Trong lịch sử, Hải quân Nhật Bản đã giành không ít vinh quang nhưng cũng từng nếm trải nhiều thất bại cay đắng.
Giờ đây, ít ai có thể hoài nghi về trình độ phát triển của hải quân nước này trong nỗ lực tìm lại chính mình.
Từ kiêu hãnh đến thảm bại Ngay từ thời Thiên hoàng Nhật Bản Mutsuhito lên ngôi (năm 1868) thực hiện cuộc cải cách Minh Trị, quân đội Nhật Bản đã phát triển 2 lực lượng chính là lục quân và hải quân. Với lực lượng này, Nhật Bản đã đánh thắng đế quốc Nga trong cuộc chiến 1904-1905. Ngày 7/12/1941, Hải quân Nhật tập kích vào căn cứ của hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ở Trân Châu Cảng, khiến hạm đội này tê liệt suốt 1 năm. Nói tới Hải quân Nhật Bản trước 1945, không thể không nhắc tới chủ lực hạm Yamato, là soái hạm của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Chiến hạm này có lượng giãn nước 72.800 tấn. Tàu được trang bị 9 pháo hạm cỡ nòng 460mm, loại pháo hạm lớn nhất từng được trang bị trên tàu chiến, tầm bắn 42km. Chỉ tính riêng tháp pháo và 6 khẩu pháo hạm 460mm ở trước mũi đã có tải trọng lên đến 3.000 tấn. Yamato còn có các pháo hạm cỡ “khủng” khác như 155mm, 127mm... Đặc biệt, thân tàu được bọc giáp dày 650mm ở phía trước tháp pháo, thép dày 410mm ở hai bên hông, 200mm ở sàn tàu trung tâm, 230mm ở sàn tàu phía ngoài. Hệ thống động lực của tàu có công suất 150.000 mã lực với 4 chân vịt có đường kính là 6m.
![]() Niềm kiêu hãnh một thời của Hải quân Nhật Bản Yamato tung hoành trên biển. Do chênh lệch về thế lực, nước Nhật và Hải quân Nhật Bản bị quân đồng minh khuất phục. Năm 1944, Hải quân Nhật thiệt hại nặng trong trận Leyte thuộc Philippines. Tháng 4/1945, “kỳ quan” và là biểu tượng của Hải quân Nhật Bản, chiến hạm Yamato, bị bị đánh chìm. Sau khi nước Nhật tuyên bố đầu hàng (tháng 8/1945), lực lượng hải quân một thời làm mưa làm gió trên các đại dương bị buộc phải triệt tiêu. Tái sinh từ “tro tàn” Tháng 5/1948, được sự ủng hộ của Mỹ, Nhật khôi phục lại hải quân với 1,5 vạn quân sĩ, 150 tàu chiến, 50 máy bay, chủ yếu do Mỹ cung cấp. Thế nhưng sau 63 năm, Hải quân Nhật không ngừng phát triển, trở thành lực lượng viễn dương hùng mạnh, với các tàu chiến, tàu ngầm, máy bay… hiện đại. Lực lượng này được ưu tiên đầu tư kinh phí với phương châm coi trọng chất lượng vũ khí với quân số phù hợp và lực lượng dự bị huấn luyện tốt, tập trung nhanh. Từng bị “xóa sổ” sau thất bại trong chiến tranh thế giới 2 (năm 1945), nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản đã đảm nhiệm trang bị cho hải quân nói riêng và quân đội Nhật Bản nói chung với tỷ lệ 95%, đối lập hoàn toàn với con số 18% vào cuối những năm 1940. Ngành công nghiệp đóng tàu của Nhật rất phát triển và có công nghệ đóng tàu đứng đầu thế giới, chiếm 50% hợp đồng trên toàn thế giới. Nhìn chung các tàu chiến và máy bay thuộc Hải quân Nhật Bản trên đều rất mới, có tuổi trung bình chỉ hơn 10 năm, tính năng ưu việt, khả năng cơ động cao. Trong biên chế của Hải quân Nhật Bản có những “thành viên” đáng chú ý như chiến hạm Kongo, Oyashio và Osumi. Khu trục hạm mang tên lửa Kongo thuộc loại tàu chiến cỡ lớn, tốc độ nhanh (lượng giãn nước 7.250 - 9.485 tấn, tốc độ 30 hải lý/giờ), được trang bị 8 tên lửa chống hạm Harpoon. Có kích thước to lớn, chiến hạm này đủ chỗ chứa 90 tên lửa phòng không Standard SM-2 và tên lửa chống ngầm ASROC. Ngoài ra, các vũ khí uy lực khác của Kongo phải kể tới pháo 127mm, 2 pháo bắn nhanh 6 nòng Vulcan-Phalanx, ngư lôi 324mm và sân đỗ cho các trực thăng chống ngầm. ![]() Tàu đổ bộ Oosumi - niềm tự hào mới của Hải quân Nhật Bản hiện đại. Một niềm tự hào khác của Hải quân Nhật Bản là tàu đổ bộ Oosumi (lượng giãn nước 8.900 - 13.000 tấn) có thể chứa 2 trực thăng CH-47j, 3 tàu đổ bộ đệm khí, 10 xe tăng Type-90 cùng 330 lính hải quân đánh bộ. Còn lực lượng tàu ngầm có đại diện tiêu biểu là tàu lớp Oyashio, có lượng giãn nước 1.750 – 3.000 tấn, tốc độ 26 hải lý/giờ, thời gian hoạt động 90 ngày đêm, trang bị 6 ống phóng lôi 533mm, tên lửa đối hạm Harpoon, quân số 69 người. Không dừng lại ở đó, Hải quân Nhật Bản hướng tới phát triển tàu khu trục cỡ lớn (hơn 20.000 tấn), có thể chở máy bay đi biển xa và nâng số tàu ngầm lên 22 chiếc. Trong đó, tàu khu trục cỡ lớn 20.000 tấn được coi là biểu tượng mới của hải quân nước này. ![]() Tàu ngầm tấn công lớp Oyashio. Bên cạnh lực lượng tàu chiến, hải quân Nhật Bản có lực lượng không quân cũng rất đáng gờm với máy bay P-3C vừa làm nhiệm vụ trinh sát vừa có khả năng vũ trang để tham gia chiến đấu; Trực thăng chống ngầm HSS-2B tầm hoạt động 1.200 km, trang bị radar sục sạo ESM ALR-66(V)1, sonar AQS 13/18... Trong tương lai gần, Tập đoàn Kawasaki Heavy Industries (Nhật Bản) vừa chế tạo thành công máy bay cảnh báo P-1, trang bị thiết bị và các máy dò hồng ngoại của Nhật Bản chế tạo, với khả năng trinh sát chống tàu ngầm được đánh giá cao. Đối với vùng biển sâu, P1 có thể nhận dạng tàu ngầm một cách mạnh mẽ, được cho là hơn hẳn máy bay P-3C cùng loại của Mỹ. Truyền thông Nhật Bản đã “phong thánh” cho P-1 là “sát thủ tàu ngầm ghê gớm nhất”. Trong năm 2011, Nhật sẽ trang bị 4 máy bay trinh sát P-1 cho Hải quân phòng vệ, và nỗ lực để có thể thay thế toàn bộ P-3C trong tương lai gần nhất. ![]() Khu trục hạm Kirishima thử nghiệm hệ thống Aegis. Từ "phòng thủ" tới "phản ứng răn đe" Có thành tựu kể trên ngoài việc có sẵn một nền tảng khoa học kỹ thuật với nghị lực và sức sáng tạo được vun đắp từ thời Minh Trị còn phải kể tới việc Nhật Bản có những chính sách phát triển đúng đắn, nắm bắt thời cơ chiến lược để vươn lên. Sau khi hình thái chiến tranh lạnh chấm dứt (năm 1991), nhiều cường quốc mới nổi lên. Do đó, Mỹ không giữ chặt Nhật Bản trong “ô hạt nhân” như trước mà tạo điều kiện để nước này phát triển sức mạnh quân sự nhằm tạo đối trọng với Trung Quốc. Nhật Bản tiếp tục sửa đổi hiến pháp, nhất là điều 9 để tăng cường khả năng tham gia các hoạt động phòng thủ đa phương, tăng cường quyền hạn hạm đội, đối phó chiến tranh quy mô lớn, chú trọng ứng phó tình huống bị chiếm đảo ở xa. Ngày nay, Hải quân Nhật Bản đang thực hiện phương châm chiến lược từ “phòng thủ” sang “phản ứng răn đe”, thực hiện “chủ động tiến công” can thiệp ra bên ngoài, đồng thời, phát triển theo hướng “tinh gọn, đa năng” linh hoạt và hiệu quả, “tích cực tham gia các hoạt động ở Đông Bắc Á và toàn cầu. Hợp tác với Mỹ, Nhật Bản đã tiếp thu và làm chủ hệ thống Aegis, đánh chặn tên lửa đường đạn (BMD). Tháng 11/2011, 2 chiến hạm lớp Kongo và JS Kirishima đã phối hợp với nhau để phá hủy thành công một mục tiêu giả định là tên lửa đường đạn trên bầu khí quyển. Sự kiện này đánh dấu khả năng đối phó hiệu quả với các mối nguy hiểm từ tên lửa đường đạn của Lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản, cùng với Hải quân Mỹ tạo nên lá chắn vững chắc trước mọi nguy cơ với an ninh quốc gia. Như vậy, sau một thời gian lặng lẽ, “chân quân sự” của Nhật Bản đang phát triển tương xứng với “chân kinh tế”, giúp nước này bước mạnh mẽ trở thành cường quốc toàn diện trên thế giới. Hải quân Nhật Bản đảm trách 5 vùng hải quân (Regional District) có quân số: 43.000 người. Lực lượng: Có 21 tàu các loại, gồm 16 tàu ngầm, 44 tàu khu trục và khu trục tên lửa, 10 hộ vệ tên lửa, 25 tàu đổ bộ, gần 80 tàu phục vụ; 330 máy bay hải quân, trong đó có 80 chiếc trinh sát chống ngầm P-3C và 110 trực thăng chống ngầm SH-60J, SH-60K..., 70 máy bay huấn luyện MD-500 MD, MD-500ME... |
Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011
>> Hải quân Nhật Bản: Tìm lại niềm kiêu hãnh
>> Arab Saudi muốn phát triển vũ khí hạt nhân?
Phát ngôn viên chính thức của Lực lượng Tên lửa Chiến lược (SMF) của Nga Sergei ShoArab Saudi sẽ sở hữu vũ khí hạt nhân nếu Iran có được vũ khí đó. Theo báo chí Anh, đó là lời cảnh báo đối với phương Tây do hoàng thân Turki al–Faisal, người được coi là sẽ giữ chức bộ trưởng Ngoại giao đưa ra trong tháng 6. ![]() Hoàng thân Turki al–Faisal. Các chuyên gia của “Báo Độc lập” cho rằng tín hiệu do Turki al– Fêisal đưa ra là phản ứng trước tin tức từ Iran về việc nước này sẽ tăng công suất làm giàu nguyên liệu hạt nhân và vì sự mất ổn định trong khu vực. Lời cảnh báo của hoàng thân Arab Saudi, Al– Fêisal, người đã từng đứng đầu cơ quan tình báo của Vương quốc được đưa ra trước một cử toạ hẹp. Vị hoàng thân này hôm 8/6 đã đến căn cứ không quân Anh Molsuort, nơi các chuyên gia của NATO thu thập và xử lý tin tức về Cận Đông và Địa Trung hải. al–Faisal đã thông báo với các sĩ quan cao cấp của Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương rằng trong trường hợp Iran có bom nguyên tử có thể làm nổ ra xung đột hạt nhân trong khu vực. Hoàng thân đã diễn tả một cách rất ngoại giao: Sự hiện diện của một vũ khí như vậy ở Iran chắc sẽ buộc Arab Saudi thực thi một chính sách có thể dẫn đến những hậu quả khó mô tả và có thể bi đát. Hoàng thân đã không giải thích chi tiết chính sách này nhưng hôm 30/6/2011, báo Guardian của Anh đã trích lời một quan chức cấp cao thân cận với Al– Fêisal cho rằng: “Nếu Iran có vũ khí hạt nhân, chúng tôi sẽ không thể chấp nhận được và chúng tôi sẽ bị buộc phải lấy đó làm gương”. Arab Saudi do gia đình Al–Saud theo phái Suni điều hành, thường xuyên thể hiện sự lo ngại vì tình hình an ninh ở khu vực, nơi Iran theo phái Shia đòi nắm quyền quốc gia dẫn đầu. Nếu tin vào thông tin của mạng WikiLeaks, Quốc vương Arab Saudi, Abdulla năm 2008 đã bí mật ám chỉ với Washington là tất cả các nước vùng Vịnh Persian sẽ tìm kiếm vũ khí hạt nhân nếu Iran có được nó. Liệu Riyadh có thực hiện sự cảnh báo của mình? Phương trình này có mấy ẩn số. Đó là Iran, nước luôn khẳng định là chương trình hạt nhân của mình chỉ phục vụ mục đích hoà bình. Đó cũng là Israel, nước đã nhiều lần vô hiệu hoá nguy cơ hạt nhân tiềm tàng đối với nước mình bằng các đòn tấn công bằng không quân vào lãnh thổ các nước thù địch (Iraq năm 1981 và Sirya năm 2007). TelAviv coi Iran có vũ khí hạt nhân là nguy cơ đe doạ cho sự tồn tại của mình. Cuối cùng là Hoa Kỳ, đồng minh thân cận nhất của Israel, đã mấy năm nay luôn dẫn đầu cuộc vận động nhằm bóp chết chương trình hạt nhân của Iran bằng các biện pháp trừng phạt và không loại trừ phương án dùng vũ lực. Dẫu sao cũng thấy rõ là nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân đang ngày một tăng lên. Các trường hợp của Iraq, Iran, Triều Tiên, Libya cho thấy sự kiểm soát quốc tế đối với việc buôn bán các vật liệu và công nghệ hạt nhân trong khuôn khổ Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân có hiệu quả thấp. Do vậy, các chuyên gia cho rằng vấn đề khí hậu và sự thiếu hụt dự báo được của nhiên liệu hydrocacbon đang trở nên gay gắt định trước sự gia tăng mạnh mẽ năng lượng hạt nhân thế giới trong những thập niên tới, bao gồm cả việc phổ biến các công nghệ của chu trình nhiên liệu hạt nhân và vật liệu hạt nhân. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về năng lượng hoá ra là tấm bình phong thuận lợi cho nhiều nước ở những vùng không ổn định triển khai các chương trình hạt nhân của mình. Theo các phương tiện thông tin đại chúng Arab, Arab Saudi đã có kế hoạch đến năm 2030 xây dựng ít nhất 16 lò phản ứng hạt nhân. Lý do chính thức là để đảm bảo an ninh năng lượng. Tổng giám đốc tập đoàn Các nguồn lực Công nghiệp Nguyên tử Andrei Cherkasenko của Nga tuyên bố với Báo Độc lập: “al–Faisal là một tín hiệu đáng lo ngại, bởi vì đây là sự phổ biến tiềm tàng các công nghệ hạt nhân của thế kỷ trước. Thế kỷ 20 đã tạo ra một số lượng lớn các nhà khoa học thuộc nhiều dân tộc và quan điểm nhưng có đủ tri thức để chế tạo bom nguyên tử”. Theo ông, Vương quốc có nguồn tài chính dồi dào, về mặt lý thuyết, Arab Saudi hoàn toàn có khả năng chế tạo loại vũ khí này. Tuy nhiên, để hiện thực hóa ý đồ thì cần phải có các cơ sở hoá học và làm giàu nguyên liệu hạt nhân mà sự xuất hiện của chúng ở Vương quốc này có thể bị cộng đồng quốc tế phát hiện. Trong những điều kiện nhất định, cộng đồng này khả dĩ có thể ngăn cản sự phát triển nguy hiểm của chương trình hạt nhân của Arab Saudi. Về phần mình, trung tướng Ghennadi Evstafiyev, người từng tham gia thương lượng giải trừ quân bị Liên Xô – Mỹ giả định rằng, có thể, Riyadh sẽ nhờ Pakistan giúp đỡ. Tuy nhiên, ông cho rằng, “Đã nhiều năm Arab Saudi có quan hệ tin cậy với Islamabad. Do vậy, không thể loại trừ là đã đạt được sự thoả thuận nào đó về vấn đề hạt nhân trong những năm 1970 khi Pakistan dưới quyền Zulfikar Ali Bhuto”. Nhưng xem ra Riyadh kỳ vọng một cách vô ích vào Pakistan: Trong trường hợp khẩn cấp Mỹ có thể thực hiện những hành động phòng ngừa nhằm chiếm lấy các mục tiêu hạt nhân của Pakistan. Tuy nhiên, không thể xem xét tuyên bố của Riyadh tách rời khỏi diễn biến chung. Cách đây 10 ngày, Iran đã tiến hành một cuộc thử tên lửa lớn. Iran chuẩn bị phóng vệ tinh vào vũ trụ. Evstafiyev đánh giá việc phóng vệ tinh thành công chứng tỏ tấm bắn của tên lửa Iran đã tăng lên đáng kể. Tương tự Iran dự kiến sẽ chuyển trung tâm làm giàu uranium từ Natanz sang địa điểm khác, nơi sẽ lắp đặt các máy ly tâm mạnh hơn. Sau cùng, Arab Saudi cảm thấy khó chịu trước tình hình các chế độ trong thế giới Arab bị lật đổ. Ghennadi Evstafiyev kết luận: “Riyadh sẽ tăng sức ép chính trị và tinh thần đối với các đồng minh phương Tây của mình để họ phải khẳng định sự ủng hộ bất di bất dịch chế độ hiện nay ở Arab Saudi". [BDV news] |
>> 'Hàng nhái' C-RAM của Trung Quốc ế ẩm
Trung Quốc đã thất bại trong việc xuất khẩu hệ thống vũ khí phòng thủ tầm gần LD-2000. LD-2000 được cho là có thiết kế tương tự với hệ thống C-RAM * (viết tắt của cụm từ “Counter – Rocket and Missile”) của Mỹ. Nó được sử dụng để đối phó với các mục tiêu tầm thấp hoặc là bộ phận của hệ thống phòng không đa lớp cùng với pháo và tên lửa đối không. LD-2000 thiết kế với một pháo phòng thủ tầm cực gần (CIWS) Type 730 7 nòng cỡ 30mm, pháo có tầm độ bắn rất cao 4.600 – 5.800 viên/phút, tầm bắn tối đa 3.000m (hiệu quả tiêu diệt mục tiêu chỉ trong 1.000-1.500m). ![]() Hệ thống vũ khí phòng thủ tầm gần LD-2000. Trung Quốc cải tiến hỏa lực LD-2000 bằng việc thêm vào 6 tên lửa đối không tầm ngắn TY-90 (tầm bắn 300m – 6.000m) lắp hai bên tháp pháo chính. Trên nóc tháp pháo là radar theo dõi Type 347G cùng với hệ thống ngắm nhiệt và thiết bị đo xa laze. Toàn bộ vũ khí và radar đặt trên khung thân xe vận tải bánh hơi WS-2400 – sản phẩm sao chép loại xe MAZ543 của Nga. Hiện nay, Quân đội Trung Quốc mua một vài hệ thống LD-2000 và sử dụng rất hạn chế. Đối với việc xuất khẩu, Trung Quốc đưa LD-2000 ra quảng bá ở nhiều triển lãm quốc phòng trên thế giới nhưng các đối tác chỉ dừng ở việc “quan tâm” hơn là quyết định nhập khẩu. Trong thực tiễn chiến đấu, LD-2000 còn quá ít “kinh nghiệm” so với C-RAM "xịn" của Mỹ. Năm 2006, Mỹ đã đưa C-RAM tới Iraq để bảo vệ “Vùng xanh” (khu vực lớn ở thủ đô Baghdad nơi có nhiều căn cứ quân sự Mỹ). Tại đây, C-RAM đã khá thành công khi đánh chặn hàng trăm quả đạn cối và rocket nhắm vào “Vùng xanh”. (*) C-RAM được thiết kế nhằm làm nhiệm vụ chống đạn rocket và đạn cối bảo vệ căn cứ Quân đội Mỹ ở Afghanistan và Iraq – những nơi mà thường xuyên hứng chịu các cuộc tấn công hàng ngày hàng giờ của lực lượng chống đối. C-Ram gồm một pháo 6 nòng cỡ 20mm có tốc độ bắn 75 phát/giây kết hợp hệ thống kiểm soát hỏa lực cho phép đạt độ chính xác cao. [BDV news] |
>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 5)
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi sâu sắc nghệ thuật tác chiến trên biển, với sự tham gia không chỉ của hải quân mà còn có các quân, binh chủng khác. Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược và lực lượng bộ đội không gian... Thông thường, các hoạt động tác chiến chiến dịch của Liên bang Xô viết trước đây và nước Nga ngày nay có thể do một chiến hạm hoặc một cụm chiến hạm thực hiện, với sự yểm trợ tầm xa của các lực lượng không quân hải quân, không quân và tên lửa chiến lược. Các cường quốc biển phương Tây thường triển khai các chiến dịch trên biển với một cụm tầu hoặc một hạm đội đến nhiều hạm đội với đầy đủ biên chế, bao gồm cả tầu sân bay. Lực lượng hạm đội của Mỹ hoàn toàn có khả năng đáp ứng một cuộc chiến tranh cục bộ hoặc một cuộc xung đột khu vực. ![]() Tàu đổ bộ có boong phóng máy bay cỡ lớn của Hải quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq. Từ góc nhìn về sử dụng lực lượng, có thể xác định được phương án chiển khai một chiến dịch tác chiến biển đại dương. Phương án tác chiến biển – đại dương cũng nằm trong những nguyên tắc tác chiến cơ bản, nhưng với không gian tác chiến rộng lớn hơn, trên vũ trụ, trên không, trên biển – đại dương và dưới biển, đại dương. Các hoạt động tác chiến có thể đơn lẻ như săn ngầm hoặc đồng bộ với mục tiêu chiếm quyền chủ động, nhằm vào các mục tiêu quan trọng về kinh tế, quân sự, chính trị của đối phương, từ các căn cứ hải quân đối phương đến các mục tiêu trên không, trên biển – đại dương. ![]() Khả năng tấn công của tàu ngầm nguyên tử Mỹ trên biển Baren. Đối với các lực lượng Hải quân mạnh, có trong biên chế đầy đủ các phương tiện, từ tầu sân bay đến các loại tầu xuồng chiến đấu, phương thức triển khai các chiến dịch với các mục tiêu khác nhau, từ xung đột vũ trang đến chiến tranh cục bộ trong giai đoạn ngày này thông thường có tính tương đương, (ngoại trừ những hoạt động chống hải tặc). Đó là thời gian chuẩn bị rất kỹ càng, có thể kéo dài nhiều năm đến nhiều tháng cho những hoạt động nghiên cứu vùng nước, địa hình đáy biển, hoạt động tầu thuyền, các sơ đồ bố trí lực lượng của đối phương, chi tiết đến từng mục tiêu, các mục tiêu này sẽ được lập trình trên tất cả các phương tiện trinh sát (vệ tinh, máy bay trinh sát, tầu xuồng trinh sát….. và các phương tiện mang, từ các chiến hạm mạng tên lửa, pháo hạm đến các các máy bay của lực lượng không quân hải quân, các mục tiêu nay sẽ được theo dõi chặt chẽ, đảm bảo chắc chắn không có sự bất ngờ xảy ra khi chiến dịch tiến công được triển khai. Thời điểm triển khai chiến dịch thường được giữ bí mật tối đa, khi giờ công kích đã đến các lực lượng hải quân của các cường quốc biển sẽ đồng loạt tấn công hỏa lực từ tất cả các đơn vị tác chiến như không quân hải quân, chiến hạm, tầu ngầm, lực lượng đặc nhiệm hải quân trên toàn tuyến, trên không, trên biển, các căn cứ bờ biển và trong các trường hợp chiến tranh cục bộ, sẽ đánh sâu vào đất liên, các mục tiêu được tiến công bằng nhiều phương tiện hỏa lực, từ nhiều hướng khác nhau, với yêu cầu trong thời gian ngắn của đợt công kích, các mục tiêu quan trọng phải được chế áp hoặc tiêu diệt. Trong quá trình triển khai chiến dịch, các đơn vị hợp thành của lực lượng hải quân có thể tiếp tục truy quét, tìm diệt các mục tiêu đã được lựa chọn ( tầu ngầm, tầu chiến) hoặc chế áp các đơn vị phòng không, tên lửa, sân bay, bến cảng…với mức độ hỏa lực ngày càng tăng, các đợt tấn công dồn dập …cho đến khi mục tiêu chiên dịch đạt được. Do tính đặc thù của các chiến dịch hải chiến, để phòng thủ không – biển đạt hiệu quả cao, yêu cầu quan trọng đầu tiên trong cả thời chiến lẫn thời bình, đó là khả năng sẵn sàng tác chiến cao độ, bí mật, bất ngờ, tính cơ động cao, khả năng sẵn sàng tham gia chiến đấu cao của các phương tiện, vũ khí trang bị lực lượng hải quân. Việc nghiên cứu kỹ và sâu sắc, hiểu biết thực tế vùng nước, vùng biển, ven biển, tính đặc thù của bờ biển, khả năng ngụy trang che dấu lực lượng, khả năng cơ động, khả năng bố trí các lực lượng phòng thủ hiệu quả là yếu tố vô cùng quan trong trong sự sống còn của lực lượng phòng thủ. ![]() Tổ hợp tên lửa chống tàu Club-K phóng từ tàu chở hàng. Để chống lại các lực lượng hải quân của các cường quốc biển, với công nghệ quân sự hiện đại ngày nay, các lực lượng hải quân liên bang Nga cần quản lý chặt chẽ các vùng nước có khả năng hình thành bàn đạp tiến công, các căn cứ hải quân mà đối phương có thể sử dụng, các phương án đột kích, phản công đánh trả ngay khi đối phương bắt đầu triển khai tấn công, các phương án phòng không, phòng hải hiệu quả nhất, đồng thời phải bố trí sẵn sàng hệ thống phòng thủ bờ biển, vùng nước nông và các hướng phản công hỏa lực từ những căn cứ đã được chuẩn bị sẵn, với những khu vực mục tiêu. Thông thường, mỗi khu vực mục tiêu phải được sự quản lý của nhiều phương tiện hỏa lực hoặc nhiều đơn vị binh chủng như tên lửa, không quân, tầu tên lửa hoặc tầu phóng ngư lôi, các đơn vị đặc nhiệm hải quân, phòng thủ bờ biển. Các hoạt động huấn luyện tác chiến nhằm duy trì và nâng cao sức chiến đấu của các đơn vị phải diễn ra với sự đối kháng thực tế, những hoạt động huấn luyện tác chiến phải được tiến hành trong mội trường khách quan, với góc nhìn từ phía bên kia của lực lượng đối phương có tiềm lực hải quân mạnh và hiện đại, các hoạt động triển khai chiến đấu phải năng động, sáng tạo, nhịp độ triển khai phải nhanh chóng, bất ngờ với yêu cầu cơ động chiến đấu ngày càng cao, áp lực tác chiến càng ngày càng tăng, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các sỹ quan chỉ huy, đặc biệt là các hạm trưởng và các sỹ quan chỉ huy lực lượng phòng không, phòng hải. ![]() Hệ thống radar cảnh báo sớm chiến lược chống tên lửa của Liên bang Nga. Điểm đặc biệt quan trọng trong nghệ thuật chiến dịch không-hải hiện đại là khả năng đảm bảo thông tin và khả năng trinh sát, theo dõi, bám mục tiêu và quản lý chiến trường bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Theo đó, mạng lưới thông tin và truyền thông cần được xây dựng đa tầng, đa điểm, đa dạng, có khả năng chống nhiễu hiệu quả, ngay cả trong trường hợp bị tấn công (bị tấn công vệ tinh trinh sát, hệ thống định vị vệ tinh, hệ thống vệ tinh truyền thông, các trạm thông tin liên lạc, các trạm radar cảnh báo). Để thực hiện được nhiệm vụ này, hệ thống trinh sát, truyền thông phải được tính toán, xây dựng và thử nghiệm trong điều kiện tác chiến hiện đại, với khả năng bị tấn công cao nhất, hệ thống trinh sát, truyền thông và quản lý chiến trường phải biến đổi linh hoạt, chuyển hóa liên tục trong không gian chiến trường phức tạp và và hỏa lực tấn công dầy đặc với độ chính xác cao. ![]() Phân bố lực lượng hải quân viễn dương Trung Quốc. Do tính đặc thù của nghệ thuật chiến dịch trên hải dương, các hoạt động huấn luyện tác chiến thường có thể nhanh chóng chuyển thành các hoạt động tác chiến trên biển, do đó, khái niệm ranh giới về huấn luyện thời bình và chiến đấu thời chiến trong nghệ thuật quân sự hải dương rất mờ nhạt. Các đòn tấn công có thể xuất phát từ bất cứ điểm nào, bất cứ thời gian nào trên toàn bộ các đại dương hoặc vùng biển. Đánh chặn kịp thời và phản công hiệu quả là phương án tốt nhất dành thế chủ động trên chiến trường hải dương. Đó là điểm đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch hải quân và đó cũng là mối quan hệ tương quan chặt chẽ của chiến lược và chiến dịch hải dương. Lý luận về nghệ thuật chiến dịch Nghệ thuật chiến dịch- Một thành phần quan trọng của nghệ thuật quân sự, giải quyết những vấn đề liên quân đế lý thuyết và thực hành huấn luyện tác chiến và tiến hành các hoạt động tác chiến hợp đồng quân binh chủng, tác chiến độc lập cấp chiến dịch, các hoạt động tác chiến của các quân chủng trên những chiến trường khác nhau. Nhưng lý luận và thực tiễn của nghệ thuật chiến dịch được hình thành cơ bản trong Điều lệnh tác chiến hải quân. Những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật chiến dịch là: nghiên cứu tính chất và nội dung của những hoạt động tác chiến. Đề xuất các phương pháp huấn luyện tác chiến và tác chiến trên bộ, trên không và trên không gian vũ trụ, xác định các giải pháp tác chiến chiến dịch với khả năng sử dụng các phương tiện chiến đấu và các lực lượng chiến đấu, đồng thời sử dụng các binh chủng sao cho có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong chiến dịch. Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp, những phương pháp điểu hành các lực lượng tham gia tác chiến, khả năng đảm bảo hậu cần kỹ thuật, yểm trợ hỏa lực, thực tể điều khiển các hoạt động tác chiến của các lực lượng, các quân binh chủng trong các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch. ![]() Sơ đồ tác chiến khối quân sự NATO trên mặt trận Châu Âu. Nghệ thuật chiến dịch nghiên cứu tất cả các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch như tấn công, phòng ngự, tổ chức và thực hiện những hoạt động bố trí, di chuyển, tập trung binh lực trong các chiến dịch và mối tương quan trong quan hệ thay đổi bố trí binh lực trên chiến trường. Nghệ thuật chiến dịch giữ vị trí kết nối giữa nghệ thuật chiến lược quân sự và nghệ thuật tác chiến (chiến thuật). Theo mối quan hệ với chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch giữ vai trò vô cùng quan trọng, nó xác định cho chiến thuật nhiệm vụ và hướng phát triển tiếp theo. Giữa nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật có sự ràng buộc liên kết nhân quả và sự ràng buộc phụ thuộc phả hệ (cha-con). Ví dụ, khi xác định mục tiêu chiến lược của chiến tranh và những phương pháp tiến hành chiến tranh ở các khu vực chiến trường (địa bàn tác chiến) cần phải tính đến khả năng thực tế của các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân chủng và các đơn vị thành viên binh chủng của quân chủng trong điều kiện cụ thể của chiến trường. Tương tự như vậy, khi lên kế hoạch triển khai các chiến dịch, cần tính đến khả năng tác chiến của các đơn vị binh chủng hợp thành, mức độ phát triển của lý luận và thực tiến của nghệ thuật tác chiến chiến dịch. Như vậy trong điều kiện thực tế của chiến trường, kết quả thành công của các hoạt động tác chiến quyết định những thành quả của các hoạt động của chiến dịch, và chiến thắng của các hoạt động chiến dịch ảnh hưởng trực tiếp đến những thành quả đạt được của các mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển chiến tranh và mục tiêu cuối cùng của chiến lược tiến hành chiến tranh. Sự phát triển mạnh mẽ của vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật, khoa học công nghệ đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các lực lượng vũ trang, thay đổi các phương thức điều hành tác chiến, sự liên kết ràng buộc và và mối quan hệ liên kết phụ thuộc giữa nghệ thuật chiến lược quân sư, nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật tác chiến trở nên đa dạng hóa, đa chiều, và năng động hơn. Do nghệ thuật chiến dịch giải quyết những vẫn đề của lý luận và thực tiến huấn luyện tác chiến và tiến hành triển khai các hoạt động tác chiến các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng hoặc các chiến dịch phát triển độc lập của không quân, hải quân và lục quân. Do đó, trong nghệ thuật quân sự nói chung, có thể chia ra được 3 lĩnh vực có liên quan mật thiết là nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của từng quân chủng. ![]() Hệ thống phòng thủ trên tàu chiến hiện đại. Nghệ thuật quân sự của mỗi lực lượng quân chủng xuất phát từ những cơ sở căn bản của mô hình tác chiến lực lượng, yêu cầu của lý luận và thực tiễn chiến đấu, tính đặc thù của cơ cấu tổ chức quân chủng, của môi trường tác chiến, vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, khả năng và năng lực chiến đấu của các đơn vị binh chủng hợp thành của quân chủng. Những quan điểm về nghệ thuật chiến dịch được rút ra từ những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự nói chung. Những điểm mấu chốt là đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu cao của lực lượng và vũ khí trang bị; mạnh dạn, kiên quyết triển khai các hoạt động tác chiến với mục tiêu chiếm và nắm giữ quyền chủ động, sẵn sàng triển khai các hoạt động tác chiến khi địch sử dụng các loại vũ khí thông thường, vũ khí hiện đại và vũ khí có sức hủy diệt lớn; hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra bằng sức mạnh tổng hợp của của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị liên kết phối hợp của các quân chủng, trên cơ sở mối quan hệ tác chiến chặt chẽ của hiệp đồng quân binh chủng; tập trung được lực lượng đột phá chủ lực trên hướng tiến cống chính trong thời điểm quyết định. Áp dụng những nguyên tắc chung trong nghệ thuật chiến dịch phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của chiến trương, nơi diễn ra các hoạt động tác chiến của các đơn vị. Lý luận quân sự của các nước phương Tây không sử dụng thuật ngữ Nghệ thuật chiến dich, các nhà quân sự phương Tây sử dụng khái niệm Nghê thuật tác chiến lớn, hoặc khái niệm nghệ thuật chiến lược nhỏ. Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược và lực lượng bộ đội không gian, các chiến dịch có sử dụng hải quân diễn ra liên tục thời bình như bảo vệ thềm lục địa, lãnh hải, vùng lợi ích, các tuyến vận tải chiến lược đường biển, các hoạt động chống xâm nhập, chống cướp biển đến thời chiến, khi các hoạt động tác chiến diễn ra trên không trên biển, trên đại dương và dưới đại dương, các đòn tấn công từ biển có thể đánh sâu vào đất liền khí sử dụng các tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, không quân hải quân, đồng thời từ đất liền, các lực lượng như phòng thủ bờ biển, tên lửa chiến lược và chiến dịch, tên lửa phòng không S-500 hoàn toàn có khả năng tấn công các mục tiêu trên biển và trên các đại dương. Hỏa lực của một tầu chiến lớp khu trục có khả năng gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị phòng thủ biển đảo mà không cần đòn tấn công của một liên đội tầu, hỏa lực của một tầu ngầm nguyên tử có khả năng tấn công hầu hết các mục tiêu chiến lược trên đất liền của cả một đất nước. Do đó, các nguyên tắc hải chiển sẽ có những thay đổi rất nhiều, vấn đề đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng hài quân được đặt lên một tầm cao mới, đó là khả năng huấn luyện, diễn tập thực binh và thực hiện những hoạt động đa nhiệm như tuần biển, trinh sát địa hình đáy biển, dòng chảy, thực hành những hoạt động cứu hộ biển và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của các loại tầu trên biển và đại dương, dưới biển (huấn luyện chống ngầm và chống ngầm). Để đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị hải quân thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, tuần tiễu hoặc cùng với lực lượng cảnh sát biển, biên phòng duyên hải được tổ chức triển khai tương đương như những hoạt động tác chiến cấp chiến dịch, với biên chế đầy đủ vũ khí trang bị và mức độ sẵn sàng chiến đấu cao nhất. [BDV news] |
Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011
>> 'Lính gác trời' của quân đội Ấn Độ
Ấn Độ vẫn thực hiện chương trình chế tạo các loại tên lửa có điều khiển bất chấp những rào cản về tài chính và những phản ứng tiêu cực từ các quốc gia khác. Mục đích chiến lược của chương trình này là chế tạo và phát triển trung tâm sản xuất và nghiên cứu – khoa học, bảo đảm chế tạo các loại tên lửa hiệu quả nhất cho các lực lượng vũ trang đất nước. Theo đơn đặt hàng của lực lượng không quân, tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung Akash đã ra đời vào những năm 1980 và được sản xuất hàng loạt. Nó dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên không trong điều kiện đối phương sử dụng các phương tiện chế áp vô tuyến chủ động. Tổ hợp cho phép bảo vệ các mục tiêu và các đơn vị quân đội. Tổ hợp gồm bệ phóng (3 tên lửa có điều khiển Akash), radar đa năng Rajendra (trang bị anten mảng pha), trạm điều khiển, thiết bị hỗ trợ. Tất cả các thành phần của tổ hợp tên lửa phòng không được bố trí trên khung xe chiến đấu bộ binh BMP-2. ![]() Bệ phóng của tổ hợp Akash Về hình dạng bên ngoài và kết cấu, tên lửa phòng không có điều khiển Akash tương tự tên lửa thuộc tổ hợp tên lửa tầm trung Club của Nga. Phần đuôi tên lửa lắp đặt cánh phụ, có chức năng thay đổi độ nghiêng của tên lửa. Tên lửa có thể đạt vận tốc gần 500m/giây chỉ trong vòng 4,5giây, sau đó động cơ RPD tăng tốc lên gấp đôi trong khoảng thời gian chỉ 30 giây. Động cơ RPD sử dụng nhiên liệu rắn, thành phần gồm nitrat xenlulo, nitroglixerin, magie bột. Ôxy khí quyển được sử dụng như là một chất ôxy hóa. Tên lửa phòng không có điều khiển được trang bị đầu đạn nổ mảnh (trọng lượng gần 60kg) với cự ly văng mảnh gần 20m. Việc kích nổ đầu đạn được tiến hành bởi đầu nổ xung hiệu ứng dopler vô tuyến hoặc tiếp xúc. Trong tổ hợp Akash sử dụng phương pháp điều khiển hỗn hợp tên lửa có điều khiển: điều khiển bằng mệnh lệnh ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối quỹ đạo bay, điều khiển bằng radar bán chủ động ở giai đoạn cuối quỹ đạo bay (khoảng 3-4 giay trước khi gặp mục tiêu). Tên lửa được trang bị bộ thu nhận tín hiệu điều khiển và máy phát. Anten của các thiết bị này được bố trí ở cánh đuôi. Bệ phóng tự hành của tổ hợp có chức năng vận chuyển, bảo quản và phóng tên lửa Akash. Với mục đích giảm trọng lượng, kết cấu các thành phần chính của bệ phóng được chế tạo từ hợp kim nhôm. Một máy phát tuabin khí chạy dòng điện xoay chiều 3 pha với tần số 400Hz (điện áp 200 và 115V) được sử dụng để bảo đảm bệ phóng hoạt động. Bệ phóng theo chiều dọc (8 - 60°) và chiều ngang (360°). Bệ phóng được trang bị thiết bị điều khiển, liên kết trắc địa và định hướng, máy thu của hệ thống dẫn đường vô tuyến vũ trụ NAVSTAR. Thiết bị này được chế tạo dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Mỹ và được sản xuất ở bởi các nhà máy của Ấn Độ. ![]() Trạm radar đa năng Rajendra. Radar đa năng Rajendra bảo đảm sục sạo, đánh chặn và tự động bám các mục tiêu khí động học ở cự ly đến 60km, xác định nguồn gốc mục tiêu và dẫn hướng 4 trong số các tên lửa trong điều kiện bị đối phương chế áp vô tuyến mạnh. Radar được tích hợp hệ thống kiểm soát hoạt động và xác định hỏng hóc. ![]() Phóng thử nghiệm tên lửa Akash. Trạm điều khiển điều phối hoạt động của tất cả các thành phần thuộc tổ hợp tên lửa phòng không; tiến hành thu thập, xử lý thông tin nhận được từ radar Rajendra và bệ pháo tự hành; bám đến 64 mục tiêu đồng thời; đánh giá mức độ nguy cơ; xử lý các dữ liệu bắn và điều khiển tên lửa… Quá trình hoạt động tác chiến được tự động hóa tối đa nhờ vào việc sử dụng tổ hợp máy tính kỹ thuật số siêu nhanh, kết nối với các vị trí làm việc của chỉ huy và trắc thủ. Trạm điều khiển có thể làm việc độc lập hoặc trong chế độ tập trung. Một đơn vị vận hành tổ hợp tên lửa phòng không Akash (cấp đại đội), được trang bị 4 bệ phóng, 1 trạm radar đa năng Rajendra và trạm điều khiển. Đại đội này có thể thuộc thành phần tiểu đoàn hoặc tác chiến độc lập. Tiểu đoàn – đơn vị chiến thuật chính của tổ hợp, gồm 8 đại đội hỏa lực. Khi tác chiến độc lập, đại đội sẽ được bổ sung thêm radar 2 tọa độ quan sát trên không. Các đặc tính kỹ - chiến thuật: Cự ly bắn tối đa: 27km Cự ly bắn tối thiểu: 3km Vận tốc tối đa của mục tiêu: 700m/s Số lượng các mục tiêu bắn đồng thời: 4 Thời gian phản ứng: 15 giây Trọng lượng của tên lửa: 700kg [BDV news] |
>> ‘Leopad 2A7+’ biến Trung Đông thành chảo lửa?
Cuối tháng 6/2011, trong một cuộc họp kín Hội đồng An ninh Liên bang Đức đã thông qua quyết định bán cho Arab Saudi hơn 200 xe tăng Leopad 2A7+. Quyết định này đã bị chỉ trích gay gắt không chỉ từ phe đối lập trước hết là Đảng Đối lập Dân chủ Xã hội (SPD) và Đảng Xanh mà còn từ phía các thành viên của các Đảng cầm quyền CDU/CSU và FDP. Như vậy, tương lai của hợp đồng trị giá nhiều tỷ USD vẫn còn là một đám mây mù, tuy nhiên một trong các nguồn tin thân cận từ Chính phủ Arab Saudi cho biết, tối thiểu nước này sẽ nhận được 44 xe tăng từ Đức. Còn về phần mình, Chính phủ Đức hiếm khi đưa ra bình luận về sự kiện trên. Mới đây, Tạp chí Spiegel cho hay Đức đã đồng ý bán cho Arab Saudi các xe tăng mới nhất của nước này Leopad 2A7+. Tạp chí khẳng định, với việc thông qua hợp đồng, Chính phủ Đức đã từ bỏ chính sách vốn bị “trì trệ” kéo dài trong hàng chục năm gần đây (không cung cấp cho Hoàng gia Arab Saudi các loại vũ khí hạng nặng). ![]() Mới đây, Chính phủ Đức đã quyết định bán hơn 200 xe tăng Leopard 2A7+ cho Arab Saudi Quan hệ địa chính trị phức tạp Riyadh quan tâm đến Leopard từ đầu những năm 1980. Tuy nhiên, Chính phủ Đức lúc đó, dưới sự cầm quyền của ông Helmut Schmidt đã từ chối cung cấp lô hàng này cho Arab Saudi một phần vì quan ngại cho “số phận” của Israel. Trong giai đoạn này, Arab Saudi có thái độ chống Nhà nước Do Thái. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo ở Iran, gia đình Hoàng gia Arab Saudi lo ngại, tinh thần cách mạng Hồi giáo dòng Shiite từ Iran sẽ tràn sang Arab Saudi, trọng tâm là khu vực phía đông, nơi đang tiến hành khai thác dầu mỏ. Đồng thời, Mỹ cũng muốn có đồng minh thân cận mới cho mình tại khu vực Vịnh Ba Tư. Sự lựa chọn này chính là Arab Saudi. Chính vì vậy, 2 nước đã có mối quan hệ kinh tế và chính trị khá thân thiết chặt chẽ. Arab Saudinày chuyển nhượng dầu cho các Công ty Standard Oil và Texas Oil của Mỹ. ![]() Quyết định bán xe tăng Leopard 2A7+ của Chính phủ Đức đang gây nhiều dư luận trái chiều Đến năm 1980 ở Arab Saudi có khoảng 300.000 chuyên gia quân sự Mỹ. Quân đội nước này đã được hiện đại hóa đến tận gốc, các cơ sở hạ tầng quốc phòng được xây dựng. Năm 1981, Mỹ đã đồng ý bán cho Arab Saudi 5 máy bay cảnh báo sớm đường không AWACS trị giá 5,5 tỷ USD. Trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh vùng Vịnh (năm 1990), theo yêu cầu của vua Fahd, 200.000 quân đội Mỹ trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu đã được điều đến Arab Saudi. Những người truyền đạo ở Mecca viết rằng: “Iraq đánh chiếm Kuwait, Mỹ đánh chiếm Arab Saudi”. Trong các điều kiện này, cần phải nhận thấy rằng Arab Saudi có khuynh hướng đối đầu với Israel là không thể. Ngược lại, Arab Saudi và Israel có kẻ thù chung là Iran và mối nguy cơ chung là dòng Shiite ở các nước Iran, Iraq và Hezbolla của Lebanon. Tình hình có thể sẽ còn tồi tệ hơn sau quyết định cuối cùng về việc Mỹ rút quân khỏi Iraq: Đất nước mà sau khi lật đổ Saddam Hussein đã đặt dưới sự kiểm soát của đa số người dòng Shiite, có thể chịu sự ảnh hưởng của Iran. Chính trường Đức bất đồng vì hợp đồng bán Leopard Về vấn đề này, nhiều nhà quan sát Đức nhận thấy, Arab Saudi cần các xe tăng mới không phải để chống lại Israel mà là phòng thủ trước mối nguy cơ tiềm tàng là Iran. Nếu xét đến sự cô lập và trừng phạt quốc tế nhằm ngăn chặn chương trình phát triển hạt nhân của Iran thì “hành động” Đức bán hơn 200 xe tăng mới cho Arab Saudi được phương Tây coi là chính đáng và hợp pháp. Việc phản đối có thể giải thích bằng các cuộc đấu tranh cụ thể giữa các Tập đoàn quốc phòng vì thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, nhiều nhà chính trị Đức cho rằng, hiện nay chính phủ của họ cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Tổng thư ký SPD, bà Andrea Nales tuyên bố rằng, hợp đồng cung cấp Leopad không có điều gì chung với chính sách đối ngoại trên cơ sở giá trị dân chủ. Theo lời bà, Arab Saudi đang ở tâm điểm khu vực có nguy cơ bùng nổ và “không nhất thiết phải mang que diêm cháy đặt cạnh thùng thuốc nổ”. Chuyên gia phụ trách vấn đề đối ngoại thuộc SPD cho rằng, Đức không cần phải bán vũ khí (xe tăng) cho chế độ ở Arab Saudi bởi họ có thể sử dụng các cỗ máy tác chiến này chế áp các cuộc biểu tình của nhân dân. Đồng Chủ tịch Đảng Xanh Claudia Roth gọi hợp đồng này “thảm họa” đối với chính sách đối ngoại của Đức. Chính vì vậy, Đảng SPD và Đảng Xanh đã yêu cầu cuộc điều trần quốc hội về vấn đề này. ![]() Có thể nói rằng, vũ trang hóa cho Arab Saudi trước ngưỡng cửa có thể xảy ra cuộc xung đột quân sự với Iran là hết sức quan ngại ở Trung Đông Trong Chính phủ của Thủ tướng Angela Merkel có nhiều người ủng hộ chống lại cáo buộc trên nhưng cũng có người lại im lặng. Ngoại trưởng Đức Westerwelle tuyên bố, Hội đồng An ninh Liên bang (gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, những người đứng đầu các Bộ, Ngành…) đã xem xét hợp đồng với Arab Saudi khá khiêm túc và tính đến các vấn đề không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì trách nhiệm dân sự. Người phát ngôn của Thủ tướng Đức, ông Stefan Seibert từ chối tiết lộ bất kỳ các chi tiết nào liên quan đến việc cung cấp Leopard cho Arab Saudi với những lý do riêng. Ông chỉ cho biết, thực hiện hợp đồng này Chính phủ Đức đã tính đến các lợi ích của Israel và hứa sẽ thông báo trong bản báo cáo thường niên về xuất khẩu vũ khí của chính phủ nếu hợp đồng này thành công. Chính phủ và các nhà bình luận tranh cãi rất gay gắt với những quan điểm khác biệt. Lực lượng đối lập tỏ ra quan ngại cho an ninh của Israel, đồng thời cho rằng, việc cung cấp xe tăng cho Chính phủ Arab Saudi giúp nước này đối phó với “mùa xuân Arab” tại Bahrain, tiếp tay cho chính phủ Bahrrain đàn áp người biểu tình đòi thay đổi chính trị. Hãng tin Reuters cho biết, những người đứng đầu phe CDU/CSU chiều ngày 4/7 đã tổ chức một cuộc họp kín bày tỏ quan điểm chống lại việc bán xe tăng cho Arab Saudi bởi họ cho rằng, vấn đề này cần phải phải tính đến nhân quyền. Tuy nhiên, nhà bình luận Welt Clemens Wergin cho rằng, việc cung cấp xe tăng cho Arab Saudi có thể sẽ kìm hãm cuộc chạy đua hạt nhân tại Vịnh Ba Tư. “Có thể tránh được các cuộc chạy đua vũ trang nếu giúp Arab Saudi tiến hành chính sách đe dọa nhờ sự vượt trội áp đảo về các loại vũ khí thông thường”, nhà bình luận Clemens Wergin nói. Cuối tháng 6/2011, Hoàng tử Turki al-Faisal ám chỉ Arab Saudi không thể cho phép mình thiếu các phương tiện kiềm chế các trường hợp Iran sở hữu vũ khí hạt nhân. Trợ lý của Hoàng tử Turki al-Faisal trả lời phỏng vấn của báo The Guardian (Anh) nói: “Chúng tôi không cho phép nước mình lâm vào tình trạng thụ động, khi Iran có bom mà chúng tôi không có”. Các đặc tính của Leopard 2A7+ Dài 10,97m, rộng 4m, cao 2,64m; Công suất động cơ: 1.500 mã lực; Vận tốc: 72km/h; Phạm vi hoạt động: 450km; Vũ khí: pháo nòng trơn 120mm L55, súng máy 12,7mm hoặc súng phóng lựu 40mm, súng máy đồng trục 7,62mm; Cự ly tiêu diệt mục tiêu khi hành tiến: 2.500m; Kíp xe: 4 người; [BDV news] |
Nhãn:
Chiến tranh vùng Vịnh,
Chính phủ Đức,
Hoàng tử Turki al-Faisal,
Hội đồng An ninh Liên bang Đức,
Leopard 2A7+ tank,
Thủ tướng Angela Merkel,
Vịnh Ba Tư
>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 4)
Sự phát triển tiếp theo của Hải quân đã gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, tiềm lực kinh tế. ![]() Lực lượng chủ lực của Hải quân xô viết bao gồm các tàu ngầm nguyên tử và không quân hải quân, được trang bị chủ yếu là tên lửa và ngư lôi hiện đại. Trong ảnh, tuần dương hạm tên lửa Moscow thuộc Hạm đội Biển Đen. Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự tiên tiến, đặc biệt là tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo với các đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học và nhiệt áp đã làm thay đổi căn bản nghệ thuật quân sự hải quân, hạm đội có thể tấn công đối phương trên toàn bộ diện tích lãnh thổ, tấn công các hạm tàu trên nhiều điểm khác nhau, tấn công các căn cứ hải quân với khoảng cách đến hàng ngàn km, các đòn tấn công của hạm đội có khả năng tiêu diệt các mục tiêu chiến lược của đối phương và các mục tiêu trong hải chiến tầm xa. Nghệ thuật quân sự hải quân đã mang ý nghĩa chiến lược trong sử dụng hạm đội, đồng thời mang ý nghĩa chiến dịch trong xung đột khu vực, đấu tranh vũ trang trên biển. Những phương thức chiến thuật và kỹ thuật tác chiến mới được hình thành và phát triển trong nội dung chiến dịch sử dụng binh chủng hợp thành: binh chủng tàu ngầm có trang bị tên lửa và ngư lôi, không quân hải quân, các chiến hạm nổi các lớp từ tuần dương, khu trục, tàu phóng lôi, rải và quét mìn,…các đơn vị hải quân đánh bộ, lính thủy đánh bộ trong các chiến dịch và các trận hải chiến. Đồng thời các giải pháp mới cũng được triển khai nhằm duy trì và phát triển sức mạnh của hải quân, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng đánh chặn mọi cuộc tấn công của kẻ thù, hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược và chiến thuật mà nhà nước, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giao phó. Nét đặc sắc trong quan điểm tác chiến hải quân Anh, Mỹ Nghệ thuật quân sự hải quân của các hạm đội Mỹ, Anh, Pháp và các nước khác, trọng tâm được chú ý đến là những phương án, kỹ chiến thuật tác chiến biển sâu của các tàu ngầm, những phương án kỹ chiến thuật tấn công từ tàu sân bay trong một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực hoặc hạn chế, đồng thời xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột khu vực. Các chuyên gia hải quân có quan điểm cho rằng, kết quả của các nhiệm vụ tác chiến trên biển và đại dương phụ thuộc vào hiệu quả chiến đấu chống ngầm, do đó, Anh, Mỹ và các nước trong khối NATO tập trung vào nghiên cứu phương pháp đấu tranh chống các tàu ngầm nguyên tử, có trang bị tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân. Phương án tác chiến là triển khai các chiến dịch lớn với các loại vũ khí trang bị của hạm đội trên các tuyến chiến đấu chống tàu ngầm hoặc các khu vực tàu ngầm đối phương triển khai sẵn sàng chiến đấu. Không gian hải chiến chống tàu ngầm sẽ được diễn ra tại các khu vực tác chiến nhiều chiều, trên không, trên biển, đại dương và cuộc săn đuổi của các tàu ngầm. ![]() Mô phỏng chiến trường săn đuổi và chống ngầm. Ngày nay, các cường quốc quân sự hải dương rất quan tâm đến các đòn tấn công hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc nhiệt áp vào các căn cứ hải quân, tàu ngầm đối phương. Không quân hải quân triển khai các hoạt động tác chiến, tiến hành chống ngầm trên khu vực tàu ngầm đối phương tiến ra biển hoặc trong khu vực có sử dụng lực lượng tác chiến hiệp đồng không - hải quân. Lực lượng hải quân Mỹ xây dựng các đơn vị chuyên trách chống ngầm, các lực lượng này có thể tác chiến trong khu vực xảy ra hải chiến, hoặc tác chiến phục kích, tập kích chiến lược ngay tại vùng vịnh , cửa biển của đối phương. ![]() Mô phỏng hệ thống phòng thủ biển của Hải quân Trung Quốc. Như vậy, quá trình lịch sử phát triển của nghệ thuật quân sự hải quân cho thấy, lực lượng Hải quân từ nhiệm vụ yểm trợ và tác chiến độc lập, đã hình thành lực lượng tác chiến mang tính chiến lược, chiến lược hải quân thời bình và thời chiến phản ánh trung thành đường lối chính trị của quốc gia, dân tộc với mục tiêu phát triển và bảo vệ lợi ích biển, đại dương. Chiến lược phát triển và sử dụng hải quân phụ thuộc vào đường lối phát triển kinh tế và đối ngoại, nhưng có ý nghĩa quyết định trong nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của quốc gia. [BDV news] |
Nhãn:
Hải quân Anh,
Hải quân Liên Xô,
Hải quân Trung Quốc,
Hạm đội Biển Đen,
Hệ thống phòng thủ biển,
Nghệ thuật quân sự Hải quân,
Tuần dương hạm Moscow
>> Trung Quốc là đối tượng chiến lược quân sự của Australia
Chiến lược quân sự của Australia chuyển hướng tập trung về phía tây bắc, với mục đích bảo vệ khu vực biển nhiều dầu mỏ và chuẩn bị sẵn nếu phải đối đầu với Trung Quốc. Bộ trưởng bộ quốc phòng Australia Stephen Smith đã tuyên bố kế hoạch đánh giá lại học thuyết quân sự và cho biết những nguy cơ mới sẽ quyết định khí tài quân sự mà quốc gia này sẽ mua. Theo tờ Herald của New Zealand, Australia đang mua máy bay chiến đấu, tầu đổ bộ tấn công cỡ lớn. “Tất cả những nguy cơ và đe dọa an ninh đều đến từ phía bắc, khi mà khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang phát triển và tầm quan trọng của Ấn Độ Dương cũng đang tăng lên. Trong Thế chiến thứ 2, chúng tôi xếp Townsvill, Cairns, Darwin và Perth là phòng tuyến thứ hai. Nhưng điều đó không còn phù hợp trong hiện tại”, ông Smith phát biểu. Một trong những mục đích quan trọng nhất của quân đội Australia hiện nay là bảo vệ trữ lượng dầu mỏ và khí tự nhiên ở bờ biển phía tây bắc và chống khủng bố tại biển Timor. Dự kiến, Australia sẽ đầu tư 245 tỷ USD để khai thác trữ lượng dầu mỏ và khí tự nhiên khổng lồ này. ![]() Vùng biển phía tây bắc của Australia chứa nhiều dầu mỏ và khí đốt. Nhiệm vụ lớn tiếp theo là giám sát sức mạnh quân sự của Hải quân Trung Quốc. Bởi gần đây, nước này có thái độ bành trướng và áp đặt đối với các quốc gia láng giềng, đặc biệt trên quần đảo Trường Sa, khiến cho giới chức quân sự Australia lo lắng, nguồn tin thông báo. Những hành động gây hấn của Trung Quốc khiến các quốc gia khác cùng tuyên bố chủ quyền tại quần đảo Trường Sa như Việt Nam, Malaysia, Bruinei, Philippine sẽ được lưu ý trong quá trình đánh giá lại chiến lược quân sự của Australia. [Vitinfo news] |
Nhãn:
Bao vây Trung Quốc,
Châu Á – Thái Bình Dương,
Quần đảo Trường Sa,
Quân đội Australia,
Quân đội Trung Quốc,
Stephen Smith,
Thủ tướng Australia Julia Gillard
>> Sức mạnh Hạm đội Thái Bình Dương của Nga
Ra đời sớm nhất trong các hạm đội thuộc Hải quân Nga, với trang thiết bị vũ khí ngày càng hiện đại, Hạm đội Thái Bình Dương được coi là lực lượng cơ động chiến lược. Lực lượng này sẽ giúp Moskva duy trì lợi ích và tăng cường ảnh hưởng đối với châu Á – Thái Bình Dương. Ngày 21/5/1731, Thượng viện Nga quyết định thành lập đội tàu quân sự tại cảng Okhotsk với nhiệm vụ ban đầu là bảo vệ bờ biển, hải đảo và thám hiểm ở vùng Viễn Đông. Đây chính là tiền thân của Hạm đội Thái Bình Dương hùng mạnh ngày nay. Vươn dài ảnh hưởng Căn cứ chính của Hạm đội Thái Bình Dương hiện đặt tại Vladivostok. Dù chủ yếu đứng chân trên địa bàn châu Á – Thái Bình Dương, nhưng có thể nói nhiệm vụ của Hạm đội Thái Bình Dương được xác định rõ ràng trên phạm vi toàn cầu. Thứ nhất, duy trì lực lượng hạt nhân chiến lược luôn ở tình trạng sẵn sàng cho hành động răn đe. Thứ 2, bảo vệ các khu kinh tế và trung tâm công nghiệp, chặn đứng những hoạt động phi pháp. Thứ 3, đảm bảo an toàn giao thông hàng hải. Thứ 4, triển khai các hoạt động mang tính đối ngoại của Chính phủ trên các vùng biển thế giới như tham gia tập trận chung quốc tế, gìn giữ hòa bình... Trong chương trình hiện đại hóa quốc phòng đầy tham vọng với tổng ngân sách 650 tỷ USD vừa được Moskva công bố tháng 3 vừa qua, Hạm đội Thái Bình Dương được nhận tới ¼ ngân sách mua sắm trang thiết bị. Theo đánh giá của giới phân tích, một trong những lý do Nga bỏ tiền hiện đại hóa Hạm đội Thái Bình Dương là muốn chứng tỏ rằng họ vẫn có lợi ích quốc gia ở những khu vực địa chiến lược thuộc châu Á – Thái Bình Dương. ![]() Hải quân Nga tập trận ở Thái Bình Dương. Thực tế cho thấy: Hạm đội Thái Bình Dương được đặc biệt quan tâm để vươn dài tầm ảnh hưởng của Moskva không chỉ ở châu Á – Thái Bình Dương mà trên toàn cầu. Vì thế, tính đến tháng 5/2010, hạm đội này đã được biên chế các đội tàu hiện đại và hùng mạnh nhất: 3 tàu ngầm nguyên tử tuần dương mang tên lửa chiến lược, 5 tầu ngầm nguyên tử mang tên lửa hành trình, 8 tầu ngầm thông thường (trong đó có 6 tầu ngầm lớp Kilo thuộc dự án 636), 1 tầu tuần dương mang tên lửa điều khiển Varyag, 2 tầu tuần dương, 8 tầu khu trục lớn, 7 tầu tên lửa nhỏ và 32 tầu chiến hoạt động gần bờ... Ngày 27/3, hãng tin RIA còn loan báo rằng: tuần dương hạm mang tên lửa hành trình Ustinov của Hạm đội phương Bắc năm 2013 có thể được chuyển đến Hạm đội Thái Bình Dương nhằm tăng cường sức mạnh chiến đấu. Không quân hải quân trong biên chế của hạm đội Thái Bình Dương có các máy bay ném bom chiến lược tầm xa Tu-22M3, Tu-142 Bear F, tiêm kích đánh chặn nhanh nhất thế giới hiện nay MiG-31 và các loại máy bay chống ngầm như Ka-27 Helix D, Ka-31 May và máy bay IL-38. Phòng không trên bờ là những tên lửa S-300P hiện đại. Những “quả đấm thép" Với khả năng bí mật và triển khai nhanh chóng, tấn công mạnh mẽ và bất ngờ từ dưới đại dương đến các mục tiêu trên biển và đất liền ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đội tầu ngầm nguyên tử được coi là “quả đấm” thép của hạm đội. Chúng được trang bị tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân, hệ thống định vị sonar cực mạnh và vũ khí có độ chính xác cao. Đội tàu này liên tục có mặt ở những vùng biển khác nhau trên đại dương, sẵn sàng tác chiến ngay lập tức như một mũi chủ công chiến lược. ![]() Tàu ngầm mang tên lửa chiến lược Petropavlovlovsk. Trong số đó, tàu ngầm tuần dương mang tên lửa chiến lược Petropavlovlovsk là tàu ngầm nguyên tử thế hệ thứ 2 thuộc dự án 667BDR Kalmar. Được đưa vào biên chế trong hạm đội từ năm 1979, với thủy thủ đoàn 130 người, tàu Petropavlovlovsk có thể hoạt động ở tốc độ 14 hải lý/giờ trên mặt nước và 24 hải lý/giờ dưới nước, với độ sâu tối đa 560m và liên tục trong 90 ngày. Vũ khí cơ bản trên tàu là 16 quả ngư lôi hoặc 24 quả mìn, 16 thiết bị phóng tên lửa đạn đạo R-29P (PCM-50) và 2 tổ hợp tên lửa phòng không Strela-2M. Còn tàu ngầm lớp Kilo thuộc dự án 636 có nhiệm vụ chống tàu chiến và chống tàu ngầm ở những vùng biển nước nông. Loại tàu ngầm, chuẩn bị được biên chế trong Hải quân Nhân dân Việt Nam, này được ví như “sát thủ vô hình” dưới biển, bởi nó là một trong những loại tàu ngầm diesel êm nhất thế giới. Nó có thể phát hiện ra một tàu ngầm khác ở khoảng cách xa gấp 3-4 lần trước khi bị đối phương phát hiện. Hiện Bộ Quốc phòng Nga có kế hoạch biên chế tàu ngầm đầu tiên thuộc dự án 955 “Yuri Dolgoruky” cho Hạm đội Thái Bình Dương. Đây là tàu ngầm hạt nhân chiến lược mang tên lửa đạn đạo xuyên lục địa hiện đại nhất Bulava. Sau lần phóng thử thành công thứ 15 gần đây, Bulava đã được quyết định sản xuất hàng loạt. Biểu tượng sức mạnh Trong lực lượng tàu mặt nước hùng hậu của Hạm đội TBD đáng gờm nhất là kỳ hạm Varyag mang tên lửa có điều khiển. Được coi là biểu tượng sức mạnh trên mặt biển không chỉ của hạm đội mà còn cả hải quân Nga, Varyag bắt đầu phục vụ tại Hạm đội Thái Bình Dương năm 2008. ![]() Kỳ hạm Varyag. Với tư cách là chiến hạm hạng nhất, tàu được trang bị hệ thống vũ khí cực mạnh và đầy uy lực: tên lửa chống hạm tầm xa P-500 Bazalt cải tiến (SS-N-12 Sandbox theo NTAO) tầm bắn lên đến 550km, tên lửa được dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động. Các tham số về mục tiêu trong hành trình bay được hiệu chỉnh thông qua việc kết nối dữ liệu với máy bay Tu-95D hoặc trực thăng Ka-27B. Không những thế, Varyag còn được trang bị hệ thống tên lửa đối không tầm xa hiện đại S-300F với số lượng lên đến 64 quả. Hệ thống tên lửa này có khả năng chống nhiễu cao và tiêu diệt máy bay ở cự ly 200km, tên lửa đạn đạo ở 40km. Ngoài ra còn có một số tên lửa đối không phản ứng nhanh, pháo hạm đa năng, pháo siêu nhanh, hệ thống radar tìm kiếm mục tiêu tầm xa đa chức năng 3D MR-800, radar tìm kiếm mục tiêu trên không MR-710 Fregat-MA và một số hệ thống điện tử hiện đại khác. Hải quân Nga là một trong lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới với hơn 140.000 quân nhân và 600 tàu chiến. Chiến lược mới của Hải quân Nga là tập trung ngân sách cho việc mua sắm trang bị theo hướng loại bỏ các tàu mặt nước quá cũ, tăng cường khả năng chiến đấu của các tàu tuần dương hạng nặng chạy bằng động cơ hạt nhân mang tên lửa chiến lược (TARKR), tàu ngầm chiến lược... [BDV news] |
Nhãn:
Chính phủ Nga,
Hải quân Nga,
Hạm đội Biển Đen,
Hạm đội phương Bắc,
Hạm đội Thái Bình Dương,
Kỳ hạm Varyag,
Tàu ngầm Petropavlovlovsk,
Thủ tướng Putin
>> 'Đặc nhiệm lục quân', niềm tự hào của Hàn Quốc
Trong hàng chục thập kỷ gần đây, Seoul đã thành lập nhiều đơn vị tác chiến đặc biệt thuộc vào dạng tinh nhuệ nhất thế giới. Một trong các lực lượng này của Hàn Quốc đầu tiên phải kể đến lực lượng đặc nhiệm lục quân. Lịch sử thành lập Đơn vị đặc nhiệm đầu tiên của Hàn Quốc được thành lập trong những năm 1950, được sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc. Thời gian đầu, đây là một đơn vị dù đặc nhiệm bí mật, có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động “luồn sâu” vào hậu phương của Triều Tiên, tiến hành đột và biệt kích, cũng như thu thập các tin tức tình báo. ![]() Lực lượng đặc nhiệm lục quân Hàn Quốc được coi là một trong những lực lượng tác chiến tinh nhuệ nhất thế giới Đến năm 1958, đơn vị này và một số đơn vị khác (được thành lập trong những năm chiến tranh) được biên chế trong thành phần của trung đoàn đổ bộ dù. Sau đó, vào năm 1972 dưới sự huấn luyện của Mỹ, binh đoàn đặc nhiệm thường trực đã được thành lập. Binh đoàn này gồm Lữ đoàn dù 1,5 và 3 tiểu đoàn đột kích. Một vài trong số các đơn vị này cùng với các binh lính Mỹ đã tham gia chiến tranh tại Việt Nam. Giữa những năm 1970, các đơn vị đột kích và lữ đoàn dù đã hợp nhất thành lữ đoàn đặc nhiệm. Sau đó, do xung đột giữa hai miền Triều Tiên nên quân số của lực lượng đặc nhiệm nước này tăng đáng kể. Thành phần Hiện nay, trong thành phần lực lượng tác chiến đặc biệt lục quân của Hàn Quốc có Bộ Tham mưu; Bộ Tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt; các lữ đoàn đặc nhiệm1,3,5,7,9, 13. Lực lượng này có cơ cấu tổ chức thống nhất tương tự lực lượng tác chiến lục quân Mỹ. ![]() Lực lượng này còn có nhiệm vụ bảo vệ an ninh nhân các sự kiện quan trọng của đất nước Lữ đoàn đặc nhiệm lục quân gồm Bộ tham mưu, Đại đội Tham mưu, 5 Tiểu đoàn đặc nhiệm. Mỗi Tiểu đoàn gồm một vài đại đội đặc nhiệm và các nhóm yểm trợ. Số lượng nhân sự tối thiểu trong 1 đơn vị đặc nhiệm là 12 người. Nhiệm vụ Các lữ đoàn được giao các nhiệm vụ khá cụ thể. Lữ đoàn 1,3,5 được coi là các lữ đoàn chiến lược, có nhiệm vụ “luồn sâu” vào hậu phương đối phương. Lữ đoàn 1 đồn trú tại Kimpo, Lữ đoàn 3 – Songame, Lữ đoàn 5 – Inchon. Lính của Lữ đoàn 1 chuyên thực hiện nhiệm vụ “luồn sâu” vào hậu phương địch bằng phương thức đổ bộ đường không và được đào tạo các kỹ thuật nhảy dù được giới thiệu là điêu luyện. ![]() Để thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, lực lượng đặc nhiệm lục quân được trang bị các loại vũ khí hiện đại nhất Lữ đoàn 3 thực hiện nhiệm vụ tác chiến trên bộ. Lính của Lữ đoàn 3 có khả năng vượt qua vật cản và chiến hào trên mặt trận. Lữ đoàn 5 “luồn sâu” vào hậu phương địch bằng đường biển. 4 lữ đoàn còn lại được coi là các lữ đoàn chiến thuật, có nhiệm vụ yểm trợ các đơn vị bộ đội thông thường. Các lữ đoàn này được sử dụng trong trường hợp đánh chiếm lãnh thổ của địch và tổ chức đánh du kích trong hậu phương địch. ![]() Huấn luyện trong môi trường hết sức khắc nghiệt Huấn luyện Các lữ đoàn được bổ sung lính nghĩa vụ và lính tình nguyện. Lính đặc nhiệm lục quân Hàn Quốc hiện nay được đào tạo và huấn luyện các chương trình tương tự chương trình đào tạo của Mỹ. Lính đặc nhiệm lục quân Hàn Quốc được luyện tập và huấn luyện chung với lính đặc nhiệm lục quân Mỹ, cũng như phối hợp chặt chẽ với các đồng nghiệp Mỹ trong quá trình huấn luyện. Giáo viên huấn luyện cũng là những người thuộc các đơn vị đặc nhiệm của Mỹ. Học viên được huấn luyện theo các chương trình đặc biệt trong môi trường rất khắc nghiệt. Tại trường huấn luyện đặc biệt (Seoul), lính đặc nhiệm được huấn luyện theo chương trình gồm các bài tập nhảy dù, lặn và các chương trình đặc biệt khác. Chương trình huấn luyện đột kích cũng được huấn luyện tại trường này và trường bộ binh Hàn Quốc. Mỗi sư đoàn bộ binh đều có 1 tiểu đoàn trinh sát. Lính trinh sát thuộc tiểu đoàn này được huấn luyện các bài tập đổ bộ đường không và đột kích. [BDV news] |
Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011
>> 'Chim già' trong Không quân Trung Quốc hiện đại
Không quân Trung Quốc hiện tại ngày càng được bổ sung nhiều thế hệ chiến đấu cơ hiện đại nhưng như thế là chưa đủ đối với quốc gia rộng lớn. Vì vậy, họ bắt buộc phải duy trì đội ngũ phi cơ chế tạo theo công nghệ cũ cách đây 30-40 năm. Những phi đội chiến đấu cơ đó là điển hình cho công nghệ sao chép của Trung Quốc. Các máy bay tiêm kích hạng nhẹ J-7, J-8, cường kích Q-5 và máy bay ném bom chiến lược H-6 đều dựa theo thiết kế của Liên Xô từ những năm 1950-1960. Dù Trung Quốc cố gắng phát triển biến thể cải tiến tích hợp thiết bị hiện đại nhưng cơ bản vẫn phải dựa trên nền tảng cũ. Dưới đây là một số hình ảnh "con chim già" hoạt động trong Không quân Trung Quốc: ![]() Chiếm số lượng đông đảo nhất trong kho "hàng cũ" của Không quân Trung Quốc là máy bay tiêm kích hạng nhẹ J-7 (khoảng 500-700 chiếc). J-7 là thiết kế sao chép công nghệ từ mẫu MiG-21 của Liên Xô ra đời giữa những năm 1960. Trong ảnh là chiếc J-7II - biến thể được sản xuất số lượng lớn trong dòng J-7 và được dùng làm nền tảng phát triển các mẫu tiếp sau của J-7. ![]() Tiêm kích hạng nhẹ chiến đấu trong mọi điều kiện thời tiết J-7C thiết kế dựa theo mẫu MiG-21MF của Liên Xô. J-7C là một trong những biến thể thất bại của dòng J-7, khi mà radar kiểm soát hỏa lực JL-7A không đáng tin cậy và mất tính cơ động do việc sửa đổi quá nhiều cấu trúc thân làm tăng trọng lượng máy bay. Ngày nay, trong biên chế Không quân Trung Quốc chỉ có 20-30 chiếc hoạt động thuộc sư đoàn không quân số 15 đóng ở tỉnh Hà Bắc. ![]() Sau sự thất bại của J-7C, Trung Quốc tiếp tục khắc phục các yếu kém đó bằng việc cho ra đời biến thể J-7D tích hợp radar kiểm soát hỏa lực JL-7A và mang tên lửa đối không tầm ngắn thế hệ mới. Tiêm kích J-7D bắt đầu được sản xuất cuối năm 1994 tới năm 1999 thì dừng. Hiện nay, trong biên chế Không quân Trung Quốc chỉ có khoảng 20-30 chiếc loại này. ![]() Biến thế J-7E đại diện cho thế hệ thứ 3 của "đại gia đình J-7". Biến thể này ra đời vào đầu những năm 1990, thiết kế hoàn toàn dựa theo khung thân J-7II có bổ sung cải tiến hệ thống điện tử hàng không và biến đổi phần cánh. Về khả năng chiến đấu của J-7E không có nhiều điểm thay đổi lớn so với các biến thể trước, nó vẫn có nhiệm vụ chính là tiêm kích đánh chặn với 4 quả tên lửa không đối không tầm ngắn. Khả năng tấn công mặt đất hạn chế với bom và rocket. Dây chuyền sản xuất J-7E chấm dứt năm 2002 và không rõ số lượng chế tạo. ![]() Biến thể tiêm kích đánh chặn J-7G là mẫu cải tiến mới nhất và là cuối cùng của gia đình J-7. Cơ bản, J-7G mang đặc điểm tương tự trong thiết kế giống J-7E, có chăng là thay đổi thiết bị điện tử. Tiêm kích J-7G bay lần đầu tháng 6/2002 và chính thức đi vào phục vụ trong Không quân Trung Quốc năm 2004. Tính tới tháng 11/2006 có 48 chiếc J-7G được chuyển giao cho không quân. ![]() Đại diện tiếp theo trong "phi đội chim già" là máy bay cường kích Q-5 với 40 năm tuổi. Q-5 thiết kế dựa theo khung thân của tiêm kích hạng nhẹ J-6 (Trung Quốc sao chép Mig-19 của Liên Xô). Phần cánh và đuôi Q-5 tương tự J-6 trong khi cửa hút khí ở mũi máy bay chuyển sang hai bên thân. Q-5 chế tạo với 10 giá treo mang được 2.000kg vũ khí các loại (bom và rocket không điều khiển). Hệ thống điện tử ban đầu khá "thô sơ", tiếp tục cải tiến trong những biến thể tiếp sau. Trong quá trình phát triển biến thể cải tiến Q-5 thì Trung Quốc có sự hợp tác với một số nước phương Tây. Hầu hết, các nước này trợ giúp Trung Quốc trang bị hệ thống điện tử hàng không mới cho máy bay. Tuy nhiên, sự kiện Thiên An Môn 1989 đã chấm dứt tất cả các dự án đó. ![]() Những chiếc máy bay cường kích Q-5 được sản xuất theo công nghệ quá cũ, Trung Quốc từng có ý định thay thế nhưng không thành công. Họ tiếp tục dùng công nghệ nội địa cải tiến khả năng ném bom của Q-5. Trong ảnh là biến thể Q-5 có khả năng mang vũ khí dẫn đường chính xác cao. Những chiếc Q-5 này đang phục vụ trong sư đoàn không quân số 5. ![]() Tiêm kích đánh chặn J-8 là phiên bản mở rộng của J-7 được trang bị 2 động cơ tuốc bin phản lực. J-8 ra đời theo nhu cầu của giới lãnh đạo Quân đội Trung Quốc khi đó cho rằng tiêm kích J-7 không có khả năng đánh chặn hiệu quả máy bay ném bom tầm cao của Liên Xô và Mỹ. Giới chức Trung Quốc đề ra mục tiêu có loại máy bay tiêm kích mạnh có thể đạt tốc độ tối đa Mach 2,2, trần bay 20.000 mét, bán kính chiến đấu 750-1.000km, mang được tên lửa đối không tầm trung. Tuy nhiên, mục tiêu đề ra là một chuyện nhưng công nghệ có đáp ứng được không lại là chuyện khác. Thời điểm những năm 1970-1980, công nghiệp quốc phòng Trung Quốc vẫn còn lạc hậu chưa thể theo kịp mục tiêu đặt ra cho thiết kế J-8. Radar kiểm soát hỏa lực mới, pháo và tên lửa dự kiến trang bị không thể hoàn thành kịp. Trung Quốc chấp nhận dùng công nghệ cũ hơn để tích hợp vào J-8. J-8 không cải thiện khả năng chiến đấu tốt hơn so với J-7. Ngày nay, chỉ còn một số lượng rất nhỏ J-8 còn phục vụ trong Không quân Trung Quốc. ![]() Trên ảnh là tiêm kích đánh chặn J-8II - thiết kế rút kinh nghiệm từ mẫu J-8 vào đầu những năm 1980. Thời điểm này, mối quan hệ Mỹ - Trung trở nên "thân thiện" nên mục tiêu dành cho J-8II chỉ là đối phó với các máy bay ném bom chiến lược tầm cao của Liên Xô. Thất bại J-8 giúp cho Trung Quốc rút ra nhiều kinh nghiệm cho quá trình phát triển J-8II. J-8II ngày nay phục vụ tích cực trong cả Không quân và Hải quân Trung Quốc, và là một trong các chiến đấu cơ chủ lực của nước này. J-8II ngoài vai trò tiêm kích đánh chặn còn có thể thực hiện nhiệm vụ tấn công mặt đất. Ở các biến thể cải tiến hiện đại, J-8II mang được vũ khí dẫn đường chính xác cao. ![]() Đứng sau J-7 về tuổi già là máy bay ném bom tầm trung H-6 với 40 năm phục vụ. H-6 là thiết kế Trung Quốc sao chép công nghệ máy bay Tu-16 của Liên Xô. Suốt từ thời điểm bắt đầu hoạt động trong Không Quân Trung Quốc cho tới tận ngày nay, H-6 luôn là máy bay ném bom chiến lược chủ lực của Trung Quốc. Máy bay ném bom H-6 trang bị 2 động cơ tuốc bin phản lực cho phép đạt tốc độ tối đa 1.050km/h, tầm bay 6.000km (bán kính chiến đấu 1.800km), trần bay trên 12.000m. Trọng lượng tải bom của H-6 khoảng 9.000kg, biến thể cải tiến sau này có thể mang thêm tên lửa không đối đất, không đối hạm. Trung Quốc tiến hành phát triển nhiều biến thể H-6 với các mục đích khác nhau như tuần thám biển, tiếp dầu trên không, trinh sát. ![]() Trong ảnh là máy bay ném bom chiến lược H-6M thiết kế dành cho lực lượng Không quân thuộc Hải quân Trung Quốc. H-6M chế tạo với 4 giá treo trên cánh mang tên lửa hành trình đối hạm YJ-81 hoặc nó có thể sử dụng khoang bom mang tên lửa hành trình đối đất KD-88 nếu cần. ![]() Nguyên mẫu máy bay ném bom chiến lược H-6K - biến thể mới nhất và có lẽ là cuối cùng của dòng H-6. H-6K có một vài cải tiến gồm: chế tạo với 6 giá treo mang tên lửa hành trình trên cánh, dùng mũi cứng thay vì mũi "buồng kính" như các biến thế trước, sử dụng động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy D-30PK... H-6K cất cánh lần đầu tiên tháng 1/2007. Cho tới thời điểm hiện tại không rõ tình trạng của H-6K vẫn đang thử nghiệm hay được trang bị. Tuy nhiên, dự án H-6K không nhận được sự hỗ trợ của Quân đội Trung Quốc mà được rót vốn hoàn toàn là từ "cá nhân" của Tập đoàn Tây An. Dự kiến, máy bay ném bom H-6 tiếp tục phục vụ dài lâu tới ngoài năm 2015. [BDV news] |
Nhãn:
Chim già,
Không quân Trung Quốc,
Máy bay cường kích Q-5,
Máy bay ném bom H-6,
tiêm kích,
Tiêm kích đánh chặn J-7G,
Tiêm kích đánh chặn J-8,
Tiêm kích MiG-21bis
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)