Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

>> Mỹ kết án tử hình với 'Bóng ma trên biển'





Hải quân Mỹ đã quyết định cắt làm sắt vụn chiến hạm độc đáo Sea Shadow (Bóng ma trên biển), được đóng trong thập niên 1980 theo công nghệ tàng hình.


Sea Shadow là tàu chiến tàng hình đầu tiên trên thế giới. Công nghệ tàng hình đòi hỏi tạo ra cho vật thể hình dáng hình học sao cho tán xạ tối đa sóng radar. Ngoài ra, còn có các vật liệu đặc biệt để bảo vệ tàu tàng hình trước radar. So với các tàu thông thường, tầm phát hiện tàu tàng hình chỉ bằng 1/3 nên tạo ra ưu thế chiến lược trong tác chiến.

Hai mạn của tàu Sea Shadow được thiết kế nghiêng tạo một góc 45 độ và tựa trên các phao ngầm dưới nước, đáy tàu được nâng lên trên mặt nước. Tàu được trang bị thiết bị bảo vệ tăng cường, tạo ra quanh tàu một đám mây bụi nước, làm cho nó khó bị radar và các sensor nhiệt phát hiện. Tất cả các mối hàn trên thân cũng được phủ bằng hợp chất đặc biệt.

Sea Shadow đã được thử nghiệm ban đêm để tránh các vệ tinh do thám của Liên Xô. Nhưng Hải quân Mỹ đã không thể giữ kín hoàn toàn bí mật của mình. Năm 1995, một trong các kỹ sư tham gia chế tạo Sea Shadow đã bị bắt và kết án vì bán bí mật quân sự.


Sea Shadow xuất cảng.


Sau mấy năm thử nghiệm, Lầu Năm góc kết luận, dù chỉ chạy ở tốc độ thấp, tàu này cũng dễ bị radar phát hiện, các bức màn nước cũng chẳng giúp ích gì. Vì thế với chi phí đóng và khai thác 195 triệu USD, Sea Shadow bước vào ngõ cụt trong phát triển công nghệ hải quân.

Sea Shadow nổi danh khi được sử dụng trong thập niên 1990 để quay bộ phim “Ngày mai không lụi tàn” (Tomorrow never dies) trong loạt phim về điệp viên 007 James Bond, phát hành năm 1997. Theo cốt chuyện, một tàu tàng hình thuộc về trùm truyền thông Elliot Carver và khi ở trong hải phận Trung Quốc đã được sử dụng để khiêu khích một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Anh.

Sau bộ phim này, con tàu thử nghiệm Sea Shadow chẳng dùng được vào việc gì nữa. Hải quân Mỹ đã hy vọng một tư nhân nào đó mua lại con tàu, song cuối cùng họ chẳng tìm được khách hàng nào mặc dù tuyên bố tiêu hủy con tàu đã thu hút nhiều sự quan tâm.



Mô hình của tàu quái dị Sea Shadow.

Dù có sẵn tiền thì chẳng phải tư nhân nào cũng có thể mua Sea Shadow. Người ta không thể để nó trong sân một ngôi nhà bình thường vì nó dài gần 48m, rộng hơn 30m và nó cũng không được bảo quản cẩn thận cho lắm.

Một đại diện của nhà sản xuất Lockheed Martin cho biết, trong 4-5 năm gần đây, con tàu không hề được bảo quản, sửa chữa vì thế việc tu sửa nó phải do khách mua tàu tự lo.

Năm 2009, người ta đã thảo luận vấn đề chuyển giao tàu Sea Shadow cho bảo tàng, song không bảo tàng hải quân nào tỏ ý muốn nhận lấy vật trưng bày độc đáo này. Dẫu sao hiện thời chưa phải là mất tất cả vì đại diện Hải quân Mỹ Chris Johnson nói rằng, cho đến phút cuối vẫn có thể tìm ra người mua.


[BDV news]


>> Nhật, Mỹ công bố chương trình hợp tác quốc phòng mới





Nhật và Mỹ vừa tuyên bố tiếp tục hợp tác trong chương trình phòng thủ tên lửa và những vấn đề an ninh chung.


Nhật Bản và Mỹ vừa ký cam kết tiếp tục hợp tác với nhau trong chương tình phòng thủ tên lửa, an ninh mạng, lĩnh vực không gian cũng như mở rộng chia sẻ thông tin tình báo, giám sát và các hoạt động thăm dò.

"Chúng tôi đã nhất trí về một khung hợp tác sản xuất để chuyển phòng thủ tên lửa đánh chặn cho các bên thứ ba, tăng cường hợp tác về trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai cũng như lĩnh vực không gian và an ninh mạng", Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates nói trong cuộc họp ngày 21/6.




Trong chương trình lá chắn tên lửa, bộ trưởng Quốc Phòng của Nhật và Mỹ quyết định sẽ nghiên cứu kỹ thêm các vấn đề trước khi chuyển bản thiết kế tên lửa chống tên lửa SM-3 Block IIA cho các công ty sản xuất. Hai nước đồng ý cử ra Ủy ban chung về vũ khí và kỹ thuật quân sự để giám sát các hoạt động chuyển giao này.

Nhật và Mỹ cũng đồng ý thúc đẩy đối thoại về đa dạng hóa nguồn cung cấp các nguồn tài nguyên quan trọng, vật liệu bao gồm năng lượng và đất hiếm.

Tuyên bố của Ủy ban tư vấn an ninh Mỹ - Nhật cũng cho biết 2 bên đồng ý mở rộng các hoạt động đào tạo, tập huấn chung cũng như tiếp tục các hoạt động nghiên cứu chung của 2 bên.

Ngoài ra, 2 nước tiếp tục mở rộng và chia sẻ thông tin tình báo, các dữ liệu giám sát và trinh sát để ngăn chặn và chủ động đối phó với các tình huống khác nhau trong khu vực.

Mỹ cũng tái khẳng định sẽ bảo vệ Nhật Bản cũng như hòa bình và an ninh trong khu vực bằng cả những cách thông thường và lực lượng hạt nhân. Cụ thể, Mỹ cam kết sẽ điều chỉnh thế trận phòng thủ khu vực để giúp Nhật giải quyết những thách thức như sự gia tăng của công nghệ hạt nhân, tên lửa đạo đạo và các mối đe dọa đang phát triển khác đến từ không gian, đại dương và internet.

Trong lĩnh vực không gian, 2 quốc gia thừa nhận tiềm năng hợp tác trong tương lai trong việc xây dựng hệ thống vệ tinh dẫn đường, nâng cao nhận thức về không gian dưa trên các vùng hàng hải và việc sử dụng các bộ cảm biến. 2 Bộ trưởng cũng nhất trí tăng cường khả năng phục hồi các cơ sở hạ tầng quan trọng bao gồm cả việc bảo mật hệ thống thông tin.

Đặc biệt, nhiều thỏa thuận chiến lược giữa Nhật và Mỹ có liên quan đến các hoạt động gần đây của Trung Quốc và Triều Tiên. Theo đó, Trung Quốc đã phát triển tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay mà Mỹ xem là mối đe dọa cho hải quân nước này. Đồng thời, Triều Tiên cũng được xem có những bước thành công trong việc chế tạo tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.

Ngoài ra, 2 bên cũng đặt nhiều sự quan tâm tới các thử nghiệm của hệ thống chống vệ tinh của Trung Quốc trong những năm gần đây.


[BDV news]


Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

>> Ấn Độ chi 100 tỷ rupee mở rộng căn cứ hải quân





Hải quân Ấn Độ đã sẵn sàng chi khoảng 100 tỷ rupee cho dự án mở rộng căn cứ hải quân chiến lược Karwar tại bang Karnataka. Tàu sân bay INS Vikramaditya, tàu ngầm tấn công Scorpene các một số tàu chiến khác dự kiến sẽ được đặt tại căn cứ này trong tương lai.


Tuyên bố được đưa ra vào thời điểm Ấn Độ đang phải đối mặt với khả năng Trung Quốc có thể sử dụng cảng biển nước sâu Gwadar tại Pakistan làm nơi triển khai tàu chiến. Cảng Gwadar của Pakistan được Trung Quốc giúp đỡ xây dựng từ thập kỷ trước và kéo dài cho tới bây giờ.




Trước đó, thông tin này được Bộ trưởng Quốc phòng Pakistan Ahmed Mukhtar khẳng định khi công khai tuyên bố Islamabad đã yêu cầu Bắc Kinh xây một căn cứ hải quân tại Gwadar, tạo ra lối vào trực tiếp tới khu vực vùng Vịnh.

Mặc dù, Trung Quốc sau đó đã nhanh chóng phủ nhận không quan tâm gì đến việc thiết lập một căn cứ hải quân tại Gwadar, nhưng vai trò lo lớn của Bắc Kinh trong việc xây dựng các cảng ở Bangladesh, Myanmar và Sri Lanka lại khẳng định nỗ lực của Trung Quốc trong việc thực hiện chiến lược “chuỗi ngọc trai” của nước này tại khu vực Ấn Độ Dương.

Pakistan có 5 căn cứ hải quân và cảng biển lớn tại Gwadar, Ormara, Karachi, Pasni và Jiwani, trong khi đó căn cứ Karwar của Ấn Độ là căn cứ hải quân lớn thứ ba sau Mumbai và Visakhapatnam, thuộc bờ biển phía Đông.

“Sau một thời gian trì hoãn, Bộ quốc phòng đã chuẩn bị một báo cáo giải trình cho Ủy ban An ninh Nội các (CCS) về giai đoạn 2A của dự án “Seabird” tại Karwar sau khi điều chỉnh báo cáo dự án chi tiết”, một quan chức cho hay.

Dự án Seabird vẫn còn nhùng nhằng do sự trì hoãn lâu dài, và rắc rối khác liên quan đến vấn đề ngân sách kể từ khi được phê duyệt vào năm 1985 với chi phí ban đầu là 3,5 tỷ rupee. Giai đoạn 1 đã hoàn thành với tổng chi phí là 2,63 tỷ rupee, cho phép hải quân đặt 11 tàu chiến tại Karwar.

Trong gia đoạn 2, ngoài vai trò là cảng cho tàu neo và cập bến, Karwar còn là một căn cứ không quân, kho vũ khí, xưởng sửa chữa và đóng tàu, và hầm chứa tên lửa. Mục tiêu cuối cùng nhằm đặt khoảng 50 tàu chiến lớn tại Karwar sau khi giai đoạn 2B hoàn tất.

Sau khi hoàn tất công việc xây dưng, Hải quân Ấn Độ sẽ triển khai hai nhóm chiến đấu trên tàu sân bay INS Vikramaditya 44.570 tấn và tàu sân bay nội địa 40.000 tấn, dự kiến sẽ được biên chế vào 2015. Karwar là một căn cứ quan trọng cho hoạt động của lực lượng hải quân Ấn Độ tại Ấn Độ Dương và xa hơn nữa.


[Vitinfo news]


>> Học giả quốc tế bác bỏ 'đường lưỡi bò' của Trung Quốc





Nhiều học giả quốc tế phản bác các lập luận của Trung Quốc về "cơ sở lịch sử" của đường lưỡi bò, trong Hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông đang diễn ra tại Washington, Mỹ.


Sau khi ông Su Hao, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế của Đại học Ngoại giao Bắc Kinh, có bài phát biểu về tuyên bố chủ quyền cũng như chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông, ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc phụ trách chính trị và an ninh của Ban Thư ký ASEAN, lên tiếng: "Tôi không cho rằng Công ước của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) công nhận lịch sử là cơ sở để tuyên bố chủ quyền".

Đảo Đá Lớn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: TTXVN.


Theo Vietnamplus, giáo sư Peter Dutton thuộc Đại học Hải quân Mỹ, không đồng tình với cách giải thích của Trung Quốc về ý nghĩa của đường lưỡi bò liên quan tới lịch sử. Ông nói: "Về quyền tài phán đối với các vùng biển, lịch sử không liên quan gì cả, mà phải tuân theo UNCLOS."

Tiến sỹ Dutton cũng nói rằng việc dùng lịch sử để giải thích chủ quyền làm xói mòn các quy tắc của UNCLOS.

Nhà nghiên cứu nổi tiếng, giáo sư Carlyle Thayer từ Học viện Quốc phòng Australia nói rằng việc học giả Trung Quốc sử dụng "di sản lịch sử" để giải thích về tuyên bố chủ quyền một lần nữa bộc lộ việc thiếu cơ sở pháp lý theo luật quốc tế trong tuyên bố chủ quyền này.

Cũng liên quan đến khía cạnh luật quốc tế, bà Caitlyn Antrim, Giám đốc Ủy ban Pháp quyền Đại dương của Mỹ, khẳng định tuyên bố đường 9 đoạn (đường lưỡi bò) không có cơ sở theo luật quốc tế bởi cơ sở lịch sử là rất yếu và rất khó bảo vệ.

Bà Antrim nói: "Tôi không hiểu Trung Quốc tuyên bố cái gì trong đường lưỡi bò đó. Nếu họ tuyên bố chủ quyền với các đảo do đường ấy bao quanh, thì câu hỏi đặt ra là họ có chứng minh được chủ quyền với các đảo đó hay không. Nếu Trung Quốc có tuyên bố chủ quyền với các đảo từ 500 năm trước, nhưng sau đó lại bỏ trống thì tuyên bố chủ quyền trở nên rất yếu. Đối với các đảo không có cư dân sinh sống thì họ chỉ có thể tuyên bố lãnh hải, chứ không thể tính vùng đặc quyền kinh tế từ các đảo đó."

Trong phiên thảo luận buổi chiều 20/6, các học giả Bonnie Glaser của Mỹ, Trần Trường Thủy của Việt Nam, Carl Thayer của Australia và Ian Storey của Singapore đã trình bày về các diễn biến gần đây trên Biển Đông, đưa ra cách giải thích cho các sự kiện này.

Trước câu hỏi của học giả Trung Quốc về việc tại sao các sự kiện giữa tàu Trung Quốc và tàu thăm dò của Việt Nam lại xảy ra vào thời điểm này, tiến sĩ Trần Trường Thủy nói: "Đây cũng là câu hỏi của chúng tôi. Tại sao tàu Trung Quốc lại cắt cáp tàu thăm dò của Việt Nam vào thời điểm ngay trước khi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như Hội nghị Shangri-la".

Tại hội thảo, ngoài các học giả còn có bài phát biểu của Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia John Negroponte và một số quan chức của Mỹ.

Về tình hình tại Biển Đông, Thượng nghị sĩ McCain nói: "Một trong nhưng nguyên nhân chính làm xấu thêm những căng thẳng tại Biển Đông và khiến cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp tại đây trở nên khó khăn hơn là thái độ hiếu chiến của Trung Quốc và tuyên bố chủ quyền mà Trung Quốc muốn thúc đẩy."

Hội thảo sẽ tiếp tục trong buổi sáng ngày 21/6 với các phiên thảo luận về tính hiệu quả của các khuôn khổ và cơ chế an ninh trên biển hiện nay cho Biển Đông và các đề xuất chính sách nhằm thúc đẩy an ninh trong khu vực.

[Vnexpress news]



>> Radar Nga 'kết án tử’ máy bay tàng hình Mỹ





Thành trì công nghệ cao vững vàng trong hàng thập kỷ qua của Không quân Mỹ có thể sụp đổ trong vài năm nữa.

Ngày nay, công nghệ Stealth (tàng hình) mang lại cho các máy bay Mỹ khả năng dễ dàng xâm nhập qua hệ thống phòng không đối phương. Nhưng chẳng bao lâu nữa, Không quân Mỹ sẽ mất đi ưu thế này - đó là tuyên bố chấn động nêu trong báo cáo của cựu Barry Watts, cựu Giám đốc Chương trình Phân tích và đánh giá (Program Analysis and Evaluation) thuộc Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và nay là chuyên viên cao cấp của Trung tâm Đánh giá chiến lược và ngân sách (Center for Strategic and Budgetary Assessments).

Theo ông, việc hoàn thiện các cảm biến phòng không có thể vô hiệu hóa những ưu thế của công nghệ Stealth, điều này đặc biệt có liên quan tới các máy bay tàng hình có người lái.

Một tuyên bố như vậy có vẻ rất choáng bởi lẽ Không quân Mỹ chủ yếu dựa vào công nghệ tàng hình và dự định chi cho các công nghệ này 500 tỷ USD trong 30 năm tới.

Dựa trên các đánh giá chuyên gia, ông Barry Watts cho rằng, trong tương lai sắp tới, tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ radar sẽ triệt tiêu hoàn toàn ưu thế độ bộc lộ radar thấp của các máy bay như B-2, F-22 và F-35.



Mẫu máy bay F-117A đã "xưng hùng, xưng bá" vào thời kỳ đầu của công nghệ tàng hình.


Hiện nay, Nga và Trung Quốc đang phát triển các loại radar VHF và UHF, có khả năng phát hiện và bám các máy bay tàng hình. Các chuyên gia Czech cũng chế tạo các hệ thống thụ động (không phát bức xạ) phát hiện bức xạ của radar, máy thu hình, điện thoại di động và các tín hiệu khác phản xạ từ bề mặt máy bay tàng hình.

Những hệ thống phát hiện tương tự có thể triệt phá hoàn toàn ưu thế kéo dài 30 năm qua của Mỹ trong đột phá phòng không mà họ tạo lập được sau khi đưa vào trang bị máy bay F-117 vào cuối thập kỷ 1980 và sau đó củng cố ưu thế đó bằng các máy bay B-2 và F-22.

Hiện nay, USAF có vài trăm máy bay tàng hình và dự định mua hơn 1.700 tiêm kích tàng hình F-35 và 100 máy bay ném bom tàng hình mới. Ở ý nghĩa nào đó, chỉ tới lúc này, khi quân đội được trang bị ồ ạt kỹ thuật mới, công nghệ Stealth mới đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên đỉnh cao này lại trùng với sự xuất hiện của các phương tiện phát hiện mới khiến người ta nghi ngờ tính xác đáng của việc hy sinh những tính năng chiến đấu quan trọng để đổi lấy độ bộc lộ thấp (tàng hình).

Khác với Không quân Mỹ, Hải quân Mỹ tiếp cận vấn đề đột phá phòng không theo một cách khác: Dựa vào tác chiến điện tử và tiêu diệt nhanh chóng các phương tiện phát hiện của kẻ địch bằng tên lửa có điều khiển. Chính vì vậy, Hải quân Mỹ ưa thích sử dụng các tiêm kích cũ trang bị nặng. Tuy nhiên, ngay cả Hải quân Mỹ cũng dự định mua sắm tiêm kích tàng hình F-35C, loại máy bay rút cục có thể không có hiệu quả như trù định.



F-35C, thiết kế lận đận của công nghệ quốc phòng Mỹ.


Dĩ nhiên, giới quân sự Mỹ đang cố gắng tìm cách loại trừ mối đe dọa xuất phát từ các thiết kế mới của Nga và Trung Quốc.

Trước hết, đó là khả năng trong tương lai của thiết bị điện tử hàng không của F-35 sẽ cho phép điều chỉnh ở thời gian thực quỹ đạo bay để đáp lại mối đe dọa bất ngờ. Cả F-117 và B-2 đều không có tính năng này.

Trên thực tế, F-35 phải phát hiện nhanh radar và bay vòng qua khu vực nguy hiểm hoặc ra tay sử dụng vũ khí tấn công phủ đầu. Thật khó nói, thủ đoạn này sẽ ứng phó ra sao với các hệ thống phát hiện thụ động, ngoài ra ưu điểm chính của công nghệ Stealth là “lọt qua” trường radar dày đặc của đối phương mà không bị phát hiện cũng mất đi.

Một biện pháp khác để “cứu vãn” F-35 là khả năng dùng radar của nó với anten quét điện tử (anten mạng pha) để chế áp phòng không đối phương: rải nhiễu và thậm chí phát tán phần mềm độc hại vào hệ thống điều khiển/chỉ huy.

Tuy nhiên, đó là trong tương lai, hơn nữa, không khả năng nào trong số đó giải thích được vậy thì chế tạo ra cấu trúc bộc lộ thấp mà vì nó người ta phải hy sinh nhiều tính năng quan trọng cho một máy bay quân sự như tải trọng chiến đấu và dự trữ nhiên liệu để làm gì.




Công nghệ tàng hình của Mỹ chỉ thích hợp với các máy bay như Х-47B.


Barry Watts lưu ý rằng, Nga và Trung Quốc đã bắt đầu chương trình chế tạo tiêm kích tàng hình của họ, nhưng theo ông, sự suy giảm vai trò của máy bay tàng hình có người lái sẽ là tất yếu cùng với nhiều thay đổi to lớn khác trên chiến trường tương lai gần. Rõ ràng, ông muốn nói đến tiềm năng của các máy bay tiến công không người lái dạng như Х-47B hay Phantom Ray.

Chỉ có máy bay không người lái mới có khả năng hiện thực hóa tối đa tiềm năng của độ bộc lộ thấp dù dù chỉ vì kích thước của chúng và những yêu cầu không thật cao về các phẩm chất bay.

[BDV news]


>> 86% dân mạng Trung Quốc hiểu sai về Việt Nam




Trung Quốc cho rằng, căng thẳng trên biển Đông bắt nguồn từ Việt Nam, hàng ngàn cư dân mạng nước này đã đề xuất 2 phương án để đối phó với Việt Nam.


Dù căng thẳng trên biển Đông bắt nguồn từ những hành động xâm phạm chủ quyền và gây hấn của Trung Quốc. Tuy nhiên đa phần người dân Trung Quốc lại hiểu sai bản chất vấn đề, họ cho rằng Việt Nam cùng với một số quốc gia khác trong ASEAN đang là những nước gây căng thẳng tình hình biển Đông.

Thời báo Hoàn Cầu Trung Quốc đã tổ chức một cuộc thăm dò trực tuyến đối với 13.000 người tham gia, trong đó có 86% hiểu sai về Việt Nam và không hiểu rõ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển.

Cuộc khảo sát này còn đưa ra các kiến nghị liên quan đến tình hình biển Đông, theo đó, dân mạng Trung Quốc cho rằng, tùy thuộc vào tình hình, cần sẵn sàng chuẩn bị cho 2 phương án:

- Thương lượng với Việt Nam cho một giải pháp hòa bình trên biển Đông
- Đáp trả các “khiêu khích” bằng các hành động chính trị, kinh tế, thậm chí là cả quân sự cho các tranh chấp trên biển Đông.

Đa phần các ý kiến nghiêng về phương án hai, vấn đề còn lại và tùy thuộc vào thái độ của Việt Nam trên biển Đông.



Dân mạng Trung Quốc rất tự tin vào sức mạnh hải quân của nước này.


“Việt Nam đang có những hành động nguy hiểm trên biển Nam Trung Hoa (cách Trung Quốc gọi tên biển Đông), chiếm 29 đảo của Trung Quốc, đã đạt được một số lợi ích nhất định từ khí đốt và dầu mỏ tại biển Đông” là một trong hàng ngàn các ý kiến gởi về Thời Báo Hoàn Cầu.

Họ còn cho rằng, "các hành động của Việt Nam đã đẩy tới giới hạn “lợi ích và phẩm giá” của người Trung Quốc".

Thậm chí, dân mạng Trung Quốc coi hành động xâm phạm chủ quyền của các tàu, thuyền Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và phá hoại tàu thuyền Việt Nam là điều hoàn toàn đúng đắn, bất chấp thực tế, chính các tàu thuyền Trung Quốclà nhân tố gây hấn trên biển Đông chứ không phải là Việt Nam.

Nếu truyền thống của Trung Quốc là “gác lại các tranh chấp, cùng nhau phát triển” vậy hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và phá hoại các hoạt động hợp pháp của Việt Nam nên hiểu như thế nào? Hay đây chỉ là một truyền thống khác của người Trung Quốc: “truyền thống bắt nạt và gây hấn”.

Trung Quốc đã phát tín hiệu cứng rắn, theo đó, nước này sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình trên biển Đông. Các ý kiến trên mạng tiếng Trung lớn tiếng: "Cần phải hiểu rằng, nếu Trung Quốc quyết định tấn công, sẽ lấy lại tất cả các hòn đảo mà Việt Nam chiếm đóng trước đây. Nếu Việt Nam muốn bắt đầu một cuộc chiến với Trung Quốc, Bắc Kinh đã có đủ sự tự tin để tiêu diệt các tàu chiến Việt Nam, bất chấp sự phản đối có thể có từ cộng đồng quốc tế".

Trên mạng Trung Quốc cũng cho đăng ý kiến của ông Zhuang Guotu, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á tại ĐH Hạ Môn nói với Thời báo Hoàn Cầu: “ Mấu chốt của vấn đề đang nằm trong tay Việt Nam và Trung Quốc, Trung Quốc cần phải kiềm chế, duy trì quan hệ tốt với láng giềng là lợi ích của Trung Quốc, tuy nhiên, Việt Nam cũng cần phải chủ động giảm bớt các căng thẳng, tôn trọng Tuyên bố ứng xử trên biển Đông đã ký giữa các bên liên quan”.

Có thể ông Zhuang đã phát biểu điều này mà lờ đi tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Singapore, yêu cầu Bắc Kinh làm rõ tuyên bố chủ quyền của mình ở biển Đông. Hành động “mơ hồ” trong tuyên bố chủ quyền và lợi ích trên biển Đông khiến cộng đồng quốc tế, đặc biệt là ASEAN không thể không lo lắng.

Nhưng không, ông Zhuang cũng nhắc tới Singapore trong một phát ngôn cho rằng, tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Singapore đứng về phía Mỹ trong vấn đề tranh chấp biển Đông, lôi kéo lực lượng bên ngoài vào ASEAN, cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Á - Thái Bình Dương.

[BDV news]


>> Philippines sẽ chi gần 1 tỷ USD hiện đại hóa quân sự




Chính phủ Phillipines sẽ chi 40 tỷ peso (tương đương hơn 914 triệu USD) để nâng cấp các trang thiết bị quân sự trong vòng 5 năm bắt đầu từ năm 2012.

Quyết định được đưa ra giữa lúc căng thẳng trên biển Đông đang dâng cao. Như vậy, kể từ năm sau, ngân sách quân sự bổ sung mỗi năm của đảo quốc này sẽ là 8 tỷ peso thay vì 5 tỷ như hiện nay.

Tướng Brig.Gen.Roy Deveraturde, người đứng đầu lực lượng vũ trang Phillipines (AFP) khi trả lời tờ Manila Standard Today cho biết: “Nâng cấp trang thiết bị không phải là sự chuẩn bị cho bất cứ xung đột nào, cũng không phải chạy đua cho một cuộc chiến tranh”.

Người đứng đầu hải quân Philippines, Phó Đô đốc Alexandra Pama cho biết việc phân bổ kinh phí vẫn đang được cân nhắc nhưng hải quân sẽ chiếm một phần lớn của chương trình này.

“Những thiết bị của chúng tôi đã quá cũ nhưng chúng tôi vẫn phải sử dụng chúng để hoàn thành nhiệm vụ”, ông Pama nói thêm khi trả lời đài phát thanh dzPH.

Phillippines có 53 tàu chiến trong biên chế nhưng chỉ có 26 tàu hoạt động hiệu quả. Những con tàu này có tuổi thọ trung bình là 36,4 tuổi. Các tàu lớn hơn – như tàu khu trục Humabon đã 66 - 67 tuổi.Trong số 7 tàu vận tải của hải quân nước này, chỉ có 3 tàu 15 tuổi hiện đang sử dụng, tất cả những tàu không hoạt động được đều đã 64 tuổi.


Tuần duyên hạm Hamilton - Một phần trong kế hoạch hiện đại hóa quân sự của Philippines


Với nguồn kinh phí bổ sung, quân đội Philippines sẽ trang bị các thiết bị mới như trực thăng tuần tra bằng cảm biến, trực thăng tìm kiếm cứu nạn, máy bay vận tải, nâng cấp tàu biển và cải tạo tuần duyên hạm Hamilton... nhằm củng cố và nâng cao sức mạnh hải quân, bảo vệ lãnh thổ.

Tuy nhiên ít nhất 7 nhà lập pháp phản đối kế hoạch tăng ngân sách quân sự. Ông Teodoro Casino – đại biểu Đảng Bayan Muna cho rằng mức chi ngân sách như vậy là quá lớn.

"Tại sao chính phủ lại chi hàng tỷ cho tàu chiến, máy bay, trong khi chúng ta thậm chí không có đủ giáo viên, sách, ghế cho trường học? Năm 2011, chính phủ cũng đã phải thừa nhận thiếu khoảng 100.000 giáo viên, 150.000 lớp học, 13.500.000 ghế, và 95.500.000 sách giáo khoa".

Ông Casino đề xuất ý kiến chính phủ nên kiểm kê lại các nguồn quỹ, xem xét các cáo buộc tham nhũng thông qua các hợp đồng mua bán quân sự suốt hàng thập kỷ qua. "Xung đột với Trung Quốc và các bên liên quan về biển đảo có thể được giải quyết một cách hòa bình, " ông Casino nói.

Trước những nghi ngại trên, tướng Deveraturde khẳng định: “Ngân sách chương trình hiện đại hóa quân sự sẽ không bị lãng phí, tôi có thể hứa như vậy. Đây là một nguồn hỗ trợ lớn. Chúng tôi sẽ sử dụng thích hợp, hồ sơ mua bán luôn minh bạch và bất cứ ai nhìn vào đều có thể thấy rõ điều đó”.

[BDV news]


>> TNS John McCain: Mỹ phải giúp các nước ASEAN





“Mỹ phải giúp đỡ các quốc gia Đông Nam Á xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển để đối phó với những hành động “hung hăng” của Trung Quốc tại biển Đông”

Nước Mỹ cũng nên viện trợ cho 10 quốc gia ASEAN “xây dựng hệ thống phòng thủ và phát triển các các hệ thống cơ bản như radar cảnh báo sớm và tàu an ninh ven biển”, ông McCain phát biểu tại Hội nghị An ninh Hàng hải trên biển Đông.

Hội nghị do Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS tổ chức trong hai ngày 20 – 21/6 với sự tham gia của các học giả và giới chính khách đến từ nhiều quốc gia Mỹ, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Ấn Độ...

Căng thẳng xung quanh vấn đề tranh chấp biển Đông đã gia tăng liên tục trong tháng qua. Việt Nam và Philippines đã lên tiếng tố cáo các tàu Trung Quốc quấy phá tàu thăm dò dầu khí của các quốc gia này.

Ông McCain, Thượng Nghị sĩ người tiểu bang Arizona, thành viên Đảng Cộng hòa, đồng thời thành viên của Ủy ban Quân sự Thượng viện thẳng thừng nói: “Những hành vi và những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc đang làm cho căng thẳng trên biển Đông ngày càng trầm trọng”.


Thượng nghị sĩ John McCain: “Mỹ phải giúp đỡ các quốc gia Đông Nam Á xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển để đối phó với những hành động “hung hăng” của Trung Quốc tại biển Đông”.


“Những biến động đang diễn ra tại khu vực châu Á Thái Bình Dương sẽ có vai trò quyết định đến sự phát triển của thế kỷ này”, ông McCain nhấn mạnh.

Do vậy, ông kêu gọi Tổng thống Barack Obama xác lập vị trí của nước Mỹ tại khu vực tranh chấp và có những hành động hỗ trợ cho các nước trong khu vực.

Hôm 13/6, ông Jim Webb, Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ bang Virginia, hiện là Chủ tịch Tiểu ban Thượng viện về chính sách của Mỹ với Đông Á và ông James Inhofe, Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa bang Oklahoma cũng đã lên án những hành vi “sử dụng vũ lực” của các tàu Trung Quốc.

[BDV news]


>> Phạm Xuân Ẩn và huyền thoại nghề báo khiến Mỹ 'chết sặc'





Một cuộc đời có một không hai, một điệp viên huyền thoại, ông - không ai khác - chính là Thiếu tướng tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhà báo Phạm Xuân Ẩn.

Khi ông Phạm Xuân Ẩn mất, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nguyên Bí thư trung ương Đảng Trần Quốc Hương (tức ông Mười Hương) vinh danh ông là niềm tự hào của ngành tình báo Việt Nam; còn thế giới thì đánh giá ông là 1 trong những điệp viên cừ khôi nhất của thế kỷ XX.

Nguồn thạo tin nhất ở Sài Gòn

Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, nhà báo Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12/9/1927 tại Biên Hòa và mất ngày 20/9/2006 tại TP Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi.

Phạm Xuân Ẩn gia nhập cách mạng từ những ngày đầu cuộc chiến năm 1945 và hoạt động với vai trò tình báo chiến lược. Năm 1957, ông là sinh viên Việt Nam đầu tiên đến học về báo chí ở quận Cam và sống ở California trong hai năm. Ngày nay trong cuốn niên giám của trường Đại học Columbia của Mỹ, ở trang 2 in hình và giới thiệu về chàng sinh viên Việt Nam với tên Pham An, như mọi cuốn kỷ yếu của các trường học. Nhưng không ai biết được ngoài việc học thực sự kiến thức, chàng sinh viên ấy đã trở thành Đảng viên Cộng sản từ năm 1953, được chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tuyển vào Chiến khu D từ 1952.



Một cuộc đời có một không hai, một điệp viên nhị trùng huyền thoại, ông – không ai khác – chính là Thiếu tướng tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhà báo Phạm Xuân Ẩn.


Trở về nước, ông bắt đầu sự nghiệp trong thập niên 1960 cho hãng tin Reuters, rồi đến Herald Tribune của New York và The Christian Science Monitor. Cuối cùng, trở thành người Việt chính thức duy nhất của tạp chí Time suốt 11 năm, chứ không phải cộng tác viên địa phương.

Những người cùng thời nhận xét, nhà báo Phạm Xuân Ẩn được giới báo chí miền Nam Việt Nam trong những thập niên 60-70 cực kỳ kính nể với nguồn tin bài phong phú và cách đánh giá nhìn nhận nhiều chiều. Theo Laura Palmer, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nguồn thạo tin nhất ở Sài Gòn và rất nhiều phóng viên phải phụ thuộc vào ông.

Trong suốt thời gian hoạt động tại Sài Gòn đến những năm giải phóng 1975, Phạm Xuân Ẩn bằng những mối quan hệ rộng lớn của một nhà báo, cùng khả năng khai thác và phân tích thông tin của mình, đã bí mật gửi cho Trung ương những tin tức tình báo quý giá, góp phần làm nên những thắng chiến thắng lịch sử của dân tộc ta như: trận Ấp Bắc 1963, trận Khe Sanh 1968, trận Đường 9 Nam Lào 1971 …; đồng thời, đập tan Kế hoạch chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Báo chí Mỹ từng viết: "Bây giờ chúng ta mới biết được đó chỉ là phân nửa công việc của Ẩn với tư cách một phóng viên. Và chưa phải là phân nửa đáng nói. Ẩn còn gửi đều đều những tài liệu quân sự mật và thông tin viết bằng mực vô hình cho Bắc Việt, bây giờ được khóa kín trong văn khố của tình báo Việt Nam. Dùng chiếc máy đánh chữ hiệu Hermes mà cơ quan tình báo Bắc Việt mua cho, Ấn đánh tài liệu, có lúc dài đến hàng trăm trang vào lúc nửa đêm. Sau đó, ông chụp phim, cuộn tròn, gửi đến Củ Chi, nơi đặt tổng hành dinh trong lòng đất của Việt Cộng. Từ năm 1952, cứ cách vài tuần Ẩn lại rời văn phòng Sài Gòn, lái xe khoảng 20 dặm đi về hướng bắc để đến Hố Bò, rồi lẩn vào những đường hầm để nghiên cứu về chiến thuật cho phe Cộng sản. Từ Củ chi, tài liệu của Ẩn được quân hộ tống đưa đến núi Bà Đen ở biên giới Campuchia, rồi tới Nam Vang, từ đây được đưa bằng máy bay đến Guangzhou (Quảng Đông) ở phía Nam Trung Hoa và rồi được chuyển nhanh về cho bộ chính trị ở Bắc Việt Nam..."



Đánh giá về những tin tức tình báo của Phạm Xuân Ẩn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Dường như chúng ta có mặt ngay trong phòng tác chiến của Mỹ”.


Đánh giá về những tin tức tình báo của ông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Dường như chúng ta có mặt ngay trong phòng tác chiến của Mỹ”. Còn Đại tướng Văn Tiến Dũng nhờ những tin tức đánh giá sắc sảo của Phạm Xuân Ẩn, mà “giúp Bộ Chính trị hạ quyết tâm nhanh hơn để giải phóng Sài Gòn”. Tổng bí thư Lê Duẩn sau khi nhận được báo cáo của ông đã biểu dương cơ quan tình báo quân sự và coi đây là “chiến công có tầm cỡ quốc tế”.

Quá hiểu địch!

Những đánh giá phân tích sắc gọn và tinh tế của Phạm Xuân Ẩn là kết quả của nhiều năm miệt mài học tập tại nước Mỹ, tiếp thu và vận dụng một cách linh hoạt nhất những gì ông nắm bắt được về đất nước con người Mỹ; kết hợp với những năm tháng chiến đấu trong lòng Sài Gòn, giữa một bên là chính quyền bù nhìn miền Nam Việt Nam và một bên là đế quốc thực dân kiểu mới. Ông có một lợi thế không ai sánh bằng!

Trong vai trò là nhà tình báo chiến lược, những báo cáo kế hoạch của ông sinh động và chính xác đến không ngờ. Chính ông trong giai đoạn 1963 – sau khi anh em Ngô Đình Diệm bị đảo chính – đã khẳng định Mỹ chưa chịu ngừng tay ở Việt Nam, cho dù nhiều cấp trên của ông đã nghĩ khác. Phải đến tận năm 1965, Mỹ mới chính thức công bố tiếp tục tăng viện cho miền Nam Việt Nam. Sở dĩ Phạm Xuân Ẩn tự tin như vậy vì ông hiểu người Mỹ hơn ai hết.

Tuyệt vời hơn, khi bước sang giai đoạn 1972-1975, khi miền Bắc Việt Nam còn chút do dự sau những tổn thất nặng nề của cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, Phạm Xuân Ẩn tin chắc thời cơ lật đổ chính quyền bù nhìn Sài Gòn đã điểm. Ông phân tích dựa trên những dữ kiện mình có trong tay về nước Mỹ: chiến dịch Linebacker ném bom phá hoại miền Bắc không làm nhụt ý chí chiến thắng của dân tộc, Nixon sau đó mất chức, Henry Kissinger thua trên bàn đàm phán Paris trong cuộc đấu trí với Lê Đức Thọ, phong trào phản chiến đang lan rộng trên thế giới; đây là lúc để kết thúc cuộc chiến. Đúng như ông đã báo cáo, tháng 4 năm 1975, cuộc tổng tiến công giải phóng Sài gòn đã đập tan hơn 1 triệu lính miền Nam Việt Nam, cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã giành toàn thắng.

Người Mỹ nói về Phạm Xuân Ẩn

Vì sao sau khi đất nước giải phóng, cả nước và thế giới biết rõ ông là tình báo, vậy mà người Mỹ trong giới báo chí hoạt động cùng thời với ông nay trở lại Việt Nam vẫn đem lòng tin tưởng và kính trọng ông? Đó là một nhân cách, một tài năng. Đời ông là một câu trả lời lớn cho nhiều câu hỏi vẫn làm đau đầu nhiều người bạn Mỹ của ông. Đến hôm nay họ quay lại đất nước này vẫn tìm ông để mong có câu giải đáp vì sao Mỹ thất bại ở Việt Nam. Vì sao một trí thức giỏi và sống có nhân cách theo “kiểu Mỹ” như ông Ẩn lại có thể là người đứng trong tổ chức chặt chẽ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, của ngành tình báo vốn đầy hiểm nguy? Có những người Mỹ là bạn cũ trong giới báo chí của ông, nay đã mất nhưng dặn lại con cái họ sang Việt Nam hãy tìm đến ông Ẩn. Họ nói sẽ học được nhiều ở con người đó...



Vì sao sau khi đất nước giải phóng, cả nước và thế giới biết rõ ông là tình báo, vậy mà người Mỹ trong giới báo chí hoạt động cùng thời với ông nay trở lại Việt Nam vẫn đem lòng tin tưởng và kính trọng ông?


David Halberstam, bạn của Ẩn khi còn là phóng viên của Time tại Việt Nam nói: "Câu chuyện của Ẩn làm tôi sực nhớ ngay đến Graham Greene. Nó đề cập đến tất cả những câu hỏi căn bản: trung thành là gì? yêu nước là gì? sự thật là gì? anh là ai khi anh nói ra những sự thật đó? và có một sự mâu thuẫn trong con người Ẩn mà chúng ta hầu như khó tưởng tượng được. Nhìn lại, tôi thấy ông là người bị chẻ làm đôi”.
Trong một quyển sách viết về Việt Nam xuất bản năm 1965, tự đề “Sự hình thành một vũng lầy”, Halberstam mô tả Ẩn như một cây đinh chốt “nhỏ nhưng rất quan trong trong một mạng lưới tình báo của các nhà văn và nhà báo. Anh ta có những đầu mối tiếp cận giới quân sự tốt nhất trong xứ này”. Bây giờ khi Halberstam biết rõ câu chuyện của Ẩn, anh ta có tức giận không? Không! Anh phản ánh đúng quan điểm của của hầu hết mọi đồng nghiệp của Ẩn: “Đây là một câu chuyện phức tạp. Nhưng tôi vẫn yêu Ẩn! Tôi không cảm thấy bị phản bội. Anh ta phải cư xử như một người Việt Nam trong giai đọan bi thương của lịch sử đất nước mình. Không thể nào làm khác hơn được".

[BDV news]


Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011

>> Philippines sắp mua tàu ngầm





Hải quân Philippines dự định trong 9 năm tới mua 1 tàu ngầm để bảo đảm an ninh quốc gia, Jane's Navy International cho hay.

Quyết định này phù hợp xu hướng xây dựng quân đội trong khu vực - trong 2 năm gần đây, các nước láng giềng của Philippines như Indonesia, Malaysia, Singapore và Việt Nam đều đã bắt tay vào xây dựng và củng cố hạm đội tàu ngầm.

Đại diện hải quân Phillipines tiết lộ với Jane's, hiện nay họ đang tiến hành các nghiên cứu nhằm xác định các yêu cầu của nước này đối với tàu ngầm và đánh giá luận cứ cho các kế hoạch này. Trên cơ sở các nghiên cứu này, hải quân Phillipines dự kiến sẽ chuẩn bị đề xuất với Bộ Quốc phòng trong năm tới.

Đại diện hải quân Phillipines cho biết, hiện còn quá sớm để nói đó sẽ là một tàu ngầm mới hay là tàu ngầm đã qua sử dụng. Những khó khăn kinh tế của Philippines nhiều khi đã thúc đẩy họ mua các loại vũ khí trang bị đã qua sử dụng. Chẳng hạn, chiếc tàu cũ của lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ USCGC Hamilton sẽ được chuyển giao trong năm nay để làm kỳ hạm mới của hải quân Phillipines.

Hải quân Phillipines cần có 1 tàu ngầm để mở rộng khả năng tuần tra các vùng biển mà dự đoán là có trữ lượng dầu khí lớn. Các vùng biển này lại có sự tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc và các nước láng giềng trong khu vực và tất cả các nước này đều hoặc là mới mua sắm hoặc chuẩn bị mua sắm tàu ngầm.

Việc mua sắm tàu ngầm là bộ phận của “Kế hoạch hải quân năm 2020” (Sail Plan 2020) xác định chiến lược cân bằng có tính tới những khó khăn tài chính của đất nước của hải quân Philippines. Theo các tài liệu của hải quân Philippines, kế hoạch xác định các nhu cầu của họ về khả năng phản ứng nhanh hơn với các mối đe dọa, xây dựng “các mục tiêu hải quân tin cậy” và xây dựng “các khả năng hải quân hiện đại” vào cuối thập kỷ.

Việc chuyển giao Hamilton cũng là một phần của kế hoạch hiện đại hóa cũng như việc mua sắm các tàu đốc đổ bộ vốn đang ở giai đoạn đàm phán giữa hải quân Philippines và hãng đóng tàu Indonesia PT Pal. Trong số các nhu cầu của hải quân Philippines có bao gồm 1 máy bay tuần tra của không quân bờ biển, 2 tàu tuần tra ven bờ và ít nhất 2 trực thăng đa dụng.

Kinh phí cho các vụ mua sắm này được dự trù trong “Chương trình nâng cao khả năng của Philippines” (Philippines' Capability Upgrade Program). Chương trình gồm 3 giai đoạn, trùng với các nhiệm kỳ tổng thống: 2005-2010, 2011-2016 và 2017-2022. Giai đoạn 2 hiện nay trù tính chi 1 tỷ USD cho mua sắm quốc phòng.

Các đại diện Bộ Quốc phòng Philippines cũng cho biết, quy mô kinh phí có thể tăng lên nhờ lấy từ các khoản chi phi quân sự.

Chi phí quân sự của các nước Đông Nam Á khác trong những năm gần đây bị hạn chế (ngoại trừ Singapore), mặc dù điều đó cũng không ảnh hưởng đến các kế hoạch xây dựng hạm đội tàu ngầm của khu vực. Malaysia đã mua 2 tàu ngầm Scorpene và đưa vào trang bị năm 2009; tháng 6.2009, Singapore đã nối lại việc mua sắm 1 trong 2 tàu ngầm lớp Västergötland (A 17); Việt Nam năm 2009 đã ký với Nga hợp đồng mua 6 tàu ngầm lớp Projekt 877EKM (?); Indonesia, nước đang sở hữu 2 tàu ngầm lớp Type 209 đã công bố ý định mua thêm 2 tàu ngầm của Hàn Quốc hoặc Nga.

Kế hoạch của hải quân Thái Lan mua đến 6 tàu ngầm diesel cũ lớp Type 206A của Hải quân Đức đã được Bộ Quốc phòng này thông qua năm 2011. Tuy nhiên, họ không kịp nhận kinh phí cho chương trình này trước khi giải tán quốc hội và bầu cử ấn định vào ngày 3.7. Hiện nay, dự kiến hải quân Thái Lan sẽ chuẩn bị kế hoạch mua sắm quốc phòng mới để đệ trình chính phủ mới trong năm nay hoặc đầu năm sau.

[Vietnamdefence news]


>> Ba phép thử cho xung đột Biển Đông





Nói như nhiều nhà quan sát, đằng sau vụ tàu Bình Minh và mới đây là tàu Viking bị cắt cáp là mũi tên của Bắc Kinh nhắm vào nhiều đích.

Một, xác quyết chủ quyền với đường lưỡi bò. Hai, xem thái độ của các nước cùng tranh chấp xung quanh. Và ba, răn đe các nước khác có tranh chấp như Nhật qua đảo Senkaku (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư). Nhưng không chỉ từ phía Trung Quốc, đối với các nước cùng chia sẻ lợi ích tại Biển Đông, sự kiện này cũng đặt lên bàn cờ những phép thử khác. Với Mỹ là định lại bức tranh chiến lược còn nhiều góc khuất. Với ASEAN là đi tìm một đồng thuận chung. Còn với Việt Nam là cuộc sát hạch về chiến lược, lựa chọn hiện tại để hình dung tương lai.

Siêu cường giữa những ngả rẽ

Là một cường quốc Thái Bình Dương, và tiếp tục muốn đảm bảo vị trí này, trước những động thái leo thang gần đây của Trung Quốc tại Biển Đông trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự do lưu thông hàng hải, nước Mỹ đứng trước những lựa chọn: (1) ủng hộ thiết lập cơ chế an ninh vùng để ngăn chặn hành động dùng vũ lực; (2) tiếp tục đảm bảo sự hiện diện quân sự và tham gia gây ảnh hưởng đến các sự kiện xảy ra trong vùng (inshore balancer) và (3) giữ vai trò người cân bằng lực lượng bên ngoài (offshore balancer) bằng cách hỗ trợ những nước khác yếu hơn trong khu vực làm đối trọng với sự gia tăng quyền lực của đối thủ tiềm năng. Thực tế cho thấy chính sách Washington qua nhiều đời tổng thống là một chiến lược hỗn hợp. Điểm khác biệt nằm ở liều lượng chính sách và mức độ ưu tiên trong những cung thời điểm.

Kể từ khi George W. Bush nắm quyền, Mỹ ưu tiên cho các giải pháp đơn phương nhiều hơn trong việc giải quyết các vấn đề chung toàn cầu. Song song với đó là tăng cường khả năng quân sự với mục tiêu chống khủng bố. Tuy nhấn mạnh ưu tiên chuyển đổi phong cách lãnh đạo đa phương hơn là đơn phương, hợp tác, thương lượng hơn là gây sức ép, chính phủ của tổng thống Obama cho đến nay vẫn cảm thấy khó khăn khi chấp nhận tham gia vào một cơ chế giải quyết đa phương trong bài toán Biển Đông. Một mặt, quá trình này sẽ ràng buộc khung hành động chính sách, một mặt sẽ không có ý nghĩa nếu không thuyết phục được Trung Quốc từ bỏ quan điểm song phương hiện nay cùng tham gia.



Tàu Viking II do PetroVietnam thuê bị tàu Trung Quốc tấn công


Nếu một cơ chế đa phương mang tính pháp lý chưa được hình thành, việc giảm bớt hiện diện quân sự như chủ thuyết "cân bằng lực lượng bên ngoài" đề xướng sẽ dẫn đến tình trạng nguy hiểm. Khoảng trống quyền lực không những nằm ở chỗ hiện nay ở Đông Á vẫn chưa có cường quốc khu vực nào đủ sức về mặt quân sự đối trọng với Bắc Kinh - dẫu cho đó là tiếng nói từ Tokyo, Seoul hay tất cả các nước ASEAN, mà còn nằm ở việc phân tầng lợi ích từ mối quan hệ với Trung Quốc khiến cho một liên minh thống nhất cùng thời điểm khó khả thi. Điểm mạnh của việc cân bằng bên ngoài đảm bảo thu hẹp ngân sách về quốc phòng, thúc đẩy phát triển thế hệ vũ khí hiện đại, tạo sức mạnh từ xa, nhưng cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt mức độ tham gia cũng như ảnh hưởng trực tiếp của nước Mỹ vào các hồ sơ nóng, điều mà về lợi ích của Mỹ thỏa mãn trong ngắn hạn, cân nhắc trong dài hạn.

Trong tư thế bá cường, sức mạnh sẽ trở thành bạo lực nếu không tồn tại sự chính đáng. Bài toán làm giới lãnh đạo Mỹ đau đầu nhiều năm nay là sự hiện diện "như vị khách không mời". Nay sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc đã giúp đáp số rõ ràng hơn. Lựa chọn giữ vai trò "người cân bằng tại chỗ" dường như đang cùng chiều với lợi ích với nhiều nước trong vùng. Kết quả Đối thoại Shangri- La năm ngoái và năm nay đều cho thấy mức độ chấp nhận sự hiện diện của chính phủ Washington như một người cầm nhịp.

ASEAN và chính sách ba "không"

Một sự đồng thuận của ASEAN trong thời điểm này cần phải vượt qua những lực cản nào? Có ít nhất ba "không" làm tâm điểm. Thứ nhất, đồng thuận ASEAN không phải là liên minh chống Trung Quốc. Do mức độ phân tảng về gắn kết địa lý, văn hóa, chủng tộc và đặc biệt là thương mại kinh tế, một con đường chung mang tên ASEAN liên quan đến Trung Quốc không dễ thực hiện.

Chưa kể những quốc gia không liên quan lợi ích trực tiếp đến khu vực Biển Đông (hiện nay Myanmar đã công khai theo lập trường của Bắc Kinh), giữa những quốc gia cùng hội cùng thuyền, việc bẻ bánh lái theo hướng nào vẫn là câu chuyện hạ hồi phân giải. Không lâu để có thể quên câu chuyện chính phủ Philippines chọn cho mình lối đi riêng năm 2004, ký một thỏa thuận với Trung Quốc về khảo sát địa chấn chung ở khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Góc nhìn đó, liên minh ASEAN về hồ sơ Biển Đông cần hình thành trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối thiểu cho tất cả các thành viên thông qua tiêu chí loại trừ việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp trên toàn bộ Biển Đông.



Tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, phá hoại cáp của tàu địa chấn Bình Minh 02 của Việt Nam


Thứ hai, đồng thuận ASEAN không nên quy định những vấn đề tranh chấp trực tiếp giữa các nước thành viên. Tiếp cận riêng rẽ về góc nhìn, dẫn đến riêng lẻ về phương thức hành động, nhất là khi trên con thuyền cùng ra khơi vẫn không phải chỉ là những thuyền viên đồng nhất hoàn toàn về lợi ích. Đừng quên rằng, giữa các nước ASEAN với nhau vẫn tồn tại mâu thuẫn trong hồ sơ tranh chấp chủ quyền.

Trong khi những thí dụ gần đây cho thấy, một hợp tác giữa các nước ASEAN thành lập một tiếng nói chung là hoàn toàn có thể qua thỏa thuận trong hồ sơ đăng ký thềm lục địa vào tháng 5/2009 giữa Việt Nam và Malaysia, thì quyết định của Philippines phản đối cả hồ sơ của Việt Nam lẫn hồ sơ chung Việt Nam - Malaysia lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) lại chỉ ra màu xám còn lại của bức tranh. Một vấn đề trở nên cốt lõi của ASEAN và cơ chế hoạt động của tổ chức này là sự lệch pha giữa chủ quyền quốc gia và tính "ASEAN hóa" trong quá trình hình thành các quyết định dẫn đến một lệch pha khác trong việc thống nhất lập trường chung trên các hồ sơ quan trọng.

Thứ ba, nếu "không" có bước đi cụ thể hóa, "con đường ASEAN" mãi chỉ là lời nói nằm trên giấy. Sau những động thái gần đây đánh động dư luận về việc leo thang từ phía Trung Quốc, một cái nhìn trung hạn cần tính tới. Ba đích ngắm nhắm tới hội nghị cấp cao Đông Á (East Asian Community - EAC) sắp tới do Indonesia chủ trì vào tháng 9. Một, là ủng hộ đề nghị đưa các vấn đề an ninh địa chính trị vào khung làm việc. Dẫu gọi tên là cộng đồng kinh tế hay cộng đồng chung, thì một môi trường không xung đột đóng vai trò tiên yếu.

Hai, cần đẩy nhanh tiến độ mở rộng thêm tổ chức, cụ thể là bỏ phiếu đồng thuận Hoa Kỳ và Nga từ tư cách quan sát viên trở thành thành viên chính thức. Sự gắn kết thành viên mới không chỉ mang ý nghĩa của chính trị thực ở quan điểm cân bằng lực lượng, mà còn tạo cơ hội để xác tính lại chuẩn tắc, mục đích và viễn kiến của tổ chức đang hướng tới. Một cộng đồng hướng tới hòa bình và thịnh vượng chung cho toàn châu lục tham vọng trình làng với thế giới vào 2015 phải thể hiện ý muốn và có khả năng thiết lập được cơ chế dung hòa và giải quyết mâu thuẫn giữa các nước thành viên. Và đó cũng là mục tiêu thứ ba khi chuyển hóa chuẩn tắc thành khung pháp lý mang tính ràng buộc với việc khởi động vòng đàm phán để tiến tới Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) trong thời gian ngắn nhất.

Lựa chọn nào cho Việt Nam?

Giữa ba phép thử trên, Việt Nam trong một tư thế đặc biệt, vừa ảnh hưởng lợi ích trực tiếp, vừa có thể đóng vai trò thúc đẩy hay hạn chế ở mức độ tương đối những chuyển động trên bàn cờ. Trực tiếp qua thái độ phản đối dứt khoát với mọi phép thử của Trung Quốc, gián tiếp qua việc xây dựng các biện pháp cân bằng và đối trọng an ninh thông qua Hoa Kỳ và cộng đồng chung ASEAN. Sự hiện diện của Mỹ về mặt quân sự đối với các nước trong khu vực giữ cho sợi dây cân bằng, nhưng kinh nghiệm "chơi" với Mỹ cũng cho thấy, một hợp tác dựa vào tiêu chí lợi ích sẽ mang tính ngắn hạn và có khả năng bị thay đổi rất nhanh vì chuyển biến lợi ích từ chính trị đối nội bên trong.




Kíp lái tàu HQ 641 thuộc Hải đội 413 (vùng D Hải quân) trong chuyến ra các hải đảo.
Ảnh TTXVN


Một hợp tác mà nền tảng bền vững vừa dựa trên lợi ích nhưng cũng vừa phải vượt trên các yếu tố lợi ích. Cho đến nay, một "định chế cứng" ở dạng liên minh quân sự, theo đó, các nước ràng buộc với nhau bằng một cam kết bảo vệ an ninh lẫn nhau (và có thể chống lại một đe dọa đến từ phe thứ ba) vẫn chưa phải là lựa chọn của Việt Nam.

Một "định chế mềm", tuy vậy, vẫn có thể khả thi qua hình thức đối thoại chiến lược về an ninh - quốc phòng hay các mô thức hợp tác hải quân giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thời gian gần đây. Câu hỏi đặt ra sẽ nằm ở việc thúc đẩy mô hình liên minh này tới đâu thông qua xúc tiến các định chế hóa. Song phương trong mối quan hệ đối tác chiến lược, đa phương trong việc thiết lập khung cơ chế an ninh tập thể, sao cho lợi ích của hai bên thuận chiều. Định chế hóa một lập trường chung về hồ sơ Biển Đông giữa các nước ASEAN cũng là bước đi ngoại giao quan trọng mà Việt Nam cần ủng hộ.

Hiện nay, đoàn kết nội khối đang cần một lực đẩy mà động thái càng ngày càng leo thang gần đây từ Trung Quốc có thể là chất xúc tác. Ra khơi trên cùng một chiếc thuyền, xây dựng lòng tin giữa những thuyền viên với nhau phải nghĩ về đại cuộc trong một khung cảnh rộng lớn hơn. Nhiều đề nghị đã nhấn mạnh một COC trước hết giữa các nước ASEAN với nhau làm nền tảng mở đường. Một mặt thể hiện quyết tâm chính trị về một cộng đồng ASEAN thống nhất, một mặt là bước đầu tiên đánh giá mô hình giải quyết xung đột vùng với ASEAN như một lực đẩy trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực. Vừa là người bị đặt trước phép thử, cũng là người phải giải quyết nó, Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường. Một chiến lược tổng thể cho Biển Đông hơn bao giờ hết cần lập tức đặt lên bàn nghị sự...

[Vitinfo news]


>> Philippines lên kế hoạch nâng cấp quân đội




Chính quyền Tổng thống Aquino sẵn sàng thực hiện dự án hiện đại hóa quân sự đầy tham vọng trị giá 40 tỷ peso cho lực lượng vũ trang Philippines (AFP) trong vòng 5 năm tới, bắt đầu từ năm 2012, nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thổ của nước này tại biển Đông.





Bộ trưởng Ngân sách Florencio Abad tiết lộ, bắt đầu từ năm sau, chính phủ sẽ phân bổ 8 tỷ peso cho chương trình hiện đại hóa AFP kéo dài 5 năm nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên biển và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Theo ông Abad, kế hoạch này sẽ giúp Philippines bảo vệ lãnh thổ, bao gồm cả những khu vực mà nước này tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, đồng thời ngăn chặn sự bắt nạt từ các quốc gia khác trong biển Đông.

Trong một cuộc phỏng vấn tại Calamba, Laguna, tham mưu trưởng AFP Eduardo Oban Jr. cho biết khoản ngân sách dùng cho việc hiện đại hóa mới sẽ giúp quân đội cải thiện khả năng.

“Chúng tôi sẽ phải mua thêm trang thiết bị. Chắc chắn 40 tỷ peso đã sẵn sàng sử dụng cho những yêu cầu ngay lập tức. Chúng tôi sẽ lên danh sách những trang thiết bị ưu tiên cần mua… Đó là khả năng cơ bản mà AFP thực sự cần phải cải thiện”, ông nói với cánh phóng viên.

Trong số 330 tỷ peso được ấn định cho chương trình hiện đại hóa AFP kéo dài 15 năm (1995-2010), chỉ có khoảng 33 tỷ peso (10% tổng số tiền) thực sự được phân bổ đến lực lượng AFP.

“Đó thực sự là một ngân sách lớn. Và chúng tôi đang xem xét những khả năng cơ bản mà AFP cần phải phát triển. Trong một số trường hợp, chúng tôi phải tổ chức lại và chuyển sự tập trung nhất định từ việc bảo vệ lãnh thổ sang bảo vệ những vấn đề nội bộ trong nước”, ông Oban nói.

Người đứng đầu AFP còn nhấn mạnh, Tổng thống Aquino nhận thức rất rõ về thiếu khuyết của AFP và vui mừng vì 8 tỷ peso đã sẵn sàng cho chương trình hiện đại hóa này.

[Vitinfo news]


>> Khai mạc triển lãm hàng không quốc tế Le Bourget tại Pháp





Tại sân bay Le Bourget, cạnh thủ đô Paris của nước Pháp, một triển lãm hàng không truyền thống được cho là sự kiện lớn nhất trong lĩnh vực hàng không quốc tế đã khai mạc hôm nay (20/6) vào lúc 9:30 giờ địa phương.




Theo thông báo trên website chính thức của triển lãm, lần đầu tiên trong lịch sử, triển lãm Le Bourget đã thu hút hơn 2100 công ty tham gia.

Triển lãm Le Bourget diễn ra 2 năm một lần và đây là lần diễn ra thứ 49. Cũng như những năm trước, trong 3 ngày đầu tiên, triển lãm sẽ chỉ mở cửa dành để dành cho các doanh nhân thăm quan triển lãm, còn khách thông thường yêu thích trang thiết bị hàng không có thể đến tham dự triển làm từ ngày 24-26/6.

Trong khuôn khổ diễn ra triển lãm, dự kiến sẽ có nhiều hợp đồng lớn được ký kết. Ngoài ra, theo truyền thống, ở triển lãm Le Bourget sẽ diễn ra chương trình bay. Năm nay, ngoài những máy bay như các năm còn có cả Sukhoi Superjet 100 và thủy phi cơ Be-200 của Nga.

Theo tờ Vedomosti của Nga, ngành công nghiệp hàng không quân sự của Nga sẽ giới thiệu sản phẩm ở một trong những gian trưng bày lớn nhất của triển lãm. Theo RIA, Nga sẽ cử 59 công ty và cơ quan nghiên cứu sản xuất đưa sản phẩm đến Pháp tham gia một triển lãm hàng không quốc tế trong đó có 27 công ty quốc phòng. Dự kiến, các công ty Nga sẽ đưa đến những sản phẩm máy bay quân sự và một số phụ kiện có liên quan.

Theo ban tổ chức triển lãm, dự kiến có khoảng 205 phái đoàn đến từ 88 quốc gia khác nhau trên thế giới sẽ đến và tham dự triển lãm công nghệ hàng không đặc biệt này.

Theo Vedomosti, triển lãm sẽ hứa hẹn ký kết hợp đồng cung cấp 10 máy bay SuperJet. Khách hàng nào mua hiện chưa được thông báo. Ngoài ra, Pháp có thể ký hợp đồng mua 4 chiếc thủy phi cơ Be-200 – hợp đồng này được ký nhằm đáp lễ việc Nga đã ký hợp đồng mua 2 tàu đổ bộ chở trực thăng với Pháp hôm 17/6 tại Saint Peterburg trước sụ chứng kiến của Tổng thống Nga Dmitry Medvedev.

Tại triển làm năm 2009, các công ty của Nga đã ký các hợp đồng trị giá 3 tỷ USD.

[Vitinfo news]


>> Nhật ký tàu Trung Quốc qua biển Đông





Báo chí Trung Quốc vừa công bố loạt ảnh ghi lại quá trình rời cảng Cao Lan, Quảng Đông tới Singapore của Hải tuần 31 - tàu tuần tra hàng hải lớn nhất nước này.

Hải tuần 31 được trang bị trực thăng với hệ thống chỉ huy hiện đại, có thể hoạt động liên tục ở ngoài khơi 40 ngày. Điểm khác biệt duy nhất với các tàu chiến là Hải tuần 31 không trang bị vũ khí hạng nặng.

Theo Tân Hoa xã, đây là tàu tuần tra biển có tải trọng 3.000 tấn, dài 112 m, rộng 13,8 m, có tốc độ tối đa 22 hải lý/giờ, hải trình cơ động liên tục 6.000 hải lý. Đặc biệt, Hải tuần 31 có thể hoạt động bình thường trong điều kiện bão cấp 11.


Hải tuần 31 được biết đến là tàu tuần tra lớn nhất Trung Quốc được trang bị trực thăng với hệ thống chỉ huy hiện đại.


Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi cho biết: "Hôm 15/6, Hải tuần 31 chính thức khởi hành từ cảng Cao Lan, Quảng Đông tới Singapore".

Ông này cũng nêu rõ mục đích của chuyến đi này của tàu Hải tuần 31 là giám sát các tuyến hàng hải, thanh tra các vùng đang thăm dò dầu khí và bảo vệ an ninh hàng hải.

Tân Hoa xã cho biết, Hải Tuần 31 dự kiến tới Singapore vào ngày 23/6 sau chặng đường dài 2.600km và sẽ lưu lại quốc đảo này 6 ngày trước khi quay trở lại Trung Quốc.

Đây là loạt ảnh ghi lại quá trình khởi hành của Hải tuần 31 từ cảng Cao Lan, Quảng Đông tiến vào lãnh hải Singapore:




Thành viên tàu trong lễ khởi hành tại cảng Cao Lan, Châu Hải, Quảng Đông ngày 15/6.



Thành viên đoàn sẵn sàng trên boong tàu, chuẩn bị rời cảng Cao Lan, Quảng Đông ngày 15/6.




...hoàn tất mọi công tác kiểm tra trước khi rời cảng Cao Lan ngày 15/6...



...chính thức khởi hành...



Hải Tuần 31 dự kiến tới Singapore vào ngày 23/6 sau chặng đường dài 2.600km.



Hải tuần 31 trang bị trực thăng.



Cận cảnh trực thăng trên Hải tuần 31.


[BDV news]


>> Tàu chiến Philippines chưa vào vùng tranh chấp với Trung Quốc?





“Tàu khu trục chống tàu ngầm BRP Rajah Humabon sẽ không vượt ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong 200 hải lý của Philippines”, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Eduardo Oban khẳng định.

Theo AFP, Tướng Oban tỏ ra lạc quan về khả năng giải quyết tranh chấp chủ quyền biển Đông bằng hòa bình và tránh được những nguy cơ đối đầu vũ trang.


Tàu khu trục chống tàu ngầm BRP Rajah Humabon của Philippines.


Ông này khẳng định: “Tàu chiến của Philippines sẽ hoạt động giới hạn trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và không đi vào các vùng biển quốc tế. Nếu xảy ra bất kỳ tranh chấp nào, Chính phủ Philippines sẽ kiên quyết giải quyết bằng hòa bình đối thoại”.

Giới phân tích đánh giá, Manila tuyên bố cử tàu chiến BRP Rajah Humabon tới biển Đông vào ngày 17/6 vừa qua trong bối cảnh Bắc Kinh cũng rầm rộ phái Hải tuần 31 – tàu tuần tra hàng hải lớn nhất Trung Quốc rời cảng Cao Lan, Quảng Đông tới Singapore, sẽ càng khiến biển Đông ngày càng "dậy sóng".

[BDV news]


>> ‘Nếu chiến tranh xảy ra, Đài Loan sẽ hỗ trợ Trung Quốc’





“Nếu xảy ra xung đột bằng quân sự giữa Đại lục và Philippines thì quân đội Đài Loan đóng ở Thái Bình Dương sẽ ra tay trợ giúp quân đội của Đại lục”, lãnh đạo hải quân Đài Loan Thiếu tướng Doãn Thịnh Tiên khẳng định.

Cũng trong bài phỏng vấn này, người đứng đầu hải quân Đài Loan tại khu vực Thái Bình Dương còn nhấn mạnh: “Quân đội Đài Loan đóng ở Thái Bình Dương quyết không giúp đỡ quân đội Philippines. Vì thế, nếu Philippines có mưu đồ chiếm lĩnh Thái Bình Dương thì quân đội của Trung Quốc Đại lục cũng nên giúp đỡ Đài Loan”.


Tàu chiến lớn nhất của Hải quân Philippines được điều tới Biển Đông


Theo ý kiến của vị thiếu tướng này, trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, quân đội của Trung Quốc và Đài Loan nên hợp thành một “liên minh quân sự”.

Đối với việc chống lại quân đội Philippines thì quân đội của Đại lục hay Đài Loan cũng đều là quân Trung Quốc”, Tướng Doãn Thịnh Tiên nhấn mạnh.

Tướng Doãn Thịnh Tiên cho rằng, để giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước tại khu vực biển Đông thì quan trọng nhất là ở thái độ của Trung Quốc. Theo nhận xét của vị tướng này, thái độ của Trung Quốc với tình hình căng thẳng trên vấn đề biển Đông hiện nay “chưa đủ cứng rắn”.

Ông này cũng cho rằng, trước tình hình này, Đại lục cần kêu gọi lực lượng quân đội của cả Đài Loan và Trung Quốc cùng bảo vệ “tài sản chung của tổ tiên”. Và với những gì mà cha anh họ để lại, không chỉ quân giải phóng của Trung Quốc mà của cả quân đội Đài Loan cũng đều phải có trách nhiệm.

Ông Doãn Thịnh Tiên cũng cho biết thêm, hiện nay trên khu vực Thái Bình Dương, quân đội Đài Loan có một số căn cứ quân sự lớn. Ông nói: “Chính vì thế, nếu có xung đột xảy ra, quân đội Trung Quốc cần phải cám ơn Đài Loan, vì những căn cứ này chính là một hậu phương vững chắc trong việc cung cấp nước ngọt và nhu yếu phẩm cần thiết cho quân Trung Quốc”.

Nhìn lại chính sách của Đài Loan trong những năm trước đây, trong những năm 1970-1990, Đài Loan tỏ ra tự kiềm chế và ôn hòa trong vấn đề biển Đông.

Khi có va chạm chủ quyền đối với các lãnh thổ mà Đài Loan cưỡng chiếm, thì không có động thái quân sự cụ thể mà chỉ đơn giản là đưa công hàm ngoại giao để kháng nghị những hành động mà họ cho là xâm phạm lãnh thổ của họ.

Tuy nhiên, sau khi có căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, Đài Loan lại bất ngờ tuyên bố chủ quyền của mình trên một số quần đảo tại biển Đông.

[BDV news]


Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

>> Vai trò mới của lực lượng đặc biệt SOF, Mỹ (kỳ 1)





Nhận thức của Mỹ về các lực lượng tác chiến đặc biệt (SOF), thuộc biên chế các lực lượng cơ bản trong chiến tranh, đang có sự thay đổi.
Từ đầu năm 1980, trong bối cảnh thế giới vẫn đối đầu trong chiến tranh lạnh, Bộ Quốc phòng Mỹ có ý định thành lập lực lượng tác chiến đặc biệt trên cơ sở các lực lượng đặc nhiệm được sử dụng sau chiến tranh thế giới 2 nhằm nhanh chóng can thiệp vào một số vùng khủng hoảng đang xảy ra trên thế giới.

Ngày 16/4/1987, Lực lượng tác chiến đặc biệt của quân đội Mỹ được thành lập trên cơ sở sắc lệnh Goldwater Nichols năm 1986 về tổ chức lại Bộ Quốc phòng Mỹ. Lực lượng này lúc đầu được gọi là "Lực lượng tác chiến trong chiến tranh không thông thường" sau đó đổi tên thành "Lực lượng tác chiến đặc biệt" (Special Operations forces - SOF).

Đến nay, SOF của quân đội Mỹ đã thành lập được hơn 20 năm. Tuy đều thống nhất, SOF là một bộ phận quan trọng của sức mạnh quốc gia nhưng các nhà lý luận và giới tướng lĩnh Mỹ vẫn tranh luận một cách gay gắt về quan điểm " SOF là gì?"

Lực lượng này có nhiệm vụ can dự sớm và phản ứng nhanh đối với những điểm nóng và các cuộc khủng hoảng trong thời bình và trong điều kiện chưa có chiến tranh và ở bất cứ khu vực nào trên thế giới nên SOF là lực lượng tác chiến có vai trò chiến lược và có tính toàn cầu cao. Trọng tâm các nhiệm vụ của SOF là công việc mà các lực lượng tác chiến thông thường khác không làm được hoặc không hiêụ quả, do vậy lực lượng này còn được gọi là lực lượng tác chiến không thông thường.

SOF được tổ chức thống nhất trong Bộ Chỉ huy tác chiến đặc biệt hợp chủng quốc và được tổ chức theo hệ thống dọc trong các quân chủng và trong 1 số Bộ tư lệnh chiến trường - khu vực với cơ cấu đa quân binh chủng, đa ngành.

Ngoài ra, SOF thể hiện tính đặc biệt của mình trong tổ chức, biên chế trang bị, tuyển chọn con người và phương pháp hành động trong các hoạt động quân sự trực tiếp, gián tiếp cũng như các hoạt động phi quân sự.

Sau sự kiện ngày 11/9/2001, các đơn vị SOF được đưa lên hàng đầu trong các hoạt động quân sự của Mỹ và đồng minh, ở những khu vực bất ổn trên thế giới như: Iraq, Afghanistan, Pakistan, Sudan, Congo, Ruwanda, Somali, Sri Lanka….

Đặc biệt, kinh nghiệm hoạt động quân sự của Mỹ và đồng minh ở Afghanistan và Iraq là cân nhắc đến việc hiện đại hóa và chuyển đổi các lực lượng SOF.

Trong chiến tranh thông thường, hoạt động của SOF đã thay đổi từ lực lượng “Vệ tinh” trong việc thực hiện các nhiệm vụ thông thường đến lực lượng quan trọng của chiến tranh khi thực hiện các mục tiêu an ninh quốc gia.



Sau vụ 11/9/2001 Mỹ đã thấy được vai trò quan trọng của các lực lượng tác chiến đặc biệt SOF, do đó Mỹ đang tập trung xây dựng lực lượng tác chiến đặc biệt này.


Tuy nhiên, do sự căng thẳng của các điểm nóng trên thế giới, có thể lực lượng SOF của Mỹ sẽ tiếp tục đóng vai trò ngang bằng với các lực lượng thông thường khác trong hiệp đồng tác chiến. Do đó cần phải tăng cường huấn luyện và phối hợp lực lượng.

Trong tương lai có thể xảy ra bất kỳ cuộc chiến tranh nào, và căn cứ vào những gì diễn ra ở Afghanistan và Iraq, tính chất các nhiệm vụ quân sự quan trọng có thể thay đổi rất nhanh từ thông thường sang không thông thường.

Điều này đòi hỏi SOF phải thích ứng nhanh hơn nữa với vai tròn thực hiện các hoạt động tác chiến thông thường. Ngoài ra, đòi hỏi chỉ huy và lực lượng ở các đơn vị thông thường phải có khả năng hoạt động hiệu quả nhất trong các hoạt động của SOF.

Do đó, các hoạt động phối hợp huấn luyện giữa lực lượng đặc biệt và lực lượng thông thường cần được tiến hành nhiều hơn trong các lực lượng quân sự Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Một số chuyên gia phân tích về SOF của Mỹ cho rằng: “Kinh nghiệm cở Afghanistan và Iraq cho thấy cần thiết phải có các công nghệ và thiết bị cải tiến nhằm tăng khả năng hoạt động tương tác của các nhóm SOF của Mỹ và đồng minh. Tuy vậy, các công nghệ cũ vẫn có thể phát huy được hiệu quả”.

Ví dụ, yêu cầu kỹ thuật đối với tác chiến ở những vùng hẻo lánh là kết hợp tập kích đường không với hoạt động của các đơn vị lục quân và không quân thông thường, trong đó bao gồm tìm kiếm, phát hiện, nhận dạng và phân tích điểm mạnh cũng như điểm yếu của mục tiêu nhằm quyết định loại vũ khí nào có thể được sử dụng để vô hiệu hóa mục tiêu nếu không thể diệt được mục tiêu.

Các sĩ quan và binh sỹ trong SOF của Mỹ và đồng minh phải thành thạo kỹ năng này và cũng phải tổ chức huấn luyện tốt cho các chỉ huy cũng như lực lượng địa phương.

Một yếu tố hết sức quan trọng là các lực lượng có thể hoàn thành được nhiệm vụ khi sử dụng cả công nghệ cũ lẫn công nghệ mới, kinh nghiệm của các đơn vị hoạt động ở Afghanistan và Iraq đã chứng minh điều đó. Các lực lượng của Mỹ và đồng minh trong bối cảnh tác chiến.



Các lực lượng tác chiến đặc biệt SOF của Mỹ cũng được trang bị hiện đại hơn.


Hiện đại và các nhóm SOF của Mỹ trên bộ có thể được thu hẹp nhờ công nghệ mới, thì rất có thể các công nghệ mới lại không thể hoạt động ở nhiều khu vực địa hình hiểm trở, điều đó có nghĩa là SOF phải dựa vào công nghệ cũ và các giải pháp thay thế như bản đồ, chỉ dẫn địa hình và thậm chí dùng sự phản chiếu của gương để đánh dấu mục tiêu.

Trong một số trường hợp, các công nghệ cũ và khái niệm cơ bản để ứng biến cho dù công nghệ hiện có vẫn là một phần trong chương trình huấn luyện của SOF.

Để thống nhất chỉ huy SOF, Bộ Quốc phòng Mỹ đã thành lập Bộ Tư lệnh tác chiến đặc biệt Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (United States Special Operations Command gọi tắt là USSOCOM).



Logo Bộ Tư lệnh tác chiến đặc biệt Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (United States Special Operations Command, gọi tắt là USSOCOM).


Tổng hành dinh của USSOCOM đặt tại Mac Dill AGB, Tampa, bang Florida.Trong hệ thống chỉ huy thống nhất điều hành quốc gia của Mỹ, USSOCOM là một trong 9 Bộ Tư lệnh tác chiến trực thuộc Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng và chịu sự chỉ đạo của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân.

USSOCOM bao gồm, Bộ Chỉ huy tác chiến đặc biệt liên hợp JSOC, các đơn vị chiến đấu thường trực liên hợp và đơn vị cơ cấu C4I, chịu trách nhiệm chủ yếu về các hoạt động chung và hoạt động chống khủng bố.

Bộ Chỉ huy tác chiến đặc biệt Lục quân Hợp chủng quốc USASOC, bao gồm các lực lượng đặc biệt, biệt kích, không quân Lục quân, tâm lý chiến và hoạt động dân sự, đảm nhiệm các hoạt động đặc biệt của Lục quân gồm cả hoạt động nhân đạo và hỗ trợ các nước Thế giới thứ 3.

Bộ Chỉ huy tác chiến đặc biệt hải quân NAVSPEWARCOM bao gồm Bộ chỉ huy đặc nhiệm các vùng hải quân CNSWC, các đơn vị tàu xuồng chiến đấu và kiểm soát vùng biển SPECBOATRON, các nhóm tiến hành các hoạt động biệt kích-thám báo NSWG, trong đó nhóm phía Tây ( gồm SPECBOATRON1- NSWG1) hoạt động ở vùng biển Thái bình dương và nhóm phía Đông (gồm SPECBOATRON2-NSWG2)- hoạt động ở vùng biển Đại tây dương.

Trong các nhóm được tổ chức thành các đội liên hợp đặc biệt SEAL, có khả năng hành động trong môi trường biển, trên bộ hoặc trên không.

Bộ Chỉ huy tác chiến đặc biệt không quân AFSOC, bao gồm các đơn vị không quân chiến đấu và bảo đảm, có nhiệm vụ hỗ trợ cho các lực lượng đặc biệt khác thực hiện nhiệm vụ chuyên chở, yểm trợ chiến đấu, hỗ trợ kỹ thuật và các nhiệm vu đặc biệt khác.

Trung tâm nghiên cứu và phát triển nghiệp vụ đặc biệt SORDAC, có nhiệm vụ nghiên cứu, tổ chức và sắp xếp các phương tiện cần thiết cho các hoạt động nghiệp vụ đặc biệt cho SOF. Ngoài ra, trong thành phần của USSOCOM còn có 5 Bộ chỉ huy các lực lượng bảo đảm tác chiến : thông tin, quân cảnh, yểm trợ, tiềm lực và hậu cần.

[BDV news]


>> Nghệ thuật quân sự hải quân (kỳ 1)





Lực lượng hải quân là lực lượng quân sự hùng mạnh trên biển và đại dương, bảo vệ nhưng lợi ích quan trọng của quốc gia và nhân dân.
Học thuyết quân sự mới của Nga về hải quân

Ngày 21/4/2000, học thuyết quân sự mới của Liên bang Nga được chuẩn y (*).

Trong Học thuyết này, đã đánh giá thực tế tình hình chính trị quân sự trên thế giới và trong từng khu vực, chỉ ra được những nguy cơ tiềm ẩn trong và ngoài nước đang đe dọa quyền lợi chính đáng của dân tộc Nga và nước Nga, trong đó có quyền lợi trên biển và đại dương. Học thuyết quân sự Hải dương được Tổng thống Nga phê chuẩn chính thức có hiệu lực ngày 27/6/2001.

Thực tế đã chứng minh, trong giai đoạn phát triển ngày nay xuất hiện nhiều nguy cơ tranh chấp, nhiều khả năng xung đột trên biển và đại dương. Có rất nhiều nguyên nhân sống còn về kinh tế, quân sự và địa chính trị làm nảy sinh những nguy cơ xung đột.

Khác với biên giới trên đất liền, danh giới trên biển và đại dương rất khó phân định, Nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng trên đất liền có giới hạn và sẽ cạn kiệt trong vài chục năm tới, không thể kéo dài đến hàng trăm năm. 71% bề mặt của trái đất được bao bọc bởi đại dương. Trong vực sâu của biển ẩn chưa nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng khổng lồ cho sự phát triển tương lai của nhân loại.

Nhưng biển và đại dương từ ngàn xưa đã là bãi chiến trường của các hạm đội, các lực lượng hải quân các nước đang phát triển và phát triển. Chân lý đơn gian là muốn phát triển, hãy ra với biển. Có nghĩa là trên biển và đại dương luôn tồn tại những nguy cơ xung đột quân sự và chiến tranh cục bộ. Đồng thời, lực lượng hải quân Liên bang Nga đang từng bước lạc hậu.



Tuần dương hạm Slava của Hải quân Nga.


Một không gian rất lớn của các đại dương, đấy là vùng nước chung, không thuộc quyền quản lý của bất cứ quốc gia nào. Điều đó đồng nghĩa với việc tài nguyên khoáng sản của khu vực nước chung có thể được khai thác của bất cứ quốc gia nào. Đồng thời, cũng như quá khứ trên đất liền, sẽ có thời điểm chia sẻ quyền lợi đó, nhưng không phải ở trên đất liền mà trên biển và đại dương.

Có thể khẳng định rằng, quốc gia nào yếu về hải lực, đương nhiên sẽ không được chia sẻ phần quyền lợi đó. Hải lực ở đây được hiểu là Lực lượng Hải quân về vũ khí trang bị, quân số và nghệ thuật tác chiến trên Không – Biển, khả năng tự vệ của nước đó trong vùng biển mang quyền lợi quốc gia chính đáng của mình. Những vùng biển đó sẽ bị chiếm đoạt hoặc chia sẻ.

Trong giai đoạn ngày nay, đã có không ít quốc gia không một giây nào rời mắt khỏi đại dương. Đầu thế kỷ 21 trên các biển, hàng ngày có 130 tàu chiến trong biên chế của 16-20 nước tuần hành. Nhiệm vụ của các tàu chiến này rất khác nhau, nhưng rất nhiều nhóm tàu chiến với vũ khí trang bị, máy bay hải quân, tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình có khả năng tấn công đến 80% lãnh thổ của Liên bang Nga, trong đó có khả năng tấn công 60 – 65% tiềm lực công nghiệp quốc phòng của nước Nga. Đồng thời các đảo của nước Nga đều nằm trong tầm tấn công và đổ bộ của các lực lượng linh thủy đánh bộ.

Điều đó có nghĩa là trong cuộc đấu tranh dành quyền lợi trên biển và đại dương, tồn tại và hiện hữu ngày càng sâu sắc nguy cơ đe dọa quyền lợi chính đáng của Nga từ hướng biển.

Tính toán một cách đơn giản, lực lượng hải quân Nga đến năm 2015 có khoảng 60 tàu chiến cỡ khu trục và tuần dương sẵn sàng chiến đấu, trong đó có 30 tàu ngầm nguyên tử. Trong đó, chỉ tính riêng lực lượng Hải quân NATO, (chưa tính Trung Quốc) đã có tới 800 tàu chiến, và các hạm đội của Tây Đại tây dương hàng ngày huấn luyện, và thực hiện các nhiệm vụ tác chiến trên các đại dương. Còn Trung quốc đang từng ngày tăng cường lực lượng Hải quân, liên tục tập trận và đã sẵn sàng vươn tới biển xa.



Hải đường vận tải chiến lược của Trung Quốc và cũng là chiến lược hải dương của Trung Quốc.


Từ những nhận định trên, Liên bang Nga thấy thật sự cần thiết phải xây dựng một hạm đội mới, nhưng một nhiệm vụ cũng khẩn cấp không kém, đó là xây dựng cho lực lượng hải quân Liên bang một chương trình huấn luyện tác chiến biển, đại dương và khả năng lực triển khai, điều hành các chiến dịch và các hoạt động tác chiến Không – Biển.

Đối với các hạm đội, chương trình huấn luyện diễn tập đó, theo những tính toán từ những cuộc chiến tranh, những nguy cơ tiềm ẩn hiện tại, và khả năng xảy ra trong tương lai, sẽ bao gồm 3 cấp huấn luyện tác chiến: Cấp chiến lược, cấp chiến dịch và chiến thuật.

Xây dựng một hạm đội mạnh và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu để nâng cao nghệ thuật tác chiến trên biển, đại dương không thể tách rời khỏi chiến lược phát triển kinh tế biển, đại dương và đường lối chính trị hải dương của Liên bang Nga, chiến lược phát triển kinh tế biển, đại dương và đường lối chính trị Hải dương bảo đảm quyền lợi của quốc gia và dân tộc Nga.

Đương nhiên, trong điều kiện quan hệ quốc tế hiện đại đòi hỏi ưu tiên bảo đảm quyền lợi của các quốc gia bằng những giải pháp hòa bình. Nhưng thực tế đáng tiếc là nhân loại vẫn còn ở rất xa với cách giải quyết những lợi ích của mình bằng con đường hòa bình. Sử dụng vũ lực và chiến tranh như một sự kiện phức tạp và có nhiều góc cạnh khác nhau, bao giờ cũng là cuộc đấu tranh bằng sức mạnh.



Hoạt động huấn luyện tác chiến của Hạm đội Thái bình dương Liên bang Nga.


Đối tượng của Học thuyết quân sự Hải quân Nga

Nhiệm vụ chủ yếu của Hải quân Liên bang Nga, kế thừa của Hải quân Xô viết, như đã được khẳng định bằng các văn bản pháp quy của nhà nước, trong điều kiện thời bình thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ quyền lợi của Quốc gia dân tộc Nga trên các vùng nước chủ quyền và lợi ích, sẵn sàng sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước.

Trong giai đoạn mới, lực lượng Hải quân đảm nhiệm thêm nhiệm vụ chống khủng bố và cướp biển trên mặt biển. Trong điều kiện thời chiến, lực lượng Hải quân đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển đất nước, đánh chặn các đòn tấn công từ biển vào các mục tiêu quan trọng của đất nước, đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa hành trình và không quân Hải quân của địch. Đồng thời bẻ gẫy những đòn tấn công từ phía biển của đối phương.

Như vậy, mục tiêu tác chiến của Hải quân là tất cả đơn vị chiến đấu của đối phương trên đại dương và trên biển, có vùng nước gắn liền với bờ biển của đất nước hoặc gắn liền với biển của đất nước, các đơn vị chiến đấu có thể là tàu sân bay, tàu ngầm tên lửa, tàu chiến nổi, vũ khí của các đơn vị này có thể tấn công các mục tiêu trên biển hoặc trên đất liền của đất nước hoặc quân đội Liên bang Nga.

Lực lượng hải quân Liên bang Nga trong trường hợp bắt đầu chiến tranh, sẽ phải chiến đấu chống lại các lực lượng Hải quân của các quốc gia biển hùng mạnh, có thể phải tiền hành các hoạt động tác chiến chiến dịch như:

- Các đòn tấn công tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất của đối phương, các đòn tấn công sẽ tiến hành song song cùng với các đơn vị tên lửa đạn đạo, tên lửa chiến trường, các đòn tấn công tên lửa là đòn đánh chủ đạo của hoạt động tác chiến này.

- Tiến hành các chiến dịch tìm kiếm và tiêu diệt các tàu ngầm tên lửa, tàu ngầm tấn công của địch.

- Tiến hành các chiến dịch tấn công tiêu diệt các hạm tàu của đối phương trong các vùng nước nằm cạnh bờ, các vùng nước đe dọa các mục tiêu của Hải quân và của hệ thống phòng thủ đất nước và các vùng biển kín bàn đạp tấn công trong đại dương.

- Tấn công tiêu diệt các hạm tàu vận tải của đối phương, cắt đứt đường vận tải biển của đối phương.

- Tiêu diệt các lực lượng chống tàu của địch, bao gồm cả lực lượng chống tàu nổi và tàu ngầm.

- Cùng với lực lượng phòng thủ bờ biển, thiết lập vành đai phòng thủ bảo vệ các căn cứ hải quân, các mục tiêu quan trọng về kinh tế và hệ thống truyền thông, thông tin liên lạc.

Để tiến hành các hoạt động tác chiến trên biển và trên đại dương, do tính chất đặc thù của tác chiến không - biển – đại dương, đó là sử dụng và điều hành binh lực và phương tiện hải chiến với phương thức tác chiến hiệu quả nhất.

Căn cứ vào những hoạt động tác chiến trên biển, trong lý luận tác chiến không - biển – đại dương, một vị trí vô cùng quan trọng là hệ thống hóa các hoạt động tác chiến liên tục và khả năng bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho các hoạt động tác chiến.

Khác với những hoạt động tác chiến trên bộ và trên không, hệ thống các hoạt động sẵn sàng chiến đấu của Hải quân diễn ra thường xuyên liên tục, với cường độ và mức độ sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, không chỉ trong thời chiến mà ngay cả trong thời bình.

Đối với lực lượng hải quân hiên đại, rút kinh nghiệm từ thời kỳ Liên Xô, huấn luyện sẵn sàng chiến đầu cường độ cao và thường trực sẵn sàng chiến đấu là hoạt động quan trọng bậc nhất của lực lượng Hải quân thời bình.

(*) Sau sự tan vỡ của Liên Xô, trong điều kiện cần thiết của lịch sử, ở Nga đã hình thành học thuyết quân sự Liên bang Nga. Học thuyết quân sự đã được phê chuẩn 2/10/1993.

Theo chỉ lệnh của Tổng thống Nga học thuyết có tên: "Những luận điểm cơ bản của Học thuyết quân sự Liên bang Nga". Trong văn bản pháp quy đã được chuẩn y này có rất nhiều điểm được kế thừa từ chủ trương chiến lược quân sự của Liên Xô, được các lãnh đạo các nước XHCN Đông Âu phê chuẩn tại Berlin ngày 29/5/1987 như Học thuyết quân sự của Hiệp ước Vacsava.

Học thuyết quân sự 1993 của Liên bang Nga so với học thuyết quân sự khối Vacsava chưa có những thay đổi đáng kể về lý luận của Lực lượng vũ trang, những quan điểm tầm nhìn chiến lược cho sự hoàn thiện và phát triển của quân đội và Hải quân không được đặt ra.

Rất đáng tiếc là học thuyết quân sự năm 1987, học thuyết quân sự năm 1993 không hề quan tâm đến chiến lược và nghệ thuật quân sự Hải quân, dù đến tận cuối những năm 1980 vẫn chưa xác định được hướng phát triển chiến dịch và chiến thuật chiến tranh hiện đại của lực lượng hải quân hùng mạnh của Liên Xô.

Đến sau năm 1993, với yêu cầu thực tế của việc phát triển lực lượng hải quân thế giới, các nguy cơ từ nhiều hướng đã thúc đẩy một bước đi mang tính chiến lược. Chỉ lệnh của tổng thống Liên bang Nga số 11/1997 đã phê chuẩn chương trình phát triển Hải dương toàn cầu. Trong chương trình đã chỉ rõ những định hướng cụ thể của việc phát triển Lực lượng Hải quân Liên bang Nga vào thế kỷ 21.

Ở đây lực lượng Hải quân được xác định là công cụ quan trọng nhất của Liên bang để bảo vệ quyền lợi chiến lược của Liên bang Nga trong mối quan hệ Hải dương toàn cầu: " Lực lương hải quân là lược lượng bảo vệ nhưng lợi ích quan trọng của nhân dân Liên bang Nga và những mục tiêu chiến lược của Liên bang, trong trường hợp khác, là công cụ đập tan mọi âm mưu gây chiến và xâm lược".

Chỉ lệnh của Tổng thống Liên bang Nga từ 4/3/2000 đã chuẩn y Chiến lược chính sách Hải dương của Nga. Đồng thời cùng với chỉ lệnh đó, một phần đã đưa ra Chiến lược hải dương trong lĩnh vực các hoạt động của Hải quân đến năm 2010.

Những văn bản đó đã chỉ ra mục tiêu phát triển lực lượng Hải quân Liên bang Nga, làm chính xác và cụ thể hơn vị trí nhiệm vụ của Hải quân Liên bang Nga trong Học thuyết quân sự.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang