Máy bay A-50U mới được trang bị "các máy tính hiện đại, thiết bị thông tin liên lạc vệ tinh cải tiến, hiệu suất hoạt động và độ tin cậy của hệ thống thiết bị điện tử trên máy bay được tăng lên đáng kể".

Do vậy, tầm phát hiện các mục tiêu trên không như trực thăng, tên lửa hành trình và máy bay siêu âm đã được nâng lên so với máy bay A-50M hiện có.

Máy bay ném bom tầm xa

Theo kế hoạch, máy bay ném bom tầm xa sẽ 65 chiếc. Trong đó máy bay Tu-160M ​​sẽ được tăng lên thành 15 chiếc, Tu-95MSM sẽ là 20 chiếc, Tu-22M3M lên tới 30 chiếc.

Máy bay huấn luyện

Sơ bộ dựa trên các hợp đồng đã ký kết đến năm 2015, Không quân Nga sẽ tăng số lượng máy bay huấn luyện Yak-130 lên tới 65 chiếc.

Như vậy, trong giai đoạn 2008-2020, Quân đội Nga sẽ nâng tổng số máy bay phục vụ chiến đấu các loại lên tới 1220 chiếc, chưa kể đến máy bay trực thăng.

Ngoài ra, có thể có những kế hoạch điều chỉnh khác như mua thêm các loại máy bay mới vào năm 2020. Hầu hết những thống kê trên đều dựa trên những hợp đồng đã được ký kết tính đến thời điểm hiện tại.

Dự kiến, đến năm 2015 Quân đội Nga sẽ có thêm những hợp đồng mới như hợp đồng hiện đại hóa máy bay IL-76, MiG-29, IL-38, cũng như mở rộng các hợp đồng hiện đại hóa của Su-25 và Su-24, thêm nữa là một hợp đồng mới cho hiện đại hoá máy bay Yak-130, máy bay cảnh báo sớm và chỉ huy trên không (AWACS) phiên bản nâng cấp A-100, các máy bay Su-30 và MiG-29, MiG-35, T-50 (PAK FA), máy bay An-140.

Tổng số máy bay dự kiến sẽ ký cho việc hiện đại hoá khoảng 500 chiếc. Như vậy, đến vào năm 2020 sẽ có khoảng 2000 máy bay phục vụ trong Không quân Nga.

Dưới đây là hình ảnh về những chiến đấu cơ sẽ xuất hiện năm 2020:

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-29 là máy bay chiến đấu chủ yếu làm nhiệm vụ đánh chặn.

http://nghiadx.blogspot.com
MiG-29 có khả năng tăng tốc độ lên 2.200 km/h và bay cao tới tầm 15.000m.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay đánh chặn MiG-31BM có thể mang tên lửa đối không và không đối đất tương tự tên lửa chống radar AS-17 Krypton.

http://nghiadx.blogspot.com
Su-27SM là một biến thể nâng cấp vượt trội của Su-27S, thuộc thế hệ 4+.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay Su-30M2 của Không quân Nga.

http://nghiadx.blogspot.com
Su-35 được thiết kế để thực hiện như một máy bay chiến đấu thế hệ 4++.

http://nghiadx.blogspot.com
Chiến đấu cơ thế hệ thứ năm Sukhoi PAK FA T-50 được chế tạo để thực hiện nhiều nhiệm vụ trên không, trên bộ, trên biển.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom/tấn công Su-24M2 có khả năng bay với vận tốc 1.700km/h và tầm hoạt động là 2.900km, được trang bị pháo 6 nòng 23mm cũng như có 8 điểm treo bên ngoài mang tên lửa điều khiển và không điều khiển.

http://nghiadx.blogspot.com
Không quân Nga hiện có hơn 30 máy bay Su-25SM đang được sử dụng.

http://nghiadx.blogspot.com
Su-34 Fullback được đánh giá là một trong những chiếc máy bay tiêm kích ném bom hàng đầu thế giới hiện nay.

http://nghiadx.blogspot.com
IL-476 là loại máy bay vận tải cỡ lớn được cải tiến từ phiên bản IL-76.

http://nghiadx.blogspot.com
An-124-100 Ruslan là máy bay vận tải lớn nhất thế giới có khả năng chở đến 130 tấn, do tổ hợp khoa học kỹ thuật hàng không mang tên Antonov chế tạo.

http://nghiadx.blogspot.com
An-140 là một máy bay sử dụng cho hoạt động tuần tra.

http://nghiadx.blogspot.com
A-50U là máy bay cảnh báo sớm đa năng và kiểm soát trên không.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay ném bom hạng nặng TU-160 có khả năng thực hiện các chiến dịch tầm xa.

http://nghiadx.blogspot.com
Tu-95 MS là máy bay ném bom chiến lược tầm xa.

http://nghiadx.blogspot.com
Tu-22M3 là máy bay ném bom chiến lược siêu thanh, được quân đội Nga sử dụng để tuần tra bầu trời thuộc vùng biên giới phía nam, Trung Á và Biển Đen.

http://nghiadx.blogspot.com
Yak-130 là loại máy bay có thể được sử dụng như máy bay huấn luyện hoặc như phi cơ cường kích hạng nhẹ.

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

>> Kịch bản lễ nhậm chức tổng thống Nga

Cung điện Kremlin đang hoàn tất chuẩn bị lễ nhậm chức của Tổng thống Vladimir Putin diễn ra vào 7/5. Buổi lễ long trọng của người đứng đầu đất nước được lên kịch bản từng chi tiết.



http://nghiadx.blogspot.com
Ông Vladimir Putin chuẩn bị nhậm chức tổng thống Nga.

Những chiếc kèn đồng của Dàn nhạc tổng thống được đánh bóng. Các chiến sĩ của Trung đoàn cảnh vệ điện Kremlin luyện giọng chuẩn để hô vang “Ura!”; còn những người đầu bếp kiểm tra lại mọi chi tiết trong thực đơn bữa đại tiệc.

Trong buổi lễ nhậm chức, tân Tổng thống sẽ đọc lời tuyên thệ sau khi đặt tay lên cuốn Hiến pháp Nga. Chứng kiến trực tiếp sẽ là đông đảo đại diện các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp Nga; cũng như đại diện những tôn giáo lớn, các nhân vật được nhận huân chương nhà nước, lãnh đạo các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức phi chính phủ và báo giới. Yêu cầu trang phục đối với khách mời của buổi lễ nhậm chức tổng thống Nga khá tự do nhưng họ được khuyến nghị chọn màu sắc thanh nhã và điềm đạm.

Lời tuyên thệ này ngắn, chỉ gồm 33 từ, khẳng định sẽ bảo vệ quyền lợi và tự do của con người; trung thành, phục vụ nhân dân và bảo vệ chủ quyền, an ninh, sự toàn vẹn của đất nước.

Sau khi kết thúc tuyên thệ, Chánh án Tòa án Hiến pháp Nga tuyên bố Tổng thống chính thức nhậm chức, trước khi quốc ca Nga được cử hành, cờ tổng thống được kéo lên trên nóc phủ tổng thống và dàn đại bác bắn chào mừng 30 hồi. Kết thúc buổi lễ, Trung đoàn cảnh vệ sẽ đón chào tân Tổng thống với tư cách vị tổng chỉ huy tối cao.

Cũng trong buổi lễ, tân Tổng thống được trao những biểu trưng đặc biệt gồm Cờ hiệu Tổng thống và Huy hiệu Tổng thống in hình quốc huy. Trên mặt sau của Huy hiệu Tổng thống chạm khắc chữ: “Lợi ích, Danh dự và Vinh quang”.

Lễ nhậm chức của người đứng đầu đất nước được tổ chức năm lần trong lịch sử nước Nga đương đại. Buổi tuyên thệ đầu tiên là của cố Tổng thống Boris Eltsin diễn ra vào năm 1991.

Nhà nghiên cứu chính trị Vladimir Rimsky chia sẻ, dư luận Nga cũng như các nước khác có nhiều ý kiến khác nhau nhưng họ đều thấy sự cần thiết của việc tổ chức nghi lễ đặc biệt này vì nó mang giá trị lớn; để người dân cảm nhận được sự gắn bó, thống nhất với chính quyền, với người giữ chức vụ cao nhất của đất nước. Việc này cũng có ý nghĩa quốc tế, chứng tỏ sự thống nhất của chính quyền và nhân dân.

Lo ngại Trung Quốc trỗi dậy, Putin sẽ lập đại kế hoạch châu Á?

Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc thực sự khiến giới lãnh đạo Nga không khỏi “ái ngại”, do đó, Tổng thống kế tiếp Vladimir Putin nhanh chóng đưa ra kế hoạch lớn nhằm gắn kết Moscow với khu vực phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới này, Diplomat nhận định.

Thách thức đến từ Trung Quốc

Trong vài năm gần đây, Nga thành công trong việc nâng cao vị thế của mình tại châu Á. Quan hệ của Moscow với Bắc Kinh và New Delhi rất khăng khít, trong khi quan hệ với Tehran và Bình Nhưỡng vẫn ổn định bất chấp mọi biến động xoay quanh hai quốc gia này.Nga tham gia Hội nghị thượng đỉnh Đông Á – hội nghị được cho là quan trọng nhất bàn về thể chế an ninh đa quốc gia ở khu vực này hồi năm ngoái.

Đại diện của Nga cũng thường tham dự vào các cuộc họp và đối thoại của Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng của ASEAN, Đối thoại hợp tác châu Á và các hội nghị quan trọng khu vực mà trước kia họ chưa từng góp mặt. Tuy nhiên, các sáng kiến của Nga vẫn chỉ được coi là các giải pháp tụt hậu, không sáng tạo.

Ngoài ra, khu vực phía Đông của nước Nga cũng ít có sự hội nhập về mặt kinh tế với khu vực năng động của Đông Á, trong khi tính năng động của ngoại giao Nga lại bị ghìm chặt trong xung đột với Nhật, mâu thuẫn với Mỹ trong việc cùng nhau tái thiết tại châu Á và đặc biệt là Nga bối rối trước một Trung Quốc đang trỗi dậy, đồng thời chưa tìm ra được một phương thức hợp lý nhất để hạn chế những tác động tích cực đến từ Bắc Kinh.


http://nghiadx.blogspot.com
Moscow không khỏi quan ngại trước sự trỗi dậy của Bắc Kinh. Ảnh: Chinagate.

Quả thực, ông Putin chọn Trung Quốc là điểm đến trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên vào cuối 9 vừa qua, khi ông tuyên bố ra tranh cử lần 3. Tuy nhiên, nếu hiểu rằng đây là dấu hiệu cho thấy Nga sẽ tiến gần Bắc Kinh hơn trong những năm tới sẽ là một sai lầm. Thực tế ông Putin không hề theo đuổi các chính sách đặc biệt dựa dẫm vào Trung Quốc trong hai nhiệm kỳ trước của mình.

Trong các bài báo hoạch định chính sách hành động của Putin trong chiến dịch tranh cử Tổng thống, ông Putin cũng nêu rõ quan điểm với Trung Quốc. Ông khẳng định hoan nghênh sự trỗi dậy của Trung Quốc.

“Trước hết, tôi cho rằng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc không phải là một sự đe dọa, nhưng là thách thức đồng thời mang đến tiềm năng to lớn cho sự hợp tác kinh tế, ví dụ như sử dụng các nguồn đầu tư của Trung Quốc để khôi phục khu vực viễn Đông của Nga”, Thủ tướng Nga cho hay.

Ngoài ra, theo ông Putin, Moscow và Bắc Kinh đều đã giải quyết ổn thỏa những vấn đề chính trị nổi cộm trong mối quan hệ song phương, trong đó có vấn đề biên giới gây tranh cãi, đồng thời xây dựng cơ chế hợp tác vững chắc trên cơ sở tin cậy lẫn nhau.

“Tóm lại, Nga cần một Trung Quốc ổn định và thịnh vượng và tôi tin chắc rằng, Bắc Kinh cũng cần một Moscow vững mạnh”, Thủ tướng Putin quả quyết.

Tuy nhiên, theo Diplomat, bất chấp những lời lẽ bóng bẩy hoa mỹ dành cho mối quan hệ với Trung Quốc này, ông Putin và nhiều quan chức khác của Nga đều đang rất lo sợ bị Trung Quốc bỏ rơi trên chính trường thế giới.

Họ cảm nhận rõ một điều rằng, mọi xu hướng kinh tế, quân sự hay địa chính trị đều đang vận động xoay quanh lợi ích của Bắc Kinh. Trung Quốc từng là đối tác thương mại lớn nhất của Nga, song trong năm 2010, Bắc Kinh không còn cần hầu hết các sản phẩm công nghiệp và công nghệ cao của Moscow nữa.

Không chỉ vậy, dân số Nga ngày càng giảm trong khi người Trung Quốc ngày một đông đảo, giàu có và có tầm ảnh hưởng lớn. Nói thẳng ra, người Nga đang hết sức lo sợ trở thành “miếng mồi” cho “người khổng lồ” Trung Quốc.

Đại kế hoạch châu Á

Nhận thức rõ sự yếu thế này, ông Putin thúc đẩy thành lập một liên minh Âu – Á và nếu được công nhận, Moscow sẽ lại giành được vị thế lãnh đạo trong một khối đa quốc gia gắn kết chặt chẽ từ những nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ.

Quan trọng hơn, kế hoạch này có thể giúp Moscow thu hẹp ảnh hưởng của Bắc Kinh ở các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Thực tế thời gian gần đây Tổ chức Hợp tác Thượng Hải SCO do Trung Quốc làm chủ trì đang tìm cách để mở rộng ảnh hưởng kinh tế, an ninh và các hoạt động khác lên các khu vực tương tự giống như Liên minh Âu – Á.

http://nghiadx.blogspot.com
Nhiều người Nga hy vọng đại kế hoạch châu Á của ông Putin giúp Moscow đối phó với những thách thức đến từ Bắc Kinh. Ảnh: ripley.

Mới đây Nga phải thẳng thừng phản đối các đề xuất của Bắc Kinh nhằm thiết lập một khu vực thương mại tự do cũng như nhiều hoạt động hội nhập kinh tế khác trong khuôn khổ của SCO bởi thực tế, mục đích thực sự của các đề xuất này là nhằm gia tăng ảnh hưởng về kinh tế của Trung Quốc trong khu vực Âu – Á.

Theo kế hoạch châu Á này, trước mắt, Nga có thể chấp nhận bán cho Trung Quốc một số vũ khí quan trọng mà Bắc Kinh đang khao khát để tái cân bằng lại cán cân thương mại, thúc đẩy kinh tế. Thông tin xung quanh thương vụ bán máy bay chiến đấu Su-35 cho Trung Quốc là minh chứng cho thấy nỗ lực triển khai đại kế hoạch này của ông Putin.

Sau đó, Moscow có thể phối hợp cùng Bắc Kinh trong một số hoạt động nghiên cứu quốc phòng để có thể thăm dò sức mạnh quân sự Trung Quốc hay ít nhất là cùng nhau hạn chế được mối đe dọa từ các vũ khí tối tân của Mỹ.

Bên cạnh mục tiêu đối phó với Trung Quốc, ý tưởng Liên minh Âu-Á của ông Putin còn giúp kiềm chế sự hiện diện của Mỹ tại Trung Á sau khi NATO rời Afghanistan. Theo kế hoạch, ông Putin tiếp tục gây dựng quan hệ thân thiện với Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai và các lãnh đạo khác, hứa hẹn với họ rằng Nga sẽ trợ giúp về quân sự và kinh tế, tận dụng căng thẳng giữa họ với NATO.

Thêm vào đó, đại kế hoạch châu Á của ông Putin cũng bao gồm cả kế hoạch cải thiện quan hệ với Pakistan. Quan hệ giữa Moscow và Islamabad đã căng thẳng suốt vài thập kỷ qua do Pakistan ủng hộ chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan, hỗ trợ cho Mỹ và Trung Quốc chống lại Nga, cũng như các chính sách đối đầu với Ấn Độ - đồng minh của Nga.

Tuy nhiên, ông Putin đã đồng ý có chuyến thăm chính thức tới Islamabad vào tháng 9 tới bởi nhận thức được rằng, củng cố quan hệ với Pakistan có thể mang lại cho Nga một tầm ảnh hưởng lớn hơn tại Afghanistan thời hậu NATO, bao gồm cả việc đối thoại với Taliban cũng như tăng cường đòn bẩy của Nga với Ấn Độ.

Như vậy, với một đại kế hoạch liên minh Á – Âu này, ông Putin vừa có thể đối phó những thách thức đến từ Trung Quốc vừa kìm chế được tầm ảnh hưởng của Mỹ.

>> Binh pháp Hải quân Việt Nam (Kỳ 1)

Quan trọng không phải là kiếm to hay dài, mà là kiếm pháp. Quân cốt tinh không cốt đông. Người nghĩa mới dùng ít thắng nhiều.


Kỳ 1 : Sai lầm của Tôn Tử


Tôn Tử và Napoleon

Đó chính là những quan điểm, tư tưởng mà luôn luôn sống mãi và sáng rực với thời gian trong di sản quân sự chống giặc độc đáo mà Tổ tiên, ông cha để lại cho con cháu

Trong lịch sử dân tộc, tính ra chúng ta đã tiến hành không dưới 8 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (không tính những cuộc chiến tranh giải phóng). Trong số cuộc chiến tranh này, chúng ta luôn đối đầu với đội quân xâm lược đông đúc, nhiều gấp 2 đến 3 lần ta.

Điều đặc biệt trong những lần đụng độ này là ta tuy ít nhưng độ tinh nhuệ thì không kém địch, tức là nói về chất lượng của lực lượng bao gồm con người và vũ khí trang bị thì ta và địch cơ bản ngang nhau.

Như vậy, có thể nói nếu so sánh lực lượng giữa ta và địch thì ta chỉ thua kém địch một tiêu chí duy nhất là: Ta ít mà địch thì nhiều. Xung quanh vấn đề lực lượng ít và nhiều này mỗi quốc gia hình thành nên cách sử dụng lực lượng hay nghệ thuật quân sự riêng biệt.

Tôn Tử (Trung Quốc) cho rằng: không thể lấy ít địch nhiều ở quy mô chiến lược được, “Một quân đội nhỏ yếu mà liều lĩnh cố đánh sẽ bị kẻ địch lớn mạnh bắt làm tù binh”.

“Phương pháp dùng binh, có binh lực gấp 10 lần địch thì bao vây, gấp 5 lần địch thì tiến công, gấp hai lần địch thì chia cắt, binh lực ngang nhau thì phải biết đánh, binh lực ít hơn thì phải biết lánh, binh lực yếu hơn thì phải biết tránh cho xa”.

Napoleon (Pháp): cái tinh túy nhất của chiến lược nằm ở chỗ: Về chiến lược vẫn dám lấy ít đánh nhiều, nhưng về chiến thuật bao giờ cũng phải tập trung ưu thế áp đảo trong một thời điểm nhất định để giành thắng lợi quyết định.

Suy cho cùng đây là nghệ thuật quân sự cho tấn công xâm lược, tấn công trước. Chẳng hạn như ông Tôn Tử khuyên con cháu Trung Hoa, nếu “binh lực yếu hơn thì phải biết tránh cho xa”. Nhưng giặc đến nhà tránh đi đâu, để đất nước rơi vào tay quân xâm lược à?
Tư tưởng Nguyễn Trãi trong thời đại Hồ Chí Minh

Các tướng lĩnh và các nhà tư tưởng quân sự của dân tộc ta thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ Việt Nam luôn bị xâm lược nên phải chống trả thì bất kể dù ít hay nhiều miễn sao giữ được nước thì thôi. Và từ cái khó ló ra cái khôn, chúng ta cho rằng có thể lấy ít thắng nhiều ở cả quy mô chiến lược và chiến thuật (và thực tế diễn ra không sai).

Lịch sử quân sự thế giới có biết bao ví dụ về lấy nhiều thắng ít hoặc lấy nhiều thắng nhiều nhưng chưa có nhiều ví dụ về lấy ít thắng nhiều ở quy mô chiến lược và cả chiến thuật như Việt Nam.

Nguyễn Trãi thế kỉ XV đã tổng kết: "Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục”. Ông còn giải thích: “Người nghĩa lấy ít địch nhiều”. Như vậy, Nguyễn Trãi một phần nào đã nói lên lý do, cơ sở nào mà có tư tưởng quân sự đó.

Trước hết là ta có chính nghĩa (chúng ta không đi xâm lược ai) nên huy động và phát động được toàn đân tham gia chống giặc giữ nước. Tiếp theo là chúng ta có một đất nước có địa thế vô cùng hiểm yếu với kẻ thù nhưng lại thuận lợi cho ta phòng thủ bảo vệ Tổ quốc (thiên thời địa lợi nhân hòa).

Rõ ràng đây chính là cơ sở lý luận và thực tế để con cháu phát triển lên một mức cao hơn, đó là Chiến tranh nhân dân và Nghệ thuật quân sự độc đáo trong thời đại Hồ Chí Minh.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay, Hải quân Việt Nam với lực lượng trang bị hiện đại, vũ khí công nghệ cao cũng không kém địch là bao nhiêu nhưng rõ ràng thực lực vẫn ít hơn địch. Nhưng dù có ít hơn bao nhiêu lần thì chúng ta cũng quyết đánh để bảo vệ bờ cõi.

Vậy, thực hiện tư tưởng quân sự lấy ít đánh nhiều thì Hải quân Việt Nam đánh như thế nào?

Khác với chiến tranh giải phóng, hải chiến được phân định trận tuyến rõ ràng.

Địch từ xa tới, ngoài đại dương xuất kích tấn công vào biển, đảo và đất liền của ta. Ta phòng thủ, tấn công địch từ đất liền, từ các đảo tiền tiêu hoặc ven bờ. Nếu dàn trận đối đầu, dù có hiệu suất chiến đấu đạt tỷ lệ ta 1, địch 3 thì trong 2 đến 3 cuộc chạm trán là ta hết vốn.

Cỡ như tàu Gepard 3.9, ta 2 chiếc, giỏi có thể đổi 8 chiếc của địch loại tương đương. Nhưng sau đó ta hết, địch còn nhiều thì chỉ có nai lưng ra chịu đòn như thời đánh Mỹ…Vì vậy, đó không phải là tư tưởng nghệ thuật quân sự lấy ít đánh nhiều của Việt Nam.

Nếu như Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Lấy ít đánh nhiều thường dùng mai phục” thì ngày nay qua 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ các tướng lĩnh Việt Nam đã vận dụng sáng tạo, độc đáo hơn nhiều.

Thứ nhất, vẫn triệt để lợi dụng thế địa lý để phát triển phương thức chiến tranh du kích hiện đại trên biển.

Chiến tranh du kích (CTDK) là đặc sản quý báu của nghệ thuật quân sự bảo vệ Tổ quốc (hình thức tác chiến phi đối xứng chỉ là một thành tố của nội hàm này).

CTDK là một thành tố trong nội hàm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn của vũ khí hiện đại công nghệ cao vào lối đánh du kích trong một trận hoặc trong một chiến dịch hợp đồng các lực lượng.

Ngoài tổ chức tấn công địch từ cấp chiến dịch thì tổ chức tấn công địch cấp nhỏ lẻ theo kiểu chiến tranh du kích vẫn được coi trọng và vận dụng ở một tầm cao hơn.

Đó là tấn công mọi nơi, tấn công mọi lúc với trang bị vũ khí nhỏ gọn, nhưng hiện đại và uy lực mạnh làm cho quân dịch thiệt hại nặng, mất sức chiến đấu, hoang mang suy sụp ý chí, hỗ trợ và tạo điều kiện cho những trận tấn công tiêu diệt lớn kết thúc chiến tranh. CTDK với 2 hình thức tác chiến chủ yếu là phục kích và tập kích.





http://nghiadx.blogspot.com
Đội Đặc công người nhái 4, Đoàn M26 (Quân chủng hải quân) thực hành huấn luyện.

Phục kích theo lối truyền thống thì ngồi chờ giặc đến; phương tiện chỉ có thể là con người, con tàu, tàu ngầm… là chủ thể. Nhưng theo lối hiện đại thì phát triển rộng hơn nhiều. Máy bay, tên lửa và thậm chí pháo binh vẫn được sử dụng là chủ thể của trận phục kích.

Chắc chắn trên đất liền, nơi nào cần phòng thủ thì đều đã nằm trong phần tử bắn của pháo binh, của tên lửa và của Không quân Việt Nam. Chỉ cần trinh sát báo về địch đã đến là lập tức khai hỏa.

Nhưng trên biển, muốn được vậy thì yếu tố quyết định là phải quản lý tốt vùng biển, phát hiện chính xác, kịp thời địch xuất hiện ở tọa độ mà ta đã chuẩn bị sẵn bằng các phương tiện quan sát trên các đảo tiền tiêu, trên bờ hiện đại đến thô sơ.

Tuy nhiên, tàu địch đến tọa độ A, Z nào đó mà ta đã chuẩn bị ngoài yếu tố chủ quan của địch thì ta cần phải làm sao điều địch đến đúng tọa độ phục kích sẵn.

Nghi binh, lừa địch, điều địch theo ý định của ta…đó thuộc mưu kế của chỉ huy.

(PTD)

>> Chakri Naruebet - Tàu sân bay duy nhất Đông Nam Á

Được thiết kế và chế tạo tại nhà máy Izar, Tây Ban Nha, tàu sân bay Chakri Naruebet là "báu vật" của người Thái, vì đây là chiếc hàng không mẫu hạm duy nhất ở Đông Nam Á.

>> Các cụm tàu sân bay tiến công - toàn bộ sức mạnh của Mỹ



http://nghiadx.blogspot.com
Tàu sân bay HTMS Chakri Naruebet (số hiệu 911)

Dựa trên bản hợp đồng kí kết tháng 7/1992, tàu sân bay Chakri Naruebet được đóng tại nhà máy Izar, Tây Ban Nha.

Năm 1997, Chakri Naruebet được chuyển giao cho hải quân hoàng gia Thái Lan. HTMS Chakri sẽ đảm nhiệm vai trò là tàu đô đốc chỉ huy và điều khiển, hỗ trợ hạm đội tàu chiến của Thái Lan từ trên không. Ngoài ra, nó còn có trách nhiệm tham gia các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn trên biển.

Thiết kế

Tàu sân bay HTMS Chakri Naruebet được thiết kế dựa trên tàu sân bay Principe de Asturias, Hải quân Tây Ban Nha.

Chakri Naruebet có lượng giãn nước 11.485 tấn, tổng chiều dài là 182,6m. Boong tàu sân bay rộng khoảng 174.6x27.5m, được thiết kế có đường dốc nghiêng 12 độ về phía cuối tàu sân bay sử dụng cho các máy bay Harrier.

Khu chứa máy bay cung cấp đủ chỗ cho 10 trực thăng hạng trung hoặc máy bay cất hạ cánh thẳng đứng AV-8S (Harrier). Số lượng thành viên thủy thủ đoàn trên tàu khoảng 600 người

Phi cơ chiến đấu trên tàu

HTMS Chakri Naruebet có khả năng chở sáu chiếc máy bay AV-8S (Harrier) và sáu trực thăng đa nhiệm S-70B “Seahawk”.

AV-8S là máy bay cất cánh đường băng ngắn, hạ cánh thẳng đứng (STOL). AV-8S ban đầu là một phiên bản xuất khẩu cho hải quân Tây Ban Nha được vũ trang pháo, tên lửa, rocket và bom để thực hiện các nhiệm vụ tiêm kích, tấn công hỗ trợ các đơn vị tàu chiến trên biển.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay cất hạ cánh thẳng đứng AV-8S Harrier trên boong tàu sân bay Charki Naruebet


S-70B “Seahawk” là trực thăng đa nhiệm có khả năng chống ngầm hoặc chống hạm. Thái Lan đã mua sáu máy bay loại này từ Mĩ và triển khai chúng trên tàu sân bay HTMS Chakri Naruebet.

Trực thăng Seahawk được trang bị hai ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Mk 50/46, hoặc tên lửa chống hạm AGM-119B (tầm bắn 35km). Ngoài ra, nó còn mang được tên lửa không đối đất AGM-114 “Hellfire” để tấn công các tàu cao tốc cỡ nhỏ.

http://nghiadx.blogspot.com
Trực thăng đa nhiệm S-70B "Seahawk" trang bị ngư lôi chống ngầm


Hệ thống điện tử

Theo để xuất đưa ra ban đầu, Chakri Naruebet sẽ được lắp đặt một số thiết bị gồm: radar giám sát trên không tầm trung 3-D và tầm xa 2-D, hệ thống định vị siêu âm, hệ thống tác chiến điện tử, thiết bị đối phó trả đũa. Ngoài ra, tàu còn được trang bị thêm máy phóng tên lửa, hệ thống vũ khí tầmcực gần với pháo 25/30mm.

Tuy nhiên, năm 1997 khi được chuyển giao thì HTMS Chakri Naruebet mới chỉ được trang bị hệ thống điện tử cơ bản nhưng không có vũ khí phòng vệ, hệ thống tác chiến điện tử và thậm chí là hệ thống định vị siêu âm, mồi bẫy. Các hệ thống điện tử bao gồm radar giám sát tầm trung 3-D AN/SPS-52C, hệ thống dẫn đường Kelvin Hughes (hoạt động trên dải I), hệ thống định vị vệ tinh MX 1105 Transit/GPS và các thiết bị thông tin liên lạc khác. Vì vậy, cho đến khi tàu sân bay được trang bị giáp, thiết bị cảm biến và hệ thống chiến đầu thì nó phải phụ thuộc hoàn toàn vào đội tàu hộ tống.

Năm 1995, Thái Lan đã có ý định bỏ ra 800 triệu USD mua ba tàu ngầm nhưng kế hoạch này đã bị hoãn lại. Thế nên, giờ đây người Thái vẫn chưa sở hữu bất kì một chiếc tàu ngầm nào. Do đó, HTMS Charki Naruebet vẫn phải trông chờ vào sự bảo vệ của đội tàu hộ tống chống lại các cuộc tấn công trên biển và từ tàu ngầm.

Hệ thống phòng vệ

Theo một số nguồn tin, sau khi được chuyển giao, Thái Lan đã có kế hoạch để trang bị hệ thống vũ khí phòng vệ cho tàu mà Mỹ là nhà thầu chính trong kế hoạch này. Nếu đúng như vậy, có khả năng Chakri Naruebet được trang bị một số loại vũ khí sau:

+ Tổ hợp vũ khí tầm cực gần Phalanx CIWS. Phanlanx là pháo sáu nòng cỡ 20mm được dùng để phòng không chống máy bay hoặc tên lửa hành trình. Pháo bắn với tốc độ 3.000 viên mỗi phút, tầm bắn 1,5 km.

+ Chakri được trang bị hệ thống tên lửa đối không RIM-7 Seasparrow. Tên lửa được dùng để chống lại máy bay hoặc tên lửa hành trình. Các tên lửa được chứa trong 8 ống phóng của hệ thống Mk41. RIM-7 dẫn đường bằng ra đa chủ động, tầm bắn khoảng 55km.

+ Cuối cùng là hệ thống phòng không MBDA Sadral (6 ống phóng) sử dụng tên lửa Mistral. Mistral là tên lửa phòng không tầm ngắn dùng để chống máy bay hoặc tên lửa hành trình, có tầm bắn khoảng 5km.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống vũ khí tầm cực gần Phanlanx CIWS.

http://nghiadx.blogspot.com
Tổ hợp tên lửa đối không RIM-7 Seasparrow.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống phòng không Sadral mang sáu tên lửa Mistral.

Động lực

Tàu trang bị bộ truyền động kết hợp động cơ diezen hoặc động cơ tuốc bin khí (CODOG) cung cấp sức đẩy 33.600 mã lực. Đó là sự kết hợp giữa hai cặp động cơ tuốc bin khí GE LM-2500 và động cơ diezen MTU 16V1163 TB83, mỗi động cơ sinh ra 6.437 mã lực.

Tốc độ tối đa mà Chakri đạt được là 26,2 hải lý mỗi giờ và tốc độ trung bình khoảng 17,2 hải lý mỗi giờ. Tầm hoạt động lên tới 10.000 dặm nếu chạy với tốc độ 12 hải lý mỗi giờ.

>> Iran biến An-140 thành máy bay tuần tra biển

Iran vừa chính thức ra mắt loại máy bay tuần tra biển mới nhất do nước này tự chế tạo từ loại máy bay chở khách An-140 của Ukraina.


Dưới đây là chùm ảnh máy bay tuần thám biển Iran-140 do quốc gia hồi giáo tự chế tạo:

http://nghiadx.blogspot.com
Iran đã trình làng mẫu máy bay tuần tra biển có tên Iran-140, biến thể được công ty máy bay HESA ở Isfahan (Iran) sản xuất theo giấy phép từ năm 2000 của loại máy bay chở khách An-140 của Ukraina.


http://nghiadx.blogspot.com
Hợp đồng sản xuất theo giấy phép đối với loại máy bay trở khách An-140 được Iran ký kết với Ukraina từ năm 1995. Tính đến đầu năm 2006, Iran đã lắp ráp được 50 máy bay chở khách như vậy. Trong ảnh là máy bay tuần tra biển Iran-140.

http://nghiadx.blogspot.com
Trong tháng 9/2007, Ukraina đã ký kết một hợp đồng bổ sung để cung cấp cho Iran 16 máy bay chở khách An-140-100 đời mới hơn. Ảnh máy bay Iran-140.

http://nghiadx.blogspot.com
Ngoài Iran, máy bay chở khách An-140 còn được Ukraina bán cho Azerbaijan (8 chiếc) và Libya (chiếc). Iran-140 trong gara.

http://nghiadx.blogspot.com
Tới dự buổi ra mắt máy bay tuần tra biển mới còn có Bộ trưởng Quốc phòng Iran, Chuẩn tướng Ahmad Vahidi, ông phát biểu trước giới báo chí về sự tiến bộ vượt bậc của Iran trong việc phát triển công nghệ quân sự trình độ cao.

http://nghiadx.blogspot.com
Sẽ không có gì đáng nói nếu như không quan sát kỹ "mắt thần" của máy bay Iran-140. Theo quan sát, bộ cảm biến này gần giống hoàn toàn so với loại Ultra 7500B (U 7500B) do công ty FLIR của Mỹ chế tạo.

U 7500B là một module trinh sát quang học hiện đại có khả năng phóng đại hình ảnh hồng ngoại tới 18x trong điều kiện ánh sáng kém và có thể kết hợp với lựa chọn chỉ điểm laser để phối hợp tác chiến với các lực lượng mặt đất.

Nếu thực sự đây là "mắt thần" do công ty FLIR chế tạo, người Mỹ sẽ phải tự mình đặt ra nhiều câu hỏi, tại sao họ (Mỹ) đã cấm vận vũ khí với Iran mà quốc gia hồi giáo lại có được thiết bị điện tử hiện đại do chính công ty Mỹ chế tạo.

http://nghiadx.blogspot.com
Bên trong là bàn điều khiển hệ thống giám sát rất hiện đại.

http://nghiadx.blogspot.com
Tướng Vahidi thăm bên trong máy bay Iran-140.

http://nghiadx.blogspot.com
Khoang lái của Iran-140 hầu như không có sự thay đổi nhiều so với máy bay chở khách An-140 bản gốc. Sự tiện nghi chưa được chú trọng lắm, nhất là hệ thống làm mát cho phi công.

>> Bài học từ cuộc chiến Trung Quốc - Hà Lan

Tháng 2/2012 đánh dấu 350 năm kể từ khi cuộc chiến đầu tiên và cũng là thắng lợi của Trung Quốc với một nước phương Tây. Cả 2 bên đã học được gì?

>> Bài học từ cuộc chiến Falklands



http://nghiadx.blogspot.com
Giáo sư Tonio Andrade.

Giáo sư lịch sử Tonio Andrade, làm việc tại ĐH Emory, đang giảng dạy tại ĐH Emory, bang Georgia (Mỹ) đã viết cuốn “Thuộc địa đã mất: Câu chuyện chưa kể của chiến thắng vĩ đại của Trung Quốc trước phương Tây”.

Dưới đây là nội dung chính của tác phẩm này:

Dưới sự lãnh đạo của Tổng tư lệnh Trịnh Thành Công – người hùng giai đoạn cuối nhà Minh - đầu nhà Thanh, Quân đội Trung Quốc đã quét sạch toàn bộ Hà Lan khỏi Đài Loan vào tháng 2/1662. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, Đài Loan đặt dưới sự cai trị của Trung Quốc.

Đây là sự kiện cực kỳ đặc biệt. Lúc đó, Hà Lan là thế lực thực dân mạnh mẽ nhất của châu Âu và Đài Loan là thuộc địa lớn nhất của nước này tại châu Á.

Cuộc chiến Hà Lan – Trung Quốc là một sự kiện hấp dẫn giới học giả về lịch sử - chính trị trên quy mô toàn cầu, đụng chạm tới cả cán cân quyền lực của thế giới cận đại. Theo các ghi chép về cuộc chiến, Hà Lan – vốn nổi tiếng khắp châu Âu về vũ khí, chiến lược, hậu cần khi đó, đã cảm thấy bị vuột mất đẳng cấp sau thất bại trước Trung Quốc.

Cuộc chiến này mang lại những bài học cho ngày hôm nay bởi lẽ, trong số các yếu tố cho phép người Trung Quốc giành chiến thắng với người phương Tây là truyền thống văn hóa, tư duy chiến lược và nghệ thuật quân sự của người Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo quân đội Trung Quốc ngày nay vẫn thấm nhuần sâu sắc về văn hóa quân sự truyền thống và học hỏi nhiều điều từ đó.

http://nghiadx.blogspot.com
Trịnh Thành Công trở thành người hùng dân tộc với việc giành Đài Loan về cho Trung Quốc năm 1662

Bất ngờ với khả năng của người Trung Quốc

Từ trước đến nay, các nước phương Tây vẫn có xu hướng đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Thậm chí, với nhiều chuyên gia, Trung Quốc là nước yếu, thường xuyên bị các nước láng giềng như Hung Nô, Mông Cổ, Mãn Châu và Nhật Bản xâm lược. Trong Chiến tranh Thế giới lần 2, Mỹ và Anh thường xuyên tuyên truyền và củng cố hình ảnh này bằng cách mô tả Trung Quốc như là một nạn nhân không may mắn của một Nhật Bản hiện đại, quyết đoán và chiến lược quân sự hiệu quả. Thậm chí, nhiều người phương Tây còn tin rằng, Trung Quốc phát minh ra thuốc súng nhưng chỉ sử dụng cho các màn bắn pháo hoa.

Trên thực tế, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát triển những khẩu súng đầu tiên cũng như pháo, tên lửa, lựu đạn và mìn. Các kĩ sư Trung Quốc từng luôn háo hức nghiên cứu vũ khí nước ngoài, ví dụ như súng hỏa mai của Nhật Bản và đại bác của Anh.

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên, trong cuộc chiến trên đảo Đài Loan, Hà Lan đã sững sờ trước hỏa lực của Trung Quốc. Bản thân người Hà Lan không hề lạc hậu. Đại bác và súng ngắn của Hà Lan đã nổi tiếng khắp châu Âu. Các ngành công nghiệp vũ khí của Hà Lan là một phần quan trọng của nền kinh tế đang bùng nổ đầu thời kỳ tư bản chủ nghĩa.

Tuy nhiên, Hà Lan lại lép vế trước sự hiệu quả và chính xác của những tay súng Trung Quốc nhanh nhẹn và rèn luyện tốt. Một chỉ huy người Hà Lan đã từng viết trong sự thất vọng: “Người Trung Quốc khiến những người lính của tôi cảm thấy xấu hổ”.

Trong giai đoạn thế kỷ 16-17, là Trung Quốc đã vượt lên cao so với mô hình cổ xưa. Các vị tướng lĩnh Trung Quốc đã dạy quân lính cách tránh hỏa lực, tăng cường sức chịu đựng và sức mạnh, tìm kiếm vị trí chiến đấu tốt. Trong khi những người phương Tây lại có cách đào tạo để hiên ngang trước mũi tên hòn đạn.

Quân đội Hà Lan phải đối mặt với những người lính Trung Quốc được đào tạo tốt, thế nên trên chiến trường Đài Loan đó, họ giống như lính mới chứ còn là những người nổi tiếng về quân sự khắp phương Tây.

Người Hà Lan được biết đến khắp châu Âu như là các nhà phát minh khái niệm "tập trận quân sự hiện đại" và vai trò trong đổi mới, cách mạng hóa chiến tranh.

Những người lính ngự lâm của Hà Lan được đào tạo trong các cuộc duyệt binh chuẩn mực, tiến hành các cuộc hành quân phức tạp và hoạt động như một đơn vị phối hợp và độc lập.

Cách thức này đã lan tỏa ra toàn châu Âu, tạo thành “phong cách chiến tranh châu Âu”, biến họ thành lực lượng chiến đấu hiệu quả nhất thế giới. 

Tuy nhiên, lợi thế quan trọng nhất của Trung Quốc nằm trong nền văn hóa chiến lược và chiến thuật. Qua 2.000 năm lịch sử, các chỉ huy quân sự của Trung Quốc học được cách nghĩ cẩn trọng về chiến tranh.

Hầu hết những người phương Tây đều đã biết hay đọc qua về Binh pháp Tôn tử, từ những CEO ở Đức cho đến Mỹ, nhưng họ không biết rằng, đã có bao nhiêu nhà chiến lược, chiến thuật hay chuyên gia xuất sắc đã thừa kế tinh hoa của Tôn Tử.

Trong cuộc chiến đảo Đài Loan năm 1662, tướng Trịnh Thành Công đã áp dụng mưu kế mà người phương Tây vẫn gọi là “con ngựa thành Troy”. Họ đã liên tục đánh lừa người Hà Lan, thu hút họ vào bẫy hay lợi dụng địa hình, kết hợp sức mạnh hải quân và bộ binh theo những cách bất ngờ và hiệu quả.

Sau nhiều thất bại, người Hà Lan kết luận, không còn hy vọng chiến thắng trước lực lượng tinh nhuệ của Trung Quốc. Cuối cùng, họ từ bỏ và giao lại Đài Loan cho Trung Quốc.

Hiểu nền văn hóa Trung Quốc để thắng Trung Quốc

Trong 2 thế kỷ tiếp theo, không còn một cuộc chiến nào giữa Trung Quốc và phương Tây. Giai đoạn này đánh dấu cán cân quyền lực toàn cầu đã dịch chuyển sang châu Âu với quá trình công nghiệp hóa.

Ngày nay, Trung Quốc đang hiện đại hóa một cách kinh ngạc trong tình thế siêu cường Mỹ đang bị "ốm". Cán công công nghệ có thể vẫn ủng hộ phương Tây nhưng tình hình này sẽ thay đổi nhanh chóng.

Nhận thức về hiện trạng này khiến các chuyên gia phương Tây thúc giục Washington kiềm chế Trung Quốc. Tổng thống Barack Obama cũng đang chuyển động theo hướng này.

Tuy nhiên, ít người nghĩ tới những giải pháp hiệu quả và tiết kiệm hơn, đó là tìm hiểu thêm về truyền thống, nghệ thuật chiến tranh của Trung Quốc. Không có quốc gia nào thấm nhuần sâu xa với lịch sử của mình như người Trung Quốc. Các chỉ huy quân sự Trung Quốc hiểu rõ giá trị di sản từ những tư tưởng như Tôn Tử, Gia Cát Lượng, Trịnh Thành Công…

Thế nhưng, người Trung Quốc còn trích dẫn từ những tư tưởng quân sự phương Tây như Clausewitz, Mahan hay Petraeus. Trung Quốc hiểu rõ truyền thống riêng của mình và cả truyền thống phương Tây theo lời khuyên của Tôn Tử: "Biết mình, biết ta".

Nếu phương Tây không nghiên cứu truyền thống quân sự của Trung Quốc, họ sẽ gặp phải những bất lợi đáng kể. Chiến tranh Trung Quốc - Hà Lan, chiến tranh đầu tiên của châu Âu với Trung Quốc là một bài học tuyệt vời.

>> Xu hướng hải chiến hiện đại

Học giả Pháp bàn luận về vai trò của sức mạnh hải quân ở Biển Đông.



http://nghiadx.blogspot.com
Giáo sư lịch sử quan hệ quốc tế Đại học Paris I Robert Frank

Giáo sư Lịch sử Quan hệ Quốc tế ĐH Paris I Robert Frank và Phó giáo sư ĐH Tổng hợp Lille III Jean de Préneuf trả lời các câu hỏi của tờ Le Monde về những căng thẳng gần đây ở biển Đông.

Các câu hỏi gồm có:

- Hiện tại, ở châu Á đang phát sinh các nguồn căng thẳng ngày càng mới giữa các cường quốc biển. Tình hình có thể căng thẳng lên không?
- Các cuộc hải chiến truyền thống bây giờ ít có khả năng xảy ra?
- Vấn đề chủ quền ngày nay đang đặt ra với sự gay gắt mới: tất cả những điều này liệu có dẫn tới một cuộc đấu tranh điên rồ để giành giật đại dương và phân chia các vùng biển?
- Một số nước chắc chắn dựa vào máy bay và tên lửa chứ không phải hạm đội. Cần có các phương tiện nào để duy trì sức mạnh quân sự?

http://nghiadx.blogspot.com
Phó giáo sư Đại học tổng hợp Lille III Jean de Préneuf

Dưới đây là nội dung phỏng vấn:

- Le Monde: Hiện tại, ở châu Á đang phát sinh các nguồn căng thẳng ngày càng mới giữa các cường quốc biển. Tình hình có thể căng thẳng lên không?

- PSG Jean de Préneuf: Quan hệ của Trung Quốc với các nước lân bang đang gây ra sự lo ngại nhất định. Bắc Kinh đang tiến hành hiện đại hóa quy mô lớn hạm đội của mình để củng có vị thế đứng đầu trong khu vực. Còn các nước láng giềng thì không muốn khoanh tay đứng nhìn.

Tất cả những chuyện này giống như cuộc chạy đua vũ trang trên biển ở châu Âu trước năm 1914. Không được quên rằng, những nhục nhã trên biển mà Trung Quốc đã phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh đầu tiên với Nhật Bản năm 1894-1895 đến nay họ vẫn chưa quên.

Trong cuộc chạy đua thế giới tranh giành tài nguyên thiên nhiên, miếng bánh đại dương hôm nay phải được giành cho cả các quốc gia đang phát triển chủ chốt. Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc – tất cả họ đều đang xây dựng cho mình hạm đội hiện đại và đông đúc.

Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, người ta từng nghĩ rằng, các cuộc xung đột lớn trên biển đã đi vào quá khứ, tuy nhiên không thể khẳng định chắc chắn điều gì giống như vậy. 20 năm nay, Hải quân Ấn Độ và Trung Quốc tranh giành quyền kiểm soát các tuyến đường đến Cận Đông.

- GS Robert Frank: Ngày nay chúng ta đang thấy có sự gia tăng số lượng các đấu thủ, điều gợi nhớ đến cuộc chạy đua vũ trang giữa Đức và Anh vào cuối thế kỷ 19.

Hiện tại, giữa Ấn Độ và Trung Quốc đang tồn tại sự bất đối xứng nhất định. Ấn Độ vẫn chưa thể tự giải thoát khỏi những ký ức thất bại trước Trung Quốc vào năm 1962.

Vấn đề Biển Đông hoàn toàn có thể là một trường hợp điển hình. Bắc Kinh chắc chắn toan tính tiến xa hết mức chừng nào có thể mà không gây ra chiến tranh. Dĩ nhiên là điều đó tiềm ẩn đầy những sự cố nguy hiểm. Trong trường hợp leo thang căng thẳng, phương Tây đơn giản là không thể khoanh tay đứng nhìn. Các nước lớn dễ dàng hơn trong việc thỏa thuận với nhau về một giải pháp.

Nguy hiểm xuất phát từ cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước nhỏ, các nước trung bình, cũng như giữa các nước nhỏ, trung bình và lớn. Những tình huống khó tiên liệu - đó là sự tính toán sai mà Tổng thống Argentina Galtieri mắc phải đối với Thatcher năm 1982, Saddam Hussein đối với George Bush năm 1990 và Gruzia đối với nước Nga của Putin năm 2008.

Ngoài ra, ngày nay đang nảy sinh những vấn đề mới liên quan đến sự xuất hiện trên biển của các đấu thủ phi nhà nước như các tổ chức phi chính phủ. Chúng ta nhìn thấy điều đó ở trường hợp đấu tranh chống ngành săn bắt cá voi và những sự cố mới đây giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Israel.

- Các cuộc hải chiến truyền thống bây giờ ít có khả năng xảy ra?

- PGS Jean de Préneuf: Kể từ thời điểm kết thúc hai cuộc thế chiến, không còn xảy ra một trận chiến trên biển quy mô lớn nào nữa. Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh đã dẫn tới sự xuất hiện đối đầu toàn cầu trên biển, vốn là sự tiếp diễn của logic các trận chiến ở Đại Tây Dương và các chiến dịch đổ bộ lớn.

Vì thế, năm 1945 không hề đặt dấu chấm hết cho các cuộc chiến tranh có sử dụng hải quân. Danh sách có được khá dài: Triều Tiên từ năm 1950-1953, kênh đào Suez năm 1956, Việt Nam từ năm 1965-1973, Falklands/Malvinas năm 1982, Kosovo năm 1999 và cho đến tận Libya năm 2011.

Thậm chí trong các cuộc xung đột cơ bản khai diễn trên không và mặt đất thì luôn có chỗ cho hạm đội: điều đó đã xảy ra trong các cuộc xung đột Ấn Độ-Pakistan năm 1965 và 1971, trong cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1990-1991, ở Afghanistan từ năm 2001, ở Lebanon năm 2006.

Điều đó cũng liên quan cả đến các tình huống khủng hoảng. Ví dụ, trong chiến dịch Praying Mantis ngày 14/4/1988 toàn bộ một hạm đội Iran đã bị tiêu diệt để đáp lại việc Tehran phong tỏa vịnh Persique. Nó đã cho thấy rằng, biển vấn là không gian xung đột với sự tham gia của các nước thứ ba kể cả khi nó họ không phải là các bên tham chiến trực tiếp.

Ngoài ra, toàn bộ cuộc chiến tranh Iran-Iraq từ năm 1980-1988 nhắc nhở chúng ta rằng, các cường quốc hạng hai có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho các hạm đội lớn bằng các phương tiện phi đối xứng, trong số đó trước hết là thủy lôi.

- GS Robert Frank: Ở Cận đông, vấn đề eo biển Hormuz liên quan không chỉ đến triển vọng một trận hải chiến lớn bởi để làm việc đó lực lượng của các hạm đội cần phải gần tương đương nhau. Tuy nhiên, quyền kiểm soát đối với huyết mạch sống còn này cũng đang được giải quyết cả trên biển bởi vì Iran đã rút ra các bài học của những năm 1980 và đã hiện đại hóa không chỉ hạm đội của họ mà cả vũ khí chống hạm triển khai trên bộ.

Ở Tây Phi, hạm đội đóng vai trò trung tâm trong đấu tranh chống cướp biển, tuy nhiên trong trường hợp này, chúng ta lại không thể nói đến các trận hải chiến quy mô lớn.

Liên quan đến Thái Bình Dương và Đông Á, dù Trung Quốc đã tăng cường sức mạnh quân sự, cần tính đến việc họ còn có những lá bài khác để khẳng định vị thế đứng đầu trong khu vực.

Lịch sử đã biết đến những trường hợp, khi mà hạm đội của một nước đang phát triển đã chiến thắng một cường quốc hải quân: năm 1905, hạm đội Nhật Bản (gồm chủ yếu là các tàu chiến Anh) đã đánh tan lực lượng hải quân của đế quốc Nga trong trận hải chiến Đối Mã (Tsushima).

Ngày nay, hạm đội có thể là công cụ kiềm chế hiệu quả và đồng thời không phải là nguyên nhân làm tình hình thêm căng thẳng. Ngoài ra, ngày nay, ở mức độ lớn hơn nhiều so với hôm qua, nó là công cụ kiến tạo hòa bình và phương tiện ngăn ngừa xung đột.

Toàn cầu hóa dẫn đến sự gia tăng tầm quan trọng của hạm đội. Vai trò của nó là bảo đảm an ninh trên các tuyến giao thông và bằng sự hiện diện của mình ngăn chặn những điều khó chịu có thể xảy ra trong tương lai.

Ngoài ra, đây còn là công cụ phô trương sức mạnh, có thể làm chức năng kiểm chế. Khi một tàu sân bay xuất hiện gần bờ biển, người ta buộc phải tính toán đến điều đó.

- Vấn đề chủ quền ngày nay đang đặt ra với sự gay gắt mới: tất cả những điều này liệu có dẫn tới một cuộc đấu tranh điên rồ để giành giật đại dương và phân chia các vùng biển?

- PGS Jean de Préneuf: Vấn đề chủ quyền liên quan trước hết đến các tài nguyên biển. Cần nhớ rằng, năm 1904, vấn đề hóc búa nhất trong đàm phán giữa Pháp và Anh là Newfoundland và cụ thể là quyền đánh bắt cá. Ngày nay, sự gia tăng căng thẳng ở quần đào Falklands/Malvinas, nơi mới đây phát hiện ra tài nguyên dầu lửa, đang diễn ra đúng theo sơ đồ từng xảy ra giai đoạn từ 1976-1982.

Trước đó, mỗi bên đều đã tìm cách giành ưu thế trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của mình đã được xác định theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982. Ngày nay, tầm nhìn toàn cầu bắt đầu thắng thế. Việc phân chia lãnh thổ trên không gian biển ngày càng dịch chuyển theo hướng quy mô đại dương.

Tình hình ở Đông Nam Á và Biển Đông tất yếu liên quan đến việc phân chia tài nguyên biển. Ngoài ra, băng hà tan chảy ở Bắc Cực cũng đang dẫn đến sự gia tăng căng thẳng khu vực. Đó là chuyện làm sao giành lấy quyền kiểm soát tuyến đường biển mà trong tương lai có thể trở thành một trong những tuyến giao thương then chốt và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực.

- Một số nước chắc chắn dựa vào máy bay và tên lửa chứ không phải hạm đội. Cần có các phương tiện nào để duy trì sức mạnh quân sự?

- PGS Jean de Préneuf: Cán cân giữa hải quân và không quân luôn luân phiên thay đổi tùy thuộc vào mốt và những khuynh hướng ưa thích kỹ thuật nào đó, hơn nữa nhiều khi là hy sinh yếu tố hiệu quả.

Những dao động này là sự phản ánh cạnh tranh giữa các quân chủng trong việc bảo đảm an ninh ở cự ly xa và với chi phí nhỏ nhất. Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ 19, ở Anh người ta tin rằng, hạm đội là câu trả lời cho mọi vấn đề.

Trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, Anh lại ưu tiên không quân, lực lượng mà người ta cho là sẽ ngăn ngừa sự tái xuất hiện mối đe dọa trên lục địa và bảo đảm trật tự trong đế quốc. Ngày nay, người ta thường cho rằng, hạm đội hải quân toàn cầu là rất tốn kém. Tuy nhiên, điều chủ yếu là tìm ra điểm giữa tối ưu giữa hai thái cực.

Vấn đề là ở chỗ, đóng vai trò lớn ở đây không chỉ là khả năng phô diễn sức mạnh của mình ở tầm xa, mà còn thực hiện chính sách hiện diện vốn giúp giải quyết mềm các cuộc xung đột.

Cần lưu ý rằng, ngày nay, khả năng quân sự của Bắc Kinh được cân đối rất tốt, dù trước đó, hạm đội của họ về mặt cơ cấu là bộ phận yếu nhất quân đội, bởi vì nguồn gốc các mối đe dọa trước hết là ở trên bộ. Điều đó cũng đúng với cả Ấn Độ. Về khả năng chiến lược, cả hai nước đều chọn xây dựng quân đội đa dạng hóa mà trong cơ cấu của nó có cả các tàu ngầm.

-GS Robert Frank: Ở châu Âu, hạm đội tương ứng với địa vị thứ bậc của các cường quốc. Chẳng hạn, nước Đức là cường quốc hạng trung, dù trong EU, họ vẫn mạnh hơn Pháp và Anh. Trong khi đó, khác với Đức, cả Pháp và Anh lại là cường quốc “thế giới” và các hạm đội của họ hậu thuẫn cho trật tự đó. Tuy nhiên, các hạm đội ở châu Âu đang đi đến giới hạn của mình. Hiện tại, các xu hướng chính là thiết lập các hiệp định đối tác và chia sẻ chủ quyền.

- PGS Jean de Préneuf: Vấn đề tiền bạc cũng có liên quan đến tương lai. Một số chỉ muốn hạn chế ở mức sở hữu vũ khí hạt nhân. Số khác lại đề xuất dựa tất vào không quân dựa trên ưu thế công nghệ của mình. Những giải pháp như thế sẽ cho phép bảo vệ chủ quyền ở tầm xa và với chi phí ít hơn.

Tuy nhiên, các nước đang phát triển mạnh nhất và các quốc gia phương Tây lớn nhất không ủng hộ tính toán đó. Họ đang cố cân bằng các kho quân bị của mình cùng lúc từ hai quan điểm: tìm ra sự cân bằng giữa các lực lượng vũ trụ, không quân, lục quân và hải quân, cũng như cố xây dựng hạm đội cân đối gồm tàu chiến mặt nước, tàu ngầm và máy bay.

- Vấn đề này được giải quyết ra sao ở Pháp?

- PGS Jean de Préneuf: Vào cái ngày Pháp từ bỏ các kế hoạch đại dương toàn cầu của mình, cũng là khi Pháp ký nhận là nước này đồng ý với vai trò cường quốc hạng hai, không có khả năng bảo vệ lợi ích của mình trên thế giới khi cần. Vì lý do đó, thậm chí sau những thất bại năm 1871 và 1945, Pháp cũng đã không cắt giảm quá 30% chi phí cho hạm đội. Hơn nữa, sự cắt giảm đó luôn chỉ là hiện tượng tạm thời, kéo dài không quá 5-6 năm.

Không nên quên rằng, sự phổ biến vũ khí trang bị hiện đại là một hiện tượng có từ lâu mà việc xem nhẹ nó đã nhiều lần buộc các nước phương Tây trả giá đắt, hơn nữa tất cả đã bắt đầu từ thế kỷ 19.

Năm 1885, trong chiến tranh Pháp-Thanh, các tàu Pháp được đóng trong hoàn cảnh tiết kiệm dành cho các chiến dịch xa xôi ở các thuộc địa đã thua kém về uy lực và tốc độ so với các tàu tuần dương của nhà Thanh do Đức đóng mà theo kế hoạch của bộ chỉ huy Pháp đó lại là mục tiêu mà các tàu Pháp phải truy kích!
Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang