Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

>> Trung Quốc toan tính tiến ra biển Đông với 3 mũi tiến công




Trung Quốc đang chủ trương tạo sức ép với các nước có tuyên bố chủ quyền trên biển Đông, vừa để ngỏ cánh cửa đàm phán tiến tới mục tiêu “cùng khai thác”.


Khi đó, dựa vào công nghệ lẫn tiềm lực tài chính Trung Quốc chiếm phần lớn lợi ích khai thác nguồn tài nguyên ở biển Đông.

Để thực hiện chủ trương trên, bước vào năm 2011, Trung Quốc đã triển khai thực hiện ba mũi tiến công:

Tăng cường giao lưu, giảm bớt sự can thiệp của Mỹ vào biển Đông

Sau những cọ xát căng thẳng với Mỹ tại 3 biển Hoàng Hải, Đông Hải và biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải) trong năm 2010, đầu năm 2011, Trung Quốc chủ động mở cánh cửa hòa hoãn với Mỹ. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung Quốc - Mỹ hồi tháng 1/2011 diễn ra sau chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng R.Gates tới Trung Quốc.

Qua 2 chuyến thăm liên tiếp trong tháng 5/2011, 2 bên đã thiết lập được khuôn khổ cho quan hệ mới với một số nhượng bộ lẫn nhau.

Cụ thể, Trung Quốc nhượng bộ Mỹ một số vấn đề kinh tế thương mại, bày tỏ hoan nghênh Mỹ tiếp tục phát huy vai trò ở khu vực và quyết định thành lập các cơ chế tham vấn Trung Quốc - Mỹ về các sự vụ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, trọng tâm mà Trung Quốc hướng tới là trung lập hóa Mỹ, để Mỹ không can dự vào vấn đề biển Đông. Tại đối thoại Chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung lần 3 ở Mỹ, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc gợi ý, “Trung Quốc và Mỹ sẽ cùng thống trị châu Á - Thái Bình Dương”.



Mọi nước cờ được Trung Quốc tính toán nhằm đạt mục đích tối thiểu là "cùng khai thác" trên biển Đông.


Về phía Mỹ, phát biểu của Ngoại trưởng Hilary Clinton tại Hà Nội tháng 7/2010 đánh dấu sự chuyển biến chính sách của Mỹ đối với biển Đông từ trung lập sang can dự, nhưng những tuyên bố của các quan chức ngoại giao và quân sự Mỹ ngay sau các chuyến thăm đơn phương của Trung Quốc tới Mỹ cho thấy, dường như vì lợi ích của mình, Mỹ chưa dứt khoát với lập trường trung lập.

Dùng lợi ích kinh tế chia rẽ ASEAN

Đối với ASEAN, biển Đông là vấn đề trọng đại ảnh hưởng đến tiến trình nhất thể hóa, Trung Quốc luôn duy trì lập trường: Vấn đề biển Đông không phải là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN mà là vấn đề giữa Trung Quốc và từng quốc gia tranh chấp. Trung Quốc luôn nhấn mạnh dùng cơ chế song phương để giải quyết vấn đề biển Đông, phản đối đa phương hóa và quốc tế hóa.

Bởi vì thế, Trung Quốc lợi dụng ảnh hưởng kinh tế ngày một tăng, tăng cường hợp tác kinh tế với ASEAN để đến mức độ nhất định, phát triển kinh tế của ASEAN không thể tách rời Trung Quốc. Khi đó, lợi ích kinh tế lớn có thể trở thành nguyên nhân chính khiến các nước ASEAN khó đoàn kết và gây khó dễ cho Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển Đông.

Vì vậy, ngay sau khi khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN khởi động ngày 1/1/2010, mậu dịch song phương Trung Quốc - ASEAN phát triển với tốc độ nhanh; đặc biệt trong 3 tháng đầu năm 2011, kim ngạch hai bên đạt 110 tỉ USD, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2010.

Gia tăng hành động nhằm khuất phục các nước có tranh chấp chủ quyền biển Đông

Năm 2011, Trung Quốc gia tăng các hoạt động diễn tập quân sự, nhằm phô trương sức mạnh, răn đe các nước trong khu vực.

Đặc biệt, trong nửa đầu tháng 6/2011, Hạm đội Nam Hải của Hải quân Trung Quốc cũng liên tục tổ chức 6 cuộc diễn tập trên phạm vi trên không, trên biển và đất liền, với sự tham gia của các tàu quân sự, như tàu khu trục, trinh sát chống ngầm, tàu đổ bộ, tàu tuần tra, trực thăng vũ trang và các lực lượng Không quân của Hải quân, Hải quân đánh bộ..., nhằm huấn luyện thích ứng với các tình huống tác chiến trên biển.



Trung Quốc gia tăng các hoạt động quân sự, nhằm phô trương sức mạnh, răn đe các nước trong khu vực.


Cùng với đó, Trung Quốc gia tăng các hoạt động gắn mác "dân sự" như Ngư Chính, Hải Giám, Hải tuần... để gây phức tạp tình hình trên biển Đông.

Cùng với đó, đầu tháng 3/2011, tại buổi họp báo về Kỳ họp thứ 4 Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc khóa 11, phát ngôn viên Hội nghị Lý Triệu Tinh cho biết, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2011 là khoảng 91,5 tỷ USD, tăng 12,7% so với năm 2010.

Ông này cũng khẳng định, Chính phủ Trung Quốc đã luôn cố gắng hạn chế chi tiêu quân sự và chi tiêu ở mức hợp lý để đảm bảo cân bằng giữa quốc phòng và phát triển kinh tế; chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc là minh bạch và mang mục đích phòng thủ; ngân sách quốc phòng năm 2011 tăng, chủ yếu dùng để hiện đại hóa trang thiết bị quân sự, huấn luyện quân sự và đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng cho quân đội, điều chỉnh mức lương, trợ cấp nhằm cải thiện đời sống cho bộ đội.

Tuy nhiên, giới quan sát lại cho rằng, trọng tâm trong việc tăng ngân sách Quốc phòng của Trung Quốc năm 2011 là phát triển lực lượng Hải quân và điều này, sẽ khiến các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc hết sức quan ngại và cho rằng, con số chi tiêu quốc phòng thực tế lớn hơn những gì được công bố.

Ngoài ra, năm 2011, Trung Quốc đã phô trương trình diễn những loại vũ khí mới hiên đại như, máy bay tàng hình thế hệ 5 J-20, máy bay cảnh báo sớm trên không KJ-2000 và KJ-200, máy bay ném bom hạng nặng H-6K, tên lửa đường đạn chống hạm tiên tiến DF-21D, tàu ngầm thế hệ mới.

Đáng chú ý, ngày 6/4/2011, Trung Quốc đã công bố chuẩn bị hạ thủy tàu sân bay đầu tiên Varyag, vốn được xem là trụ cột của chính sách hiện đại hóa quân đội và tham vọng Hải quân của Trung Quốc.

Xung quanh sự kiện này, các chuyên gia phân tích quân sự quốc tế cho rằng, đối với Hải quân Trung Quốc, Tàu sân bay Varyag đóng vai trò hình mẫu giúp cho hải quân nước này tiếp thu công nghệ và học kỹ năng chế tạo hàng không mẫu hạm, là bước cần thiết để Trung Quốc đóng thêm những chiếc tàu sân bay khác một cách hoàn chỉnh hơn. Khi tàu sân bay Varyag hạ thủy, đối với các nước có chấp chủ quyền ở biển Đông, Trung Quốc có thể hăm dọa, ngăn cản một cách có hiệu quả, khiến các nước không còn dám ngang ngược, từ đó kiếm thêm ưu thế trong đàm phán tranh chấp biển đảo.

Song song với đó, Trung Quốc còn tăng cường đầu tư phát triển lực lượng tuần tra và khẩn trương chuẩn bị đưa giàn khoan Hải Dương Thạch Dầu 981 vào hoạt động ở biển Đông.

Năm 2011, Trung Quốc, đẩy mạnh phát triển lực lượng tuần tra chấp pháp trên biển, đáng chú ý là sự đầu tư phát triển của lực lượng Hải giám.

Ngày 17/6, Tổng đội Hải giám quốc gia Trung Quốc cho biết, Trung Quốc có kế hoạch bổ sung 100 tàu và 5 máy bay cho lực lượng này, để thực hiện nhiệm vụ tuần tra chấp pháp bảo vệ lợi ích chủ quyền quốc gia Trung Quốc.

Trước đó, năm 2010, Trung Quốc chế tạo được 36 tàu loại 1.000 tấn và 54 tàu tốc độ cao; cử 1.068 lượt máy bay và 13.337 lượt tàu tuần tra biển Đông...

[BDV news]


>> Tại sao Trung Quốc phát triển 'quân xanh'?




Phát ngôn viên BQP Trung Quốc, ông Cảnh Nhạn Sinh tuyên bố nước này lập “quân xanh” (*) nhằm mục đích đảm bảo vững chắc an ninh mạng quân sự.


(*) Đội quân xanh trên mạng (Online Blue Army)

Tuyên bố của ông Cảnh đưa ra nhằm đáp lại những câu hỏi trong một cuộc họp báo của Bộ Quốc phòng Trung Quốc tại Bắc Kinh về việc liệu "Quân xanh" có phải là đội chuyên tấn công hệ thống mạng của những nước khác không.

Sự ra đời của “quân Xanh” nhanh chóng thu hút sự quan tâm dư luận thế giới và trở thành một chủ đề bàn tán sôi nổi trên các diễn đàn quân sự.



Ông Cảnh Nhạn Sinh, phát ngôn viên của Bộ quốc phòng Trung Quốc


Dưới đây là bài đăng trên báo mạng Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc, phân tích tại sao quốc gia này lại phát triển một đội quân đặc biệt chuyên về internet.

Trên thế giới hiện nay, tác chiến trên mạng không phải là hiếm. Mỹ đã từng sử dụng virus máy tính để phá hủy hệ thống phòng không của Iraq trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991.

Sau đó, đơn vị quân sự trực tuyến của Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh ở Kosovo và Iraq. Ngoài nước Mỹ, các quốc gia Anh, Nga, Nhật và Ấn Độ cũng có các đơn vị chiến đấu tương tự.

Ý thức hệ phương Tây thường gán màu đỏ cho kẻ thù. Tuy nhiên Trung Quốc lại dùng màu xanh để ám chỉ lực lượng tấn công.

Ông Teng Jianqun, một nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc nói rằng không nên cường điệu hóa vấn đề màu sắc của đội quân trực tuyến. “Bên xanh” và “bên đỏ” chỉ đơn thuần là cách gọi các phe đối đầu. Cái tên quân Xanh của Trung Quốc không có ý nghĩa gì đặc biệt. Hiện nay, cộng đồng quốc tế cũng không có một nguyên tắc nào về ý nghĩa của các màu sắc.

Thiếu tướng Luo Yuan, Phó tổng thư kí Học viện PLA (Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc) cho biết quân Xanh là cách gọi của binh lính chỉ những kẻ tấn công trên mạng trong các khóa huấn luyện.

Li Li – một chuyên gia quân sự tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc lưu ý “không nên so sánh các đội quân trực tuyến của Trung Quốc với các nước phương Tây. Quân Xanh đang trong giai đoạn hoàn thiện, nó mới chỉ như một tổ chức hoạt động trực tuyến chứ chưa hẳn là một đơn vị quân sự quy mô lớn”.

Giáo sư Zhang Shaozhong chỉ ra, Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào internet, tuy nhiên Trung Quốc lại không có các máy chủ. Rất nhiều phần cứng của internet ở Trung Quốc là từ Mỹ. Trong trường hợp đó, Trung Quốc chỉ là “người sử dụng”, an ninh mạng quốc gia này rất yếu. Rất nhiều loại virus như “"blackmailer," "panda burning joss-sticks" và "dummycom” đang đe dọa an ninh mạng Trung Quốc.

Do đó, việc thành lập một lực lượng quân sự để đảm bảo an ninh mạng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, khi Trung Quốc xác nhận thiết lập "quân xanh", các phương tiện truyền thông phương Tây lại nghi ngờ đó là đội quân tin tặc.

Theo ông Teng Jianqun “quân xanh" không phải tin tặc. Thứ nhất, hoạt động của lực lượng này là hợp pháp, có tổ chức và hoạt động theo hướng dẫn của nhà nước. Trong khi đó hầu hết tin tặc thường hoạt động bất hợp pháp, gây ra thiệt hại. Thứ hai, quân Xanh góp phần bảo vệ an ninh quốc gia trái hẳn với tin tặc tấn công máy tính bằng virus và các thủ thuật”.

Ngoài ra ông cũng nhấn mạnh không hề có điểm chung nào giữa đội quân trực tuyến của Trung Quốc và tin tặc.

So với các nước đi trước, "quân xanh" của Trung Quốc còn một số điểm yếu. Tuy nhiên, sự ra đời của nó đã đáp ứng yêu cầu của lịch sử, thích ứng với sự thay đổi của thời đại. Cũng giống như không quân, hải quân, đội quân mạng này sẽ góp phần bảo vệ an ninh, phát triển kinh tế và ổn định xã hội.

Thời gian qua, tác chiến mạng, chiến tranh mạng nổi lên thành một vấn đề an ninh toàn cầu. Thế giới ghi nhận nhiều trường hợp các cuộc tấn công tin học bị nghi ngờ có mục đích chính trị: như cuộc tấn công vào các máy tính điều khiển máy ly tâm của Iran (được cho là Mỹ và Israel chủ mưu), cuộc tấn công vào hệ thống mạng quân sự của Mỹ (Trung Quốc bị cho là chủ mưu). Trong bối cảnh này, nhiều ý kiến trong giới quân sự Mỹ nhìn nhận các cuộc tấn công tin học như vậy là lời tuyên chiến và nước Mỹ cần đáp trả hành động quân sự trên thực tế để răn đe các nguy cơ đến từ mạng ảo. Và một trong đối tượng răn đe chính là Trung Quốc, dù nước này luôn phủ nhận trách nhiệm và sự liên quan đến các cuộc tấn công tin học vào nước Mỹ.


[BDV news]


>> Mỹ phát triển tàu cá mập Seabreacher X




Công ty Innespace của Mỹ mới đây đã công bố chế tạo thành công tàu cá mập Seabreacher X.


Chiếc tàu mới có hình dạng giống như một con cá mập và có tên gọi là Seabreacher X.

Seabreacher X khả năng hoạt động giống các sinh vật biển và nó có thể được điều chỉnh hướng, thay đổi góc độ nghiêng bằng vây ngực và đuôi.

Theo nhận định, chiếc tàu hiện đại này đã chinh phục được tốc độ so với các biến thể trước đó, Seabreacher X có khả năng uốn cong, cuộn, nhảy và lặn dưới nước theo từng cử động của người điều khiển.

Chiếc tàu mới và hiện đại Seabreacher X được trang bị một màn hình hiển thị và một camera ở vây lưng, khi lặn dưới nước, người điểu khiển có thể điều chỉnh hướng thông qua các hình ảnh hiển thị trên màn hình. Ngoài ra, tàu được trang bị một hệ thống âm thanh nổi và hệ thống định vị vệ tinh GPS.

Trước đây, Innespace đã chế tạo mô hình Seabreacher J có hình dáng giống cá heo. Hiện nay, Seabreacher X là sản phẩm kế thừa Seabreacher J, được trang bị động cơ Model J 260 mã lực, do đó có thể đạt vận tốc tối đa 80 km/h khi chạy trên mặt nước và 40 km/h khi lặn dưới nước.

Seabreacher X còn được trang bị một hệ thống đặc biệt ngăn nước rò rỉ vào trong khoang lái và động cơ, thuyền có khả năng lặn sâu đến 1,8 m.

Theo đơn giá của công ty, chiếc thuyền Seabreacher J có hình dạng cá heo trước đó có giá 65000 đến 85000 USD, thì nay với biến thể mới Seabreacher X có giá lên tới 93.500 USD.

Hiện, đã có một số đơn đặt hàng từ những khách hàng đến từ Hàn Quốc và Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất.

Hình ảnh về Seabreacher-J và Seabreacher-X:



Công ty Innespace sẽ chỉ sản xuất với số lượng rất hạn chế.




Thuyền cá mập Seabreacher X đang tiến hành bơi thử nghiệm.




Thuyền Seabreacher X có khả năng lặn sâu đến 1,8 m.



Sở dĩ được gọi là thuyền cá mập Seabreacher X vì hình dạng bên ngoài giống cá mập.




Thuyền cá heo Seabreacher J.




Seabreacher rất phù hợp cho những chuyến du ngoạn trên sông hay trên biển.




Tùy thuộc vào công suất của động cơ, Seabreacher-J có giá
thấp hơn Seabreacher-X.




Thuyền cá heo Seabreacher J có công suất nhỏ hơn Seabreacher-X.




Seabreacher-X cũng như Seabreacher-J được bố trì chỗ ngồi cho hai người.


[BDV news]


>> Nga bất ngờ tuyên bố sẽ đóng tàu sân bay




Bắt đầu từ năm 2016, Tập đoàn đóng tàu thống nhất (OSK) Nga sẽ khởi động chương trình thiết kế và đóng tàu sân bay cho Hải quân Nga.


Thông tin trên được Tổng Giám đốc OSK, ông Roman Trotsenko khẳng định trước các phóng viên của Hãng tin Interfax. Đây là thông báo mới nhất trái ngược hoàn toàn với các tuyên bố của quan chức Nga trước đó.

Trước đây, Phó Thủ tướng Nga Sergay Ivanov cho biết, trong chương trình chế tạo mua sắm vũ khí giai đoạn 2011-2012 không có kế hoạch thiết kế và đóng tàu sân bay. Với tổng ngân sách quốc gia gần 20 tỷ rúp, Nga sẽ chú trọng vào quá trình đẩy nhanh sản xuất các loại tàu ngầm.

Cuối năm 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdiukov tuyên bố, Nga không có kế hoạch đóng tàu sân bay.



“Đô đốc Kuznetsov” - Tàu sân bay duy nhất của Hải quân Nga


Tháng 12/2010, các hãng thông tấn của Nga dẫn nguồn tin từ Bộ Quốc phòng nước này cho biết, hiện nay Nga soạn thảo các tài liệu kỹ thuật – thiết kế để đến năm 2012 sẽ bắt đầu đóng 4 tàu sân bay mới.

Thông tin về việc Nga đang tiến hành thiết kế tàu sân bay mới xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2009. Tuy nhiên, tiến độ thiết kế đang trong giai đoạn nào vẫn chưa được công bố.

Trong trang bị của Hải quân Nga hiện nay chỉ có 1 tàu sân bay duy nhất “Đô đốc Kuznetsov” được đóng theo dự án 1143.5 “Krechet” vào năm 1985. Tàu sân bay này thuộc biên chế của Hạm đội Biển Bắc, được trang bị 12 trực thăng Ka-27 và 33 máy bay tiêm kích Su-33.


>> Hải quân Brunei: Nhỏ nhưng không yếu




Nước nhỏ, dân ít nhưng thu nhập đầu người rất cao, 300.000 USD/năm nên hải quân Brunei được đầu tư rất hiện đại, được “tên lửa hóa”


Mục đích là để bảo vệ vùng biển và các giếng dầu, nguồn thu nhập chính của quốc gia.

Các “chủ lực hạm” của Hải quân Brunei

Nói đến Hải quân Brunei hiện đại là nói đến các chiến hạm Nakhoda Ragam, Waspada, Daruslam và các tàu tuần tiễu khác. Trong đó, lớp tàu hộ tên lửa Nakhoda Ragam sản xuất tại Anh với hệ thống vũ khí, thiết bị hiện đại là nòng cốt của hải quân.

Vũ khí chính của tàu lớp Nakhoda Ragam gồm tổ hợp 8 tên lửa hải đối hải MBDA Exocet MM-40 block II với tấm bắn 70km, tốc độ hành trình xấp xỉ tốc độ âm thanh. Để chống máy bay và tên lửa hành trình của đối phương, tàu được trang bị hệ thống tên lửa phòng không MBDA Seawolf sử dụng động cơ nhiên liệu rắn, tấm bắn 6km, tốc độ Mach 2,5. Các tên lửa này đặt trong 16 ống phóng thẳng đứng.

Ngoài ra, tàu còn có 1 bộ pháo 76mm, 2 pháo 30mm, ngư lôi chống ngầm 324mm. Phía đuôi tàu có bãi đáp cho trực thăng hạng trung S-70B Sea Hawk. Ngoài hệ thống vũ khí hiện đại, tàu lớp Nakhoda Ragam cùng với vũ khí hiện đại, còn có tiếng động cơ cao và hệ thống chỉ huy, radar, định vị tiên tiến.



Chiến hạm Nakhoda Ragam thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu.

Dài 89,9m, rộng 12,8m, mớn nước 3,6m, lượng giãn nước 2.000 tấn, tù lớp Nakhoda Ragam có thuỷ thủ đoàn lúc tăng cường hơn 100 người, tốc độ tối đa 30 hải lý/ giờ, tầm hoạt động 9.000km.

Sau 6 năm đặt hàng, Hải quân Brunei lần lượt đưa 3 tàu lớp trên vào biên chế, trong 2 năm 2001-2002, với tên gọi là KDB Nakhoda Ragam, KDB Bendhara Sakam và KDB Jerambak.

Đầu năm 2011, Hải quân Brunei nhận thêm 1 chiếc Nakhoda Ragam mới, có nhiều cải tiến so với 3 chiếc trong biên chế, chủ yếu là hệ thống điện tử. Tàu được trang bị radar tìm kiếm mục tiêu và kiểm soát bắn SCANTER 4100, hệ thống radar có độ nhạy rất cao, đặc biệt là trong điều kiện có nhiều tàu thuyền hoạt động như các cảng biển. Hệ thống điều khiển vũ khí quang-điện tử STING EO Mk.2. Hệ thống trinh sát quang- điện tử MEOS-2.

Trong các tàu tuần tiễu để bảo vệ vùng kinh tế đặc quyền 200 hải lý, nhiều tàu của Hải quân Brunei được tên lửa hoá. Đó là lớp tàu 3 chiếc lớp Waspada, mỗi tàu có 2 bệ phóng tên lửa hải đối Exocet MM-38. Thành viên mới nhất của Hải quân Brunei là 3 chiếc lớp Darussalam mua của Đức (mang tên KDB Daruslam, KDB Darulehsam và KDB Darulaman), vừa được biên chế trong năm 2011. Tàu lớp này dài 80m, rộng 13m có thể đi biển liên tục 3 tuần lễ và được trang bị tên lửa hải đối hải Exocet MM-40 và 1 pháo Bofors 57mm.

Ngoài ra, phải kể đến các lớp tàu tuần tiễu tốc độ nhanh gồm 4 chiếc lớp Ijhtihad gồm Ijhtihad, KDD Berkat, KDB Afiat.

Trưởng thành từ “vốn liếng” nhỏ bé

Hải quân Brunei thành lập ngày 14/6/1968 tại căn cứ Mata. Các tàu hải quân nước này đều mang danh hiệu KDB nghĩa là Kapal Diraja Brunei – Tàu hoàng gia Brunei.

Trong giai đoạn thành lập hải quân, Mata chỉ là một căn cứ nhỏ và các chiến hạm như như tàu lớp Perwira, pháo hạm tuần tiễu ven bờ với số lượng vỏn vẹn 3 chiếc được coi là “vốn liếng” ban đầu.

Đến giai đoạn 1979-1982, Brunei đã mua 3 tàu chiến cao tốc lớp Waspada, mỗi tàu có 12 tên lửa Exocet. Hải quân Brunei lúc đó cũng chỉ gồm 300 người.



Bộ 3 chiến hạm Nakhoda Ragam neo đậu tại một căn cứ hải quân.


Sau thời gian xây dựng, phát triển tiệm tiến, đến đầu những năm 1990, Brunei có kế hoạch phát triển hải quân mạnh mẽ, quân số tăng gấp hơn 3 lần và trang bị nâng hẳn về chất theo hướng hiện đại hoá – tên lửa hoá. Nước này mua sắm 3 tàu lớp Vigilance 1.000 tấn của Anh, để tuần tra ngoài khơi.

Trong 8 năm 2000-2007, Hải quân Brunei được chi hàng tỉ USD cho chương trình canh tân, riêng để mua 3 chiếc tàu hộ vệ tên lửa Nakhoda Ragam với công nghệ mới nhất của Anh, nước này đã chi 1,5 tỷ USD. Ngoài ra, phải kể tới dự án đổi mới toàn bộ hệ thống radar đối hải chạy dọc bờ biển.

Mục tiêu sắp tới của Brunei là xây dựng hải quân hiện đại, nâng cao khả năng tác chiến, khả năng hiệp đồng hải quân với không quân, lục quân kể cả trong thời tiết, địa hình phức tạp.

Theo kế hoạch, Hải quân Hoàng gia Brunei sẽ cho biên chế, mua và đóng thêm các tàu mới là nhằm thay thế các tàu mang tên lửa lớp Waspada và các tàu tuần tra ven biển lớp Perwira đã cũ bằng các tàu hải quân hiện đại hơn, nhằm thực hiện nhiệm vụ tuần tra và bảo vệ khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý của đất nước này.

Như vậy, từ “vốn liếng” nhỏ bé ban đầu, Hải quân Brunei đã phát triển thành một lực lượng tinh gọn và hiện đại.

Hiện nay hải quân Brunei có quân số 1.000 người, biên chế thành 3 hải đoàn tàu chiến và 1 đơn vị đặc nhiệm hải quân. Tàu các loại có 20 chiếc, gồm 16 tàu chiến đấu (3 hộ vệ tên lửa, 13 tuần tiễu cao tốc ven bờ, phần lớn trang bị tên lửa Exocet.....), 4 tàu đổ bộ.

[BDV news]


>> Trung Quốc triển khai tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo 8.000km




Ngày 28/6, báo Ming Pao xuất bản ở Hồng Kông đưa tin, Trung Quốc đã triển khai một chiếc tàu ngầm diesel mới được trang bị tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) có thể phóng tới tất cả các khu vực của nước Mỹ, để kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào 01/7.

Dẫn lời một nguyệt san ở Hồng Kông, báo Ming Pao cho biết chiếc tàu ngầm lớp Ching được Trung Quốc sản xuất bằng chính công nghệ của họ đang neo đậu tại một cảng ở gần Thượng Hải.


Ảnh minh họa

Chiếc tàu ngầm này có thể mang được sáu quả tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm chiến lược, mang tên "Jwirang-2", có tầm bắn 8.000km, tờ báo cho biết.

Theo các chuyên gia, chiếc tàu ngầm này có thể được chuyển đổi thành một tàu ngầm được trang bị tới 42 quả tên lửa hành trình có tầm bắn 1.500km. Có nghĩa là tàu ngầm cũng có khả năng hoạt động tại các vùng biển gần Trung Quốc.

Trung Quốc dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất thêm các tàu ngầm lớp Ching do chúng có chi phí hợp lý, các chuyên gia cho biết.

Hải quân Trung Quốc đã triển khai ba chiếc tàu ngầm lớp Ching, mỗi chiếc tại Hoàng Hải, Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Vì tàu ngầm chạy bằng diesel được cho là không gây nhiều tiếng ồn, nên Hải quân Trung Quốc đã triển khai một số lượng lớn tàu ngầm loại này tại các vùng biển gần đó, các chuyên gia cho biết thêm.

Kể từ giữa những năm 1990, Trung Quốc đã tăng cường sản xuất tàu ngầm với nỗ lực nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên biển và các tuyến đường biển ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.

[BDV news]


>> Sự đối đầu giữa MiG-21 và F-4 trong chiến tranh Việt Nam




Cuộc chiến tranh ở miền Bắc Việt Nam đã trở thành cuộc đối đầu trên không lớn và bi thảm nhất sau năm 1945. Hai bên đã đưa hàng chục máy bay các loại để tham chiến. Tuy nhiên, gánh nặng chính của cuộc đối đầu trên không giữa là máy bay MiG-21 và Phatom. Tác giả Vladimir Ilyin trong bài “MiG-21 chống lại Phatom” đăng trên website Topwar.ru có đôi điều lý giải về thất bại của máy bay Mỹ trước MiG-21 của Nga trong chiến tranh tại Việt Nam.

MiG-21 kém F-4?

F-4 Phantom II (Con Ma ) là một loại máy bay tiêm kích-ném bom tầm xa siêu âm hai chỗ ngồi hoạt động trong mọi thời tiết được hãng McDonnell Douglas thiết kế chế tạo vào năm 1958 trước tiên cho Hải quân Hoa Kỳ.

F-4B ở trên vùng trời Việt Nam. (Ảnh: Wikipedia)


Vận tốc bay tối đa của F-4 là 2.260km/h, trần bay thực tế 16.600-17.900m, tầm bay xa thực tế không có thùng dầu phụ là 2380km

F-4 được trang bị radar mạnh, cũng như vũ khí có một không hai như 4 quả tên lửa đối không tầm ngắn AIM-9 Sidewinder và 4 tên lửa AIM-7 Sparrow tầm trung gắn trên thân.

Các phiên bản nâng cấp của F-4 có khả năng mang các loại tên lửa đối không: AIM-120 AMRAAM, AAM-3, IRIS-T, Skyflash. Có đến 8.480kg (18.650 lb) vũ khí gắn trên 9 đế trên cánh và thân, bao gồm bom thông thường, bom chùm, bom dẫn đường bằng laser, rocket, tên lửa đối đất, tên lửa đối hạm, vũ khí hạt nhân.

Phantom II đã được dùng trong quân đội Hoa Kỳ từ năm 1960 đến năm 1996, và là máy bay tiêm kích ưu thế trên không chủ yếu cũng như là máy bay chiến đấu ném bom chính của Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến trong Chiến tranh Việt Nam. F-4 cũng được trang bị cho quân đội của nhiều nước khác, và cho đến năm 2001 vẫn còn hơn 1.000 máy bay F-4 đang được sử dụng ở 11 nước trên toàn thế giới.

Đối thủ chính của Phantom trong chiến tranh Việt Nam – máy bay tiền tuyến MiG-21 cũng được chế tạo vào năm 1958. Khác với máy bay Mỹ, máy bay MiG-21 của Nga có tầm hoạt động ngắn. Tải trọng cất cánh thông thường của các biến thể được sử dụng trong chiến tranh Việt Nam – dưới 8 tấn và có tầm bay xa nhỏ đáng kể - khoảng 1500km. Tuy nhiên, những đặc điểm bay còn lại của MiG-21 không hề thua kém đối thủ Mỹ: vận tốc bay tối đa – 2175-2300km/h, trần bay thực tế - 18000-19000m. Thành phần vũ khí của MiG-21 cũng yếu hơn đáng kể so với Phantom của Mỹ: - 2 (sau đó là 4) tên lửa không đối không tầm trung R-3S (Vympel K-13) tự dẫn bằng tia hồng ngoại cũng như 1 pháo 23 hoặc 30mm (trong hàng loạt biến thế không được trang bị pháo này).



Rõ ràng, MiG-21 và F-4 là những máy bay rất khác nhau, được chế tạo để thực hiện những nhiệm vụ cũng khác nhau.


Chiến tranh tạo ra những anh hùng

F-4 tham gia chiến tranh Việt Nam và là máy bay chiến đấu cuối cùng của Mỹ trong thế kỷ 20 tạo nên "Át" (phi công bắn rơi được từ 5 máy bay địch trở lên): Trong chiến tranh Việt Nam, Không quân có 1 phi công và 1 sĩ quan hệ thống vũ khí, và Hải quân có 1 phi công và 1 sĩ quan theo dõi radar (RIO: Radar Intercept Officer) đạt danh hiệu "Át".

Những chiếc F-4C của Không quân Hoa Kỳ ghi được chiến công không chiến đầu tiên trước một chiếc MiG-17 của Bắc Việt Nam vào ngày 10 tháng 7 năm 1965, sử dụng tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder. Ngày 24 tháng 7 năm 1965, một chiếc Phantom thuộc Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 47 tạm thời bố trí tại Việt Nam đã trở thành chiếc máy bay Hoa Kỳ đầu tiên bị tên lửa đất-đối-không (SAM) bắn hạ, và vào ngày 5 tháng 10 năm 1966 một chiếc F-4C thuộc Không đoàn Tiêm kích Chiến thuật 8 trở thành chiếc máy bay phản lực Hoa Kỳ đầu tiên bị bắn hạ bởi tên lửa không-đối-không do một chiếc MiG-21 bắn ra.

Phải công nhận rằng, cuộc cạnh tranh của máy bay MiG và Phatom trên bầu trời Việt Nam đã kết thúc với thất bại hoàn toàn thuộc về phía máy bay của Mỹ: trong suốt thời gian chiến tranh từ năm 1966 đến 1972, 54 chiếc MiG-21 đã bị tiêu diệt bởi chiến đấu cơ F-4, cũng trong giai đoạn này, “20 chiếc MiG-21 đầu tiên” đã tiêu diệt được 103 chiếc Phantom. Ngoài ra, khi mất một máy bay Phatom cũng đồng nghĩa với việc 2 phi công bị chết hoặc bị bắt làm tù binh.

Vì vậy, việc máy bay MiG-21 của Nga bắn trúng F-4 của Mỹ được giải thích không phải lỗi của các nhà chế tạo mà là Mỹ thiếu chiến đấu cơ chuyên môn hóa hạng nhẹ có khả năng đối đầu ngang hàng với MiG-21 của Nga.

Kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng rất nhiều đến ngành chế tạo máy bay quân sự ở Mỹ cũng như ở Liên Xô. Mỹ đã đáp trả thất bại của Phantom trong những trận chiến trên không bằng việc chế tạo máy bay có tính cơ động cao thế hệ 4 – F-15, F-16 được cho là hơn hẳn MiG-21 trong những trận chiến cơ động gần.

Tuy nhiên, sau khi chiến tranh tại Việt Nam kết thúc, sự cạnh tranh giữa MiG và Phatom trên bầu trời vẫn chưa chấm dứt. MiG-21 và F-4 lại đối đầu trên kênh đào Suez, trên bầu trời Sinai, ở châu thổ sông Nile, và Syria năm 1973, ở Lebanon vào cuối thập niên 70 – đầu thập niên 80, vào những năm 80-88 của cuộc chiến tranh Iran – Iraq.

[BDV news]


>> Máy bay trong suốt của Airbus




Hãng sản xuất máy bay Airbus của châu Âu đã đề xuất ý tưởng về một máy bay chở khách vô cùng hiện đại với thân máy bay hoàn toàn trong suốt.


Với chiếc may bay mới này, hành khách trong khoang máy bay có thể nhìn ra ngoài bầu trời và ngắm nhìn được toàn bộ quang cảnh mặt đất ngay dưới chân họ.

Theo Hãng sản xuất máy bay Airbus của châu Âu, đây là một trong những ý tưởng độc đáo nhất được đưa ra với mục đích chế tạo những mẫu máy bay mới và hiện đại cho tương lai.

Tuy nhiên, ý tưởng đổi mới này của hãng Airbus còn độc đáo ở chỗ thiết kế ghế ngồi của hành khách dựa trên những vật liệu thân thiện với môi trường, có khả năng tự làm sạch bụi bẩn.

Ngoài ra, hãng Airbus còn đưa ra đề xuất làm cho ghế có thể xoay trên trục, hoặc ngả về phía sau theo ý muốn của hành khách, để hành khách có thể có được phạm vi quan sát nhiều nhất và cảm giác thoải mái nhất.

Với những chiếc máy bay thông thường, hành khách chỉ có thể quan sát được quang cảnh qua ô của sổ máy bay, với ý tưởng đột phá về máy bay trong suốt, hành khách có thể quan sát được với góc nhìn 360 độ.

Theo nhận định, nếu sản phẩm dộc đáo này ra đời, Airbus có thể thu hút được các nhà đầu tư mua máy bay dân dụng và thu hút được nhiều hành khách lựa chọn sử dụng loại máy bay này.

Lớp vỏ ngoài của thân máy bay được bao bọc bởi chất liệu gốm trong suốt có độ đàn hồi và chịu lực cao. Sau khi cơ trưởng nhấn nút, một xung điện sẽ chạy khắp lớp vỏ khiến thân máy bay trở nên trong suốt.

Ngoài ra, máy bay có thể hoàn toàn tránh được những đám mây có tích điện trường cao hoặc có sét và có khả năng cách điện rất tốt. Hơn nữa, thiết kế nội thất hiện đại và tiện nghi cho hành khách.

Độ trong suốt của kính có cấu tạo rất đặc biệt là có khả năng thay đổi tùy theo hoàn cảnh. Vì vậy, nó có thể giảm ánh sáng lóa của mặt trời, hoặc hành khách có thể chiêm ngưỡng những đám mây đẹp lúc hoàng hôn hay bầu trời sao vào ban đêm.

Ngoài ra, phía trước của ghế hành khách sẽ được tích hợp màn hình không gian ba chiều, do đó hành khách có thể theo dõi được các tin tức hoặc chơi các trò chơi, và đàm thoại Email…

Các mặt của máy bay sẽ thay đổi màu sắc tùy theo điều kiện ánh sáng. Hơn thế, trên chiếc máy bay hiện đại này, còn có một hệ thống giải trí, chơi game và thu hình ảnh bằng cảm ứng nhiệt của con người và kết nối internet. Trong máy bay còn có cả sân golf.

Khung của máy bay được thiết kế theo cấu trúc sinh học giống hình xương chim, bao bọc bởi một lớp kính đặc biệt. Với thiết kế này, người ta vừa ứng dụng được sức bay vừa giúp hành khách có thể nhìn ngắm bầu trời khi đang bay.

Theo giám đốc nghiên cứu và công nghệ của Airbus Krein Axel, dự kiến nguyên mẫu đầu tiên xẽ được công bố vào năm 2020 và máy bay có thể cất cánh vào năm 2050.

Ông Krein Axel còn cho biết, có khả năng hãng hàng không Airbus sẽ thiết kế cho mỗi hành khách hoặc nhóm hành khách với cabin của cá nhân và không gian riêng khi bay trên những chuyễn bay hiện đại này của Airbus.

Dưới đây là một số hình ảnh mô phỏng chiếc máy bay tương lai của Airbus.



Phó Giám đốc Kỹ thuật của hãng Airbus Charles Champion mới thuyết trình giới thiệu về loại máy bay mới trong suốt.




Lớp vỏ máy bay trong suốt được thiết kế tinh vi hơn so với lớp vỏ truyền thống. Nó làm giảm khối lượng phi cơ, giảm chi phí nhiên liệu đồng thời cho phép hành khách ngắm nhìn bầu trời theo góc 360 độ.




Chiếc máy bay thương mại mới của Airbus sử dụng nhiên liệu hydrogen và động cơ khí động học và được gắn vào thân may bay thay vì gắn vào cánh như hiện nay nhằm giảm tiếng ồn.




Đi trên chiếc máy bay trong suốt của Airbus sẽ khiến hành khách có cảm giác như đang bay giữa bầu trời, nhìn thấy rõ mọi thứ trên không trung, không có sự ngăn cách.




Trong máy bay còn có cả sân golf.


[BDV news]


>> Công thức 4K cho Biển Đông




Quan sát những diễn biến gần đây trên Biển Đông, TS Giáp Văn Dương cho rằng, Việt Nam cần một chiến lược mang tính định hướng cho vấn đề này, có thể được khái quát thành công thức ngắn gọn: Kiên định - Kiên quyết - Kiên cường - Kiên trì, gọi tắt là 4K.


Căng thẳng Biển Đông đang thu hút sự quan tâm của nhiều giới nhiều ngành, cả trong nước lẫn quốc tế. Với người Việt Nam thì sự quan tâm này càng lớn gấp bội khi trong một khoảng thời gian ngắn, Trung Quốc liên tục gây hấn và xâm phạm vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như đã thấy trong các sự kiện gần đây.




Sự leo thang của căng thẳng Biển Đông dường như ngày càng rõ khi Trung Quốc công khai thể hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông; tăng cường tranh chấp trên mọi lĩnh vực, bằng mọi phương tiện.

Để đối phó với thực tế đó, cần phải có một chiến lược định hướng cho phản ứng của Việt Nam nói chung và mỗi người Việt nói riêng trước mỗi diễn biến mới trên Biển Đông sao cho nhanh, chính xác và hiệu quả nhất có thể.

Sự định hướng từ bên trong này sẽ là chỗ dựa tinh thần giúp cho mỗi người Việt, dù trực tiếp hay chỉ gián tiếp liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, thêm bền gan vững chí trong sự nghiệp trường kỳ này.

Quan sát những diễn biến gần đây trên Biển Đông thì thấy, nội dung chính của chiến lược định hướng này có thể được khái quát thành công thức ngắn gọn: Kiên định - Kiên quyết - Kiên cường - Kiên trì, gọi tắt là 4K.

Kiên định là mỗi người - đặc biệt là những người có trọng trách, có liên quan trực tiếp đến công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo - luôn luôn ghi nhớ mục tiêu, giữ vững lập trường bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp của đất nước; không lung lay dao động khi có tác động từ bên ngoài, bất kể đó là tác động từ nguồn nào, dưới dạng nào. Chủ quyền quốc gia là tối thượng. Không hy sinh hay thỏa hiệp đối với chủ quyền.
Kiên định cũng giúp loại bỏ những tạp luận đủ thể loại để tập trung vào mục tiêu chính, từ đó phát huy được tuệ giác của mình nhằm tìm ra những giải pháp khôn ngoan nhất, sáng suốt nhất; đồng thời tránh được bẫy khiêu khích của đối phương và chủ động tìm đường đi nước bước, tránh bị động.

Trong lịch sử, sự kiên định về chủ quyền biển đảo đã có lúc không được chú trọng và cẩn trọng đúng mức ở một số thời điểm, nên bị Trung Quốc lợi dụng khai thác dẫn tới hệ lụy phải mất nhiều thời gian và tâm sức mới có thể khắc phục được.

Kiên quyết là lời nói và việc làm cần phải quyết đoán, mạch lạc, nhất quán, nhất là ở những cơ quan hữu quan và những người có trọng trách. Kiên quyết ở lời nói và hành động sẽ chuyển được sự kiên định từ trong tâm trí ra ngòai, nên dễ nhận biết, dễ nắm bắt, do đó có tác dụng đoàn kết toàn dân hướng đến một mục tiêu chung.

Kiên cường là không lùi bước, không khuất phục trước khó khăn và đe dọa, xứng đáng với truyền thống giữ nước đã bao lần sáng chói trong lịch sử. Khi đã kiên định và kiên quyết thì kiên cường bảo vệ chủ quyền đất nước là một sự tất yếu.

Kiên cường là phẩm chất đáng quí của dân tộc Việt Nam, đã được kiểm chứng trong suốt chiều dài lịch sử. Còn nhớ năm 1988, khi Trung Quốc đánh chiếm bãi đá Gạc Ma ở Trường Sa, các chiến sĩ hải quân Việt Nam đã nắm tay nhau thành một vòng tròn, nước ngập thắt lưng, thà hy sinh để khẳng định chủ quyền chứ không chịu rời đảo.

Nhưng kiên cường không phải là một thứ của trời cho, tự nhiên có, mà cần được chú tâm bồi đắp và hun đúc không ngừng.

Kiên trì là bền bỉ không lơ là, không nản chí với sự nghiệp trường kỳ này. Chí đã quyết, lòng đã bền thì dù mười năm, một trăm năm hay lâu hơn nữa cũng không nản lòng. Thế hệ này tiếp nối thế hệ kia, người này tiếp nối người khác không ngừng nghỉ.

Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ, và không có dấu hiệu giảm đi trong thời gian ngắn. Vì thế kiên trì bền bỉ đấu tranh bảo vệ chủ quyền là điều tất yếu.

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời". Trong tương quan so sánh, Việt Nam hiện tại còn yếu so với Trung Quốc, nhưng tương lai một Việt Nam hùng cường hoàn toàn có thể đạt được, nếu lãnh đạo và nhân dân đồng thức tỉnh, tăng cường đoàn kết trong ngoài vì mục tiêu phát triển đất nước. Do đó, kiên trì đấu tranh để chờ thời cơ đòi lại những gì đã mất là điều cần thiết.

Trong công thức 4K này, Kiên định đóng vai trò định hướng. Muốn có Kiên quyết, Kiên cường, Kiên trì trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo thì trước hết cần Kiên định, không chủ quan lơ là, không ảo tưởng mơ hồ, không sa vào các tạp luận trong vấn đề này.

Nếu triển khai đồng bộ và hiệu quả công thức này, Việt Nam nói chung và mỗi người Việt nói riêng, sẽ có khả năng phản ứng nhanh, chính xác và hiệu quả trước mỗi diễn biến mới trên Biển Đông. Kết hợp cùng sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo không có lý do gì để thất bại. Hòa bình và Công lý cho Biển Đông cũng vì thế mà có thể đạt được, không chỉ cho Việt Nam mà còn cho tất cả những nước liên quan.

[BDV news]



Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011

>> Bộ Tư lệnh Tác chiến mạng Quân đội Mỹ




Bộ Tư lệnh Tác chiến mạng quân đội Mỹ có sở chỉ huy đóng tại căn cứ Lục quân George G. Meade, tổng quân số 21.000 nhân viên, sỹ quan và binh lính.

Bộ Tư lệnh Tác chiến mạng quân đội Mỹ do Tướng Keith B. Alexander (*) làm chỉ huy. Bộ Tư lệnh được tổ chức thành 4 đơn vị, bao gồm: Tập đoàn Tác chiến mạng Lục quân số 2, Tập đoàn Tác chiến mạng Không quân số 24, Hạm đội Tác chiến mạng Hải quân số 10 và Lữ đoàn Tác chiến mạng của Hải quân đánh bộ.



Tướng Keith B. Alexander chỉ huy Bộ Tư lệnh Tác chiến mạng quân đội Mỹ.


Tập đoàn Tác chiến mạng Lục quân số 2

Tập đoàn Tác chiến mạng Lục quân số 2 được biên chế thành ba đơn vị lẻ, hoạt động độc lập đó là, Quân đoàn Công nghệ thông tin mạng số 9, Lữ đoàn Tác chiến thông tin mạng số 1, Quân đoàn An ninh và Tình báo mạng.

Quân đoàn Công nghệ thông tin mạng số 9 với biên chế khoảng 16.000 quân, Quân đoàn này có nhiệm vụ lập kế hoạch, thiết kế, lắp đặt, phối hợp, bảo vệ và tác chiến mạng của Lục quân.

Quân đoàn này tiếp tục được chia nhỏ thành các đầu mối đơn vị như, Sư đoàn Tác chiến thông tin mạng chiến lược số 5 đảm nhiệm tác chiến mạng cấp chiến lược toàn châu Âu.

Trong đó có, Lữ đoàn tín hiệu số 2 với biên chế 5 Tiểu đoàn và Cụm yểm trợ công nghệ thông tin dân sự 6981 đóng vai trò chủ đạo, bên cạnh đó còn có Lữ đoàn tín hiệu số 7 với biên chế 3 Tiểu đoàn.

Ngoài ra, trực thuộc quân đoàn còn có Sư đoàn thông tin số 7, Sư đoàn thông tin số 311 Thái Bình Dương, Sư đoàn thông tin số 335 Trung Đông.

Sư đoàn thông tin số 7 được chia nhỏ thành các đơn vị viễn chinh, tác chiến mạng cấp chiến thuật, các đơn vị xâm nhập mạng và đánh chặn mạng, các đơn vị này được trang bị chủ yếu các phương tiện như, máy tính, máy truyền số liệu, máy phát xung, đài vô tuyến và hệ thống cáp mạng.

Đối với Lữ đoàn Tác chiến thông tin mạng số 1 được biên chế các đơn vị như, phòng nhân sự S1, phòng tình báo S2, phòng tác chiến S3, phòng hậu cần S4, phòng tự động hóa S6, phòng quản lý các dự án.

Các tiểu đoàn số 1, số 2 đảm nhiệm chức năng phân tích, hỗ trợ và giải quyết các thách thức về môi trường thông tin mạng, quản lý thiệt hại mạng và hỗ trợ huấn luyện và lập kế hoạch tác chiến mạng máy tính. Ngoài ra, còn có Lực lượng dự bị và huấn luyện.

Đối với Quân đoàn An ninh và Tình báo mạng được biên chế gồm, Lữ đoàn tình báo mạng quân sự số 66, Lữ đoàn tình báo mạng quân sự số 300, Lữ đoàn tình báo mạng quân sự số 500, Lữ đoàn tình báo mạng quân sự số 501, Lữ tình báo mạng quân sự số 704.



Văn phòng tác chiến mạng của Bộ Tư lệnh Tác chiến mạng Quân đội Mỹ.


Tập đoàn Tác chiến mạng Không quân số 24

Tập đoàn Tác chiến mạng Không quân số 24 là đơn vị thứ hai trực thuộc Bộ Tư lệnh Tác chiến mạng quân đội Mỹ. Lực lượng này chủ yếu được biên chế các phi đội trinh sát và máy bay không người lái như: Phi đội số 11, Phi đội số 12, Phi đội số 15, Phi đội số 30, Phi đội yểm trợ tác chiến mạng số 107 với trang bị máy bay RQ-4 Global Hawk, máy bay MQ-1 Predator, RQ-170 Sentinel, F-16C/D và A-10. Ngoài ra còn có máy bay C-130H Hercules, máy bay KC-135;

Hạm đội Tác chiến mạng Hải quân số 10

Hạm đội này được biên chế khoảng 4.500 quân, Hạm đội này có nhiệm vụ, hỗ trợ tác chiến cho Hải quân trên toàn thế giới, hỗ trợ thông tin, máy tính, tác chiến điện tử và không gian mạng.

Các đơn vị trực thuộc gồm, Trung tâm Tác chiến mạng và không gian, Trung tâm Tác chiến mạng thông tin hạm đội, Trung tâm phòng thủ mạng và Cụm an ninh mạng hỗn hợp Hải quân.

Lữ đoàn Tác chiến mạng Hải quân Đánh bộ

Lữ đoàn Tác chiến mạng Hải quân Đánh bộ với biên chế khoảng 800 quân trực thuộc các đơn vị như, Trung tâm tác chiến an ninh mạng, Đại đội hỗ trợ kỹ thuật mật mã, Đại đội hỗ trợ hậu cần và kỹ thuật.
(*) Trung tướng Keith B. Alexander sinh năm 1952 ở Syracuse, New York, năm 1978 Ông tốt nghiệp Học viện Quân sự Mỹ tại Westpoint sau đó ông tốt nghiệp Trường học viện Hải quân với học vị thạc sĩ trong cả hai lĩnh vực Hệ thống Công nghệ và Vật lý.

Ngoài ra, ông Alexander còn có bằng thạc sĩ về Quản trị Kinh doanh của ĐH Boston và bằng Chiến lược An ninh Quốc gia của Học viện Quốc phòng Mỹ.

Ông từng trải qua các lớp đào tạo cấp cao trong các lĩnh vực như: tình báo quân sự, chỉ huy tham mưu, đã từng giữ các chức vụ như Phó Chánh văn phòng Nhân viên trụ sở quân đội Mỹ; chỉ huy tình báo và an ninh tại Fort Belvoir thuộc quân đội Mỹ.

Ngày 30/7/2005, Trung tướng Keith B. Alexander đã được chọn làm giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia, thay thế Trung tướng Michael V. Hayden.

Ngày 23/6/2009, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã chính thức tuyên bố thành lập lực lượng tác chiến mạng (USCYBERCOM) và bổ nhiệm chức vụ Tổng chỉ huy lực lượng này cho Trung tướng Keith B. Alexander.


[BDV news]


>> Thư tịch Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam




Theo chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu chữ nào ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”.

Theo các tài liệu lịch sử chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).

Dưới đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Hòa chỉ huy những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ Trịnh Hòa không phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần trình diễn của Trịnh Hòa đã góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.

Sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đã xác nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111 TCN, sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam).

Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm. Nhan đề sách là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước ngoài. Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về Trung Hoa mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam.



Một trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt.


Đời nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu Dị Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam).

Trong đời Nam Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống cũng xác định giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà Tống đã cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao Chỉ.

Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh Nhật Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ đời Thành Cát Tư Hãn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không còn dòm ngó Đại Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và XIV, theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ý định xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực hiện năm 1561 phần cực nam lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam.

Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương (Tây Dương).

Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427 Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407).



Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan.


Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà Tĩnh).

Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...). Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”.

Như vậy, tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: "Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung Quốc”.

Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII.

Các tài liệu cổ của Trung Hoa rõ ràng cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) đã được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một cách hoà bình và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào kể cả của Trung Quốc. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của nhiều triều đại Trung Quốc trong đó đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn 22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX.

[BDV news]


>> Hình ảnh hiếm hoi về lực lượng 'huyền thoại' Navy SEAL




Lực lượng đặc biệt trên thế giới luôn tạo nên các chiến công huyền thoại và SEAL của Mỹ cũng là một trong những lực lượng như vậy.


Là lực lượng thủy quân chiến đấu đặc biệt trực thuộc Hải quân Mỹ hay SEAL còn gọi là Navy SEAL, được giao cho một số nhiệm vụ khó khăn mà các lực lượng thông thường không thực hiện được ở trong và ngoài nước Mỹ.

Đơn vị tiền thân của SEAL có từ Chiến tranh thế giới thứ II là lực lượng chuyên phá huỷ mục tiêu của đối phương do hải quân Mỹ tổ chức, với kỹ năng chiến đấu đặc biệt là tấn công từ tàu đổ bộ tàu. Lực lượng này từng tham gia cuộc tiến chiếm Bắc Phi năm 1942.

Sự phát triển được coi là bước ngoặt của Navy SEAL đánh dấu bởi sự kiện Tổng thống Mỹ John Kennedy công bố gói kinh phí trị giá 100 triệu USD, nhằm tăng cường sức mạnh các đơn vị đặc nhiệm của nước này trong những năm 1960.

Những năm gần đây, lực lượng SEAL thường xuyên tham gia các sứ mệnh tại chiến trường Afghanistan và Iraq. Tuy nhiên, vai trò của biệt đội này trong vụ tiêu diệt trùm khủng bố Al-Qaeda Osama bin Laden tại Abbottabad, Pakistan hồi đầu tháng 5 vừa qua sẽ là chương đặc biệt trong lịch sử đặc nhiệm Mỹ, do biệt đội tinh nhuệ nhất của SEAL là SEAL Team 6 thực hiện.

Tính bí mật của đội SEAL còn được thể hiện qua việc rất ít người bên ngoài quân đội Mỹ biết được chính xác đội này gọi là gì. Tên mà người ta hay dùng để gọi SEAL là NAVSPECWARDEVGRU. Đây là những chữ cái viết tắt cho từ Nhóm Phát triển Chiến tranh Đặc biệt của hải quân và thường được gọi vắn tắt là DEVGRU.

SEAL là lực lượng đột kích mạnh nhất của Mỹ và cũng được coi là mạnh nhất trên thế giới. Lực lượng này bao gồm những binh sĩ có khả năng chiến đấu đột kích tinh nhuệ. Điểm đặc biệt của lực lượng này là hoạt động chiến đấu đột kích đêm, nên yêu cầu thị lực rất cao.

Hầu hết các thành viên của SEAL đều thông thạo ngoại ngữ. Thông qua những ngoại ngữ họ được trang bị thông thạo có thể bí mật thâm nhập vào bất kỳ môi trường nào.

Không có gì ngạc nhiên khi những lính biệt kích trong Lực lượng đặc biệt SEAL phải trải qua quá trình tập luyện vô cùng gian khổ. Chế độ tập luyện khắc nghiệt và nguy hiểm chính là để chuẩn bị cho các thành viên của đội biệt kích luôn sẵn sàng cho các cuộc chiến thực sự.

Tất cả những thông tin về các thành viên của SEAL luôn được giữ bí mật. Công chúng, hoặc giới báo chí hiếm khi có cơ hội để tiếp cận và theo dõi các hoạt động huấn luyện của các binh sỹ thuộc lực lượng này.

Dưới đây là một vài hình ảnh có được trong một cơ hội đặc biệt hiếm hoi mà nhà báo Stephanie Freid-Perenchio được tiếp cận từ một cuốn sách viết về Lực lượng đặc biệt Navy SEAL của Mỹ, cuốn sách có tựa đề “Những hy sinh thầm lặng”.

Để được đăng tải quá trình đào tạo Navy SEAL, nhà báo Stephanie Freid-Perenchio đã được sự cho phép của Phó Đô đốc Robert Harward:




Các binh sỹ thuộc lực lượng SEAL tiến hành các bài tập nhảy xuống biển từ máy bay, sau đó bơi đến thuyền khu vực chờ đợi nhận nhiệm vụ tiếp theo tại một bãi huấn luyện ở Thái Bình Dương.



Thực hành đột kích mục tiêu ven biển.



Luyện tập cơ động trên cát là một bài tập nằm trong kế hoạch huấn luyện hàng ngày trong chương trình đào tạo của Lực lượng đặc biệt SEAL.



Bất kỳ ứng viên nào muốn gia nhập vào Lực lượng đặc biệt SEAL đều phải bắt đầu bằng các bài tập cơ bản dưới nước, thực hiện nhiệm vụ phá hủy các mục tiêu dưới nước. Được biết, thường có đến 80% số ứng viên không hoàn thành được các bài tập cơ bản này.



Tại lễ tốt nghiệp, hai ứng cử viên suất sắc nhất được giao nhiệm vụ rung chuông để báo hiệu rằng một lực lượng SEAL tiềm năng đã sẵn sàng phục vụ chính thức cho Navy SEAL.



Các binh sỹ thuộc Navy SEAL đang tiến hành bài tập cơ động trên đồi tuyết.



Các binh sỹ thuộc Navy SEAL đang thực hành tiêu diệt mục tiêu với súng trường M16 tại một căn căn cứ trên đảo San Clemente, California.



(Hình ảnh bên trái) là bài tập thực hành leo dây tốc độ cao là một kỹ năng đặc biệt quan trọng cần trang bị cho các binh lính thuộc lực lượng này. (Ảnh bên phải), là bài tập cơ động đổ bộ bằng dây từ trên máy bay. Đây là bài tập nguy hiểm nhất mà SEAL phải thực hiện.



Các ứng viên thuộc SEAL phải thực hành kỹ thuật trong các bài tập duy trì sống sót dưới nước.



Các binh sỹ đang chuẩn bị cho bài tập lặn dưới nước.



Một cậu bé đang đứng chờ đợi cha của mình trở về tại một căn cứ không quân ở California, cha của cậu bé là một binh sỹ trong lực lượng đặc biệt SEAL đang làm nhiệm vụ ở Afghanistan.



[BDV news]


>> Lực lượng tác chiến đặc biệt của Trung Quốc




Lực lượng tác chiến đặc biệt (SOF) của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) là lực lượng chuyên thực hiện các nhiệm vụ khó khăn phức tạp trong các điều kiện đặc biệt.


Cơ cấu tổ chức

Trung Quốc có 7 Đại quân khu. Trong mỗi Đại quân khu của Trung Quốc đều có 1 trung đoàn tác chiến đặc biệt trực thuộc Bộ Tư lệnh Đại quân khu. Đồng thời, ở mỗi cấp đều có các đơn vị đặc nhiệm riêng.

Đại Quân khu Thẩm Dương có đơn vị đặc nhiệm “Hổ Đông Bắc”, Đại Quân khu Bắc Kinh – “Thanh kiếm thần phía đông”, Đại Quân khu Nam Kinh – “Rồng bay” (thành lập năm 1992), Đại Quân khu Quảng Châu – “Thanh kiếm sắc phía Nam Trung Quốc” (thành lập năm 1988), Đại Quân khu Lan Châu – “Hổ đêm”, Đại Quân khu Tế Nam – “Diều hâu”, Đại Quân khu Thành Đô – “Chim ưng” (thành lập năm 1992).

Ngoài ra, các lực lượng tác chiến đặc biệt PLA còn có các đơn vị đổ bộ đường biển “Đổ bộ tấn công đường biển”, đổ bộ đường không “Thanh kiếm sắc của bầu trời xanh”, các đơn vị chống khủng bố “Con báo” và “Sói tuyết” và nhiều đơn vị khác.

Trong đó, đơn vị đặc nhiệm “Sói tuyết” đã từng đảm nhiệm nhiệm vụ bảo đảm an ninh trong Thế vận hội Bắc Kinh năm 2008.



Trong mỗi Đại quân khu của Trung Quốc đều có 1 trung đoàn tác chiến đặc biệt trực thuộc Bộ Tư lệnh Đại quân khu


“Tinh hoa” của lực lượng tác chiến đặc biệt Trung Quốc là đơn vị chống khủng bố “phía Đông”. Đơn vị này được thành lập năm 1982, được bố trí bên cạnh sân bay Bắc Kinh. Tên gọi đầy đủ của đơn vị này là phân đội cảnh sát đặc nhiệm chống khủng bố №722 ISB thuộc trường chuyên đào tạo lính đặc nhiệm.

Trong thời gian tồn tại, trường này đã đào tạo được hơn 1.000 người, đa số trong số họ đều trở thành giảng viên dạy lính đặc nhiệm.

Ngoài lực lượng tác chiến đặc biệt của quân đội, Trung Quốc còn có các đơn vị tác chiến đặc biệt của Lực lượng Công an Vũ trang (một bộ phận của các lực lượng vũ trang Trung Quốc) và các đơn vị đặc nhiệm của lực lượng an ninh xã hội trực thuộc Bộ Công an.

Vũ khí

SOF của Trung Quốc được trang bị các loại vũ khí hiện đại hơn so với các lực lượng quân đội thông thường. Mỗi người lính đều được trang bị súng trường tấn công Type-95, súng bắn tỉa Tpe-88, súng máy Type-64, Type-79, súng lục Type-92 và súng phóng lựu chống tăng phản lực. Một trong số các loại vũ khí trên được trang bị hệ thống giản thanh để tham gia các chiến dịch đặc biệt.



SOF của PLA được trang bị các loại vũ khí hiện đại.

Ngoài ra, SOF của PLA còn được trang bị áo chống đạn, trạm vô tuyến liên lạc nội bộ để liên lạc giữa các thành viên trong nhóm và người chỉ huy với trung tâm, thiết bị nhìn đêm, hệ thống truyền hình xách tay, thiết bị đo xa bằng laser và hệ thống GPS/GLONASS…

SOF sử dụng trực thăng để tiến hành chuyển quân vào hậu phương địch với thời gian triển khai ngắn, các phương tiện vận tải siêu tốc để tiến hành các cuộc tấn công chớp nhoáng, các loại máy bay hoạt động ở tầm cực thấp để thâm nhập vào lãnh thổ đối phương.

Chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo lực lượng tác chiến đặc biệt của quân đội và công an được tiến hành theo các phương pháp huấn luyện của Bộ Tổng tham mưu PLA. Tùy theo tính đặc thù của mỗi lực lượng mà đưa ra chương trình huấn luyện phù hợp với khả năng tâm lý và thể lực của người học.

Giới lãnh đạo SOF cho rằng, hiện nay trên thế giới không có chương trình huấn luyện chung về chuyên môn nghiệp vụ, tâm lý và thể lực của lính đặc nhiệm. Chương trình huấn luyện lính đặc nhiệm (đào tạo cơ bản và chuyên sâu), gồm tất cả các khâu mục: Rèn luyện thể lực, khả năng linh hoạt nhạy bén, tự vệ khi không có vũ khí, các kỹ năng nâng cao khả năng sống còn trong điều kiện chiến trường, dựng lều bạt, đào hầm trú ẩn dưới đất và tuyết, tự băng bó vết thương, cứu hộ, phương pháp phục kích và tấn công, đổ bộ, hoạt động trong điều kiện rừng núi dưới nước…



Và cơ động bằng các phương tiện chuyên dụng


Mặc dù không thuộc biên chế SOF, nhưng các tiểu đoàn sẵn sàng chiến đấu bao gồm tiểu đoàn 162 (trực thuộc tập đoàn quân 54), 163 (trực thuộc tập đoàn quân 21) và 149 (trực thuộc tập đoàn quân 13) có trách nhiệm huấn luyện các chương trình đào tạo cơ bản cho SOF với chương trình huấn luyện phức tạp hơn chương trình huấn luyện binh lính thông thường của PLA.

Chịu trách nhiệm huấn luyện các bài tập khó cho SOF là tập đoàn quân số 1 (Hàng Châu, Đại Quân khu Nam Kinh), tập đoàn quân 38 (89.000 người, Bảo Định, Đại Quân khu Bắc Kinh), tập đoàn quân số 39 (75.000 người, Dinh Khẩu, Đại Quân khu Thẩm Dương) và Tập đoàn quân 54 (89.000 người, Tân Hương, Đại Quân khu Tế Nam) thuộc lực lượng phản ứng nhanh (thời gian sẵn sàng từ 2-7 ngày đêm). Đảm nhiệm huấn luyện giai đoạn cuối cho SOF là 3 Tập đoàn quân tinh nhuệ, được trang bị các loại vũ khí hiện đại nhất của Trung Quốc.

Huấn luyện các kỹ năng sống còn

Mỗi nhóm huấn luyện gồm 6 người. Trang bị vũ khí gồm giày, dao, súng trường và mặt nạ. Mỗi người lính có thể mang theo 1kg gạo, 5 miếng bánh, muối và diêm. Trước khi lên đường, cả nhóm phải trải qua cuộc kiểm tra kỹ lưỡng, khám xét từ túi quần túi áo, không được mang các đồ vật thừa như tiền và nước.

Điều kiện hành quân và về đích: sau 7 ngày đêm nhóm phải băng qua cánh rừng nguyên sinh dài hơn 200km (một số nguồn cho là 300km). Gần 3 ngày đường phải đi vượt qua các ngọn núi ở độ cao 2.700m so với mực nước biển.



Luyện tập trong môi trường khắc nghiệt


Ở địa hình như vậy, nên đa số các nguồn nước đều không có lợi cho sinh hoạt, thậm chí gây nguy hiểm cho tính mạng nếu sử dụng. Binh lính cần xác định các nguồn nước để sử dụng theo các dấu vết của chim và động vật hoặc lấy nước từ cây và thực vật.

Khó khăn hơn nữa là, mặc dù trời rất nóng nhưng binh lính vẫn phải che, bịt kín các phần cơ thể bởi vì có rất nhiều rắn và côn trùng độc. Đoạn đường hành trình vượt núi gần 3 ngày đường, nhóm phải ăn những loại thức ăn như kiến, chuột và rắn. Ngoài ra, trên đường đi nhóm phải hoàn thành gần 20 bài tập (tấn công, vòng tránh các điểm phục kích của đối phương…). Các đợt diễn tập như vậy có thể được tổ chức từ 3-6 tháng/năm.

Huấn luyện thể lực của SOF được gọi một cách trìu mến là “xuống địa ngục”. Học viên dậy vào lúc 4h30 để luyện khí công. Sau đó đến 6h sáng, leo núi hoặc chạy dài.

Khi chạy, mỗi người mang theo ba lô chứa 10 viên gạch. Quãng đường chạy là 5km với khoảng thời gia hạn chế không được quá 25 phút… Sau đó nghỉ ngơi ăn sáng và thực hiện các bài tập theo chương trình huấn luyện. Vào buổi chiều, học viên phải chạy việt dã, trồng cây chuối 30 phút/ ngày… Lực lượng tác chiến đặc biệt

[BDV news]


>> 'Gió giật', siêu vũ khí dưới nước của Liên Xô (kỳ 1)




Những khái niệm của chiến thuật tàu ngầm đã có những thay đổi khá lâu, bằng một vũ khí bí mật.

Vào cuối những năm 1970, lực lượng tàu ngầm Hải quân Xô viết được trang bị loại vũ khí, mà nếu so sánh nghệ thuật tác chiến của nó với các loại ngư lôi thông thường với kỹ thuật tác chiến thông thường khấp khiễng như so sánh cung tên thời Robin Hood với súng trường tự động lắp ống kính quang học loại Reminton.

Nhưng điều được nhớ lại về vũ khí bí mật (ngư lôi - tên lửa) được báo chí gây lên một vụ scandan khá ồn ào xung quanh vụ gián điệp công nghệ quân sự. Công dân Mỹ Edmund Pop gia nhập Hải quân Mỹ năm 1969. Sau 25 năm phục vụ, ông này nghỉ hưu với quân hàm đại úy. Sau đó ông trở thành cố vấn bộ phận khoa học của trường An ninh thuộc bộ Hải Quân Mỹ.

Năm 2000, ông bị bắt tại thành phố Niznovgrog (Nga) vì cố gắng lấy cắp bản thiết kế công nghệ sản xuất siêu tên lửa - ngư lôi "Gió giật/Shkval". Cùng năm E.Pop bị xét xử tại Moscow và bị kết án 20 năm tù. Sau này Tổng thống Putin đã ký lệnh ân xá cho Pop.

Tuy nhiên, đến thời điểm này, ngư lôi Shkval VA-111 không phải là loại vũ khí siêu bí mật, Trung Quốc có tới 40 đầu đạn được mua từ Kazakhstan (thực tế là mua lại của Ucraina), Iran cũng công bố thử nghiệm thành ngư lôi loại này.

Và loại tên lửa ngư lôi này đã được trưng bầy nhiều lần tại các triển lãm quân sự Abu Dhabi và Nga sẵn sàng bán loại vũ khí siêu bí mật một thời.



"Cuối cùng, tên lửa đã xuống dưới nước"

Shkval không phải là vũ khí loại mới. Ngư lôi siêu khoang được bắt đầu nghiên cứu phát triển vào những năm 1960.

Thời gian này, mọi sự quan tâm đều được đặt vào tên lửa, dường như tên lửa sẽ bảo vệ vững chắc Liên Xô. Mọi loại vũ khí đều giảm bớt, nhưng tên lửa thì phát triển vô cùng mạnh mẽ.

Tên lửa được phát triển mạnh mẽ ở khắp mọi không gian chiến trường, các đơn vị tên lửa được xây dựng trên sa mạc, trong rừng taiga, trên những vùng đất băng giá, trên không trung và vũ trụ. Nhưng tên lửa chưa có ở dưới nước và Liên Xô quyết định phải có tên lửa dưới biển.

Nghị quyết số 111-463 ngày 13/10/1960 của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô đặt nhiệm vụ cho các nhà khoa học phải chế tạo tên lửa dưới nước. Tên lửa có tính năng đa dụng, là ngư lôi để tiêu diệt các tàu ngầm và tàu nổi, hoặc là phương tiện mang đầu đạn hạt nhân đến bờ biển của đối phương.

Các loại vũ khí hạt nhân thời điểm có sức công phá khủng khiếp và tên lửa ngầm chính là phương tiện rất khó để phát hiện, đối phó. Học thuyết "Chiến tranh giữa các vì sao" và các phương tiện phòng không chống tên lửa của Tổng thống Mỹ Ronal Regan không có giá trị với loại tên lửa này.



Thiết kế tên lửa ngư lôi được phê chuẩn vào năm 1963. Loại tên lửa ngư lôi này có một tốc độ không thể tưởng tượng nổi 100m/giây và tất cả các ngư lôi khác chậm hơn nó đến 3 lần.

Tháng 5/1966 mô hình tên lửa - ngư lôi đã được đưa lên tàu ngầm Diezel S-65 và tiến hành phóng thử nghiệm tại khu vực Pheodosia (gần bán đảo Crym-Ukraina).

Mẫu thử nghiệm tên lửa - ngư lôi có mã hiệu M-4. Do mẫu M-4 tồn tại 1 số nhược điểm nên chương trình bị dừng lại đến năm 1972. Nhưng ngay sau đó mô hình M-5 đã khắc phục được hầu hết các nhược điểm của M-4 và có nhiều tính năng vượt trội.

Ngày 29/11/1977 quyết định của Hội Đồng Bộ trưởng Liên Xô đưa tổ hợp chống ngầm " Gió giật/Shkval" với Ngư lôi M-5 vào trang bị cho Hải Quân Liên xô, tổ hợp nhận được mã hiệu VA-111.

Giải pháp "túi bọt khí"

Bản thiết kế ra tên lửa - ngư lôi " Gió giật/Shkval" không chỉ là vấn đề tìm ra lý thuyết có một không hai về giải pháp chuyển động trong túi khí bao quanh. Mà còn là việc tạo ra động cơ tên lửa hiệu suất cao sử dụng năng lượng an toàn.

Thành quả được tạo ra bởi nhóm viện sĩ nghiêm cứu chuyên sâu dưới sự lãnh đạo của các viện sĩ Hàn lâm khoa học Liên Xô Nicholas Silin, Vladimir Eugene Shahidzhanov và Ivashkov.

Trọng lượng hỗn hợp của tên lửa - ngư lôi khiến nó chuyển động không hề dễ dàng trong nước với tốc độ từ trước tới nay trên thế giới chưa từng có 200 hải lý/giờ.

Hơn thế nữa tên lửa - ngư lôi phải thắng tải thủy năng phát sinh trên thân vỏ như các lực xoáy, ma sát nước... . Giám đốc thiết kế ED Rakov đã nghiên cứu các yếu tố, phương pháp trên đề án thiết kế kết hợp với tính toán các yếu tố thực tế.

Cuối cùng thì kết quả nghiêm cứu dựa trên các cơ sở khoa học và thực nghiệm cho phép tạo ra 1 loại tên lửa - ngư lôi chuyển động trong nước được bao bởi túi bọt khí khổng lồ, trượt theo tên lửa như lớp da cá.

Chương trình phát triển tổ hợp chống ngầm "Gió giật/Shkval" nhận được sự hậu thuẫn của những người uy tín trong Hải quân LX và Viện hàn lâm Khoa học như Đô đốc - Tư lệnh Hải quân Liên Xô S.G Gorshkov, viện sĩ A.P Alexandrov, viện sĩ V.N Trapeznikov và phó đô đốc B.D Kostygov.

Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm trên bãi thử nghiệm hồ Issyk-Kul, năm sau, mẫu tên lửa – ngư lôi Shkval được thử nghiệm trên tàu ngầm diezen ở Pheodosia. Những tàu ngầm đầu tiên được trang bị loại ngư lôi này là 945 Barrakuda, 671RTM Shouka, 885Yashen.

[BDV news]


>> 'Tê giác xám', tinh hoa quân sự Đức và Nhật




Một trong những “ông hoàng chiến trường” nổi tiếng khắp châu Á, thậm chí trên thế giới là “Tê giác xám” Type-90 của “Đất nước Mặt trời mọc”.


Lịch sử ra đời

Năm 1976, Công ty Mitsubishi đã bắt đầu chế tạo xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ mới để thay cho các loại xe tăng đã quá lạc hậu Type-61 và Type-74.

Tham gia vào công trình chế tạo xe tăng mới, ngoài các kỹ sư Nhật Bản còn có các chuyên gia của các công ty Đức (Mac và Krauss-Maffei), những người đã từng tham gia chế tạo xe tăng chiến đấu chủ lực Leopad.

Chính vì vậy, xe tăng mới của Nhật chịu một số ảnh hưởng bởi các ý tưởng của người Đức. Điều này được thể hiện rõ nhất là ở hình dạng bên ngoài.

Năm 1989, sau khi đưa vào thử nghiệm và hoàn thành, xe tăng mới được đưa vào trang bị cho Cục Phòng vệ Nhật bản với mã số Type-90.

Bắt đầu từ năm 1992, Type-90 được sản xuất hàng loạt. Cho đến năm 2010, trong trang bị của Bộ Quốc phòng Nhật Bản có 341 xe tăng Type-90. Theo kế hoạch, nhu cầu ban đầu về số lượng Type-90 của lực lượng tăng thiết giáp Nhật Bản được ước tính khoảng 600 chiếc.



Các chuyên gia đánh giá Type-90 là một trong các loại xe tăng tốt và đắt nhất trên thế giới


Kết cấu

Type-90 được thiết kế theo sơ đồ cổ điển với bộ phận động cơ - truyền động nằm ở phía sau, khoang lái nằm bên trái, khoang chứa đạn nằm bên phải, khoang chiến đấu nằm chính giữa thân xe. Type-90 có thể nạp đạn tự độn nên giảm số lượng kíp chiến đấu.



Type-90 "ngụy trang" hợp địa hình thực tế


Giáp trang bị cho xe là loại giáp nhiều lớp kết hợp giáp gốm do công ty gốm sứ Kyoto sản xuất. Trọng lượng xe tăng nặng 50,2 tấn.

Trên cơ sở xe tăng chiến đấu chủ lực Type 90, Nhật Bản đã chế tạo xe sửa chữa – sơ tán bọc thép BREM 90 và xe tăng Type-91.

Hiện nay, các chuyên gia đánh giá Type-90 là một trong các loại xe tăng tốt và đắt nhất trên thế giới. Chính phủ Nhật Bản cho biết, giá mỗi chiếc Type-90 khoảng 8-9 triệu USD.

Vũ khí

Tháp pháo của Type-90 được lắp pháo nòng trơn 120mm Rh-M-120 sản xuất tại Nhật Bản theo giấy phép và công nghệ của công ty Rheinmetall (Đức).

Pháo có thể bắn tất cả các loại đạn 120mm (đạn dùng cho pháo trên xe tăng “Leopad-2” của Đức và M1A1 “Abrams” của Mỹ).



Vũ khí chính của Type-90 là pháo nòng trơn 120mm Rh-M-120


Vũ khí phụ của xe tăng bao gồm súng máy 7,62mm (được lắp đặt đồng trục với pháo) và súng máy phòng không 12,7mm (được lắp đặt trên tháp pháo).

Ở mặt tháp gần phía sau lắp thêm ống phóng lựu đạn khói. Ngoài ra, trên xe tăng còn bố trí thiết bị chuyên dụng tạo màn khói dày đặc cho nhiệm vụ ngụy trang.

Động cơ "khủng"

Type 90 được lắp động cơ diesel 10 xilanh do Công ty Mitsibishi sản xuất. Động cơ được trang bị hệ thống tăng áp, hệ thống làm mát, có thể tăng công suất tối đa 1.500 mã lực. Vận tốc tối đa khi hành tiến trên đường nhựa là 70km/h, khi lùi – 42km/h.

Nhờ có công suất động cơ lớn, nên xe có thể vượt quãng đường 200m trong khoảng 20 giây. Type-90 có thể vượt qua đoạn hào rộng 2,7m và vượt qua tường thẳng đứng cao 1m. Dự trữ nhiên liệu cho hành trình lên tới 350km, thùng nhiên liệu đầy là 1.100 lít.

Hệ thống điều khiển hỏa lực

Hệ thống điều khiển hỏa lực do (FCS) công ty Mitsubishi sản xuất được cho là một trong những hệ thống tốt nhất thế giới gồm các thiết bị quan sát có trường nhìn rộng, dẫn đường cho chỉ huy xe tăng và xạ thủ, thiết bị đo xa bằng laser.



FCS bảo đảm khả năng tự động theo dõi mục tiêu trên cơ sở hoạt động của thiết bị quan sát hồng ngoại.


“Trái tim” của FCS là máy tính đường đạn kỹ thuật số 32 bit. Khi tính toán tiêu diệt mục tiêu, máy tính này sẽ điều chỉnh tham số bắn có cân nhắc tốc độ và hướng gió, nhiệt độ môi trường xung quanh (các dữ liệu được truyền từ các bộ cảm biến bố trí trên tháp xe tăng)...

Xe tăng có thể khai hỏa ở trạng thái cố định hoặc khi hành tiến trong bất kỳ thời gian nào, tiêu diệt mục tiêu dù là mục tiêu di động hay cố định.

Thiết bị ngắm bắn của xạ thủ do Công ty Nikon Corporation chịu trách nhiệm sản xuất, còn thiết bị ngắm bắn cho chỉ huy do Công ty Fuji sản xuất.

Thiết bị ngắm bắn của người chỉ huy chỉ có 1 kênh quang học nhìn đêm, cho phép phát hiện và tiêu diệt mục tiêu trực tiếp hoặc “chuyển” các mục tiêu do mình phát hiện cho xạ thủ, để sục sạo tìm các mục tiêu mới.


[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang