Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Quân đội Nga

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân đội Nga. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quân đội Nga. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

>> Vityaz - Hệ thống phòng không tầm trung tương lai của Nga



Các loại tên lửa tầm trung nổi tiếng như Pechora, Buk đang vận hành trong quân đội Nga sẽ phải "về vườn" để nhường chỗ cho loại tên lửa tầm trung mới với sức mạnh vượt trội có tên Vityaz.



http://nghiadx.blogspot.com


Dù đã được nâng cấp đến chuẩn M3 nhưng tên lửa phòng không Buk vẫn có nguy cơ phải nhường chỗ cho hệ thống phòng không mới.


Trong thời điểm hiện nay, đối với các hệ thống phòng không tầm trung, Nga chủ yếu dựa vào các hệ thống tên lửa phòng không 9K37 Buk (phương Tây gọi là SA-11 Gadfly hay SA-17 Grizzly đối với Buk-M2).

Tuy quân đội Nga liên tục hiện đại hóa tên lửa Buk lên các tiêu chuẩn Buk-M1, Buk-M2 hay Buk-M3 với tính năng chiến đấu được tăng cường hơn rất nhiều nhưng Nga vẫn cần một loại tên lửa tầm trung mới hiện đại hơn, có thể đồng bộ tốt hơn với các hệ thống phòng không tầm xa hiện đại như S-400 cũng như có khả năng chống các tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. Vì lý do đó, họ đã phát triển hệ thống tên lửa tầm trung mới mang tên Vityaz, nhằm thay thế dần các hệ thống Buk trong tương lai.

Hệ thống tên lửa phòng không tầm trung (MRADS - Medium Range Air Defense System) Vityaz được thiết kế bởi Tổ hợp Almaz/Antey, vốn đã có rất nhiều kinh nghiệm thiết kế tên lửa phòng không với các sản phẩm tên lửa phòng không đứng đầu thế giới như S-300 hay S-400 từ những năm 1990.

Một tổ hợp chiến đấu của Vityaz bao gồm một trạm điều khiển bắn, có trang bị radar cảnh giới và bắt bám máy bay hay tên lửa địch; ba xe phóng tên lửa và các xe tiếp đạn.

Các tên lửa được đặt thành cụm gồm ba lớp, mỗi lớp bốn ống phóng thẳng đứng hoặc cụm 2 lớp, mỗi lớp gồm 5 ống phóng trên khung xe tải vượt địa hình 6x6. Tính ra, tổng số tên lửa sẵn sàng chiến đấu của mỗi tổ hợp Vityaz được trang bị 30 - 144 tên lửa có khả năng sẵn sàng bắn.


http://nghiadx.blogspot.com

Hệ thống Vityaz với cấu hình 10 ống phóng. Các ống phóng có thể chứa một tên lửa 9M96 hay bốn tên lửa 9M100. Ảnh mô hình


Tương tự như tên lửa phòng không tầm xa S-300 và S-400, Vityaz cũng sử dụng phương pháp phóng “nguội” để bắn tên lửa, tức là sử dụng khí nén để đẩy tên lửa ra khỏi ống phóng đến độ cao 30m, sau đó động cơ chính của tên lửa mới bắt đầu khởi động.

Phương pháp này tuy cần một cơ cấu phóng phụ và khó thiết kế cho các tên lửa cỡ nhỏ nhưng nó có độ an toàn rất cao, giúp bảo vệ bộ ống phóng và các tên lửa còn lại nếu không may một tên lửa bị phóng hỏng.

Các xe phóng tên lửa và xe chỉ huy đều liên lạc với nhau qua hệ thống datalink giúp chúng có khả năng chia sẻ mục tiêu với nhau cũng như với các hệ thống phòng không khác.

Thêm một điểm giống nhau nữa giữa Vityaz và S-400, đó là chúng sử dụng hai loại tên lửa khác nhau để đối phó với các mục tiêu ở tầm xa khác nhau trong cùng một loại ống phóng.

Một ống phóng của Vityaz có thể chứa 1 tên lửa tầm trung 9M96E/E2 hay 4 tên lửa tầm ngắn 9M100 (ống phóng tên lửa S-400 có thể chứa 1 tên lửa tầm siêu xa 40N6 hoặc 1 tên lửa tầm xa 48N6 hoặc 4 tên lửa tầm trung 9M96E/E2).


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa phòng không tầm trung 9M96E (ngắn) và 9M96E2.


Tên lửa 9M96 là loại tên lửa tầm trung dẫn đường bằng radar có tầm bắn từ 1 - 40 km đối với phiên bản 9M96E hay 1 - 120 km đối với phiên bản 9M96E2 và có thể bắn mục tiêu ở độ cao từ 5m cho đến 20.000m (9M96E) hay 30.000m (9M96E2).

Đây cũng là loại tên lửa có tốc độ cao, đạt 900m/giây và có khả năng chịu gia tốc rất tốt. Do đó, tên lửa vừa bay nhanh, vừa linh hoạt và có khả năng tấn công cả máy bay và tên lửa đạn đạo của đối phương.

Tên lửa 9M96E có khối lượng 333 g với đầu nổ nặng 24kg còn 9M96E2 có cùng kích cỡ đầu đạn, tuy nhiên có khối lượng tới 420kg do có tầm bắn xa hơn. Xác suất bắn trúng phát đầu của cả hai loại tên lửa này được phía Nga công bố đạt 90% đối với máy bay và 80% đối với các mục tiêu tên lửa đạn đạo.

http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa phòng không tầm ngắn 9M100 (thứ hai từ trái sang) được cải tiến từ tên lửa không đối không RVV-AE-ZRK.


Khác với 9M96, tên lửa 9M100 là loại tên lửa tầm nhiệt tầm ngắn, chỉ có tầm bắn từ 1-10km. Loại tên lửa này được cải tiến từ tên lửa không đối không tầm ngắn RVV-AE-ZRK, một phiên bản của tên lửa tầm nhiệt R-77T.

Dù có kích thước nhỏ hơn tên lửa R-77T rất nhiều, chỉ dài 2,5m và đường kính 12,5 cm và có tầm bắn ngắn nhưng 9M100 là tên lửa có khả năng thao diễn cực cao. Tên lửa này không chỉ dùng để chống lại các loại máy bay cánh bằng hay trực thăng của đối phương mà nó còn chuyên biệt để chống lại các UAV, bom dẫn đường thông minh JDAM hay thậm chí là cả tên lửa diệt radar HARM.


http://nghiadx.blogspot.com

Radar MFMTR và xe phóng tên lửa loại 12 ống phóng của hệ thống Vityaz.
Ảnh mô hình


Hệ thống Vityaz sử dụng radar mảng pha băng sóng X MFMTR có khả năng theo dõi 40 mục tiêu cùng lúc và tấn công cùng lúc 8 mục tiêu bằng tên lửa dẫn đường radar 9M96 với hai tên lửa tấn công mỗi mục tiêu nhằm chắc chắn khả năng tiêu diệt mục tiêu.

Radar MFMTR có cấu tạo gồm một ăng ten mảng pha gắn trên nóc xe điều khiển, có tốc độ quay 60 vòng/phút và rất khó bị làm nhiễu và dò tìm tấn công bởi tên lửa diệt radar của địch.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa Cheolmae-2 của Hàn Quốc phát triển với sự hỗ trợ của Almaz/Antey được thừa hưởng một số công nghệ từ Vityaz.


Trong báo cáo về hiện đại hóa quân đội Nga trong giai đoạn tới, tướng Anatoly Gulyaev, giám đốc bộ phận khí tài thuộc Bộ Quốc phòng Nga cho biết các hệ thống Buk cũ sắp tới sẽ bị thải loại dần dần và thay thế bằng tên lửa phòng không Vityaz.

Nga cũng để ngỏ khả năng xuất khẩu Vityaz ra thị trường vũ khí thế giới. Trong đó, Almaz/Antey của Nga đã giúp Hàn Quốc phát triển tên lửa phòng không Cheolmae-2 sử dụng tên lửa 9M96 dựa trên những công nghệ của Vityaz.

Ngoài ra, các phiên bản xuất khẩu của Vityaz sẽ sớm hoàn thành và đưa ra chào hàng cho các khách hàng truyền thống của Nga.

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

>> Nga hiện đại hóa radar đóng ở Azerbaijan



Theo hãng tin ITAR - TASS, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov đã đưa ra đề xuất tiếp tục khai thác trạm radar Gabala trên lãnh thổ Azerbaijan.




Trạm Gabala đóng vai trò quan trọng trong hệ thống phòng thủ tên lửa của nước Nga.


Tuyên bố này được đưa ra trong cuộc gặp gỡ giữa ông Anatoly Serdyukov và Bộ trưởng Quốc phòng Azerbaijan Safar Abiyev.

Ông Serdyukov cho biết thêm, “Về trạm radar Gabala, chúng tôi đã đề xuất chuẩn bị mở rộng và nâng cấp hơn nữa. Nga có kế hoạch rõ ràng để hiện đại hoá trạm radar Gabala”.

Sau ngày 15/8, người đứng đầu Bộ Quốc phòng Nga sẽ thảo luận chi tiết từng điểm của thỏa thuận về việc khai thác trạm radar Gabala với Bộ trưởng Quốc phòng Azerbaijan. Tại cuộc thảo luận rộng rãi sẽ thông qua các vấn đề gia hạn hợp đồng cho thuê và ký một thỏa thuận mới.

“Chúng tôi cũng sẽ thảo luận các vấn đề liên quan đến hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực quân sự và kỹ thuật - quân sự. Chúng tôi đã có một mối quan hệ khá tốt đẹp trong các lĩnh vực này. Chúng tôi sắp kết thúc kế hoạch của năm 2010, còn kế hoạch năm 2011, chúng tôi tự tin rằng sẽ thực hiện tất cả kế hoạch đó theo lịch trình," ông Serdyukov nói.

Năm 2002, Nga đã thuê trạm Gabala đặt trên đất Azerbaijan với giá 14 triệu USD/năm với thời hạn hợp đồng 10 năm (hết hạn vào tháng 12/2012). Nga sử dụng trạm radar này để kiểm soát khoảng không vũ trụ phía nam của mình và cảnh báo sớm các tên lửa đạn đạo từ Iran, Pakistan và Ấn Độ.

Trạm radar Gabala (hay còn gọi là Trung tâm phân tích thông tin DTV) bắt đầu được xây dựng từ năm 1976 và đưa vào sử dụng năm 1985. Các chỉ số kỹ thuật có khả năng hoạt động đến năm 2012.

Phạm vi hoạt động của trạm radar lên đến 8.000 km, có thể phát hiện các vụ phóng tên lửa và theo dõi quỹ đạo bay của chúng từ tận Ấn Độ Dương cũng như kiểm soát toàn bộ không phận Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, Ấn Độ và tất cả các quốc gia Trung Đông.

Cấu tạo trạm Gabala là trung tâm ăng ten mảng pha với kích thước 100x100 m, đảm bảo phát hiện các mục tiêu ở khoảng cách 6.000 km với phương vị quan sát 110 độ.
Gabala có tốc độ, độ chính xác cao, khả năng miễn dịch tiếng ồn. Gabala có thể phát hiện và theo dõi khoảng 100 mục tiêu cùng lúc.

Hiện nay có 1.400 binh lính Nga có mặt tại để bảo vệ và duy trì hoạt động cho trạm. Các vấn đề về trạm radar Gabala đã thường xuyên là chủ đề của các cuộc tranh luận nội bộ, cả trong quốc hội Azerbaijan.

[BDV news]


>> Nga sẽ triển khai lính dù tại Bắc Cực



Nhiều khả năng Nga sẽ triển khai lực lượng lính dù tại Bắc Cực. Đây là một phần trong chiến lược phát triển quân sự đa ngành tại vùng địa cực lạnh giá này của Nga.





Nhiều khả năng Nga sẽ triển khái lực lượng lính dù tại vùng Bắc Cực. Ảnh: Lực lượng quân sự Nga ở vùng Bắc Cực lạnh giá.


Trung tướng Nikolai Ignatov cho biết việc triển khai lính dù ở Bắc Cực vẫn đang được nghiên cứu dựa trên đề xuất của người đứng đầu lực lượng lính dù – trung tướng Vladimir Shamanov.

“Ngay khi quá trình nghiên cứu kết thúc, chúng tôi sẽ gửi báo cáo tới Bộ Quốc phòng và đưa ra quyết định cuối cùng”, ông Ignatov nói.

Theo vị tướng này, lực lượng đổ bộ đường không sẽ được trang bị trung đội máy bay trực thăng vào năm 2020.

“Tới thời điểm đó, chúng tôi sẽ có trực thăng và mọi trang thiết bị cần thiết”, ông Ignatov cho biết.

Hiện tại, lực lượng đổ bộ đường không của Nga có 32.000 lính phục vụ ở 4 sư đoàn dù, một trung đoàn tấn công dù và một đại đội trinh sát đặc biệt.

[BDV news]


Thứ Năm, 28 tháng 7, 2011

>> Nga 'ruồng bỏ' tàu sân bay và xe tăng nội



Trong cuộc họp báo ở Moscow, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Serdyukov chỉ trích các xe tăng nội địa và thông báo việc sản xuất hàng loạt tên lửa đạn đạo Bulava.


Trước đó, ông này đã phủ nhận các thông tin về kế hoặc đóng tàu sân bay mới.

Về tên lửa

Tại một cuộc họp với các nhà phân tích quân sự ở Moscow, Bộ trưởng Quốc phòng Anatoly Serdyukov công bố với phương tiện truyền thông rằng Nga đã sẵn sàng để sản xuất loạt tên lửa đạn đạo liên lục địa trên biển Bulava. "Bulava đã được phóng, đây là tin tốt lành. Chúng tôi hiểu rằng phiên bản này có thể đưa vào sản xuất hàng loạt”, ông Serdyukov nói.

Lưu ý rằng, thông tin này được đưa ra sau khi tên lửa Bulava phóng 3 lần liên tiếp với kết quả thành công. Lần phóng sau cùng được tổ chức ngày 28/6 năm nay từ tàu ngầm Yuri Dolgoruky (project 955). Bộ trưởng cho biết rằng đến tận bây giờ, lần đầu tiên tên lửa được phóng đi từ chính tàu ngầm được thiết kế cho riêng nó.

Trong 15 lần phóng thử tên lửa Bulava trước kia đều được thực hiện trên một tàu ngầm đặc biệt, không phải loại dành riêng cho tên lửa này và chỉ có 7 lần thành công.

Ngoài ra, ông Anatoly Serdyukov còn cho biết, Nga dự định sẽ tăng số lượng tên lửa đạn đạo liên lục địa trong các lực lượng tên lửa chiến lược. Đến năm 2015, khối lượng tên lửa mới trong các lực lượng tên lửa chiến lược cần phải tăng gấp ba lần.

Về xe tăng

Theo ông Serdyukov, Bộ Quốc phòng Nga từ chối mua từ xe tăng sản xuất trong nước cho đến khi họ đáp ứng được “tiêu chuẩn hiện đại”. “Chúng tôi đã gặp gỡ với các nhà thiết kế, họ cung cấp cho chúng tôi thông tin về sản phẩm của họ, 60% đề xuất của họ là phát triển từ trước, vì thế trước mắt chúng tôi từ chối những đề xuất này”.

Ông nói thêm rằng, Bộ Quốc phòng muốn tìm các hình thức tối ưu hiện đại hóa xe tăng trong nước. “Chúng tôi đã đề xuất để tạo ra một mô hình mới của xe tăng".

Theo nguồn tin của các báo, ngày 15/3 tư lệnh lục quân Alexander Postnikov cũng bày tỏ không hài lòng với hệ thống vũ khí mới được cung cấp từ liên hiệp công nghiệp quốc phòng Nga.



Quân đội Nga chê T-90 còn kém hơn Leopard.


Thượng tướng Postnikov phàn nàn: “Những vũ khí mẫu được sản xuất công nghiệp, trong đó có xe bọc thép, pháo binh và súng bộ binh với các thông số không cân xứng với các mẫu của NATO và thậm chí cả Trung Quốc”.

Ông lấy ví dụ xe tăng mới nhất của Nga T-90 nổi tiếng trên toàn thế giới thực sự là một thay đổi của T-72 thời Liên Xô. Hơn nữa, giá trị của nó hiện nay là 118 triệu rub cho mỗi xe tăng. "Với số tiền đó chúng tôi có thể mua ba xe tăng Leopard của Đức", tướng Postnikov nói.

Bộ trưởng Quốc phòng Nga đã lưu ý rằng hiện nay trên thế giới đã thay đổi số mệnh của những loại vũ khí này và đi đến xu hướng giảm số lượng xe tăng trong quân đội (trong Lục quân Nga hiện nay có 10.000 xe tăng và như vậy là đã trên giới hạn bình thường). Vì vậy ở thời điểm này thích hợp nhất là nâng cấp các xe tăng hiện có trong lực lượng vũ trang hơn là mua mới.

Phủ nhận việc đóng tàu sân bay mới

Ông Serdyukov cũng phủ nhận các thông tin xuất hiện gần đây về các kế hoạch thiết kế và đóng tàu sân bay của Nga. Ông bảo đảm rằng không có kế hoạch như vậy và kể cả trong thời gian dài tiếp theo.

Hiện tại, Bộ Quốc phòng Nga đặt hàng với các nhà phát triển lập thiết kế sơ bộ để có thể xác định diện mạo của tàu sân bay trong nước. “Và chỉ sau khi có diện mạo cụ thể thì Bộ quốc phòng cùng với hải quân mới có quyết định về sự cần thiết đóng con tàu”, người đứng đầu Bộ Quốc phòng cho biết.

[BDV news]


Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

>> Lực lượng Tác chiến điện tử của Hải quân Nga



Các hệ thống tác chiến điện tử của Nga được phát triển mạnh từ những năm 1980 và được coi là các tổ hợp đa chức năng và hiệu quả.


Các hệ thống tác chiến điện tử có thể nhanh chóng đánh giá tình trạng của sóng điện từ trên chiến trường, gây nhiễu sóng trinh sát của đối phương, cũng như các hệ thống kiểm soát vũ khí và binh lính.

Xuất phát từ vị trí và vài trò của tác chiến điện tử, Bộ Quốc phòng Nga đã xếp lực lượng này quan trọng ngang hàng với các ưu tiên chính trị quân sự hàng đầu.

Trong những năm gần đây, Nga không ngừng tăng cường sức mạnh cho lực lượng tác chiến điện tử, trong đó tích cực sử dụng lực lượng tác chiến điện tử của Hải quân để thu thập các tin túc tình báo, đồng thời nghiên cứu chế tạo, biên chế các chủng loại vũ khí, kỹ thuật mới cho lực lượng Hải quân nước này.



Bộ Quốc phòng Nga đã xếp Lực lượng Tác chiến điện tử của Hải quân Nga quan trọng ngang hàng với các ưu tiên chính trị quân sự hàng đầu.

Cụ thể, Hải quân Nga tích cực sử dụng các hệ thống vệ tinh để thu tập các thông tin tình báo tác chiến điện tử. Hải quân Nga hiện nay thu thập các thông tin tình báo điện tử chủ yếu thông qua hệ thống vệ tinh, máy bay và các tàu hoạt động trên biển. Trong đó, hệ thống vệ tinh tình báo của Nga rất phong phú và đa dạng.

Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Nga tiếp quản khoảng 300 vệ tinh để thu thập thông tin, 96% là vệ tinh dùng cho quân sự, các vệ tinh tinh này không chỉ có lượng lớn mà còn đầy đủ các tính năng và chất lượng nổi trội.

Các vệ tinh tình báo của Nga bao gồm có vệ tinh giám sát trên biển; vệ tinh thăm dò radar và vệ tinh trinh sát vô tuyến điện. Ngoài ra, Nga còn sở hữu công nghệ không gian thuộc dạng hiện đại nhất thế giới.

Nhờ những loại kỹ thuận hiện đại, Hải quân Nga có thể nhanh chóng triển khai hệ thống các vệ tinh tình báo điện tử trên biển để thu được thông tin tình báo điện tử quan trọng, nhằm đề ra những đối sách phù hợp trong những trường hợp có sự có xảy ra trên biển và có khả năng kiểm soát và phá huỷ các vệ tinh tình báo của địch.

Bên cạnh đó, Nga còn sử dụng hàng trăm chiếc máy bay trinh sát tình báo các loại và hàng chục chiếc tàu thuyền làm nhiệm vụ thu thập các thông tin tình báo trên biển, đến các vùng biển tương ứng, để thu thập các thông tin tình báo điện tử của các quốc gia có liên quan.

Trong phương diện thu thập thông tin tình báo điện tử, Hải quân Nga đang tiếp tục thu thập hoạt động tình báo đối với một số nước như Mỹ, Nhật,…




Máy bay vận tải AN-12 được cải tiến thành AN-12PP được bố trí bộ phận gây nhiễu đánh lừa có thể che phủ ít nhất 05 tầng sóng ngắn.


Thứ nhất, được cải tiến từ các máy bay vận tại cỡ lớn, dùng để chi viện gây nhiễu máy bay, như máy bay vận tải AN-12 được cải tiến thành AN-12PP; máy móc gây nhiễu được bố trí với công suất lớn và khá phức tạp, bộ phận gây nhiễu đánh lừa có thể che phủ ít nhất 5 tầng sóng ngắn, gây nhiễu radar và hệ thống thông tin liên lạc của địch.

Thứ hai, được cải tiến từ các máy bay chiến đấu, có nhiệm vụ đi theo đội hình và gây nhiễu đối phương, như máy bay Tu-16pp “badger – J ”, Tu-22E, các máy bay mang theo các trang thiết bị tác chiến điện tử như SPS-1, SPS2 và máy bay gây nhiễu kiểu mới SPS-44 có khả năng nhiễu sóng ra đa của đối phương ở giải tần từ 0~20Ghz.

Máy bay “con mắt – E” trang bị tác chiến điện tử chủ yếu là gây nhiễu hệ thống trinh sát điện tử Fasol, hiện Hải quân Nga có 60 chiếc như vậy.




Trực thăng Ka-27 có khả năng chặn tín hiệu và gây nhiễu trang thiết bị điện tử của đối phương.



Thứ ba, các máy bay trực thăng được cải tiến thành máy bay trực thăng tác chiến điện tử như Mi - 8J, có khả năng gây nhiễu ra đa và gây nhiễu hệ thống thông tin. Ngoài ra, Hải quân Nga còn khoảng 60 trực thăng Ka-27 chủ yếu trên các chiến hạm, có khả năng chặn tín hiệu và gây nhiễu trang thiết bị điện tử của đối phương.

Hiện nay các trang thiết bị được bố trí trên các máy bay tác chiến điện tử của Nga đang có được những ưu thế riêng và nhiều đặc tính nổi trội mà các quốc gia khác không thể so kịp như các trang thiết bị thăm dò của Nga có bước sóng dài 2-3cm và nhiều hơn phân nửa các chùm sóng mà các nước phương Tây sử dụng; có độ chính xác cao, độ chính xác trong đo lường đạt 2-3 độ; có những trang thiết bị đã được phát triển đến tần số sóng cực thấp, có khả năng uy hiếp ra đa ở tần số 18 - 40Ghz.

Song nhược điểm của máy bay tác chiến của Hải quân Nga là không có đủ các linh kiện phần cứng điều khiển tiên tiến cho các trang thiết bị tác chiến điện tử.
Tên lửa chống bức xạ

Tên lửa chống bức xạ (ARM) là loại vũ khí tầm xa tấn công bằng điện tử có hiệu quả sát thương cao nhất, thường được sử dụng trong tấn công hệ thống C3I của kẻ địch nơi phát động chiến tranh, nó trực tiếp phá hủy các radar, hệ thống thông tin liên lạc và các trang thiết bị gây nhiễu của kẻ địch.




Tên lửa chống bức xạ (ARM).


Hiện Nga phát triển ARM đến thế hệ thứ 3; Hải quân Nga sở hữu nhiều thế hệ tiên tiến nhất của ARM như KH-3, đây là hệ thống đã được Nga dùng trong chiến tranh Vùng Vịnh, có khả năng vượt trội so với tên lửa chống xạ thế hệ thứ 3 của Mỹ.

Nga đã biên chế KH—31 cho tàu “Admiral Kuznetsov”; KH-31 là loại tên lửa có hệ thống dẫn đường, nó không chỉ tấn công ra đa loại AN – MPQ - 53 mà còn có thể tấn công máy bay cảnh báo sớm như E-3A của Mỹ và các nước hiện có.

Hệ thống radar chiến hạm thăm dò đối phương

Hải quân Nga hiện sử dụng khoảng 30 loại trang thiết bị radar dùng trên chiến hạm để thăm dò đối phương. Trong đó, thiết bị radar trinh sát Brick là một trong những loại thiết bị được trang bị cho tàu ngầm.

Nga trang bị một loạt các thiết bị radar trinh sát trứ danh Clock cho các chiến hạm và radar gây nhiễu Side Ball. Hiện nay, Hải quân Nga đang sử dụng thiết bị radar trinh sát mới như Flat Road, Glass, radar gây nhiễu Bottle.




Một hệ thống radar cơ động thăm dò.


Thiết bị trinh sát Glass áp dụng cho kỹ thuật trinh sát trên không. Theo đánh giá, thiết bị gây nhiễu Bottle có tính năng ngang bằng so với thiết bị AN/ SLQ-32 được sử dụng trên các chiến hạm Mỹ.

Trình độ kỹ thuật thiết bị radar dò tìm trên chiến hạm của Nga có trình độ ngang bằng với các quốc gia châu Âu như Anh, Pháp,... Bên cạnh đó, nhờ việc học hỏi các kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, đẩy mạnh phát triển máy tính, kỹ thuật số và các thiết bị radar dò tìm gắn trên chiến hạm của Nga có thể xử lý nhanh chóng, phân đoạn tín hiệu, thống nhất hóa năng lực trinh sát và gây nhiễu, cải thiện và nâng cao trình độ các thiết bị, rút ngắn khoảng cách với Mỹ.

Thiết bị quang điện đối kháng trên chiến hạm

Nga là nước đi đầu thế giới về lĩnh vực kỹ thuật quang điện đối kháng, thậm chí Nga còn sở hữu kỹ thuật đối kháng tia laser. Ưu thế loại kỹ thuật này chủ yếu hưởng lợi từ việc ra sức mở rộng truyền hình quân sự, thiết bị thăm dò bám theo tia hồng ngoại và laser dưới thời Liên Xô cũ trong những năm 1970.

Đồng thời những năm 1980, đầu tư nghiên cứu chiến lược và áp dụng vũ khí kỹ thuật laser. Lúc đó, Liên Xô bố trí hai loại vũ khí tia laser phản vệ tinh trên mặt đất, dùng phá hủy quỹ đạo vận hành trinh sát của Mỹ trên địa cầu.

Ngày nay, Nga tiếp tục gấp rút phát triển kỹ thuật điện quang đối kháng, nghiên cứu đề xuất thiết bị điện quang ứng dụng cho Hải quân như máy gây nhiễu hồng ngoại L1668IA, đây là máy được trang bị cho máy bay trực thăng trên chiến hạm, có thể gây nhiễu như là tên lửa không đối không Sidewinder và Falcon, tên lửa đất đối không Red Eye, Small Oak và tên lửa không đối không của Pháp Mica, các thiết bị gây nhiễu hồng ngoại này có tuổi thọ là 1.200 giờ.

Việc sử dụng thiết bị quang điện đối kháng mới làm cho chủng loại và chất lượng thiết bị quang điện đối kháng trên chiến hạm Nga phát sinh biến hóa và hiệu quả lớn hơn.

Hải quân Nga không chỉ có chiến hạm bắn tia hồng ngoại và đạn laser mồi nhử tiên tiến mà sử dụng cả thiết bị gây nhiễu và hệ thống cảnh báo laser của các quốc gia phương Tây như máy gây nhiễu hồng ngoại TSHU-17 và máy cảnh báo laser Spektr-F.

Thiết bị gây nhiễu hồng ngoại TSHU-17 có hình thức điều chỉnh đa dạng, đồng thời có thể đối phó được các loại tên lửa uy hiếp trên biển. Máy cảnh báo laser Spektr-F có thể cảnh báo 4 mục tiêu nguy hiểm bên cạnh tàu chiến hạm, với độ lệch chính xác ± 5 độ nên đưa ra số liệu góc ngắm và phương vị của mối nguy hiểm

Thiết bị gây nhiễu thụ động

Thiết bị gây nhiễu thụ động trên chiến hạm chủ yếu do kiểu bắn từ pháo cối và đạn gây nhiễu mồi nhử kết hợp tạo thành. Thiết bị gây nhiễu thụ động trên chiến hạm của hải quân Nga tương đối hiện đại.

Hiện nay hình thành hàng loạt trang bị được gắn với các loại chiến hạm lớn, vừa và nhỏ. Trong đó, có hai ống bắn xoay tròn Pk-2, 16 ống bắn cố định Pk-16, 10 ống bắn cố định Pk-10.

Những thiết bị bắn này thông qua chỗ tiếp nối lắp ráp và ra-đa trên chiến hạm; các thiết bị cảnh báo trinh sát và hồng ngoại kết hợp với nhau, có thể căn cứ thuộc tính của mục tiêu uy hiếp, tự động lựa chọn bắn đạn mồi nhử thích hợp. Với các đạn mồi nhử, Hải quân Nga có đạn TSP-47, TSP-60U, SR-60; đạn hồng ngoại TST-47, TST-60U; đạn laser hỗn hợp/ hồng ngoại tiên tiến như SOM-50 và đạn tổng hợp như Sk 50.SOM-50 với đường kính 120ml, dài 12.26 li, trọng lượng 26kg.

Kích thước, trọng lượng SK-50 giống SOM-50. Các tính năng như diện tích phản xạ của đạn mồi nhử, phạm vi tỏa ra, thời gian trên không, cường độ bức xạ, thời gian bốc cháy của Nga tương đối bằng kỹ thuật các quốc gia phát triển phương Tây và phù hợp yêu cầu tác chiến hiện đại trên biển.

Thiết bị đối kháng âm thanh dưới nước

Kỹ thuật đối kháng âm thanh dưới nước của Nga khá hiện đại. Trong phương diện phá hủy âm thanh dưới nước của vũ khí từ xa, các loại vũ khí mới đại diện phương pháp phi âm thanh của Hải quân Nga về kỹ thuật thăm dò phản xô na và tính chủ động xô na có ngư lôi và thủy lôi, trong đó có các loại ngư lôi như ngư lôi siêu trọng phản chiến hạm DST-92, ngư lôi thả dù chống tàu ngầm APR-2E, ngư lôi hạng nặng chống tàu ngầm TEST-96 và ngư lôi USET-95; thủy lôi gồm có thủy lôi tự chìm SMDM, hệ thống thủy lôi chống tàu ngầm PMK-1 và thủy lôi kiểu tên lửa MSHM.

Trong số đó, ngư lôi hạng nặng DST-92 được áp dụng kỹ thuật tiên tiến phi âm thanh - thăm dò phản sonar, là loại ngư lôi tự động tấn công tàu hàng sân bay, các âm thanh mồi nhử và khí tài gây nhiễu trong nước có tác dụng hỗ trợ, trừ khi các thủy thủ được huấn luyện ứng phó bên ngoài, không thì cho đến nay chưa có biện pháp đối phó hiệu quả phương thức trên.

Trong phương diện chống nhiễu sóng âm dưới nước và gây nhiễu âm thanh, Hải quân Nga không chỉ áp dụng phổ biến cho các tàu ngầm nhằm đối phó khả năng thăm dò và làm suy yếu ngư lôi của đối phương, mà sử dụng nhiều đạn tạo khí để chống nhiễu sóng.




Hải quân Nga không chỉ áp dụng phổ biến các thiết bị gây nhiễu cho các tàu ngầm mà còn cho cả tàu chiến.


Ngoài ra, Hải quân Nga còn sử dụng số lượng lớn tàu điều khiển gây nhiễu tiếng ồn và tự động gây nhiễu suy giảm thiết bị thăm dò của đối phương. Hải quân Nga có đạn âm thanh mồi nhử GPD-3 sau khi được bắn, nó có thể thăm dò tối đa ở cự ly 250m với vận tốc 15 hải lý/giờ.

GPD-3 rất hiện đại bởi nó có tiếng ồn gây nhiễu, gây nhiễu chọn lựa và có 3 phương thức mô phỏng âm thanh vọng lại; chúng do máy phát tiếng ồn xô na lắp đặt hiệu ứng băng từ nam châm tạo thành, dùng để mô phỏng tín hiệu đặc trưng đường đi của tàu ngầm, GDP-3 là có hai cách bắn tự động và có điều khiển. Trong đó, bắn tự động là để gây nhiễu ngư lôi địch, bắn điều khiển do người bắn dùng để khống chế thời gian bắn và đối phó với thiết bị truyền cảm xô na của tàu chiến đối phương.

[BDV news]


>> 'Việt Nam là đối tác kỹ thuật - quân sự chính của Nga'



Phó Trưởng ban về Hợp tác quốc phòng Nga Alexander Formin khẳng định việc Nga sẽ không điều chỉnh kế hoạch hợp tác kỹ thuật - quân sự trong năm 2011.


“Mặc dù có một số yếu tố tiêu cực song Nga sẽ không điều chỉnh số lượng trong kế hoạch hợp tác kỹ thuật - quân sự của năm 2011”, theo báo cáo của Phó Trưởng ban về Hợp tác kỹ thuật - quân sự Liên bang Nga Alexander Fomin tại Triển lãm Hàng không - Vũ trụ Quốc tế Paris lần 49.

“Các kế hoạch là phải đạt được hiệu quả cao hơn chỉ số của năm 2010 nhưng chúng ta đang phải đối mặt với những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các sự kiện ở một số nước Arab, tuy nhiên kế hoạch sẽ không thay đổi", ông nói.



Nga có ý định xâm nhập thị trường vũ khí Châu Phi, Mỹ Latinh.


Ông Fomin nêu tên các đối tác chính của Nga trong việc hợp tác kỹ thuật - quân sự đó là Ấn Độ, Việt Nam, Algeria, Venezuela và Trung Quốc.

Đồng thời, ông cũng thừa nhận “những sự kiện trong một số các quốc gia Arab không phải không ảnh hưởng tiêu cực đến kế hoạch hợp tác với họ”.

Ông Fomin cho ITAR-TASS biết thêm, trong trường hợp này “có những thị trường chúng ta đã bỏ quên như châu Phi, nơi đó cần thiết phải quay trở lại”.

Phát biểu về khu vực Mỹ la tinh, ông nói rằng “Chúng ta cũng cần phải khai thác một cách triệt để tiềm năng của thị trường Mỹ Latin nơi mà trong những năm gần đây đã được “phát hiện”, đặc biệt Uruguay và Argentina”.

[BDV news]


Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

>> Nga sẽ can dự vào vấn đề Biển Đông?



Nga đã có phản ứng khá nhanh sau khi ASEAN và Trung Quốc thông qua được Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC.


Kommersant được coi là báo phản ánh quan điểm của giới kinh doanh Nga và một trong các báo lớn phát hành toàn liên bang, bài này giữ cách diễn đạt của Nga về Biển Đông.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Ngày 21/7, ở Indonesia đã khai mạc cuộc gặp thường niên ASEAN – Trung Quốc, trong đó các bên đã thông qua “lộ trình” về các quy tắc ứng xử trên biển Đông có tranh chấp.

Chín năm qua, Bắc Kinh và các bên tranh chấp các nguồn giàu cacbuahydro trong khu vực này đã không thể thoả thuận được văn bản này. Tuy nhiên, các nước ASEAN cho rằng “lộ trình” chưa đủ sức bảo vệ chống lại những tham vọng ngày càng tăng của Trung Quốc, nên họ cố gắng vận động các quốc gia thế giới, trong đó có Nga, tham gia hợp tác với khu vực.

Ngày 22/7, các nước thành viên ASEAN thảo luận về triển vọng hợp tác đó với Bộ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga Sergey Lavrov, Phóng viên báo Kommersant Aleksandr Gabuev đưa tin chi tiết từ Bali.

Tất cả những người tham dự hội nghị bộ trưởng ASEAN năm nay ở Bali nhất trí gọi “lộ trình” được thông qua hôm qua là sự kiện lịch sử. Văn kiện này có một lịch sử khá dài.

Ngay từ năm 2002, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ASEAN (Brunei, Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Lào, Malaysia, Mianma, Singapore, Thái Lan và Philippines) đã ký tuyên bố về ứng xử trên biển Đông.

Văn kiện này quy định những nguyên tắc giải quyết hoà bình các tranh chấp và một trong những mục đích chủ yếu của nó là đưa ra việc soạn thảo bộ luật ứng xử trong khu vực, một văn kiện có tính pháp lý bắt buộc.



Cuối cùng, ASEAN và Trung Quốc đã đạt được bước tiến quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.


Tuy nhiên, khi bắt tay vào thoả thuận các nguyên tắc của bộ luật, các bên rơi vào các cuộc thương thảo kéo dài. Như rất nhiều người tham dự hội nghị than phiền với phóng viên báo Kommersant rằng, có lỗi trong việc này là lập trường khác biệt của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không muốn ràng buộc mình bằng bất cứ cam kết nào. Từ năm 2002, Trung Quốc tích cực củng cố hạm đội của mình và xem ra tính toán rằng các lập luận bằng vũ lực sẽ tác động tốt nhất.

Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đòi những vùng lãnh thổ rộng lớn trong vùng biển Đông. Vấn đề là ở chỗ, theo dữ liệu của các nhà địa chất Trung Quốc, trong thềm lục địa có nhiều tài nguyên – 213 tỷ thùng dầu mỏ. Theo đánh giá của Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ, đây là khu vực đứng thứ 3 về trữ lượng dầu khí trên thế giới sau Venezuela và Arab Saudi.

Để lập luận cho các yêu sách của mình về nguồn tài nguyên giàu có này, các bên tranh chấp cố gắng thiết lập sự kiểm soát trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (tên quốc tế là Spratly) và quần đảo Hoàng Sa (tên quốc tế là Paracel). Điều này cho phép đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm biển quanh mỗi đảo.

Hiện nay các bên tranh chấp đều tích cực xây dựng ở đây cơ sở vật chất, do đó trên biển Đông bất cứ lúc nào cũng có thể bùng nổ xung đột nguy hiểm.

Đến nay các đụng độ đã xảy ra mỗi tháng. Hồi tháng 5, các tàu quân sự Trung Quốc đã tiến đến gần các tàu của Tổng công ty dầu mỏ quốc gia Việt Nam PetroVietnam và cắt cáp thăm dò của tàu, việc này đã gây nên những phản đối chống Trung Quốc mạnh mẽ.

Sau đó một đụng độ tương tự đã xảy ra với các tàu nghiên cứu của Philippines. Manila đã kết tội Trung Quốc xâm phạm nội thủy của mình và tuyên bố phạt đại sứ Trung Quốc ở Philippines vì ông này đã to tiếng với một sĩ quan địa phương trong cuộc tranh cãi về phân định lãnh thổ.

Tháng 6, Trung Quốc đã cử một tàu chiến thăm hữu nghị Singapore, con tàu này đã đi qua tất cả những vùng có tranh chấp trên biển Đông.

Cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc Kinh khiến một số nước láng giềng của nước này tìm kiếm sự bảo hộ của Mỹ. Nhất là năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton tuyên bố việc giải quyết công bằng các tranh chấp ở biển Đông nằm trong lĩnh vực lợi ích quốc gia của Mỹ.



Tàu Hải quân Mỹ tập trận ở Philippines.


Đồng thời, Mỹ là đồng minh quân sự của Philippines và một năm rưỡi trở lại đây tăng mạnh việc hợp tác quân sự với cả Việt Nam. Sau hết, trước đây một tuần lần đầu tiên Mỹ, Australia và Nhật Bản đã diễn tập chung ở biển Đông. Dù mỗi nước chỉ cử 1 tàu tham dự thì sự việc đã làm Bắc Kinh rất cảnh giác đề phòng.

Xét tổng thể, chính triển vọng hình thành một liên minh chống Trung Quốc mạnh ở biển Đông với sự tham gia của Mỹ đã thúc đẩy Trung Quốc hợp tác. Kết quả là đã xuất hiện “lộ trình” xác định những nguyên tắc chung ứng xử trong khu vực, trong đó có việc thông báo cho nhau về các cuộc chuyển quân và thăm dò địa chất. Song để chuyển nó thành bộ luật có tính ràng buộc pháp lý thì còn cần những cuộc đàm phán kéo dài.

Các nhà ngoại giao Trung Quốc định mô tả việc ký “lộ trình” như một bước đột phá. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chuyên trách các cuộc đàm phán này Lưu Chấn Dân tuyên bố: “Đây là văn kiện bản lề trong lĩnh vực hợp tác của Trung Quốc và ASEAN. Bây giờ chúng ta đã có những triển vọng lớn lao để hợp tác”.

Các nước láng giềng của Trung Quốc ở biển Đông tiếp nhận sự kiện này dè dặt hơn. Nguồn tin ở Bộ Ngoại giao Singapore giải thích cho phóng viên báo Kommersant: “Các cuộc đàm phán về văn bản ràng buộc pháp lý có thể còn kéo dài mấy năm nữa, còn ngay bây giờ cần sự bảo hiểm chống sự đối đầu với Trung Quốc”.

Theo ông, trong những điều kiện như vậy ASEAN muốn dựa vào việc lôi kéo các nước ngoài khu vực can dự vào đây để làm đối trọng đối với ảnh hưởng của Trung Quốc. Ông nói: “Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đã có hiện diện ở khu vực nhưng chúng tôi còn muốn thấy những nước khác can dự vào đây, trong đó có Ấn Độ, Australia. Chúng tôi đặt nhiều hi vọng vào Nga”.

Ngày 22/7, trong cuộc gặp cấp bộ trưởng Nga – ASEAN mà đại diện cho Nga là Bộ trưởng Ngoại giao Sergey Lavrov. Theo người nói chuyện với phóng viên báo Kommersant ở Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Moscow sẵn sàng đáp lại đề nghị của ASEAN, củng cố vị thế của mình ở khu vực.

Theo ông, những ưu tiên của Nga là hợp tác với Đông Nam Á nhằm hiện đại hoá (trước hết như thị trường tiêu thụ sản phấm của Nga), cũng như thúc đẩy sáng kiến mà Tổng thống Nga Dmitry Medvedev và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm đào đưa ra tháng 9/2010 về củng cố an ninh trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trên nguyên tắc an ninh toàn vẹn”

[BDV news]


>> MiG-31 - 'Ngôi sao' không quân Nga


Với hệ thống radar mạnh kết hợp tên lửa đối không tầm xa, sức công phá lớn - MiG-31 là "cơn ác mộng" với bất kỳ loại chiến đấu cơ nào trên thế giới.

Ra đời từ cơn ác mộng của phòng không Israel và cả Không quân Liên Xô

Một trong các tiêm kích đánh chặn chủ lực của Không quân Liên bang Nga ngày nay, MiG-31 là sản phẩm kế thừa MiG-25, “nỗi kinh hoàng” một thời đối với các chuyên gia quân sự phương Tây mỗi khi cất cánh. Tiêm kích đánh chặn tầm xa MiG-25 thời điểm đó có tầm bay cao lên tới hơn 20.000m, tốc độ tối đa gấp 3 lần vận tốc âm thanh (Mach 3).

Sự kiện gây sửng sốt cho phương tây đó là vào năm 1971, MiG-25 cất cánh từ Ai Cập đã lượn vài vòng dạo chơi trên vùng trời Israel. Toàn bộ hệ thống phòng không và không quân Israel hoàn toàn bất lực đứng nhìn không có cách nào ngăn chặn. Tiêm kích đánh chặn F-4 của Israel đều bị MiG-25 cho "hít khói".

Tuy nhiên, đây cũng là “điểm yếu chết người” của MiG-25, việc bay ở tốc độ Mach 3,2 làm động cơ bị phá hủy hoàn toàn. Vì vậy, các phi công lái MiG-25 đều được khuyến cáo là chỉ bay ở vận tốc tối đa Mach 2,5.

Ngoài ra, MiG-25 còn mắc một số lỗi khác như: thiếu khả năng cơ động ở tốc độ đánh chặn, khó khăn khi hoạt động ở độ cao thấp và động cơ phản lực R-15B-300 thiếu hiệu quả với tốc độ siêu âm ở phạm vi chiến đấu ngắn. Vì lẽ đó, Liên Xô “âm thầm” nghiên cứu tiêm kích mới thay thế MiG-25.




Tiêm kích "tiền bối" MiG-25.


Và "người kế nhiệm", tiêm kích đánh chặn hạng nặng MiG-31.

Năm 1967, chương trình phát triển bắt đầu. Giai đoạn 1972-1975, nhà máy Mikoyan chế tạo nguyên mẫu MiG-31 mang tên Ye-155MP.

Ngày 16/9/1975, Ye-155MP (số hiệu 831) cất cánh lần đầu tiên dưới sự điều khiển của phi công thử nghiệm Alexandr Fedotov.

Năm 1976, nguyên mẫu thứ hai bay lần đầu. Các máy bay này đều đã hoàn thiện với hệ thống điện tử đầy đủ gồm cả radar Zaslon và cảm biến hồng ngoại.

Năm 1977, thêm 2 mẫu thử nghiệm nữa thử nghiệm bay. Các mẫu Ye-155MP này có sự đổi khác trong hệ thống vũ khí đó là thêm pháo 6 nòng cỡ 23mm Gsh-23M.

Cuối năm 1978, chương trình thử nghiệm hoàn thành. Trong quá trình đánh giá MiG-31, một số loại máy bay khác tham gia vào như Tu-104 lắp thử radar Zaslon, MiG-21 và MiG-25 thử nghiệm hệ thống tên lửa đối không R-33).

Năm 1979, dây chuyền sản xuất hàng loạt MiG-31 chính thức đi vào hoạt động. Chiếc MiG-31 cuối cùng chuyển giao năm 1994. Có tất cả 450 chiếc MiG-31 đã được sản xuất.Năm 1981, những tiêm kích đánh chặn MiG-31 đầu tiên được biên chế vào Không quân Liên Xô.

Những nhầm lẫn về MiG-31

Cũng giống như các thiết kế khác của Liên Xô, MiG-31 cũng bị bủa vây trong những suy đoán của tình báo Phương Tây.

Năm 1976, viên phi công phản bội tổ quốc, Viktor Belenko lái 1 chiếc MiG-25 chạy trốn sang Nhật Bản. Chỉ chờ có thế, người Mỹ như “chết đuối vớ được cọc” đã tích cực mổ xẻ MiG-25 và tìm ra được không ít bí mật.

“Kẻ phản bội” Belenko có lẽ nghe phong thanh về thiết kế mới của Liên Xô nên tiết lộ của Phương tây một số thông tin về loại máy bay mới. Belenko miêu tả thiết kế mới này là chiếc “Super Foxbat” với 2 chỗ ngồi, cửa hút khí giống với MiG-23 và có khả năng đánh chặn tên lửa hành trình. Thực tế, thì MiG-31 không hề giống với bất kỳ lời nói nào của Belenko.

Vệ tinh do thám của Phương Tây còn thu nhận được hình ảnh về loại máy bay lạ của Liên Xô hoạt động ở Trung tâm thử nghiệm Zhukovsky gần thị trấn Ramenskoye, họ suy đoán đây là phiên bản đánh chặn cánh cố định của chiến đấu cơ cánh cụp cụp cánh xòe và họ đặt tên nó là RAM-K. Trên thực tế, đây là chiến đấu cơ chiếm ưu thế trên không Sukhoi Su-27 “Flanker” không liên quan gì tới MiG-31.

Năm 1985, NATO mới có trong tay bức ảnh đầu tiên về MiG-31 do phi công Na Uy chụp được trên vùng biển Barent. Có những phỏng đoán cho rằng Liên Xô cố tính để lộ MiG-31 nhằm “quảng cáo” cho mẫu máy bay mới này.

Đặc điểm kỹ thuật

Kiểu dáng khí động học của MiG-31 đáp ứng yêu cầu bay tốc độ cao ở tầm thấp. Cấu trúc thân được hình thành từ: 49% thép Nikel, 16% Titan, 33% hợp kim nhôm và 2% composite.

Buồng lái MiG-31 thiết kế với hai chỗ ngồi: phi công ngồi trước và sĩ quan kiểm soát hệ thống vũ khí (Weapon system officer – WSO) ngồi sau. Sĩ quan WSO có trách nhiệm điều khiển hoạt động radar và triển khai vũ khí đối phó mục tiêu đối phương.

Việc sử dụng sĩ quan WSO cho phép giảm tải khối lượng công việc cho phi công chính và tăng thêm hiệu quả chiến đấu bởi sĩ quan WSO chỉ tập trung chiến đấu.


Hai vị trí ngồi của phi công và sĩ quan điều khiển vũ khí. Hai phi công đều trang bị ghế phóng khẩn cấp Zvezda K-36DM.

MiG-31 là chiến đấu cơ đầu tiên trên thế giới trang bị radar quét mảng pha điện tử chủ động, N007 Zaslon. Radar có tầm hoạt động 200km, bắt bám 10 mục tiêu và tiêu diệt 4 trong số đó cùng lúc.

MiG-31 còn trang bị cảm biến tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại (IRST), radar theo dõi trong khi quét (TWS), hệ thống radar cảnh báo sớm (RWR), thiết bị nhận diện bạn – thù (IFF), thiết bị truyền nhận dữ liệu không đối không và không đối đất.

Về hệ thống vũ khí, tiêm kích đánh chặn MiG-31 có khả năng tiêu diệt các mục tiêu trên không ở cả tầm ngắn, tầm trung và tầm xa. Chiến đấu cơ thiết kế một pháo Ghs-6-23M (6 nòng cỡ 30mm) đạt tốc độ bắn siêu nhanh 6.000-8.000 viên/phút (lượng đạn dự trữ 206 viên) phù hợp với không chiến tầm cực gần.

Hỏa lực đối không chủ lực của MiG-31 là 4 tên lửa không đối không tầm xa Vympel R-33. Tên lửa được dẫn đường bằng quán tính kết hợp radar bán chủ động. R-33 có tầm bắn khoảng 160km (hoặc 228km với biến thể R-33S).


Bốn tên lửa không đối không tầm xa R-33 lắp dưới thân.

R-33 lắp đầu đạn nặng 47,5kg cùng tốc độ hành trình Mach 4,5 sẽ là sự kết hợp hoàn hảo đủ sức tiêu diệt các loại máy bay trinh thám SR-71 hay “pháo đài bay” B-1, B-52 của Mỹ. Ngoài ra, MiG-31 mang được 4 tên lửa đối không tầm ngắn R-60 và 2 tên lửa tầm trung R-40TD1.

Tiêm kích đánh chặn siêu âm MiG-31 trang bị hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy Solovyev D-30F6 cho phép đạt tốc độ tối đa Mach 2,83 (3.000km/h), tầm hoạt động tối đa 3.300km, trần bay trên 20.000m.

Ở trần bay thấp, MiG-31 vẫn đạt tốc độ siêu âm Mach 1,2 (1.500km/h) và như vậy nó đã khắc phục được điểm yếu của MiG-25. Dù có tầm hoạt động lý thuyết lớn hơn 3.000km nhưng thực tế bán kính chiến đấu của máy bay chỉ khoảng 720km với tốc độ trung bình Mach 2,35.

Biến thể nâng cấp MiG-31BM

Thời kỳ Hậu Xô Viết, nền kinh tế Nga ảnh hưởng nặng nề, ngân sách quốc phòng cắt giảm mạnh dẫn tới việc nhiều loại vũ khí không được bảo dưỡng, hỏng hóc. Các đơn vị không quân MiG-31 cũng chịu chung số phận.

Thời điểm năm 1996, chỉ khoảng 20% số MiG-31 còn hoạt động tốt. Khi nền kinh tế Nga khởi sắc, ngân sách quốc phòng đảm bảo thì giới lãnh đạo Nga khôi phục hoạt động MiG-31.

Năm 2006, 75% số tiêm kích MiG-31 đưa vào hoạt động đầy đủ. Không quân Nga còn tiến hành hiện đại hóa MiG-31 kéo dài thời gian sử dụng đồng thời đáp ứng nhu cầu chiến tranh hiện đại.

Tháng 8/2010, Quân đội Nga công bố thông tin hoàn thành chương trình nâng cấp MiG-31 thành biến thể MiG-31BM. Với việc này, MiG-31 của Không quân Nga có thể phục vụ tốt trong nhiều năm tới.


Biến thể cải tiến MiG-31BM có khả năng mang nhiều vũ khí công nghệ mới.

MiG-31BM được trang bị radar mảng pha Zaslon M mạnh hơn radar đời đầu lắp trên MiG-31. Zaslon M có tầm hoạt động 300-400km, theo dõi 24 mục tiêu và tiêu diệt 6 trong số đó cùng lúc.

Buồng lái của máy bay tiện nghi hơn đem lại sự thoải mái cho phi công, nó được lắp màn hình HUD và màn hình màu tinh thể lỏng hiển thị thông số kỹ thuật bay cũng như tình trạng vũ khí.

Vũ khí đối không chủ lực của MiG-31BM là tên lửa tầm xa R-37 mạnh hơn so với R-33. R-37 có tầm bắn từ 150-398km, tốc độ hành trình Mach 6, hệ dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động, lắp đầu đạn nổ phân mảnh 60kg. MiG-31BM mang tên lửa đối không tầm ngắn - tầm trung tiên tiến hơn như R-73 và R-77.

MiG-31BM có thể thực hiện nhiệm vụ chế áp hệ thống phòng không đối phương (SEAD) bằng tên lửa chống radar Kh-31P, Kh-58. Trong nhiệm vụ không đối đất, MiG-31BM tấn công tiêu diệt mục tiêu bằng tên lửa đối đất Kh-29 hoặc tên lửa hành trình đối đất tầm xa Kh-59.

Dù có tới gần 500 chiếc được chế tạo nhưng MiG-31 không hề được xuất khẩu ra nước ngoài. Sau khi Liên Xô giải thể năm 1991, cũng như nhiều loại vũ khí khác. MiG-31 được chia cho các thành viên liên bang. Liên bang Nga thừa hưởng nhiều nhất (khoảng 400 chiếc) và một số ít cho Kazakhstan.

Thực tế, một vài quốc gia đã từng cố gắng nhập khẩu MiG-31. Điển hình là Trung Quốc, năm 1992 Quân đội Trung Quốc lên kế hoạch mua 24 MiG-31 của Nga. Họ dự tính nhập các bộ phận máy báy về lắp ráp tại nhà máy Thẩm Dương, với tốc độ “ra lò” 4 chiếc/tháng. Trung Quốc còn tính tới việc ký hợp đồng kèm chuyển giao giấy phép sản xuất 700 chiếc, ít nhất 200 chiếc sẽ đi vào phục vụ năm 2010. Dù vậy, hợp đồng “béo bở” này không bao giờ được thực hiện.

Sau đó, Trung Quốc thay thế bằng hợp đồng mua và lắp ráp Su-27/30. Trung Quốc đã ngang nhiên vi phạm bản quyền tự ý sao chép công nghệ Su-27 và cho ra đời thiết kế trái phép J-11.

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

>> Nga tuyên bố không 'chứa chấp' ông Gaddafi



Bộ trưởng Ngoại giao Nga, Sergey Lavrov tuyên bố nước này không sẵn sàng chấp nhận thủ lĩnh Libya tị nạn. Khả năng giải pháp cho cuộc chiến ở Libya xem ra còn xa vời.

Cộng tác viên chủ chốt của Viện kinh tế quốc tế và quan hệ đối ngoại IMEMO Georgy Mirsky nói với báo Izvestia: “Khó có khả năng đại tá Gaddafimột lúc nào đó đề nghị Nga hay một nước lớn nào đó cho phép tị nạn”. Theo ông, thường người ta chọn những nước nhỏ hơn để làm việc đó.

Hãy nhớ lại trường hợp của Quốc Vương Iran cuối cùng. Ông này đã không được Hoa Kỳ chập nhận sau cách mạng năm 1979 nên buộc phải “lang bạt” khắp thế giới. Do đó, nếu Gaddafi sẽ tìm nơi sống những ngày cuối đời, chắc là ông ta sẽ tìm một nước châu Phi nào đó. Hơn nữa, Libya đã từng giúp đỡ đáng kể cho nhiều nước trên lục địa này.

Dù ông Gaddafi không có ý định tị nạn và nhiều lần tuyên bố sẽ "tử thủ tới cùng", hành động khước từ của chính quyền Nga được ông Georgy Mirsky nhận định là "cố gắng giải quyết mọi chuyện trước khi nó xảy ra".



Tổng thống Gaddafi liệu có chọn giải pháp từ chức đi tị nạn không trước sức ép ngày càng lớn của Phương Tây.


Ông Sergey Lavrov cũng lưu ý là Nga không công nhận Hội đồng dân tộc chuyển tiếp Libya do những người chống lại chế độ cầm quyền lập nên. Đề nghị này đã được đưa ra tại hội nghị Nhóm tiếp xúc về Libya ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ.

Theo người đứng đầu Bộ Ngoại giao, Nga sẵn sàng công nhận Hội đồng như là một bên đàm phán. Chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu Cận Đông hiện đại ở Saint Petersburg Gumer Isaev nói: “Hội đồng dân tộc chuyển tiếp là tổ chức bù nhìn, nó không thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, và nếu công nhận nó là đại diện của toàn bộ Libya thì là không hợp pháp”.

Ông Georgy Mirsky cho rằng: “Phương Tây công nhận Benghazi. Nga thì đang gắng đứng trên cuộc tranh cãi, vì vậy nên nói về hai phía đàm phán. Tuy nhiên, khó có ai ở Libya lại đánh giá cao điều này. Gaddafi sẽ bảo là Moscow đã công nhận những kẻ chống ông ta, còn ở Benghazi thì mọi người lại nói chúng ta không ủng hộ họ hoàn toàn như phương Tây”.

[BDV news]


Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

>> Hải quân Nga không cần tên lửa bờ biển chiến thuật?



Sau khi hoàn tất phát triển và bắt đầu sản xuất loạt các hệ thống tên lửa chống hạm bờ biển Bastion và Bal, Nga đã trở thành nước dẫn đầu trên thị trường thế giới về lĩnh vực các hệ thống vũ khí này.





“Hải quân Liên bang Nga đang cực kỳ cần có các hệ thống vũ khí hiện đại
để chống các mục tiêu mặt nước cỡ nhỏ và trung bình” (Andrei Sedykh)


Hải quân Nga chỉ mua sắm và trang bị hệ thống tên lửa bờ biển chiến dịch-chiến thuật Bastion dùng để tiêu diệt các mục tiêu mặt nước cỡ lớn và xem nhẹ việc mua sắm các hệ thống tên lửa bờ biển chiến thuật Bal kém uy lực hơn. Xét tới thực tế là xung đột cục bộ ở các vùng ven bờ nhiều khả năng xảy ra hơn là một cuộc chiến quy mô lớn thì chính sách đó của Hải quân Nga xem ra là kém nhìn xa trông rộng.

Các hệ thống tên lửa chống hạm bờ biển hiện đại là các hệ thống vũ khí khá mạnh, có khả năng không chỉ giải quyết các nhiệm vụ phòng thủ bờ biển mà còn tiêu diệt các mục tiêu trên biển ở cự ly cách bờ hàng trăm kilômet. Thường được trang bị các phương tiện chỉ thị mục tiêu dành riêng, có khả năng hoạt động và cơ động cao, hệ thống tên lửa bờ biển hiện đại có độ bền vững chiến đấu cao và khó bị tổn thương kể cả khi đối phó với kẻ địch ghê gớm nhất. Các bối cảnh đó là một trong những nguyên nhân của sự chú ý bùng nổ mà ta chứng kiến trên thị trường vũ khí thế giới đối với các hệ thống tên lửa bờ biển thế hệ mới. Khả năng đang được tạo ra nhằm sử dụng các hệ thống tên lửa bờ biển làm vũ khí tên lửa tấn công mặt đất chính xác cao cũng tạo ra thêm những triển vọng mới.
Các hệ thống vũ khí chủ yếu của nước ngoài

Hiện nay, trên thị trường thế giới có mặt nhiều hệ thống tên lửa bờ biển, được trang bị hầu như tất cả các loại tên lửa chống hạm.

Harpoon (Boeing, Mỹ): Mặc dù phổ dụng trên thế giới, tên lửa chống hạm này chỉ được sử dụng cho hệ thống tên lửa bờ biển ở một số ít quốc gia: Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ai Cập và Hàn Quốc. Riêng Đan Mạch tự chế tạo hệ thống tên lửa bờ biển bằng cách sử dụng lại các bệ phóng tên lửa Harpoon gỡ từ các frigate bị loại bỏ vào đầu thập niên 1990.

Exocet (MBDA, Pháp): các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng tên lửa chống hạm thế hệ 1 Exocet ММ38 trước đây từng có trong trang bị của Anh (hệ thống Excalibur ở Gibraltar, năm 1994 được bán cho Chile) và Argentina (kiểu cải tiến, được sử dụng trong cuộc chiến tranh Falklands năm 1982), hiện được sử dụng ở Chile và Hy Lạp. Các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng các tên lửa hiện đại hơn Exocet ММ40 hiện có trong trang bị của Hy Lạp, Síp, Qatar, Thái Lan, Saudi Arabia (được chuyển giao vào nửa cuối thập niên 1980 và trong thập niên 1990) và ở Chile (tự sản xuất).

Otomat (MBDA, Italia) được sử dụng cho các hệ thống tên lửa bờ biển chuyển giao trong thập niên 1980 cho Ai Cập và Saudi Arabia.

RBS-15 (Saab, Thụy Điển): Hệ thống này ở biến thể bờ biển RBS-15K hiện có trong trang bị của Thụy Điển và Phần Lan (được chuyển giao trong thập niên 1980), còn ở Croatia, tên lửa chống hạm RBS-15 đang được sử dụng trong thành phần hệ thống tên lửa bờ biển nội địa MOL vốn được phát triển trong thập niên 1990. Saab đang tiếp tục tiếp thị hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng biến thể tên lửa mới nhất RBS-15 Mk 3.

RBS-17 (Saab, Thụy Điển) - biến thể cải tiến của tên lửa chống tăng Mỹ Hellfire. Sử dụng các bệ phóng hạng nhẹ trên bờ hiện có trong trang bị của Thụy Điển và Nauy.

Penguin (Kongsberg, Nauy): Từ những năm 1970, tên lửa chống hạm này được sử dụng cho các bệ phóng cố định của lực lượng phòng thủ bờ biển Nauy. Hiện nay, hệ thống này đã lạc hậu và đang bị loại khỏi trang bị.

NSM (Kongsberg, Nauy): Tên lửa chống hạm mới của Nauy, được chào bán cả dưới dạng một biến thể hệ thống tên lửa bờ biển cơ động. Cuối năm 2008, Ba Lan đã ký hợp đồng trị giá 145 triệu USD để mua 1 tiểu đoàn tên lửa bờ biển NSM, chuyển giao năm 2012. Đây là hợp đồng đầu tiên được biết đến mua bán hệ thống tên lửa bờ biển của Tây Âu trong một thập kỷ gần đây. Sau này, có thể cả Nauy cũng mua biến thể tên lửa bờ biển NSM.

SSM-1A (Mitsubishi, Nhật Bản): Tên lửa chống hạm của Nhật, trang bị cho các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động Type 88 của Nhật và không được xuất khẩu.

Hsiung Feng (Hùng Phong, Đài Loan): Họ tên lửa chống hạm mà Đài Loan sử dụng trong các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động và tĩnh tại cùng tên để phòng thủ bờ biển từ những năm 1970. Biến thể đầu tiên của tên lửa bờ biển này là Hsiung Feng I (HF-I) được chế tạo dựa trên tên lửa chống hạm cải tiến Gabriel Mk 2 của Isael.

Từ năm 2002, Đài Loan nhận vào trang bị hệ thống tên lửa bờ biển dạng cơ động HF-II, sử dụng tên lửa tầm xa hơn do Đài Loan phát triển. Sau này, không loại trừ khả năng Đài Loan chế tạo hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng tên lửa chống hạm siêu âm tối tân nhất của Đài Loan là HF-III. Các hệ thống này không được xuất khẩu.

HY-2 (Trung Quốc): Tên lửa chống hạm Trung Quốc (còn gọi là С-201), là mẫu cải tiến của tên lửa P-15 ra đời trong những năm 1960 của Liên Xô. Các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng HY-2 từ thập niên 1960 đã cấu thành nền tảng lực lượng phòng thủ bờ biển Trung Quốc, đồng thời được xuất khẩu sang Iraq, Iran, CHDCND Triều Tiên và Albania.

HY-4 (Trung Quốc): Biến thể cải tiến của HY-2, sử dụng động cơ turbine phản lực, được sử dụng trong lực lượng phòng thủ bờ biển Trung Quốc từ thập niên 1980. Sau năm 1991, các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng HY-4 đã được bán cho Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE). Các mẫu tương tự tên lửa này dùng cho nhiệm vụ phòng thủ bờ biển được sản xuất ở Iran (có tên là Raad) và Triều Tiên (Mỹ đặt tên là AG-1 và KN-01). Tên lửa này nay đã quá lạc hậu.

YJ-62 (Trung Quốc), còn gọi là С-602 - biến thể chống hạm của họ tên lửa hành trình hiện đại СJ-10, tương tự Tomahawk của Mỹ. Hệ thống tên lửa bờ biển cơ động С-602 được đưa vào trang bị trong những năm gần đây và là hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển chủ lực. Hiện chưa có thông tin về việc xuất khẩu tên lửa này.

YJ-7 (Trung Quốc) - họ tên lửa chống hạm hạng nhẹ hiện đại, bao gồm các tên lửa từ С-701 đến С-705. Iran đang sản xuất theo giấy phép С-701 với tên gọi Kosar, kể cả biến thể tên lửa bờ biển, và С-704 với tên gọi Nasr.

YJ-8 (Trung Quốc) - dòng tên lửa đối hạm hiện đại của Trung Quốc, bao gồm các tên lửa С-801, С-802 và С-803. Các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng С-802 hiện có trong trang bị của Trung Quốc, năm 1990-2000 được cung cấp cho Iran và theo một số nguồn tin là cho cả CHDCND Triều Tiên.

Có tin Thái Lan hiện đang dự định mua sắm các hệ thống tên lửa bờ biển này. Iran đã tổ chức sản xuất theo giấy phép tên lửa С-802 với tên Noor, các hệ thống tên lửa bờ trang bị tên lửa này đã được chuyển giao cho Syria và tổ chức Hezbollah ở Lebanon và đã được Hezbollah sử dụng trong cuộc chiến tranh Israel-Lebanon năm 2006.

Tình hình phát triển tên lửa bờ biển ở Liên Xô và Nga

Thời Liên Xô

Liên Xô thường rất chú ý đến việc nghiên cứu chế tạo các hệ thống tên lửa bờ biển, bởi vì chúng được xem là phương tiện phòng thủ bờ biển quan trọng trong điều kiện phương Tây chiếm ưu thế về hải quân. Đặc biệt, Liên Xô chế tạo các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng không chỉ các tên lửa chống hạm chiến thuật mà cả tên lửa chiến dịch-chiến thuật có tầm bắn trên 200 km.

Năm 1958, hệ thống tên lửa bờ biển cơ động đầu tiên của Liên Xô là 4К87 Sopka với tên lửa S-2 có tầm bắn đến 100 km (chi nhánh phân Viện thiết kế OKB-155, nay là MKB Raduga thuộc công ty “Tập đoàn vũ khí tên lửa chiến thuật [KTRV]ư, phát triển). Các tên lửa này đã được sử dụng cả cho các hệ thống tên lửa bờ biển cố định, kiên cố Strela (Utes), được xây dựng ở các hạm đội Biển Đen và Phương Bắc. Hệ thống Sopka là nền tảng lực lượng tên lửa-pháo bờ biển Liên Xô trong thập niên 1960 và được cung cấp cho nhiều nước thân hữu, nhưng đã bị loại bỏ hoàn toàn trong thập niên 1980.







Hệ thống tên lửa bờ biển Rubezh


Để thay thế hệ thống Sopka, Viện thiết kế chế tạo máy KGM ở Kolomna đã phát triển và đưa vào trang bị của Hải quân Liên Xô vào năm 1978 hệ thống tên lửa bờ biển cơ động 4К40 Rubezh, sử dụng loại tên lửa chống hạm phổ dụng của hải quân là P-15М có tầm bắn đến 80 km của Viện MKB Raduga.

Hệ thống Rubezh hoàn toàn tự hoạt và có bệ phóng và radar chỉ thị mục tiêu Garpun được lắp tích hợp trên cùng một xe ô tô (khung gầm MAZ-543М) theo đúng khái niệm “xuồng tên lửa trên bánh xe”.

Rubezh đã được hiện đại hóa trong thập niên 1980 và đến nay vẫn là hệ thống tên lửa bờ biển chủ lực của Hải quân Nga.

Trong thập niên 1980, biến thể xuất khẩu Rubezh-E đã được cung cấp cho CHDC Đức, Ba Lan, Rumani, Bulgaria, Nam Tư, Algeria, Libya, Syria, Yemen, Ấn Độ, Việt Nam và Cuba.


Sau khi Liên Xô sụp đổ, Ukraine được thừa hưởng một số hệ thống này, còn sau khi Nam Tư tan vỡ, các hệ thống Rubezh-E của họ thuộc quyền sở hữu của Montenegro và được nước này bán cho Ai Cập vào năm 2007.

Hiện nay, Rubezh được xem là đã lạc hậu hoàn toàn.

Liên Xô đã phát triển hệ thống tên lửa bờ biển 4К44B Redut trang bị tên lửa siêu âm P-35B có tầm bắn đến 270 km của OKB-52 (Nay là công ty NPO Mashinostroenia) với tư cách hệ thống cấp chiến dịch-chiến thuật cho Hải quân Liên Xô và đã nhận vào trang bị vào năm 1966.

Hệ thống sử dụng khung gầm cơ bản BAZ-135MB.



Hệ thống tên lửa bờ biển Redut


Sau này, Redut được hiện đại hóa và sử dụng tên lửa hiện đại hơn là 3M44 của hệ thống Progress vốn được nhận vào trang bị vào năm 1982 thay cho tên lửa P-35B.

Các hệ thống tên lửa bờ biển cố định Utes cũng được trang bị các tên lửa P-35B, sau đó là 3М44.

Trong thập niên 1980, các hệ thống Redut-E được cung cấp cho Bulgaria, Syria và Việt Nam.

Trong Hải quân Nga, Syria và Việt Nam, các hệ thống này tuy đã lạc hậu, song đến nay vẫn còn trong trang bị, trong đó các hệ thống của Việt Nam sau năm 2000 đã được hãng NPO Mashinostroenia hiện đại hóa theo chương trình Modern.

Hiện nay

Trong những năm 1980, để thay thế các hệ thống Redut và Rubezh, Liên Xô đã bắt đầu phát triển các hệ thống tên lửa bờ biển thế hệ mới sử dụng các tên lửa chống hạm tương lai (đó là các hệ thống Bastion và Bal), tuy nhiên do Liên Xô sụp đổ, mãi gần đây Nga mới hoàn thành các hệ thống này. Sau khi bắt đầu sản xuất loạt các hệ thống này, Nga đã trở thành nước dẫn đầu trên thị trường hệ thống tên lửa bờ biển và rõ ràng là sẽ giữ được ưu thế này trong thập niên tới, nhất là khi xét đến khả năng xúc tiến ra thị trường các hệ thống còn hiện đại hơn là Club-M và Bal-U.

Hệ thống tên lửa bờ biển chiến dịch-chiến thuật Bastion do NPO Mashinostroenia phát triển sử dụng tên lửa chống hạm siêu âm mới dòng 3М55 Oniks/Yakhont có tầm bắn đến 300 km. Hệ thống được chào bán dưới dạng cơ động (K300P Bastion-P) và cố định (Bastion-S), khi xuất khẩu hệ thống được trang bị tên lửa K310 Yakhont có tầm bắn đến 290 km.

Một hệ thống (tiểu đoàn) Bastion-P được biên chế 4 xe bệ phóng sử dụng khung gầm MZKT-7930 (mỗi bệ lắp 2 tên lửa), 1 xe điều khiển, cũng như có thể bố sung thêm các xe chỉ thị mục tiêu trang bị radar Monolit-B và các xe tiếp đạn.



Hệ thống tên lửa bờ biển Bastion


Năm 2006, Nga đã ký các hợp đồng bán 1 tiểu đoàn Bastion-P cho Việt Nam (giá khoảng 150 triệu USD) và 2 tiểu đoàn cho Syria (gần 300 triệu USD), đồng thời hợp đồng với Việt Nam cũng hầu như bù đắp chi phí cho phần nghiên cứu hoàn tất. Hệ thống Bastion-P với tên lửa yakhont đã được NPO Mashinostroenia chuyển giao cho cả hai khách hàng vào năm 2010.

Năm 2008, Bộ Quốc phòng Nga đã ký với NPO Mashinostroenia hợp đồng cung cấp 3 hệ thống 3K55 Bastion-P với các tên lửa Oniks/Yakhont để trang bị cho Lữ tên lửa-pháo bờ biển độc lập số 11 của Hạm đội Biển Đen, đóng ở khu vực Anapa. Cuối năm 2009-đầu năm 2010, lữ đoàn này được biên chế 2 hệ thống Bastion-P (trong cơ cấu quân đội Nga “diện mạo mới” chúng được gọi là các đại đội và được sát nhập thành 1 tiểu đoàn trong biên chế lữ đoàn), còn năm 2011, lữ này sẽ nhận hệ thống (đại đội) thứ ba.

Dự kiến hệ thống tên lửa bờ biển chiến thuật Rubezh trong Bộ đội tên lửa-pháo bờ biển của Hải quân Nga sẽ được thay thế bằng hệ thống tên lửa bờ biển cơ động 3К60 Bal sử dụng tên lửa chống hạm dưới âm, cỡ nhỏ 3М24 Uran có tầm bắn đến 120 km do hãng FGUP KB Mashinostroenia (nhà thầu chính) và các xí nghiệp thuộc KTRV nghiên cứu chế tạo.

Hệ thống Bal được biên chế 4 xe bệ phóng 3S60 lắp trên khung gầm MZKT-7930 (mỗi xe lắp 8 tên lửa); 2 đài điều khiển và liên lạc (SKPUS) với radar chỉ thị mục tiêu Garpun-Bal, lắp trên cùng loại khung gầm; 4 xe tiếp đạn. Tổng cơ số đạn tên lửa của hệ thống sẽ là 64 quả tên lửa chống hạm.

Để thử nghiệm và hoàn thiện, Nga đã sản xuất 1 hệ thống Bal ở cấu hình tối thiểu (1 xe SKPUS, 2 bệ phóng và 1 xe tiếp đạn), đã hoàn thành tốt đẹp thử nghiệm nhà nước vào mùa thu năm 2004. Hệ thống này được chuyển giao cho Hải quân Nga sử dụng thử và đang nằm trong biên chế Lữ đoàn tên lửa-pháo bờ biển độc lập số 11 của Hạm đội Biển Đen, mặc dù nó không có cơ số đạn tên lửa 3М24. Mặc dù được chính thức nhận vào trang bị vào năm 2008, Bộ Quốc phòng Nga vẫn chưa ký các hợp đồng sản xuất loạt hệ thống Bal. Biến thể xuất khẩu của hệ thống là Bal-E trang bị tên lửa xuất khẩu 3M24E đang được chào bán ra nước ngoài, nhưng cũng chưa có hợp đồng xuất khẩu hệ thống này được ký kết, mặc dù nhiều nước tỏ ra quan tâm đến Bal-E.



Hệ thống tên lửa bờ biển Club-M


Một hệ thống tên lửa bờ biển khác do OKB Novator (thuộc Tập đoàn phòng hông Almaz-Antei) đề xuất là hệ thống cơ động Club-M sử dụng các tên lửa hành trình họ Club (Kalibr) là 3М14E, 3М54E và 3М54E1 với tầm bắn đến 290 km. Hệ thống đang được chào bán xuất khẩu ở dạng cơ động, sử dụng các loại khung gầm khác nhau mang 3-6 tên lửa trên một bệ phóng (kể cả dạng container), nhưng hiện chưa có đơn đặt hàng mua các hệ thống này.

Một thiết kế khác được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2006 là biến thể hệ thống tên lửa bờ biển cơ động của loại tên lửa hạm-đối-hạm xuất khẩu nổi tiếng Moskit-E, trang bị tên lửa siêu âm 3М80E tầm bắn đến 130 km của KTRV (MKB Raduga). Các nhược điểm của hệ thống này là sự cồng kềnh của các tên lửa không còn là mới nữa và tầm bắn không đủ xa. Hệ thống tên lửa bờ biển Moskit-E cũng chưa có khách hàng.

Triển vọng trang bị cho Hải quân Nga

Được xem là hệ thống tên lửa bờ biển tương lai cơ bản của Hải quân Nga là hệ thống vạn năng Bal-U đang được phát triển với NPO Mashinostroenia là nhà thầu chính, dự kiến sử dụng các dòng tên lửa Oniks/Yakhont và Kalibr (có khả năng thay thế lẫn nhau) phối hợp với các phương tiện chỉ thị mục tiêu mới. Rõ ràng là trong khi chờ đợi hệ thống Bal-U sẵn sàng, Bộ Quốc phòng Nga không chịu đặt mua thêm các hệ thống tên lửa bờ biển Bastion và không mua sắm các hệ thống Bal với tên lửa 3М24.

Cần lưu ý là nếu nhận vào trang bị hệ thống Bal-U làm hệ thống tiêu chuẩn của các đơn vị tên lửa-pháo bờ biển của Hải quân Nga thì toàn bộ vũ khí tên lửa của ác đơn vị này đều là các hệ thống chiến dịch-chiến thuật. Và trong mọi tình huống, người ta sẽ sử dụng các tên lửa chống hạm uy lực mạnh, cực kỳ đắt tiền (với đầu đạn hạng nặng), siêu âm (ở trường hợp hệ thống Kalibr là với tầng siêu âm), dùng để tiêu diệt các tàu chiến cỡ lớn.
Về nguyên tắc, Hải quân Nga sẽ không có các hệ thống tên lửa bờ biển chiến thuật. Lựa chọn đó khó có thể coi là tối ưu cả từ giác độ quân sự, lẫn kinh tế.

Một khi xảy ra cuộc xung đột quy mô lớn thực sự, khó có khả năng các tàu chiến lớn của đối phương (ví dụ các tàu tuần dương và khu trục Mỹ trang bị hệ thống AEGIS, chứ chưa nói đến các tàu sân bay) xuất hiện trong vùng biển ven bờ biển Nga, tức là tự đặt mình vào tầm bắn của tên lửa bờ biển Nga. Đã qua từ lâu cái thời của phong tỏa đường biển gần, còn việc tấn công lãnh thổ Nga bằng tên lửa hành trình phóng từ biển của Hải quân Mỹ sẽ chỉ có thể thực hiện từ cự ly cách khá xa bờ, nằm ngoài tầm bắn của các hệ thống tên lửa bờ biển hiện có của Nga. Rõ ràng là, các cụm tàu sân bay chiến đấu và tàu chiến lớn của đối phương chỉ có thể tiến vào vùng biển gần của Nga sau khi đối phương giành được ưu thế hoàn toàn trên biển và trên không và chỉ sau khi tiêu diệt được các lực lượng phòng thủ bờ biển bằng vũ khí hàng không chính xác cao và tên lửa hành trình trong một chiến dịch tác chiến không-hải.

Những cũng phải nói rằng, tầm bắn khá xa vốn được coi là một trong những ưu điểm chính của các hệ thống tên lửa bờ biển chiến dịch-chiến thuật, sẽ khó đạt được một khi đối đầu với một địch thủ mạnh hơn do khó bảo đảm chỉ thị mục tiêu ở khoảng cách xa. Đối phương nếu như không ngăn chặn phá vỡ thì cũng sẽ gây khó khăn tối đa cho việc chỉ thị mục tiêu cho các hệ thống tên lửa bờ biển ở cự ly xa được bảo đảm bằng các phương tiện bên ngoài.

Ở phương án tồi tệ nhất, các hệ thống tên lửa bờ biển sẽ chỉ còn cách dựa vào các phương tiện radar của mình mà tầm hoạt động bị hạn chế bởi đường chân trời radar, tức là triệt tiêu các ưu thế mong đợi khi ta sử dụng các tên lửa tầm xa, đắt tiền.

Như vậy, các hệ thống tên lửa bờ biển sử dụng tên lửa chiến dịch-chiến thuật uy lực lớn, vốn định hướng để dùng chủ yếu trong các cuộc xung đột quy mô lớn chống các mục tiêu trên biển cỡ lớn và “công nghệ cao”, trên thực tế trong điều kiện xung đột như vậy sẽ vấp phải những hạn chế lớn về hiệu quả và hoàn toàn có khả năng là sẽ không thể hiện thực hóa đầy đủ tiềm lực chiến đấu của mình. Việc sử dụng các tên lửa Oniks để bắn các mục tiêu nhỏ trên biển trong các cuộc xung đột hạn chế rõ ràng là không hợp lý.

Trong khi đó, sự phát triển hiện nay của hải quân các nước láng giềng của Nga, cũng như các xu hướng tiến triển chung của các phương tiện chiến đấu hải quân nước nông cho ta căn cứ để dự đoán các phương tiện chiến đấu nhỏ (trong đó có các xuồng chiến đấu cỡ nhỏ và trong tương lai là các phương tiện chiến đấu không người lái) sẽ có vai trò gia tăng khi tác chiến ở vùng biển gần. Kể cả Hải quân Mỹ cũng chú ý ngày càng nhiều hơn đến việc phát triển các phương tiện đó. Như vậy, trong các vùng biển ven bờ của Nga, kịch bản căn bản có khả năng nhất đối với Hải quân Nga có vẻ không phải là sự hiện diện của “một số lượng nhỏ các mục tiêu lớn” mà là sự hiện diện của “một số lượng lớn các mục tiêu nhỏ”. Rõ ràng là Hải quân Nga đang rất cần các hệ thống vũ khí để đối phó với các mục tiêu mặt nước cỡ nhỏ và trung bình ở vùng biển gần, đặc biệt là ở các biển nội địa.

Một trong các hệ thống vũ khí chính để giải quyết loại nhiệm vụ đó phải là các tên lửa chống hạm dưới âm, cỡ nhỏ, rẻ tiền. Nga hiện có một hệ thống tên lửa đối hạm rất thành công và tin cậy là Uran với các tên lửa 3М24, cũng như biến thể bờ biển của nó là Bal.

Coi nhẹ việc mua sắm các hệ thống này cả dạng triển khai trên hạm tàu lẫn trên bờ là hoàn toàn không nhìn xa, trông rộng.

Việc tái định hướng Hải quân Nga sang đối phó với không chỉ các lực lượng lớn, mà cả các lực lượng nhỏ và xuồng (ít ra là ở Biển Đen, biển Baltic và biển Nhật Bản) phải được phản ánh trong việc xây dựng tất cả các binh chủng và lực lượng của Hải quân Nga, cả lực lượng hạm tàu, lẫn không quân hải quân và các đơn vị tên lửa-pháo bờ biển. Với lực lượng tên lửa-pháo bờ biển, tối ưu nhất là kết hợp mua sắm các hệ thống tên lửa bờ biển chiến dịch-chiến thuật Bastion-P và Bal-U với các tên lửa chống hạm uy lực mạnh và tốc độ cao Oniks và các hệ thống chiến thuật Bal với các tên lửa như Uran.

Cũng cần chỉ ra là giá của một quả tên lửa Oniks/Yakhont 3М55 đắt hơn một quả tên lửa Uran 3М24 khoảng 3-4 lần. Một đại đội tên lửa bờ biển Bastion-P với cơ số đạn tiêu chuẩn 16 tên lửa có giá gần tương đương (đúng ra là đắt hơn) một đại đội tên lửa bờ biển Bal với cơ số đạn tiêu chuẩn 64 tên lửa. Đồng thời, nếu để gây “tắc nghẽn” cho các kênh mục tiêu của các hệ thống phòng không hạm tàu hiện đại, thì một loạt 32 quả tên lửa dưới âm sẽ hiệu quả hơn là một loạt 8 quả tên lửa siêu âm.

Trên thực tế, giá cả cao của các hệ thống Bastion và Bal-U chắc chắn sẽ hạn chế việc mua sắm chúng hoặc kéo dài hơn thời gian chuyển giao chúng. Kết quả là nếu hải quân Nga không mua sắm các hệ thống tên lửa bờ biển chiến thuật thì các đơn vị tên lửa-pháo bờ biển của Hải quân Nga sau cả một thập kỷ nữa vẫn sẽ được trang bị chủ yếu là các hệ thống Redut và Rubezh, vốn sẽ hoàn toàn trở thành các “hiện vật trưng bày bảo ràng” vào lúc đó với hiệu quả chiến đấu không đáng kể. Cũng phải thấy rằng, tên lửa 3М24, như việc hiện đại hóa tên lửa này gần đây cho thấy, có tiềm năng hiện đại hóa lớn, cho phép với chỉ phí không lớn nâng cao đáng kể tính linh hoạt và hiệu quả sử dụng các hệ thống vũ khí tên lửa trang bị các tên lửa này.

[BDV news]


Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

>> Tên lửa hành trình siêu âm chiến lược 'Koala'



Giai đoạn đầu của những năm 1970, Liên Xô đã có ý tưởng phát triển một loại tên lửa hành hành trình đặc biệt có khả năng tốc độ vượt âm và tích hợp đầu đạn hạt nhân.


KH-90 là một loại tên lửa hành trình phóng từ trên không của Nga, được thiết kế bởi hãng tên lửa Raduga, có tầm bắn lên đến 3.000 km và có thể mang đầu đạn thông thường hoặc đầu đạn hạt nhân. Nó được dành cho các máy bay ném bom.

"Tên lửa chưa từng có"

Điển hình cho ý tưởng đó là tên lửa hành trình KH-90, có lịch sử phát triển bắt đầu từ năm 1971. Khi đó, các nghiên cứu tên lửa của Liên Xô đã đề xuất lên Hội đồng Bộ trưởng ý tưởng chế tạo tên lửa hành trình siêu âm chiến lược, có khả năng hoạt động ở độ cao thấp khác nhau của từng địa hình và tích hợp đầu đạn hạt nhân.

Tuy nhiên, ngay lúc đó, đề xuất này đã không nhận được phản hồi từ phía lãnh đạo chính quyền. Mãi tới năm 1975, khi Mỹ có ý tưởng tương tự, các nhà khoa học Liên Xô mới nhận được lệnh nghiên cứu và phát triển một loại tên lửa hành trình chiến lược mới.


Tên lửa hành trình siêu âm chiến lược KH-90 Koala.


Chính quyền Liên Xô đặt ra yêu cầu cho các nhà nghiên cứu phải hoàn thành dự án vào giữa năm 1982. Đến ngày 31/12/1983, nguyên mẫu tên lửa hành trình mới đầu tiên đã được thông qua có tên KH-90 Koala.

Qua quá trình thử nghiệm, tên lửa hành trình KH-90 mới đã đáp ứng về yêu cầu tốc độ của một tên lửa siêu âm chiến lược, đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển tên lửa hành trình cấp chiến lược.

Trong một loạt các cuộc thử nghiệm vào cuối những năm 1970, tên lửa KH-90 đạt được tốc độ siêu âm từ Mach 2,5 tới Mach 3. Khi đó các nhà nghiên cứu cho rằng, một tên lửa tầm chiến lược cần phải có tốc độ siêu âm lớn hơn, nên họ bắt tay vào việc nâng cấp tên lửa KH-90. Sang đầu những năm 1980, tên lửa hành trình KH-90 được cải tiến, nâng tốc độ siêu âm lên tới Mach 4.



Máy bay được trang bị tên lửa hành trình KH-90 Koala là máy bay ném bom chiến lược tầm xa Tu-160M.


Tại Triển lãm hàng không quốc tế MAKS-1997, trong gian trưng bày các loại tên lửa của Nga, khách thăm quan đã được chiêm ngưỡng một biến thể tên lửa siêu âm chiến lược mới KH-90 của Nga. Tên lửa được tích hợp hai đầu đạn có thể tấn công các mục tiêu ở khoảng cách 100 km ở giai đoạn phân tách từ độ cao 7-20km trên máy bay ném bom Tu-160M . Sau khi tách từ máy bay ở độ cao thích hợp, tên lửa lập tức mở cánh và bay theo quỹ đạo được lập trình sẵn, cánh của tên lửa có chiều dài khoảng 7m.

Theo các chuyên gia nghiên cứu về tên lửa của Nga, vào thời điểm đó các tên lửa thông thường có chiều dài khoảng 8-9 m, nhưng Tên lửa hành trình KH-90 có chiều dài lên tới 12 m, và vào thời điểm đó, không một quốc gia nào trên thế giới có một tên lửa hành trình siêu âm tiên tiến như của Nga.

Đại diện của Bộ quốc phòng Nga, Đại tá Yuri Baluyevsky cho biết, tên lửa KH-90 có thể vượt qua các hệ thống phòng thủ tên lửa khu vực với các trang bị các đầu đạn hạt nhân, tên lửa này có khả năng thay đổi đường bay tuỳ thuộc vào địa hình hoặc lãnh thổ của đối phương.

Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Tu-160 được chia cho các nước cộng hòa thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG. Hiện nay, Nga chỉ có 14 chiếc máy bay ném bom tầm xa Tu-160.

Chiến tranh Lạnh kết thúc, các hiệp ước cấm triển khai vũ khí hạt nhân đã hạn chế việc triển khai các tên lửa hạt nhân tầm xa, Nga đã thực hiện các nỗ lực để phát triển các biến thể của KH-90 với các đầu đạn thông thường.

Tên lửa được trang bị một động cơ turbofan R95-300, với các cánh bật ra khi bay ở vận tốc hành trình. Nó có thể được phóng từ trên độ cao lớn và thấp, và bay ở tốc độ siêu âm ở độ cao thấp.

Sau khi phóng, tên lửa triển khai động cơ, đuôi và cánh gấp. Tên lửa được điều khiển qua một hệ thống dẫn đường kết hợp với hệ thống dẫn đường tham chiếu địa hình sử dụng radar và hình ảnh lưu trữ trong bộ nhớ để tìm đến mục tiêu, với sai số khoảng 15 m.

NATO gọi KH-90 là AS-19 Koala, là loại tên lửa hành trình siêu âm chiến lược mang 2 đầu đạn hạt nhân, có tốc độ siêu âm Mach 4-5.
Đây được cho là tên lửa hành trình siêu âm hiện đại nhất trong giai đoạn đầu nghiên cứu và phát triển tên lửa hành trình chiến lược của Quân đội Nga.

[BDV news]


Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

>> Vũ khí phi hạt nhân uy lực nhất



Nga đã sản xuất và thử nghiệm thành công bom chân không được trang bị trên máy bay ném bom chiến lược Tu-160 và được gọi là "Cha các loại bom"

Theo các chuyên gia quân sự Nga, sức mạnh và độ hủy diệt của bom chân không hoàn toàn có thể so sánh được với đầu đạn hạt nhân.

Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, loại vũ khí này không gây ô nhiễm môi trường, giá thành để sản xuất cũng rẻ hơn nhiều so với sản xuất đầu đạn hạt nhân. Sự phát triển của loại vũ khí này hoàn toàn không vi phạm bất cứ điều ước nào của luật pháp quốc tế.

Trước đó, Mỹ là quốc gia đầu tiên phát triển và thử nghiệm thành công bom chân không vào năm 2003. Tại thời điểm đó, quả bom chân không của Mỹ được mạnh danh là “mẹ của tất cả các loại bom”.

Nga cũng đã phát triển một lối đi riêng của mình cho bom chân không, và được đặt tên là “cha của tất cả các loại bom”. Các thông số ghi nhận từ thử nghiệm cho thấy “Cha của các loại bom” vượt trội hơn nhiều so với “Mẹ của các loại bom”.



Cha của các loại bom được trang bị cho máy bay ném bom chiến lược Tu-160.


Bom chân không của Nga có khối lượng ít hơn của Mỹ nhưng sức mạnh của vụ nổ lại lớn hơn 4 lần, nhiệt độ tỏa tại tâm của vụ nổ cao hơn 2 lần, diện tích sát thương cao hơn 20 lần so với bom chân không của Mỹ.

Nguyên tắc hoạt động của bom chân không cũng khá đơn giản, chủ yếu dựa trên quá trình oxy hóa. Tương tự như vụ nổ khí metan trong các hầm mỏ, ứng dụng nguyên tắc của vụ nổ đám mây không khí UVCE. Tức là có thể tạo ra áp suất mà không cần có sự hiển diện của bình nén khí.

Nguyên liệu chế tạo bom chân không thường được trộn một tỷ lệ nhất định giữa vật liệu nổ và chất oxy hóa, thông thường theo tỷ lệ 15% và 75%.

Bom chân không sử dụng một loại đầu đạn đặc biệt có khả năng đốt cháy không khí tại tâm của vụ nổ từ đó tạo ra một vùng áp suất thấp. Vùng áp suất thấp này sẽ hút không khí từ xung quanh tạo thành một vùng không khí bị oxy hóa mạnh.

Vùng không khí bị oxy hóa này sẽ tỏa ra xung quanh và tạo thành sóng xung kích phá hủy tất cả mọi thứ trong một bán kính nhất định. Bán kính tàn phá của bom chân không tùy thuộc vào vùng áp thấp do đầu đạn tạo ra.



Vụ nổ của bom chân không tạo ra môt cột lửa hình nấm tương tự như vụ nổ hạt nhân.


Bom chân không “Cha các loại bom” của Nga được chế tạo từ hỗn hợp bao gồm nhiên liệu lỏng chất oxit ethylene cùng với một lượng hạt nano nhôm năng lượng cao.

Theo kết quả thử nghiệm, sóng xung kích tạo ra từ vụ nổ mạnh gấp 5-8 lần so với chất nổ thông thường. Phá hủy toàn bộ mọi thứ ở bán kính 90 mét từ tâm vụ nổ, ngay cả những cấu trúc cứng nhất.

Phá hủy hoàn toàn các kết cấu bê tông cốt thép ở bán kính 170 mét từ tâm vụ nổ, phá hủy toàn bộ nhà cửa với tường xây thông thường ở bán kính 300 mét, phá hủy một phần cấu trúc nhà cửa ở bán kính 400 mét. Làm vở kính cửa ở bán kính 1120 mét, hạ gục một người ở bán kính 2290 mét.

Tờ báo Telegraph của Anh gọi sự kiện thử nghiệm thành công bom chân không của Nga là “Một thách thức đối với phương Tây”.

Bom chân không có nhược điểm là không thể sử dụng dưới nước. Song bom chân không lại tỏ ra rất hữu ích trong việc tiêu diệt đối phương ở trong các đường hầm căn cứ kiên cố.

Tuy là vũ khí phi hạt nhân, nhưng với sức mạnh và sự tàn phá của nó, bom chân không vẫn được coi là một vũ khí giết người hàng loạt. Việc sử dụng vào chiến tranh của loại vũ khí này sẽ một thảm họa đối với nhân loại.

Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ cũng đã từng sử dụng một loại bom có nguyên tắc hoạt động tương tự là bom napan.

[BDV news]


>> Mỹ đối xử với Đông Nam Á như Gruzia?



"Khi xe tăng Nga tiến vào nhanh chóng chia cắt và chiếm giữ phần lớn Gruzia cũng như hủy diệt quân đội quốc gia này thì phản ứng của Mỹ chỉ dừng lại ở những phát biểu phản đối".

Vào ngày 22/6, trong chuyến thăm Honolulu, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải cảnh báo quan chức Mỹ rằng “các quốc gia đó (các nước Đông nam Á) đang đùa với lửa” và hy vọng ngọn lửa đó sẽ “không lan tới Mỹ”.

Đó là một thông điệp ẩn dụ rõ ràng của Trung Quốc: Mỹ đừng có tham dự vào cuộc tranh chấp về quần đảo Trường Sa, nơi mà 5 quốc gia đang đấu tranh với Trung Quốc để đòi chủ quyền.

Trong bối cảnh căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc đang gia tăng bất chấp mối quan hệ tương đối thân thiện mà hai quốc gia theo đuổi từ năm 1990, nhiều quan chức Mỹ đã bày tỏ sự “quan ngại sâu sắc” và tiến hành tăng cường mối quan hệ với đồng minh lâu năm trong khu vực là Philippines.

Trong cuộc gặp với đô đốc Mike Mullen vào ngày 11/7, tướng Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc cho rằng cuộc diễn tập giữa Mỹ cùng Philippines và hoạt động chung với Việt Nam là hành động “vô cùng bất hợp lý”.

Với 3 cuộc chiến đang diễn ra từng ngày trên sa mạc nóng bỏng của vùng Trung Đông, quan chức Mỹ sẽ phải cân nhắc rất nhiều giữa việc sử dụng “sức mạnh mềm” hay là quân đội để tìm lối ra cho các cuộc tranh chấp mới trong khu vực Đông Nam Á.

Chấm dứt thời kỳ “tấn công ru ngủ”?

Theo học giả Joshua Kurlantzick, Trung Quốc đã tiến vào Đông Nam Á trong suốt một thập kỷ vừa qua bằng chiến lược “Tấn công ru ngủ” với trung tâm là các hiệp định thương mại tự do với những thành viên ASEAN .

Trong vòng gần một thập kỷ trở lại đây, khu vực biển Đông đã trải qua những ngày tháng tương đối yên bình sau khi tuyên bố ứng xử trên biển Đông (DOC) được ký kết giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, giúp giải tỏa những căng thẳng trong các cuộc đụng độ hải quân vào năm 1988 và căng thẳng năm 1990.

Nhưng khi tàu ngầm nguyên tử của Trung Quốc tiến vào căn cứ ở đảo Hải Nam thì những quan ngại lại tiếp tục dấy lên trong toàn khu vực.

Căng thẳng bùng phát vào đầu năm 2009, khi một đội tàu Trung Quốc truy đuổi tàu do thám của Mỹ khi tàu này hoạt động trong vùng biển quốc tế gần đảo Hải Nam. Trên thực tế, những chiến dịch do thám đó vẫn được Mỹ tiến hành liên tục kể từ thời chiến tranh lạnh trên toàn bộ vùng biển bao quanh Trung Quốc.

Trước đó, vụ việc gây sự chú ý của dư luận là vụ va chạm giữa máy bay và tàu hải quân của hai bên. Một người thiệt mạng khi máy bay do thám gặp nạn gần đảo Hải Nam của Trung Quốc vào tháng 4/2001.

Năm 2010, căng thẳng đạt tới đỉnh điểm khi Bắc Kinh mập mờ tuyên bố biển Đông là một trong “lợi ích cốt lõi” Trung Quốc. Điều này chính thức đánh dấu một bước ngoặt cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc.



Đoàn quân sự Việt Nam thăm tàu sân bay USS Washington (Mỹ).


Thái độ và sự can dự Mỹ

Diễn đàn khu vực ASEAN diễn ra vào tháng 7/2010 là chất xúc tác cho căng thẳng bùng nổ. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố sự tự do đi lại trong khu vực biển Đông là lợi ích quốc gia của Mỹ và cảnh báo bất cứ bên nào có liên quan không được sử dụng hoặc đe dọa quân sự. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì bị bất ngờ và phản ứng một cách giận dữ với tuyên bố của bà Hillary.

Tháng 8/2010, Tàu sân bay USS George Washington đón các vị khách là quan chức quân sự Việt Nam, với ý nghĩa "Mỹ muốn tăng cường quan hệ với quân đội Việt Nam". Đáp trả, Trung Quốc tiến hành tập trận lớn trên biển.

Đầu năm 2011, căng thẳng tiếp tục leo thang khi Philippines tố cáo Trung Quốc xâm lấn vùng biển của họ và Việt Nam công bố vụ việc Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh. Theo các chuyên gia, đây là hành động thể hiện Trung Quốc “không hài lòng” khi Việt Nam tiếp tục tiến hành thăm dò trên biển.

Mỹ đáp trả tức thời trong Cuộc họp an ninh châu Á ở học viện nghiên cứu chiến lược quốc tế vào tháng 6: Bộ trưởng bộ quốc phòng Mỹ - ông Robert Gates nhắc tới việc triển khai tàu chiến tại Singapore và tăng cường hợp tác hải quân trong khu vực.

Mỹ luôn tập trung vào vấn đề “Tự do hàng hải” – chính sách cốt lõi của Mỹ trong khi ứng xử với các quốc gia trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong khi đó, Trung Quốc là quốc gia vận tải đường biển lớn nhất thế giới cũng dựa rất nhiều vào khả năng di chuyển tự do trong khu vực.



Sau những sự ủng hộ ngoại giao và quân sự, Mỹ chọn cách bỏ rơi đồng minh nhỏ bé Gruzia khi xe tăng Nga tiến về phía Tbilisi.

Mỹ sẽ can thiệp quân sự vào khu vực?

Nhắc lại cuộc chiến tại Gruzia vào năm 2008, khi căng thẳng leo thang giữa Nga và Gruzia, Mỹ đã cho đồng minh mới của mình nhiều ưu ái đặc biệt và thậm chí cử nhiều cố vấn quân sự tới đây. Nhưng khi xe tăng của Nga tiến vào quốc gia láng giềng nhỏ bé, nhanh chóng chia cắt và chiếm giữ phần lớn Gruzia cũng như hủy diệt quân đội Gruzia thì phản ứng của Mỹ chỉ dừng lại ở những phát biểu phản đối.

Cuối cùng, Mỹ cũng đứng ngoài vận mệnh của một quốc gia nhỏ bé không có tầm quan trọng đối với nền an ninh của Mỹ để tránh một cuộc xung đột lớn hơn với Nga. Đây là một bài học rõ ràng cho các quốc gia Đông Nam Á.

Sự thật là Đông Nam Á không có nhiều ảnh hưởng đến cán cân quyền lực của thế giới. Một loạt các nước nhỏ và nghèo trong khu vực không đủ sức tạo ra ảnh hưởng tới cục diện của toàn cầu. Những quốc gia trung bình như Việt Nam, Indonesia và Australia theo lẽ tự nhiên sẽ tự đứng dậy chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Nếu cuộc chiến xảy ra vì những cụm đảo nhỏ tại biển Đông, nền an ninh quốc gia của Mỹ không bị ảnh hưởng nhiều.

Vùng biển Đông cũng rất quan trọng đối với các quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc, tuy nhiên họ sở hữu các hạm đội tàu chiến lớn và hiện đại và sẽ là một bước thử khó khăn hơn đối với tham vọng của Trung Quốc.



Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ là liều thử "nặng đô" tiếp theo cho tham vọng của Trung Quốc.


Như vậy, nhiều khả năng Mỹ sẽ phải cân nhắc rất kĩ trước khi đưa ra bất cứ hành động “quá tay” nào và có lẽ nguyên tắc ứng xử cơ bản của Mỹ tại biển Đông chính là không can dự quân sự.

Mỹ sẽ vẫn áp dụng chính sách “giơ cao đánh khẽ” khi giải quyết các vấn đề liên quan tới biển Đông và tìm lối thoát cho bế tắc bằng chính sách ngoại giao linh hoạt, thực tế và mềm mỏng.

Hướng đi đúng đắn nhất trong tương lai đối với tất cả các bên chính là đàm phán và đối thoại đa phương. Đây cũng chính là kênh giải quyết hợp lý nhất ngay đối với cả Trung Quốc, vì kể từ năm 1979, quốc gia này đã không dùng các chiến dịch tấn công quân sự lớn để giải quyết tranh chấp biên giới trên đất liền.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang