Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2012

>> Top 5 hệ thống tên lửa phóng loạt “khủng” nhất thế giới



“Vũ khí Nga” đã bình chọn Top-5 “đại bác phun lửa nhiều nòng” hàng đầu thế giới, trong đó có hai hệ thống MLRS của Nga



Việc bình chọn ra Top 5 hệ thống tên lửa phóng loạt MLRS (Multiple Lauch Rocket System) “khủng” nhất thế giới được “Vũ khí Nga” đánh giá thông qua một ma trận gồm các điểm: tầm bắn, tầm hoạt động, tốc độ, diện tích bao trùm của một loạt bắn, thời gian thực hiện một loạt bắn, thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo, trọng lượng sẵn sàng chiến đấu, khả năng cơ động trên chiến trường,…

Sau đây là Top-5 “đại bác phun lửa nhiều nòng” hàng đầu thế giới theo bình chọn của “Vũ khí Nga”

1. MLRS Tornado (Nga)

Hệ thống pháo phản lực phóng loạt “Cuồng phong” Tornado được thiết kế để thay thế cho các hệ thống MLRS hiện đang phục vụ trong Lục quân Nga là Uragan, Smerch và Grad.

Tornado có các biến thể G/U/S, được trang bị hệ thống phóng dùng cho đạn các cỡ lần lượt là 122 mm (Grad), 220 mm (Uragan) và 300 mm (Smerch).


http://nghiadx.blogspot.com


Các thông số kỹ thuật

Cỡ đạn: 122 mm

Số lượng ống phóng (hay còn gọi là thiết bị dẫn hướng): 40

Tầm bắn: 100 km

Một loạt bắn bao trùm diện tích: 840.000 mét vuông

Thời gian thực hiện một loạt bắn: 38 giây

Tầm hoạt động: 650 km

Tốc độ: 60 km/h

Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 180 giây

Kíp chiến đấu: 3 người

2. MLRS 9K51 Grad (Nga)

Tổ hợp Pháo phản lực 9K51 Grad ( BM-21 nâng cấp), được thiết kế để tiêu diệt binh lực địch (cả trong lẫn ngoài công sự, xe tăng, xe bọc thép, các khẩu đội pháo, cối, máy bay và trực thăng trú đậu trên bãi đáp, trạm chỉ huy và các mục tiêu khác.

9K51 Grad sử dụng khung gầm xe tải quân sự Ural-4320 và Ural-375. BM-21 đã tham gia vào các cuộc xung đột quân sự từ năm 1964 và có trong biên chế của nhiều nước là đồng minh thân cận của Liên Xô trong đó có Việt Nam.

http://nghiadx.blogspot.com
Các thông số kỹ thuật

Cỡ đạn: 122 mm

Số lượng ống phóng: 40

Tầm bắn: 21 km

Một loạt bắn bao trùm diện tích: 40.000 mét vuông

Thời gian thực hiện một loạt bắn: 20 giây

Tầm hoạt động: 1.400 km

Tốc độ: 85 km/h

Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 420 giây

Kíp chiến đấu: 4 người

Trọng lượng: 5,5 tấn

3. MLRS HIMARS (Mỹ)

HIMARS (High Mobility Artillery Rocket System) do Lockheed Martin (Mỹ) sản xuất là một phiên bản thu nhỏ hệ thống pháo hỏa tiễn MLRS, từng được mệnh danh là "Mưa thép" ở Chiến tranh vùng Vịnh 1991.

HIMARS ra đời để đáp ứng yêu cầu về một hệ thống gọn nhẹ, cơ động hơn, vì nó có thể được chuyên chở bởi máy bay vận tải C-130. Nó có thể chở theo 6 tên lửa GMLRS hoặc 1 ATACMS.

Tất nhiên, HIMARS cũng có thể sử dụng tên lửa của bất kỳ hệ thống pháo phản lực phóng loạt nào của Hoa Kỳ.

Dàn phóng này đã được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Afghanistan.

http://nghiadx.blogspot.com


Thông số kỹ thuật

Cỡ đạn: 227 mm

Số lượng ống phóng: 6

Tầm bắn: 85 km

Một loạt bắn bao trùm diện tích: 67.000 mét vuông

Thời gian thực hiện một loạt bắn: 38 giây

Tầm hoạt động: 600 km

Tốc độ: 80 km/h

Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 420 giây

Kíp chiến đấu: 3 người

Trọng lượng: 5,5 tấn

4. MLRS WS-1B (Trung Quốc)

Hệ thống WS-1B được thiết kế để vô hiệu các mục tiêu trọng yếu, có thể là căn cứ quân sự, khu vực phóng tên lửa, sân bay, khu công nghiệp và các trung tâm hành chính.

MLRS WeiShi-1B được nâng cấp từ hệ thống pháo phóng loạt WS-1. WeiShi-1B được công ty CPMIEC của Trung Quốc chào bán trên thị trường vũ khí thế giới, được nhiều quốc gia quan tâm. Trung Quốc từng chuyển giao công nghệ sản xuất MLRS WS-1A cho Quân đội hoàng gia Thái Lan và MLRS WS-1 B cho Thổ Nhĩ Kỳ với tên gọi T 300 Kasirga trên khung gầm xe tải MAN- CHLB Đức.

http://nghiadx.blogspot.com


Các thông số kỹ thuật

Cỡ đạn: 320 mm

Số lượng ống phóng: 4

Tầm bắn: 100 km

Một loạt bắn bao trùm diện tích: 45.000 mét vuông

Thời gian thực hiện một loạt bắn: 15 giây

Tầm hoạt động: 900 km

Tốc độ: 60 km/h

Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 1200 giây

Kíp chiến đấu: 6 người

Trọng lượng: 5 tấn

5. MLRS Pinaka (Ấn Độ)

Chương trình chế tạo hệ thống tên lửa phóng loạt của Ấn Độ đã được thực hiện từ năm 1981 và các cuộc thử nghiệm mô hình thử nghiệm diễn ra từ năm 1995. Trung đoàn đầu tiên trang bị hệ thống Pinaka đã được thành lập vào năm 2000.

Hệ thống Pinaka được chế tạo dựa trên ô tô chở hàng 8 trục Tatra và có 12 thiết bị dẫn hướng. Loạt bắn tất cả các tên lửa có thể diễn ra trong vòng 44 giây. Tầm xa tối đa tiêu diệt mục tiêu là 40km

Tính đến tháng 9 năm nay, Bộ Quốc phòng Ấn Độ đã kí hợp đồng với các công ty Tata Power và Larsen and Tubro mua 80 hệ thống pháo phản lực phóng loạt này.

http://nghiadx.blogspot.com
Các thông số kỹ thuật

Cỡ đạn: 214 mm

Số lượng ống phóng: 12

Tầm bắn: 40 km

Một loạt bắn bao trùm diện tích: 130.000 mét vuông

Thời gian thực hiện một loạt bắn: 44 giây

Tầm hoạt động: 850 km

Tốc độ: 80 km/h

Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 900 giây

Kíp chiến đấu: 4 người

Trọng lượng: 6 tấn

Ngoài Top 5 MLRS kể trên, trong bảng xếp hạng của “Vũ khí Nga” còn có các hệ thống pháo phản lực phóng loạt: Teruel-3 của Tây Ban Nha, LAROM – Israel, LAR-160 – Israel, BM-21A Belgrade – Belarus, Type 90 – Trung Quốc, Lars-2 – Đức, WM-80 – Trung Quốc, WR-40 Langusta – Ba Lan, RM-70 – Séc, T-122 Roketsan – Thổ Nhĩ Kỳ, Type 82 – Trung Quốc, MLRS – Hoa Kỳ, BM 9A52-4 Smerch – Nga, Type 89 – Trung Quốc, Smerch – Nga, BM-21U Grad-M – Ucraina, 9К57 Uragan – Nga, Bataleur – Nam Phi, 9A52-2T Tornado – Nga, A-100 – Nga

>> Lộ rõ tham vọng



Tàu DDG-1000 được thiết kế nhằm chống lại những mối đe dọa hiện hữu và có thể xuất hiện trong tương lai, có khả năng theo dõi, tìm kiếm và khả năng tác chiến nhanh chóng .

Thế kỷ XXI chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng hải quân trong chiến lược chung hướng ra đại dương của các nước. Để đảm nhận vai trò nòng cốt, tàu chiến hải quân các nước chủ yếu sẽ đi theo xu hướng tàng hình hóa, chế áp vũ khí chống hạm và radar hiện đại. Đó cũng chính là dòng chủ lưu của công nghệ nghiên cứu – chế tạo tàu chiến năm 2012.

Kỳ 1: Lộ rõ tham vọng

Mỹ là nước đầu tiên trên thế giới tập trung phát triển công nghệ tàng hình cho máy bay và tàu chiến nhằm “bịt mắt” radar, từ đó bất ngờ tấn công, tập kích đối phương. Với chương trình chế tạo tàu chiến lớp Zumwalt hiện nay, tham vọng của Mỹ ngày càng bộc lộ rõ: duy trì sức mạnh tối đa trên biển.

Siêu phẩm của công nghệ…

DDG-1000 là tổng hòa ứng dụng rất nhiều tiến bộ trong công nghệ. Đầu tiên phải kể đến là công nghệ tàng hình. Để có thể tồn tại khi chiến đấu ở gần bờ, DDG-1000 phải dựa nhiều vào khả năng nhận biết những hiểm họa xung quanh và trực diện, trong khi vẫn đảm bảo khó bị phát hiện. Công nghệ tàng hình được ứng dụng trên tàu một cách triệt để (cả về thiết kế tàng hình và vật liệu tàng hình). Thiết kế hình dáng vát của thân tàu giúp giảm tiết diện phản xạ của radar tốt hơn so với những tàu có thiết kế thân nhiều góc nhọn (hard-angles).

Phòng điều khiển điện tử phải đảm bảo yêu cầu là 1 tấm chắn điện từ hữu hiệu, giúp giảm các tín hiệu radar và hồng ngoại. Để đáp ứng được yêu cầu này, vật liệu composit được dùng cho thiết kế phần thượng tầng của tàu. Tín hiệu radar và hồng ngoại được giảm thiểu một cách tối đa. Trên tàu còn được lắp đặt hệ thống triệt khí thải để giảm bớt tín hiệu hồng ngoại từ bộ phận thoát khí.


http://nghiadx.blogspot.com
Hình họa tàu khu trục tương lai DDG-1000.


Tàu sử dụng hệ thống truyền động bằng điện cùng một bộ tích hợp năng lượng hoạt động nhờ những motor đồng bộ hóa từ trường đặt cố định trong thân tàu. Thiết kế động cơ đặc biệt này giúp tàu hạn chế bớt được tiếng ồn của động cơ, giảm khả năng bị phát hiện bởi tàu ngầm đối phương cũng như tránh được các thiết bị thu tiếng động. Hệ thống vũ khí có thể gấp lại, giấu gọn trong thân tàu cũng là một phương pháp tăng khả năng tàng hình của tàu.

Ngoài thiết kế tàng hình vốn đang là xu thế của tàu chiến hiện nay, tàu DDG-1000 còn có nhiều điểm nổi bật khác. Dự kiến tàu DDG-1000 sẽ sở hữu 1 nguồn điện lên tới 78 megawat thay vì 7,5 megawat như trên tàu DDG-51 hiện nay.

Với chức năng của một tàu chiến “siêu hạng”, DDG-1000 sử dụng hệ thống radar X-Band SPY-3 của hãng Raytheon cho phép truy tìm và bám sát mục tiêu trên cạn và trên không cũng như hỗ trợ khả năng tấn công cho tàu, tăng cường khả năng tự vệ. Công nghệ radar sử dụng mạng lưới ăng-ten có độ nhạy cao giúp tàu có thể chống lại tên lửa vì nó có thể theo dấu và định hướng cho hơn 10 tên lửa cùng lúc.

Để tăng khả năng sống sót, ngoài hệ thống pháo tự động, trên tàu hiện có gắn bệ phóng tên lửa thẳng đứng-một trong những ưu thế của tàu. Những tàu khu trục lớp Zumwalt sẽ được bố trí khoảng 80 ngăn chứa tên lửa trên 20 bệ phóng đặt dọc theo cạnh tàu, giúp giảm khả năng bị tấn công trực diện bởi các tên lửa hiện đại nhất. Ống phóng của bệ phóng Mk57 sẽ to hơn của Mk 41, cho phép chúng phóng ra những tên lửa lớn hơn.

http://nghiadx.blogspot.com
Siêu pháo hạm AGM 155mm trên DDG-1000.


Bệ phóng này sẽ là nơi phóng đi các tên lửa hành trình đối đất Tomahawk, tên lửa đối không SM2-MR, tên lửa Evolved Seasparrow cho những mục tiêu trên không và trên biển cũng như hệ thống rocket chống ngầm. Hai hệ thống pháo cự li gần 40mm cho phép tăng khả năng tự phòng thủ của tàu trước mối đe dọa từ trên không và tàu nổi.

Không chỉ chú trọng khả năng chiến đấu trên không, tàu nổi và trên cạn, DDG-1000 còn sở hữu 2 hệ thống pháo hạm AGS155mm của hãng BAE System, hỗ trợ các đơn vị chiến đấu gần bờ, với 304 quả đạn pháo dẫn đường bởi hệ thống định vị toàn cầu, AGS có khả năng phóng xa từ 113 đến 161 km.


Clip minh họa khả năng tác chiến của DDG-1000.
… nhưng còn nhiều tranh cãi

Tuy nhiên, DDG -1000 cũng vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh. Nhiều chi tiết và công nghệ trên tàu hiện vẫn là đề tài tranh cãi của nhiều chuyên gia quân sự. Chẳng hạn như công nghệ tàng hình của tàu, khi hoạt động trong vùng nước nông gần bờ, đối phương có thể sử dụng các thiết bị bay không người lái có gắn thiết bị quang điện để dò ra tàu. Khi khai hỏa, tàu dễ dàng trở thành mục tiêu cho các cảm biến âm thanh.

Thiết kế nổi trội của thân tàu cũng có thể là mối hiểm họa cho tàu bởi khi chạy với tốc độ không phù hợp, tàu có thể bị lập úp. Bên cạnh đó, hệ thống động cơ của tàu cũng đang gây nhiều tranh cãi. Ngoài việc sử dụng hệ thống tích hợp năng lượng sử dụng các motor đồng bộ từ trường đặt trên thân, tàu còn sử dụng các motor cảm ứng cải tiến(AIM) như một giải pháp dự bị.

Tuy nhiên công nghệ AIM đòi hỏi phải có một motor nặng hơn, chiếm chỗ hơn, cần một hệ thống điều khiển riêng biệt nhằm giảm tiếng ồn, trong khi chỉ sản sinh được 1/3 số năng lượng điện cần thiết.

Một trong những vấn đề làm đau đầu các nhà thiết kế đó là hệ thống radar không thích hợp với các tên lửa đạn đạo có nhiệm vụ phòng thủ. Không những thế, DDG-1000 còn không thể sử dụng hệ thống tên lửa SM-2, SM-3, SM-6 chống tên lửa, máy bay và tàu.

Ngoài những vấn đề kĩ thuật, vũ khí, hiện giá cả “trên trời” của mỗi chiếc DDG-1000 (khoảng 5 tỉ đô la) cũng làm cho các nhà cầm quân phải thận trọng khi điều một chiếc tàu đắt giá đến thế vào vùng nước nông đầy rẫy cạm bẫy, trong tầm kiểm soát của đối phương.

>> Ngư lôi Mỹ và 10 tỷ USD 'đánh chìm' tàu ngầm Kursk?


Nguyên nhân thực sự của vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk đã được che dấu bằng một thỏa thuận ngoại giao bí mật giữa Mỹ và Nga, gồm việc xóa khoản nợ 10 tỷ USD.
Sau thảm kịch, một ủy ban đã được lập ra nhằm điều tra về vụ việc. Ủy ban này sau đó đã đặt ra tất cả các giả thiết có thể. Mãi 5 ngày sau, những người có trách nhiệm công bố trước công chúng về kết luận của ủy ban điều tra thảm họa.

Theo đó, nguyên nhân khiến tàu Kursk gặp nạn làm toàn bộ 118 thủy thủ đoàn thiệt mạng ở biển Barents là do vụ nổ bất ngờ trong khoang chứa ngư lôi của tàu. Kursk bị hư hại nặng và chìm xuống đáy biển làm cho khả năng giải cứu thuyền viên gần như là không thể.

Tuy nhiên Maurice Stradling – cựu quan chức Bộ Quốc phòng Anh, một chuyên gia về ngư lôi và là nhân vật chủ chốt trong cuộc điều tra sơ bộ về nguyên nhân tai nạn tàu Kursk nhiều năm trước, ủng hộ giả thuyết cho rằng tàu ngầm Kursk bị đánh chìm bởi một ngư lôi từ tàu ngầm Mỹ. Thậm chí ông còn chỉ đích danh loại ngư lôi người Mỹ dùng để đánh chìm tàu ngầm Kursk.

“Có bằng chứng cho thấy tàu ngầm nguyên tử Kursk bị trúng một quả ngư lôi MK-48 của Mỹ”, - Stradling tuyên bố như vậy trong cuộc trả lời phỏng vấn tờ “Người quan sát Nga”, ngày 28/12/2011.


http://nghiadx.blogspot.com
Vị trí tàu ngầm nguyên tử Kursk trúng ngư lôi MK-48

Cần lưu ý rằng, Maurice Stradling đã nhiều năm liền theo đuổi công việc nghiên cứu tìm ra nguyên nhân thực sự của vụ chìm tàu Kursk.

Năm 2001, ông là cố vấn chính của BBC trong bộ phim tài liệu “Điều gì đã làm chìm tàu Kursk?”, lúc này ông đưa ra quan điểm cho rằng rằng Kursk có thể bị chìm do sự cố của ngư lôi đã lỗi thời của Nga.

Mới đây ông tham gia cố vấn cho các nhà làm phim Pháp thực hiện bộ phim tài liệu có tiêu đề “Kursk – Tàu ngầm trong vùng nước hiểm”. Bộ phim này đã thu hút một lượng khán giả kỷ lục - hơn 4 triệu người xem - trên truyền hình Pháp.

Trao đổi với “Người quan sát Nga”, ông tin rằng bộ phim này sẽ làm thay đổi quan điểm của cộng đồng thế giới về kết luận nguyên nhân làm tàu Kursk bị chìm.

Trong phim tài liệu của người Pháp, Stradling đã giải thích về sự thay đổi quan điểm của mình. Ông nói: "Vào thời điểm đó, năm 2001, giả thuyết mà BBC đưa ra là có thể chấp nhận được, do thực tế là lúc đó chúng tôi chỉ có được một số thông tin hạn chế. Nhưng giờ đây thì khác, chúng tôi có nhiều tư liệu thuyết phục hơn và có cái nhìn toàn diện hơn về sự việc".

Cơ sở chính cho sự khẳng định của Stradling đó là lỗ hổng được phát hiện ở phía bên phải của tàu Kursk và bằng chứng cho thấy có sự hiện diện của tàu ngầm Mỹ trong cùng một khu vực vào thời điểm tàu Kursk bị chìm.

“Các hình ảnh trong bộ phim tư liệu của Pháp cho thấy Kursk được đưa lên khỏi mặt nước với một lỗ tròn tương đối nhẵn ở phía bên phải của con tàu. Và các cạnh của lỗ thủng này rõ ràng uốn cong vào trong tàu, phù hợp với thực tế của một cuộc tấn công từ bên ngoài tàu ngầm.

Lỗ hổng này chính là bằng chứng rõ ràng nhất của cuộc tấn công bằng ngư lôi MK-48, loại ngư lôi này có khả năng xuyên qua vỏ thép của tàu ngầm thông qua một cơ chế đặc biệt nằm ở phần mũi quả ngư lôi có thể đốt cháy và làm tan chảy đồng” – chuyên gia về ngư lôi Stradling giải thích.

Theo bộ phim tài liệu này, cuộc tấn công xảy ra trong bối cảnh khi hai tàu ngầm Mỹ Toledo và Memphis đang bí mật theo dõi tàu Kursk. Sau đó Toledo bất ngờ va chạm với Kursk, tàu ngầm Nga đã ngay lập tức khởi động hệ thống phóng ngư lôi của mình, dẫn đến hành động tấn công bằng ngư lôi của tàu ngầm Memphis vào Kursk trong tích tắc. Sau sự việc Memphis đã hộ tống Toledo rời khỏi hiện trường.

Sau đó, nguyên nhân thực sự của vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk, theo các nhà làm phim, đã được che dấu bằng một thỏa thuận ngoại giao bí mật giữa Mỹ và Nga. Thỏa thuận bao gồm việc hủy bỏ khoản nợ của Nga với số tiền 10 tỷ USD.

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

>> Chỉ tìm nơi đồn trú?



Theo Giáo sư Carl Thayer (Học viện Quốc phòng Australia), Mỹ sẽ không thiết lập căn cứ thường trực ở Đông Nam Á vì các căn cứ quân sự sẽ là gánh nặng.

Trong một bài phỏng vấn, GS Carl Thayer cho biết, nhiều năm qua Mỹ đã theo đuổi cách tiếp cận “địa điểm không phải căn cứ (thường trực)”. Singapore đã đồng ý cho tàu tuần duyên của Mỹ tới đồn trú, nhưng vấn đề này ở Philippines vẫn chưa tìm được câu trả lời. “Có những điều rất nhạy cảm ở Philippines khi đề cập tới việc cung cấp cơ sở hạ tầng cho quân đội nước ngoài mà có thể được hiểu là căn cứ quân sự”, ông nói. Việc triển khai 2.500 lính thủy đánh bộ đến căn cứ huấn luyện gần Darwin chỉ là luân chuyển quân định kỳ. Họ không đóng quân lâu dài tại đây và Mỹ cũng không lập căn cứ thường trực tại Australia.

Những điều chỉnh này là kết quả của bản báo cáo đánh giá tình hình lực lượng Mỹ về việc làm thế nào để sử dụng hiệu quả nhất lực lượng và trang thiết bị ở châu Á - Thái Bình Dương. Một trong những động thái chiến lược chủ chốt dẫn đến việc Mỹ đưa tàu đến đồn trú tại Singapore và luân chuyển quân tới Darwin là sự trỗi dậy của khu vực hàng hải Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó gồm cả Ấn Độ Dương, vùng biển Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Sự hiện diện của Mỹ tại Singapore và Australia giúp củng cố thêm mối quan hệ an ninh - quốc phòng vốn đã bền chặt giữa các nước, nhằm đảm bảo lợi ích về tự do và an toàn hàng hải, hàng không ở biển Đông Nam Á, trong đó có biển Đông.


http://nghiadx.blogspot.com
Giáo sư Carl Thayer.


PV - Liệu Mỹ có tái lập căn cứ quân sự ở Đông Nam Á như Subic và Clark trước đây không, thưa GS? Trong trường hợp đồn trú ở Singapore, tàu chiến Mỹ có phạm vi ảnh hưởng đến đâu, xét dưới góc độ địa lý?

GS Carl Thayer - Mỹ sẽ không thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Nam Á. Trong thời đại này, các căn cứ quân sự sẽ là gánh nặng và có thể trở thành mục tiêu tấn công của những nước sở hữu tên lửa đạn đạo. Chẳng hạn, tên lửa từ Trung Quốc có thể đe dọa các căn cứ của Mỹ tại Nhật Bản và Guam. Mỹ đang tìm kiếm sự linh hoạt về hành động để đối phó với những thách thức mới nổi trong trật tự khu vực. Tàu tuần duyên sẽ cho phép Mỹ triển khai tới những vùng nước tương đối nông của Biển Đông. Những tàu này có thể được sử dụng để chống tàu ngầm, săn ngư lôi và chở quân.

Singapore đã cho phép Mỹ tiếp cận các cơ sở của mình khi Philippines chắc chắn đóng cửa căn cứ ở Subic và Clark. Philippines coi sự hiện diện về quân sự của Mỹ là đảm bảo cho sự ổn định, vì thế họ đã đề nghị Mỹ đưa tàu chiến và máy bay đến đây. Tàu chiến Mỹ có thể tham gia những hoạt động duy trì sự ổn định không chỉ ở Biển Đông mà cả Eo biển Malacca và Singapore.

Theo GS, quyết định của Mỹ sẽ tác động tới môi trường và cấu trúc an ninh khu vực như thế nào?

Cán cân sức mạnh Mỹ chủ yếu dựa vào 3 nhóm tàu sân bay và gần 60% tàu ngầm hạt nhân (tấn công và được trang bị tên lửa đạn đạo). Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã nói, dù ngân sách quốc phòng có bị cắt giảm, cũng không ảnh hưởng đến tương quan lực lượng Mỹ tại châu Á. Mỹ sẽ tiếp tục duy trì sức mạnh hải quân mạnh nhất tại châu Á - Thái Bình Dương trong nhiều thập kỷ tới, cho dù Trung Quốc đang hiện đại hóa hải quân. Bên cạnh đó, Mỹ có liên minh hải quân mạnh với Nhật Bản và Australia.

Sự hiện diện của lực lượng Mỹ được coi là để ngăn chặn Trung Quốc. Ngoài ra, nó cũng đồng nghĩa với việc Mỹ có thể thúc đẩy quá trình xây dựng tiềm lực và huấn luyện của hải quân các nước khu vực, và phản ứng nhanh hơn trước những nguy cơ đe dọa an ninh.

Đã nhiều lần Mỹ khẳng định họ sẽ đứng ngoài tranh chấp về chủ quyền ở biển Đông. Những tranh chấp này phải được các bên liên quan giải quyết. Mỹ phản đối bất cứ nước nào sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Và Mỹ có thể cung cấp lực lượng quân sự để chống lại những hành động như thế. Cuối cùng, trong trường hợp nỗ lực đàm phán giữa Trung Quốc và các bên liên quan thất bại, Mỹ sẽ đưa ra một giải pháp ngoại giao.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục RSS Supreme của Singapore (trước) và tàu USS Chung-Hoon của Mỹ (sau) trong diễn tập CARAT năm 2011.


Các nước khu vực sẽ điều chỉnh chính sách ra sao để thích ứng với bối cảnh mới, thưa GS?

Gần đây, Trung Quốc đã hé lộ một phần chiến lược của mình. Họ sẽ tăng cường tuyên truyền để thuyết phục mọi người rằng: Mỹ là nước bên ngoài, vì thế không nên can dự vào các vấn đề khu vực, và rằng Mỹ là nguyên nhân gây ra căng thẳng về an ninh. Trung Quốc cũng sẽ cảnh báo các nước như Việt Nam, Philippines rằng họ “đang đùa với lửa”. Nỗ lực tuyên truyền của Trung Quốc nhằm ngăn chặn các nước trong khu vực hợp tác với Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc sẽ tiếp tục triển khai kế hoạch hiện đại hóa và chuyển đổi lực lượng hải quân để có thể triển khai ở Tây Thái Bình Dương vượt ra ngoài chuỗi đảo thứ nhất. Trung Quốc sẽ theo đuổi chiến lược gây khó khăn cho Mỹ trong việc tiếp cận với Tây Thái Bình Dương, đặc biệt là vùng biển xung quanh đảo Đài Loan.

Mỹ cùng với các đồng minh và các đối tác chiến lược sẽ tiếp tục hiện đại hóa và nâng cao khả năng phối hợp hành động. Các nước khác như Indonesia, Việt Nam sẽ thận trọng hơn, nhưng đồng thời cũng tăng cường tiềm lực để tự vệ. Các nước này sẽ phát triển mối quan hệ quân sự, nhưng ở mức độ hạn chế hơn, với cả Trung Quốc và Mỹ. Trong khi đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác và đối ngoại quốc phòng với các nước khu vực, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống.

Xin cảm ơn GS!

>> RBU-6000: “Sát thủ diệt ngầm” của Hải quân Nga



Việt Nam cũng đã trang bị tổ hợp pháo phản lực RBU-6000 cho các tàu chiến hiện đang phục vụ trong lực lượng Hải quân.

RBU-6000 là một trong những hệ thống phóng bom ngầm phản lực lâu đời nhất, được thiết kế để chống ngầm, chống ngư lôi và tàu biệt kích.

Tổ hợp bom-rocket chống ngầm RBU-6000 (Реактивно Бомбовая Установка, Reaktivno Bombovaja Ustanovka) sử dụng bom chìm RGB-60 được trang bị cho các tàu mặt nước và phục vụ trong Hải quân Liên bang Xô viết từ những năm 1961.



http://nghiadx.blogspot.com


RBU-6000 là tổ hợp bom-rocket chống ngầm tầm ngắn, đã được nghiên cứu sản xuất tại Viện Kỹ thuật nhiệt Moscow dưới sự chỉ đạo của nhà thiết kế V. Mastalygina. Từ cuối năm 1980, nó được sản xuất hàng loạt tại nhà máy cơ khí hạng nặng Ural (UZTM) tại thành phố Sverdlovsk.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, tổ hợp được tiếp nhận trang bị trong lực lượng Hải Quân Nga ngày 26/11/1991.

Để thử nghiệm RBU-6000, người ta đã lắp đặt 4 thiết bị phóng bom phản lực RBU-6000 (mỗi thiết bị gồm 12 ống phóng) trên các tàu đánh cá kiểu Cuồng phong-2/Смерч-2 và Cuồng phong-3/Смерч-3. Bom-rocket đã bắn trúng các mục tiêu giả định là ngư lôi và tàu ngầm ở các cự li và độ sâu khác nhau.

http://nghiadx.blogspot.com


Nhìn từ phía đối diện, RBU-6000 trông giống như một chiếc móng ngựa được tạo nên từ 12 ống phóng tên lửa, mỗi ống phóng có đường kính 21,3 cm. Còn về cấu trúc, mỗi tổ hợp phóng bom ngầm phản lực RBU-6000 bao gồm các thiết bị:

Hệ thống điều khiển bắn

Thiết bị phóng RBU-6000

Băng truyền tải và nạp đạn

Bom chìm phản lực không điều khiển RGB-60 (được sử dụng phổ biến nhất)

Hệ thống điều khiển bắn bao gồm bảng điều khiển, máy tính và dụng cụ truyền dữ liệu vào bệ phóng.

Hệ thống này nhận tín hiệu từ trạm thủy âm trên tàu hoặc từ các nguồn bên ngoài như từ trực thăng cảnh báo sớm hoặc từ các phao thủy âm do trực thăng thả xuống.

Thời gian phản ứng của hệ thống kể từ thời điểm phát hiện các đối tượng dưới nước khoảng 60 đến 120 giây.

Bom-rocket RBU-6000 được bố trí trên boong tàu, gồm 2 thiết bị phóng cách nhau ở cự li được xác định trước để phát huy tối đa uy lực. Thiết bị phóng RBU-6000 có thể phóng từng quả một hoặc phóng loạt.

http://nghiadx.blogspot.com


Băng truyền tải và nạp đạn bảo đảm tải đạn từ hầm đạn trong khoang tàu lên trên mặt boong và nạp đạn.

Việc này diễn ra mà không có sự tham gia của thủy thủ tàu, tức là hoàn toàn tự động. Sau khi toàn bộ số bom RGB-60 được nạp hết vào các ống phóng, thiết bị phóng RBU-6000 được thiết lập ở chế độ chờ.

Lúc này, các ống phóng của RBU-6000 tạo với mặt boong tàu một góc 90 độ. Đây là góc bắn tối thiểu của tổ hợp bom-rocket này.

Ở chế độ ngắm bắn, các ống phóng có thể xoay quanh trục theo phương thẳng đứng hoặc phương ngang tương ứng với góc hướng bay của bom chìm phản lực không điều khiển RGB-60.

Thiết bị phóng RBU-6000 có góc bắn tối đa theo phương thẳng đứng 60 độ, góc bắn tối đa theo phương ngang là 340 độ. Ở góc bắn 46 độ nó có tầm bắn xa nhất và ở góc bắn 8,5 độ tầm bắn là gần nhất.

http://nghiadx.blogspot.com
46 độ là góc bắn có tầm bắn xa nhất


Sức mạnh cũng như khả năng bắn phá, tiêu diệt mục tiêu của hệ thống pháo phản lực RBU-6000 nằm ở bom-rocket RGB-60. Đây là là loại tên lửa không điều khiển sử dụng động cơ nhiên liệu rắn.

RGB-60 có đường kính 21,2 cm, dài 1,832 m và nặng 112,5kg; tầm bắn tối đa lên đến 5.800 m.

Các thông số kỹ thuật cơ bản của pháo phản lực chống ngầm RBU-6000

Góc bắn tối đa theo phương thẳng đứng : 60 độ

Góc bắn nhỏ nhất: 90 độ .

Góc bắn tối đa theo phương ngang : 340 độ

Góc bắn có tầm bắn xa nhất: 46 độ

Góc bắn có tầm bắn gần nhất: 8,5 độ

Đường kính ống phóng: 21,3 cm

Đường kính bom chìm phản lực RGB (реактивная глубинная бомба): 21,2 cm

Trọng lượng thuốc nổ : 23,5kg

Trọng lượng không bom của tổ hợp: 9 tấn

Tầm bắn: 300-5.800 m

Độ sâu phá hủy mục tiêu: 15-500 m

Tốc độ lặn sâu: 11,6 m/s

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu tuần tra Fearless được trang bị RBU-6000


Hệ thống phóng bom ngầm phản lực RBU-6000 được trang bị trên các tàu mặt nước bao gồm: Sarytch, Albatross, Zozulya, Kronstadt, Nikolaev, 1151, Fearless, Frigate, Slava…

Việt Nam cũng đã trang bị tổ hợp pháo phản lực RBU-6000 cho các tàu chiến hiện đang phục vụ trong lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam. Trong đó có chiến hạm đầu tiên của Việt Nam - Tàu tuần dương Petya II – III, nhận về sau khi giải phóng miền nam và năm 1978-1979 đã tham chiến trong cuộc chiến với Khmer đỏ.

Petya-III có 2 dàn Rocket RBU-6000 chống ngầm với 12 ống phóng mỗi dàn, sử dụng rocket cỡ 213 mm RGB-60. RBU-6000 còn được trang bị trên các Hộ vệ hạm tên lửa Gepard 3.9 (Project 11661 ) – những khu trục hạm mới được biên chế vào Hải quân nhân dân Việt Nam trong năm nay.

Ngoài Việt Nam, Ấn Độ cũng là một khách hàng lớn của thiết bị phóng bom ngầm phản lực RBU-6000. Năm 2003, Nga cũng đã cung cấp cho Ấn Độ các tổ hợp pháo phản lực này để trang bị cho 3 chiếc khu trục hạm Talwar (Project 1135.6).

Dưới đây là một số hình ảnh về thiết bị phóng bom ngầm phản lực RBU-6000:

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

>> Áo giáp của tank T-90MS



Các nhà thiết kế T-90MS đã tính toán kỹ lưỡng và bảo vệ xe bằng "tầng tầng, lớp lớp" các phương án an toàn nhất.

Bố trí các lớp giáp kiểu mới

Ở phía trước tháp pháo và 2 bên sườn phía sau T-90MS được tăng cường khả năng bảo vệ bằng giáp Relikt thế hệ mới, thay thế giáp phản ứng nổ Kontakt-5, nâng cao đáng kể khả năng bảo vệ cho xe tăng trước đạn chống tăng sử dụng thanh xuyên dưới cỡ và đầu đạn nổ lõm bắn tới từ mọi góc độ.

Hầu hết các vị trí trọng yếu của xe tăng đều được lắp giáp thế hệ mới này. Đặc biệt, vị trí phía trước mũi thân xe, giáp phản ứng nổ được bố trí dày hơn.

Ngoài ra, phía sau tháp pháo và 2 bên sườn sau của thân xe được trang bị giáp lồng thép để nâng cao khả năng phòng thủ trước đạn và tên lửa chống tăng của đối phương.


http://nghiadx.blogspot.com
Giáp Relikt thế hệ mới bố trí 2 bên tháp pháo xe tăng T-90MS.


http://nghiadx.blogspot.com
Giáp Relikt ở phía trước tháp pháo xe tăng T-90MS.


T-90MS còn được trang bị giáp lưới ở giữa lớp giáp lồng và tháp pháo nhằm ngăn cản hiệu quả các mối đe doạ của xe tăng, nhất là đối với đạn chống tăng phản lực trong trường hợp giáp lồng bị phá hủy.

http://nghiadx.blogspot.com
Lớp giáp lồng ở ngoài cùng và một hộp giáp lưới bố trí phía sau tháp pháo để chống lại đạn bắn từ súng chống tăng phản lực.


http://nghiadx.blogspot.com
Bố trí các bộ phận giáp bảo vệ trên T-90MS:


1. Module giáp bảo vệ phần thân xe chính diện phía trước.

2. Module giáp bảo vệ tháp pháo phía trước.

3. Module bảo vệ 2 bên sườn xe.

4. Module bảo vệ 2 bên tháp pháo.

5. Giáp lồng thép để bảo vệ động cơ và phía sau tháp pháo trước vũ khí trống tăng. Tất cả các module giáp bảo vệ trên đều có thể tháo lắp.

Khoang chứa đạn an toàn

Nếu điểm yếu chết người của các dòng xe tăng thế hệ trước như T-72, T-80 và T-90 là kíp xe không được ngăn cách với khoang đạn thì ở T-90MS, các nhà thiết kế đã bố trí lại 1 hộp đạn phụ, gồm 3 ngăn, được bọc thép dày 4-5 mm, bố trí phía sau tháp pháo theo kiểu module, mỗi ngăn chưa các loại đạn khác nhau.

Trong trường hợp hộp đạn phụ không mang theo đạn thì nó sẽ được lấp đầy bằng các chất có khả năng dập lửa.

http://nghiadx.blogspot.com
Bố trí đạn pháo ở hộp đạn phụ bên ngoài của xe tăng T-90MS.


Việc sắp xếp các viên đạn ở trong các ngăn chứa đạn cũng đã được tính toán rất kỹ lưỡng.

10 viên đạn pháo ở ngăn giữa được xếp theo chiều dọc, nằm trong các ống thép theo kiểu tổ ong, 2 ngăn chứa đạn còn lại ở 2 bên, mỗi ngăn sếp được 5 viên đạn với đầu quay ra ngoài tháp pháo.

Việc bố trí này nhằm giảm tối đa thương vong trong trường hợp đạn pháo bị nổ ở ngăn chứa đạn phụ, khi đó, luồng phóng và mảnh đạn với sức ép cực lớn sẽ hướng ra phía ngoài tháp pháo.

http://nghiadx.blogspot.com
Hộp đạn phụ gồm 3 ngăn chứa đạn phía sau tháp pháo của xe tăng T-90MS.


Trong trường hợp xấu nhất, hộp đạn phụ bị tấn công sẽ tự rơi ra nhờ thiết kế module, do đó, không ảnh hưởng tới tháp pháo.

Một điểm khá độc đáo nữa của hộp đạn phụ đó là, nắp của nó sẽ tự động bung ra khi áp suất trong hộp vượt một mức độ cho phép, làm giảm sức công phá của đạn pháo khi đạn bị nổ ở bên trong.

Ngăn giữa chứa được 10 viên đạn đặt thẳng đứng và hai ngăn hai bên, mỗi ngăn chứa được 5 viên đạn đặt nằm ngang.

Bộ Quốc Phòng Nga yêu cầu xe tăng mới sẽ phải mang được cơ số ít nhất là 40 viên đạn pháo, đây cũng là lý do để T-90MS được trang bị thêm hộp đạn phụ.

Tuy nhiên, việc lấy đạn từ từ hộp đạn phụ sẽ được làm thủ công tại các điểm dừng chân trên chiến trường. Cơ số đạn mà T-90MS mang được ít nhất là 42 viên, trong đó 20 viên được bố trí ở hộp đạn phụ và 22 viên đạn sẵn sàng chiến đấu.

Hệ thống bảo vệ chủ động

http://nghiadx.blogspot.com
Hình mô phỏng hệ thống bảo vệ chủ động trên xe tăng T-90MS.


Khả năng bảo vệ chủ động của xe tăng T-90MS tiếp tục được tăng cường đáng kể nhờ việc lắp đặt thiết bị cảm biến xung quanh tháp pháo, cho phép báo động khi xe bị ngắm bắn bởi các loại vũ khí dẫn đường bằng tia laser. Đây là điểm mạnh có ở xe tăng Nga còn các dòng xe tăng chủ lực của phương Tây chưa có.

Cụ thể, 4 cảm biến lắp ngoài xe kiểm soát toàn bộ vùng không gian 360 độ xung quanh, phát hiện và ra lệnh tấn công phá hủy tên lửa hướng về xe tăng.

Trong đó, 2 cảm biến được bố trí ở phía trước 2 bên nòng pháo, kiểm soát vùng không gian 90 độ. Hai cảm biến còn lại bố trí ở giữa 2 bên tháp pháo, mỗi cảm biến kiểm soát cung không gian 135 độ. Các cảm biến này có kích thước nhỏ hơn so với cảm biến được trang bị cho xe tăng T-90 trước đó.

http://nghiadx.blogspot.com
Xe tăng T-90MS phóng lựu đạn khói.


http://nghiadx.blogspot.com
T-90 thể hiện khả năng đánh chặn tên lửa đối phương.


Ở biến thể tiêu chuẩn T-90, việc gây nhiễu quang - hồng ngoại do tổ hợp Shtora đảm nhận, còn ở T-90MS, thiết bị tương tự chưa được xác định.

Ngoài ra, hệ thống các ống phóng lựu đạn khói truyền thống cũng được lắp đặt ở hai bên tháp pháo của T-90MS, nhằm tạo khói mù bảo vệ xe.

>> Pháo phòng không 'hồi sinh' (kỳ 2)



Kỳ 2: Sánh vai cùng tên lửa

Tên lửa phòng không gặp nhiều khó khăn khi đối phó với tên lửa hành trình bởi chúng có diện tích phản xạ sóng radar nhỏ, trần bay thấp, khó bị phát hiện. Tuy nhiên, ưu điểm lại khiến chúng trở thành “mồi ngon” trước hỏa lực pháo phòng không.

Ngày nay, thay vì tiếp tục phát triển cỡ nòng lớn hay tầm bắn xa, các nhà kỹ thuật quân sự tập trung nâng cao khả năng tự hành, tốc độ bắn cũng như tích hợp khí tài trinh sát hiện đại, thậm chí “lai ghép” với tên lửa nhằm “hồi sinh” vị thế của pháo phòng không.

Nhanh và chính xác hơn

Theo đó, một số pháo phòng không được đưa khung gầm xe thiết giáp như hệ thống ZSU-23-4 Shilka do Liên Xô chế tạo từ những năm 1960. ZSU-23-4 được đặt trên xe bánh xích bọc thép GM-575, có 4 nòng pháo cỡ 23mm đạt tốc độ bắn 3.400 phát/phút, tầm bắn 2.500m. Không chỉ vậy, hệ thống còn được trang bị radar theo dõi và bám bắt mục tiêu RPK-2 có khả năng đối phó tốt với gây nhiễu điện tử đối phương.

Đối thủ của ZSU-23-4 là M163 Vulcan do Mỹ chế tạo. Pháo đặt trên khung thân xe thiết giáp M113, lắp pháo quay 6 nòng cỡ 20mm M168, đạt tốc độ bắn 3.000 viên/phút. M163 bị cho là kém hơn so với ZSU-23-4 ở một số điểm như không có radar, pháo thủ phải phải ngồi trong tháp pháo mở… Do đó, M162 bị hạn chế khả năng đánh đêm, và pháo thủ tuy quan sát bên ngoài tốt hơn nhưng chịu nhiều nguy hiểm trong tác chiến.




http://nghiadx.blogspot.com
Pháo phòng không tự hành ZSU-23-4 của Việt Nam tham gia diễn tập bắn đạn thật TB1.

Nếu ZSU-23-4 và M163 tập trung tăng tốc độ bắn thì các đồng minh Tây Âu của Mỹ chú ý tích hợp nhiều thiết bị điện tử hiện đại. Điển hình, pháo tự hành Otomatic 76mm (Italy), pháo có tốc độ bắn chậm, chỉ 120 phát/phút nhưng có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Radar lắp cho pháo có thể tìm kiếm theo dõi đồng thời 8-24 mục tiêu với tầm hoạt động 15km. Đức có pháo Gepard dùng khung thân tăng Leopard trang bị hai pháo 35mm (tốc độ bắn 1.100 phát/phút), lắp radar tìm kiếm theo dõi đồng thời nhiều mục tiêu khác nhau và hệ thống phân biệt địch – ta.

Ở Ba Lan, các nhà kỹ thuật quân sự phát triển pháo phòng không Loara dùng 2 pháo cỡ 35mm, với radar có tầm phát hiện 24km, theo dõi và nhận diện đồng thời 64 mục tiêu, tác chiến tốt trong môi trường chế áp gây nhiễu điện tử. Đặc biệt nhất, năm 2009 Thụy Sỹ trình làng pháo phòng không không cần pháo thủ Skyranger, trang bị tháp pháo cỡ nòng 35mm. Tháp pháo của Skyranger lắp cảm biến quang điện tự động theo dõi mục tiêu hoặc chịu điều phối từ trung tâm chỉ huy.

“Lai ghép” pháo – tên lửa

Ngoài pháo phòng không tự hành cơ động cao, tốc độ bắn nhanh, độ chính xác lớn. Một xu thế nữa đang phát triển, kết hợp pháo - tên lửa vừa đảm bảo tạo màn đạn dày, vừa tăng tầm tiêu diệt mục tiêu, tiêu diệt mục tiêu bay tốc độ cao vì nhiều loại tên lửa hành trình ngày nay đạt tốc độ siêu thanh.

Điển hình là hệ thống pháo – tên lửa phòng không 2S6 Tunguska do Nga thiết kế sản xuất. Tháp pháo 2S6 trang bị 2 pháo cỡ 30mm đạt tốc độ bắn cực nhanh 5.000 phát/phút (tầm bắn 4km, xác suất trúng mục tiêu 80%) và 8 tên lửa 9M331 có thể tiêu diệt mục tiêu bay tốc độ 500m/giây (tầm bắn 8km, xác suất đánh trúng 65%). Radar của 2S6 phát hiện mục tiêu bay ở cự ly 17km và theo dõi ở tầm 11-16km.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống pháo - tên lửa phòng không Pantsyr S1 phóng tên lửa.

Cải tiến 2S6, người Nga cho ra đời hệ thống Pantsyr S1, đặt trên khung thân xe vận tải bánh lốp, vũ trang 2 pháo siêu tốc 30mm cùng 12 tên lửa đối không 57E6 đạt tốc độ 1.000m/giây, tầm bắn xa 20km. Pantsyr S1 lắp radar theo dõi bám bắt mục tiêu đa băng tần (phát hiện 30km, theo dõi từ 24km). Được thiết kế tiêu chuẩn hiện đại, hệ thống có khả năng kháng nhiễu cao.

Không chịu thua kém Nga, phương Tây cũng phát triển loại vũ khí phòng không hiệu quả này. Hãng Thales (Pháp) giới thiệu hệ thống pháo – tên lửa GMS trang bị 2 pháo 40mm và 6 tên lửa Starstreak có tốc độ 1.190m/giây đủ sức đánh chặn mục tiêu bay vượt âm, tầm bắn 7km. Tuy sức mạnh hỏa lực của pháo phòng không phương Tây không bằng hệ thống của Nga, nhưng khí tài trinh sát của họ rất mạnh. Cụ thể, GMS lắp radar SHIKRA-60 phát hiện mục tiêu xa tới 80km vượt trên radar của 2S6 và Pantsyr S1.

“Tự lực cánh sinh”

Với điều kiện kinh tế đất nước, Việt Nam chủ trương khai thác, sử dụng tối đa trang bị hiện có, tự lực cải tiến đáp ứng tình hình mới. Trong những năm qua, chúng ta bắt đầu cải tiến một phần, khẩu đội pháo được trang bị khí tài đánh đêm, máy nạp đạn tự động, hệ thống thông tin liên lạc lắp tới từng khẩu đội,... Đặc biệt với việc áp dụng “cò điện” sẽ giảm hiện tượng các khẩu đội bắn không đồng loạt, sẽ tạo ra mật độ hỏa lực dày, nâng cao xác suất trúng mục tiêu.

Đối với việc tự hành pháo, Viện Kỹ thuật Cơ giới quân sự đã triển khai đề tài “Nghiên cứu lắp đặt pháo 2 nòng 37mm lên xe vận tải bánh lốp”. Theo phương án bố trí pháo trên xe, toàn bộ được đặt trên sàn công tác và nâng hạ bằng 4 chân chống thủy lực. Sau một thời gian nghiên cứu, cán bộ viện đã hoàn thành công trình, chế tạo thiết bị tự động điều khiển sàn công tác cho tổ hợp pháo phòng không 37mm hai nòng lắp trên xe Ural-375D. Qua thử nghiệm, thiết bị điều khiển sàn công tác hoạt động ổn định, bảo đảm độ cứng vững, tự động điều khiển lấy thăng bằng sàn công tác sau mỗi phát bắn, rút ngắn thời gian triển khai và thu hồi tổ hợp.

Đặc biệt, thời gian tự động triển khai không quá 3 phút, tự động thu hồi không quá 2 phút, thời gian tự lấy thăng bằng sau mỗi loạt bắn không quá 30 giây. Khi tác xạ ở các tư thế khác nhau đều đạt độ chụm tương đương với pháo bắn trên mặt đất. Ngoài pháo 37mm, Việt Nam đã cải tiến thành công đưa súng máy phòng không 14,5mm lên xe thiết giáp BTR-152.

Pháo phòng không xe kéo ngày nay gần như không còn phát triển. Tuy nhiên, gần đây Iran giới thiệu hệ thống pháo xe kéo Mesbah-1 chuyên trị tên lửa hành trình. Có lẽ do hạn chế kỹ thuật chưa đủ khả năng thiết kế pháo siêu tốc nên họ đã dùng tới 8 nòng pháo 23mm, qua đó tốc độ bắn đạt 4.000 phát/phút. Mesbah-1 được hỗ trợ dẫn bắn từ radar điều khiển.

Ảnh phụ chú:

http://nghiadx.blogspot.com
Pháo phòng không "hỏa thần" 6 nòng M163.


http://nghiadx.blogspot.com
Pháo phòng không tự hành Otomatic 76mm của Italia.


http://nghiadx.blogspot.com
Pháo phòng không tự hành Gepard của Đức.


http://nghiadx.blogspot.com
Pháo phòng không tự hành Loara của Ba Lan.


http://nghiadx.blogspot.com
Pháo phòng không tự hành Skyranger của Thụy Sỹ.


http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống pháo - tên lửa phòng không 2S6 Tunguska.

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

>> Trung Quốc đã có được UAV RQ-170 Sentinel?



Trung Quốc rất có thể đã có được công nghệ trong chiếc UAV trinh sát tàng hình RQ-170 Sentinel của Hoa Kỳ

Gần đây, có tin đồn rằng Trung Quốc cuối cùng cũng đã tiếp cận được với chiếc UAV trinh sát tàng hình RQ-170 Sentinel bị bắn rơi ở Iran. Nếu điều này thực sự xảy ra, Trung Quốc sẽ có thể làm chủ các công nghệ chủ yếu có trong RQ-170 và sử dụng chúng trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ của họ.


http://nghiadx.blogspot.com


Đặc biệt, Trung Quốc có thể xây dựng các biện pháp để đối phó với các máy bay tàng hình của Mỹ nếu chúng trinh sát dọc theo biên giới nước này. Iran có đầy đủ những lý do chính trị, quân sự cũng như tài chính, để trao cơ hội này cho Trung Quốc.

Mặc dù một số quan chức Iran rất tự tin khi khoe khoang rằng nước này đã có thể làm chủ công nghệ Sentinel, tuy nhiên theo các chuyên gia, Iran còn lâu mới có thể khai thác được công nghệ tiên tiến sử dụng trong UAV tàng hình của Mỹ, nếu không muốn nói là nước này gần như không có khả năng đó.

http://nghiadx.blogspot.com


Nhưng nếu như Iran thực sự trao cho Trung Quốc cơ hội có được RQ-170 thì đây sẽ là bước đi rất thông minh của quốc gia Hồi giáo này. Trao RQ cho Trung Quốc đồng nghĩa với việc Iran có thể tiếp cận một cách rộng rãi hơn với công nghệ Trung Quốc cũng như tăng cường mối quan hệ với nước này trong cuộc đối đầu với phương Tây về chương trình hạt nhân của mình.

Trung Quốc là nhà cung cấp vũ khí đáng tin cậy cho Iran kể từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước, bao gồm việc cung cấp các máy bay chiến đấu F -7, tàu tuần tra cao tốc, tên lửa chống tàu, cũng như giúp đỡ trong việc phát triển các tên lửa đạn đạo của Iran.

Gần đây, nguồn tin không chính thức từ hãng thông tấn Iran cho biết rằng, các quan chức Nga và Trung Quốc đã đưa ra các yêu cầu để có thể tiếp cận chiếc UAV trinh sát tàng hình của Hoa Kỳ.

http://nghiadx.blogspot.com


Sau khi mối quan hệ Trung - Xô trở nên lãnh đạm vào những năm 1960, Trung Quốc đã tích cực copy công nghệ của Liên Xô để hiện đại hóa quân đội.

Đồng thời, thông qua các nước thứ ba, Trung Quốc cũng đã tiếp cận với một số loại máy bay và công nghệ hàng không vũ trụ của Mỹ. Và rất khó để xác định mức độ “truy cập” của Trung Quốc vào các sản phẩm này. Ví dụ điển hình nhất là việc Trung Quốc tiếp cận các máy bay chiến đấu F -16 của Không quân Pakistan.

Trong hai thập kỷ qua, trình độ công nghệ của máy bay quân sự Trung Quốc và khả năng sản xuất các hệ thống hàng không vũ trụ phức tạp đã phát triển một cách nhanh chóng. Điều đó có nghĩa rằng, Trung Quốc có thể copy công nghệ của bất cứ loại vũ khí nào kể cả UAV hiện đại và bí mật nhất của Mỹ, Sentinel.

http://nghiadx.blogspot.com


Ví dụ, trong thiết kế của máy bay chiến đấu J -10, Trung Quốc đã sử dụng các hợp kim tối tân và vật liệu composite với mật độ cao và trọng lượng thấp.

Trung Quốc cũng đã phát triển máy bay chiến đấu J -11 B dựa trên cơ sở máy bay Su-27 của Nga, và có những bước tiến lớn trong việc nội địa hóa sản xuất.

Sự xuất hiện của một nguyên mẫu máy bay chiến đấu tàng hình J -20, lần đầu tiên cất cánh vào tháng Giêng năm nay, cho thấy rằng, Trung Quốc có thể sử dụng công nghệ tàng hình trong việc xây dựng và phát triển các máy bay chiến đấu thế hệ mới.

>> Pháo phòng không 'hồi sinh' (kỳ 1)


Trong tác chiến phòng không, sự xuất hiện của tên lửa gần như đưa pháo cao xạ về “dĩ vãng”. Nhưng không phải lúc nào tên lửa cũng là lựa chọn tối ưu./

Kỳ 1: "Chọc mù" radar, "bẻ gãy" cánh sóng


Trong lịch sử tác chiến đường không, pháo phòng không là phương tiện đối phó ra đời sớm nhất đáp ứng yêu cầu chống máy bay. Sự phát triển của pháo phòng không đạt tới đỉnh điểm trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai với đủ chủng loại cỡ nòng, từ pháo 23mm, 37mm, 40mm tới pháo cỡ nòng “lớn” 90mm, 100mm, 128mm, 130mm có tầm bắn xa, trần bay diệt mục tiêu cao.

Tuy nhiên, sau thế chiến hai, hàng không thế giới bước vào thời đại phản lực, những chiếc phi cơ chiến đấu có thể đạt tốc độ vượt âm, trần bay lên tới 10.000 - 20.000m. Đồng thời, sự xuất hiện của kỹ thuật tên lửa – tên lửa đối không có điều khiển đạt độ chính xác cao khiến pháo phòng không ngày càng ít được quan tâm. Thực tế kể từ những năm 1960, thế giới bắt đầu ngừng phát triển loại vũ khí này.

Điểm tựa để không quân tung hoành

Dựa dẫm vào không lực để chiếm ưu thế trong các cuộc chiến, người Mỹ tìm mọi cách để đối phó với tên lửa nói riêng và các hệ thống phòng không nói chung. Trong đó, thủ đoạn phổ biến là chế áp điện tử, dùng khí tài gây nhiễu, tên lửa chống radar. Cách thức này từng được áp dụng ở Việt Nam và dần được bổ sung, hoàn thiện sử dụng ở quy mô lớn từ cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991.

Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh 1991, Không quân Mỹ và NATO đã tấn công phá hủy lực lượng phòng không Iraq nặng nề. Dù vào lúc đó, hệ thống phòng không nước này được đánh giá khá mạnh, với mạng lưới radar cảnh giới tầm xa gồm các loại P-35M (tầm hoạt động 350km), P-37 (tầm xa 250km), P-12 (tầm hoạt động 200km), P-15 (tầm hoạt động 150km).




http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đối không SA-2 rời bệ phóng.


Hệ thống tên lửa phòng không bảo vệ thành phố, các căn cứ quân sự quan trọng mang tính chiến lược ở Iraq có: tên lửa tầm xa SA-2 (20 tiểu đoàn, 120 bệ phóng), SA-3 (25 tiểu đoàn, 100 bệ phóng – mỗi bệ 2-4 quả tên lửa); tên lửa tầm trung di động SA-6. Bổ trợ cho các đơn vị phòng không tầm cao, vừa tham gia bảo vệ thành phố tầm thấp, bảo vệ đơn vị bộ binh – tăng thiết giáp mặt đất là các hệ thống tên lửa phòng không cơ động cao như SA-8, SA-9, Roland, tên lửa vác vai SA-7, pháo phòng không đủ kích cỡ.

Để xuyên thủng mạng lưới dày đặc của Iraq, Mỹ và NATO tiến hành chiến dịch chế áp hệ thống phòng không đối phương quy mô lớn với sự tham gia nhiều phương tiện khí tài hiện đại nhằm phá hủy, tê liệt đài trạm radar cảnh giới tầm xa, ngăn chặn sự liên kết giữa trạm radar đó đơn vị tên lửa, pháo phòng không. Cụ thể, Mỹ sử dụng máy bay chiến đấu F-4G, F-16C, F/A-18A, mang tên lửa chống radar AGM-88 Harm lần theo sóng radar tấn công đài trạm phát sóng. Máy bay EF-111A và EA-6B trang bị hệ thống gây nhiễu điện tử tích cực. Máy bay EC-130 gây nhiễu hệ thống thông tin liên lạc UHF/VHF làm đơn vị phòng không Iraq không liên kết được với nhau. Ngoài ra, Mỹ còn dùng UAV BQM-74A “giả máy bay” đánh lừa, buộc tên lửa phòng không Iraq lộ diện để tên lửa AGM-88 lần theo tấn công trạm radar.

Kết quả, trong cuộc chiến, Không quân Mỹ và NATO khống chế làm chủ hoàn toàn bầu trời Iraq. Các hệ thống phòng không Iraq không thể tự bảo vệ chính mình, chưa nói tới việc bảo vệ căn cứ quân sự, đơn vị chiến đấu mặt đất. Hàng nghìn xe tăng – thiết giáp Iraq phải phơi mình trước hỏa lực từ trên không (A-10, AH-64 Apache) mà không nhận được sự hỗ trợ từ lực lượng phòng không. Ngược lại, phía Iraq bắn rơi một số máy bay Mỹ và NATO nhưng số lượng đó là quá ít ỏi.

http://nghiadx.blogspot.com
Máy bay EA-6B phóng tên lửa chống radar AGM-88
.
Gần 10 năm sau, năm 1999, thêm một lần nữa Mỹ và NATO tiếp tục thực hiện chiến dịch chế áp điện tử tương tự ở Liên bang Nam Tư (cũ), khống chế tiêu diệt gây thiệt hại lực lượng phòng không Nam Tư vốn có nhiều nét tương đồng với Iraq. Theo thống kê của NATO, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến họ đã phá hủy 30% khẩu đội tên lửa SA-2/SA-3, 15% SA-6. Thậm chí, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp lúc đó tự tin rằng NATO “knoct out” 50% toàn bộ hệ thống phòng không Nam Tư.

Lần gần đây nhất, năm 2011 khi Mỹ và đồng minh thực hiện “nghị quyết của Liên Hợp Quốc thiết lập vùng cấm bay” trên lãnh thổ Libya, tiến hành chiến dịch không kích nhắm vào Quân đội của Tổng thống Gaddafi. Lực lượng phòng không Libya được xếp hàng mạnh trong khu vực hoàn toàn “im hơi lặng tiếng” để mặc cho máy bay đối phương dạo chơi trên bầu trời, các đơn vị thiết giáp không có sự hỗ trợ mặc nhiên trở thành “con mồi béo bở”. Dễ hiểu, phòng không Libya bị chế áp hoàn toàn bởi các thiết bị gây nhiễu điện tử, tên lửa chống radar, vũ khí chính xác cao. Khi lực lượng radar bị “chọc mù”, tên lửa phòng không coi như bị “bịt mắt”, không thể phát huy sức mạnh.

Tên lửa tiên phong

Trong cả ba cuộc chiến kể trên, một loại vũ khí luôn luôn được lựa chọn khai hỏa và đồng thời là nhân tố quan trọng trong các chiến dịch chế áp điện tử là tên lửa hành trình tầm xa BGM-109 Tomahawk. Đi vào phục vụ từ những năm 1980, BGM-109 thiết kế để tấn công mục tiêu cố định như hệ thống phòng không, trạm radar, căn cứ chỉ huy.


Minh họa hoạt động của tên lửa Tomahawk.

>> Chiến thuật chế áp phòng không hiện đại (kỳ 1)
>> Chiến thuật chế áp phòng không hiện đại (kỳ 2)

Tên lửa có khối lượng phóng 1,6 tấn, lắp đầu đạn thuốc nổ thường 450kg, trang bị hai động cơ (động cơ rocket đưa tên lửa rời bệ phóng, đạt độ cao ổn định động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy khởi động đưa tên lửa bay tới mục tiêu), tốc độ bay tốc đa 880km/h, tầm bay tùy từng biến thể từ 1.000km tới hơn 2.000km.

Tomahawk có độ chính xác cao nhờ được trang bị hệ dẫn đường tiên tiến với hệ định vị quán tính, hệ thống so sánh ảnh quang học kỹ thuật số về vị trí mục tiêu mà nó tấn công. Đặc biệt, nó có trần bay thấp (khoảng 15m) nhờ hệ thống dẫn đường đối chiếu so sánh theo biên dạng địa hình TERCOM.

http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa hành trình đối đất tầm xa BGM-109 Tomahawk.


Lần đầu được đưa vào thực chiến ở Iraq 1991, Mỹ đã dùng BGM-109 làm “quân tiên phong” đánh vào đài radar cảnh giới, sở chỉ huy, cơ sở thông tin liên lạc của Iraq. Theo một báo cáo tổng kết được đưa ra thì Mỹ đã phóng 297 tên lửa, trong đó có 282 tên lửa trúng đích, số còn lại rơi do trục trặc kỹ thuật và chỉ có…2 quả bị bắn rơi.

Xuyên suốt trong nhiều cuộc chiến sau này, Tomahawk luôn mở đầu trận đánh. Ở Nam Tư năm 1999, 218 tên lửa Tomahawk được phóng đi từ tàu ngầm Anh và tàu chiến Mỹ. Cuộc chiến Iraq 2003, 725 Tomahawk được bắn vào các mục tiêu ở Iraq. Còn tại cuộc chiến Libya 2011, chỉ trong ngày đầu 19/3 Mỹ - Anh phóng tới 124 quả, ngày 22/3 phóng tiếp 159 quả.

Có thể nói, BGM-109 Tomahawk thực sự trở thành kẻ thù nguy hiểm đối với hệ thống phòng không đối phương. Dù vậy, đối với bất kỳ loại vũ khí nào cũng luôn có cách khắc chế, nhược điểm của Tomahawk có tốc độ bay chậm, trần bay nằm ở tầm mà pháo phòng không phát huy tối đa hiệu quả. Đó là cơ sở để trong chiến tranh hiện đại, pháo tiếp tục có thể sánh vai bên tên lửa bảo vệ bầu trời.

>> Dương oai bằng màn phóng tên lửa Yakhont



Lần đầu tiên Quân đội Syria thể hiện với thế giới rằng họ đang hữu tên lửa hành trình chống hạm siêu âm Yakhont bằng một cuộc tập trận bắn đạn thật.

Theo kế hoạch huấn luyện trong năm 2011, Lực lượng Phòng không - Không quân và Hải quân Quân đội Syria tiến hành tiến hành cuộc tập trận qui mô lớn (chủ yếu là trên biển) hôm 20/12.

Nhiều tên lửa hiện đại, tàu chiến, cùng với các máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, trực thăng tấn công, các đơn vị lính dù và các tổ hợp tên lửa phòng không đã tham gia cuộc tập trận này.

Điểm nhấn của cuộc tập trận là sự xuất hiện của tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion được trang bị các tên lửa hành trình chống hạm siêu âm Yakhont.

Hình ảnh tên lửa Yakhont xuất hiện ở đoạn 1 phút 18 giây trong clip dưới đây:





Mục đích của cuộc tập trận là kiểm tra khả năng tấn công máy bay, tiêu diệt tàu chiến và đẩy lùi mọi cuộc xâm lược của đối phương.

Theo các chuyên gia quan sát, cuộc tập trận của Quân đội Syria cho thấy trình độ phối hợp tác chiến cao và sát với thực tế chiến đấu thật. Quân đội Syria cũng thể hiện được kỹ năng và kinh nghiệm tốt của họ trong việc sử dụng các loại vũ khí hiện đại để tìm kiếm, phát hiện và tấn công các mục tiêu của đối phương.

Phó Tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Syria, Bộ trưởng Quốc phòng, Tướng Raja Dawood Abdullah đã ca ngợi kết quả tập trận, xác nhận khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Syria để bảo vệ đất nước của họ có thể chống lại bất kỳ sự xâm lược từ trên biển, trên bộ và trên không.

Một số hình ảnh của cuộc diễn tập.


http://nghiadx.blogspot.com
Tổ hợp tên lửa phòng không SA-6 bảo vệ vùng trời Syria.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa phòng không dời bệ phóng.


http://nghiadx.blogspot.com
Chiến đấu cơ MiG-23 đang ném bom trên biển.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa chống tàu dời bệ phóng.


http://nghiadx.blogspot.com
Các sỹ quan Syria tham gia quan sát và chỉ huy cuộc tập trận.


Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

>> Top 10 vũ khí ấn tượng của phương Tây năm 2011


Với phương châm luôn đi trước thời đại năm 2011 tiếp tục ghi nhận những thành tựu quan trọng, xen lẫn bất ngờ trong việc phát triển các hệ thống vũ khí của phương Tây.

Tự động hóa cao, giảm phụ thuộc vào yếu tố con người là phương châm thiết kế của các hệ thống vũ khí do phương Tây sản xuất. 

Năm 2011 tiếp tục ghi nhận những thành tựu quan trọng trong việc phát triển các hệ thống vũ khí mới của phương Tây, từ những hệ thống vũ khí mang tầm chiến lược cho đến những vũ khí thông thường đều mang một phong cách mới.

1. Hệ thống đánh chặn tên lửa Iron Dome

Ngay sau khi được triển khai hoạt động tại thành phố Beersheva hệ thống đánh chặn tên lửa và đạn pháo Iron Dome đã có màn trình diễn cực kỳ ấn tượng.

Hệ thống đã đánh chặn thành công tới 90% tên lửa và đạn pháo bắn vào thành phố, một con số quá ấn tượng đối với một hệ thống vũ khí.


http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống đánh chặn Iron Dome đang được rất nhiều nước quan tâm trong đó có cả Mỹ.


Hệ thống phòng thủ tên lửa Iron Dome được thiết kế để chống lại mối hiểm họa tên lửa từ dải Gaza và Lebanon. Hệ thống phòng thủ tên lửa Iron Dome là bản nâng cấp của hệ thống tên lửa phản ứng nhanh Rafael, với sự giúp đỡ thiết kế của Mỹ. Được thiết kế để đánh chặn đạn pháo và tên lửa từ khoảng cách 4-70km.

Tuy rằng, Iron Dome có đơn giá đắt khủng khiếp khoảng 50.000 USD cho mỗi quả tên lửa đánh chặn Tamir, song khả năng của hệ thống cho thấy rằng nó hoàn toàn đáng “đồng tiền bát gạo”.

Theo kế hoạch, đến năm 2013, Israel sẽ triển khai 9 hệ thống Iron Dome nhằm bảo vệ cho các thành phố trước các cuộc tấn công bằng tên lửa, đạn pháo vào Israel.

Lầu Năm Góc cũng lên kế hoạch tậu vài hệ thống này để bảo vệ các căn cứ quân sự của mình tại Iraq và Afghanistan. Sự phát triển của Iron Dome có sự trợ giúp kỹ thuật của Mỹ nên không có gì ngạc nhiên khi Mỹ muốn mua hệ thống này.

Ngoài ra. Ấn Độ, Singapore cũng bày tỏ sự quan tâm lớn đến hệ thống này.

2. Hệ thống tên lửa phòng không MEADS

Hệ thống này là sản phẩm hợp tác chung giữa Mỹ, Đức và Italy, được thiết kế để đối phó với các mục tiêu trên không từ máy bay đến tên lửa đạn đạo chiến thuật hay tên lửa đạn đạo liên lục địa.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống tên lửa phòng không MEADS được xem là đối trọng của S-400 Triumf.


Tháng 3/2011, hệ thống MEADS đã tiến hành thử nghiệm sơ bộ tại căn cứ Pratica di Mare ở Italy . Ngày 25/11/2011, MEADS tiếp tục thử nghiệm thành công tại trường thử White Sands, bang New Mexico.

Các xe phóng của hệ thống MEADS có khả năng cơ động chiến thuật rất cao, mỗi xe phóng mang 8 tên lửa đối không. Được trang bị loại tên lửa đối không PAC-3 Missile Segment Enhancement (MSE) thế hệ mới

Tên lửa PAC-3 MSE được trang bị một động cơ mạnh hơn, tăng cường lực đẩy, vây ổn định lớn hơn, thay đổi cấu trúc khí động học để tên lửa nhanh nhẹn hơn, phần mềm kiểm soát bay mới, cảm biến tinh vi hơn, áp dụng công nghệ “hit-to-kill”(truy đuổi- đến- tiêu diệt) tiên tiến nhất thế giới.

Hệ thống dẫn đường TVM (Track-via-missile, bám theo đạn) cũng được cải tiến đáng kể. Các sửa đổi sẽ mở rộng phạm vi của tên lửa lên đến 50% so với tên lửa PAC-3 nguyên bản.

Hệ thống MEADS được đánh giá là một đối trọng đối với hệ thống phòng không S-400 Triumf của Nga. MEADS có khả năng bảo vệ trên một diện tích rất rộng lớn, điều đó cho phép giảm đáng kể về nhân sự và trang thiết bị phòng không, trong khi vẫn đảm bảo và duy trì năng lực tác chiến.

3. Đạn pháo có điều khiển 76mm

Các nhà phát triển vũ khí trên thế giới đã phát triển thành công các loại đạn pháo có điều khiển cỡ nòng từ 152-155mm. Tuy nhiên, năm 2011 lần đầu tiên hãng chế tạo vũ khí danh tiếng Oto Melara của Italia đã chế tạo thành công đạn pháo có điều khiển cỡ nòng 76mm

Việc phát triển đạn pháo có điều khiển mới cho phép biến đổi một loại vũ khí cổ điển thành vũ khí đa nhiệm hiện đại, cho phép tham chiến với nhiều mục tiêu trên mặt nước, đất liền, trên không và chi viện hỏa lực như kiểu pháo binh truyền thống.

Đạn pháo có điều khiển mới cho phép tăng tầm bắn lên đến 40km gấp đôi so với đạn pháo thông thường. Đạn pháo được dẫn hướng kết hợp quán tính và GPS, sự ra đời của đạn pháo có điều khiển đang mang lại sự hồi sinh cho pháo binh trong chiến tranh hiện đại.

4. Hệ thống dẫn hướng laser bán chủ động Talon

Tuy đây không phải là một hệ thống vũ khí mới nhưng sự ra đời của hệ thống dẫn hướng laser bán chủ động Talon đã tạo ra năng lực tác chiến mới cho các loại rocket không điều khiển.

Quan trọng hơn cả, hệ thống này đã giải quyết được bài toán tiết kiệm chi phí song vẫn đảm bảo được năng lực tác chiến, đây là yếu tố quan trọng khi áp lực cắt giảm ngân sách ngày càng đè nặng các quốc gia phương Tây.

Talon là một hệ thống dẫn hướng laser bán chủ động chi phí thấp, hệ thống dẫn hướng này có thể kết nối trực tiếp vào phía trước của các tên lửa không điều khiển 70 mm đang có rất nhiều trong kho của Mỹ và các đồng minh.

Talon được thiết kế để lấp đầy khoảng trống giữa tên lửa không có điều khiển và tên lửa chống tăng hạng nặng.

Các tên lửa không điều khiển sau khi được trang bị bộ dẫn hướng laser bán chủ động này có thể tấn công các mục tiêu với xác suất không hề thua kém các tên lửa có điều khiển.

Talon hoàn toàn tương thích với các định dạng laser đang được sử dụng trong không quân và lục quân. Hệ thống có khả năng sử dụng mà không đòi hỏi phải sửa đổi để phóng các tên lửa hiện có trong kho.

5. Áo choàng tàng hình cho xe tăng

Tàng hình đang trở thành một xu hướng chủ đạo trong thiết kế vũ khí của các nước trên thế giới. Các nhà thiết kế gần như tìm đủ mọi cách để cho các hệ thống vũ khí của mình trở nên vô hình trước các loại khí tài trinh sát.

http://nghiadx.blogspot.com
Với Adaptiv những chiếc xe tăng Anh sẽ trở nên vô hình với các khí tài trinh sát ảnh nhiệt.


Ngay cả xe tăng các nhà thiết kế cũng tìm cách để cho nó có khả năng tàng hình. Hãng BAE System của Anh đã phát triển thành công một loại áo choàng tàng hình cho phép xe tăng hòa lẫn vào môi trường xung quanh.

Áo choàng tàng hình này có tên gọi là Adaptiv, lớp áo này có thể làm việc ở tần số tia hồng ngoại và nhiều tần số khác.

Hệ thống này kết hợp các tấm kim loại hình lục giác có trọng lượng nhẹ, được thiết kế để thay đổi nhiệt độ rất nhanh chóng tạo ra một mô hình nhiệt tối ưu pha trộn với môi trường xung quanh. Ngoài ra, nó có thể bắt chước một chiếc xe khác hoặc hiển thị các thẻ nhận dạng, giảm nguy cơ bắn nhầm.

Với áo choàng này, tương lai các xe tăng chiến đấu của Anh sẽ trở nên vô hình trước loại khí tải ảnh nhiệt, mang lại lợi thế lớn trong tác chiến, các xe tăng được trang bị loại áo choàng này có khả năng tung ra đòn tấn công trước khi bị đối phương phát hiện.

6. Vũ khí chùm laser điện tử

Tháng 2/2011, Raytheon giới thiệu chương trình phát triển vũ khí chùm laser điện tử FEL được dự định trở thành lá chắn chủ chốt trên chiến hạm của Hải quân Mỹ.

Chùm tia laser điện tử có bản chất là một chùm electron được gia tốc tới gần tốc độ ánh sáng, khi đi qua một bộ dao động từ trường ngang.

Cơ chế hủy diệt của chùm tia FEL là sự kết hợp giữa cường độ ánh sáng với khả năng bắn phá của electron nhằm phá hủy mục tiêu. Thời gian để phá hủy mục tiêu cũng nhanh hơn thông qua việc điều chỉnh cường độ của chùm tia laser điện tử.

Ứng dụng các thành tựu của các kim phun điện tử mới, làm cho chùm tia điện tử được duy trì trong thời gian lâu hơn, đồng nghĩa với cường độ của chùm tia laser điện tử sẽ mạnh hơn. Thời gian ngắt quãng giữa hai lần bắn cũng ngắn hơn so với laser thông thường.

Tuy hệ thống đang ở giai đoạn thử nghiệm, nhưng đây là một cột mốc quan trọng trong việc tạo ra một siêu vũ khí mới đủ khả năng tiêu diệt mọi tên lửa chống hạm nhắm vào tàu chiến Mỹ.

7. Siêu tàu khu trục F-125 của Đức

Vốn có thế mạnh trọng việc phát triển các loại tàu ngầm, song Đức vẫn cho thấy họ có đủ khả năng để chế tạo các tàu khu trục đẳng cấp thế giới.

Tháng 5/2011 nhà máy đóng tàu Blohm Voss đã tiến hành khởi công đóng mới siêu tàu khu trục tàng hình đa chức năng F-125.

Sự kiện đánh dấu cột mốc quan trọng cho chương trình đóng mới tàu khu trục đa chức năng đầy tham vọng của Hải quân Đức. Dự kiến, F-125 sẽ được hoàn thành và bàn giao cho Hải quân Đức trong năm 2016.

http://nghiadx.blogspot.com
Tàu khu trục F-125 sẽ là đỉnh cao mới trong làng đóng tàu thế giới.


F-125 là loại tàu khu trục được thiết kế để triển khai hoạt động trên toàn thế giới, có thể hoạt động trong vòng 2 năm trước khi trở về căn cứ, tàu có 2 thủy thủ đoàn khác nhau để thay đổi trong vòng 4 tháng mỗi lần.

Tàu khu trục F-125 được thiết kế theo công nghệ hiện đại, làm tăng khả năng tàng hình cho dù tải trọng tương đối lớn. Tàu được trang bị hệ thống vũ khí đầy uy lực với pháo hạm 127mm cải tiến, 8 tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon, 2 hệ thống tên lửa đối không RIM-116 cùng với 10 súng máy phòng không 12,7mm được điều khiển tự động.

Hệ thống điện tử trên tàu được đánh giá hàng đầu tại châu Âu, nổi bật là radar quét mạng pha điện tử TRS-4D, đây được xem là một trong những radar đi tiên phong ứng dụng công nghệ E Scan tại châu Âu.

8. Hệ thống số hóa FELIN cho bộ binh

Tháng 2/2011, Pháp trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên có đơn vị bộ binh được số hóa hoàn toàn với hệ thống FELIN.

FELIN là một module chiến đấu bộ binh tích hợp bao gồm: Một súng trường tấn công cải tiến FAMAS, một camera tích hợp kính ngắm quang điện tử không dây, một mũ bảo hiểm tích hợp thiết bị quan sát ảnh nhiệt, thiết bị đo xa kiêm chỉ thị mục tiêu laser, hệ thống định vị toàn cầu GPS, màn hình số cầm tay, radio liên lạc, bộ vi xử lý trung tâm PEP, pin nhiên liệu, quần áo chống đạn tích hợp. Tất cả được kết nối với nhau thông qua mạng cục bộ không dây.

http://nghiadx.blogspot.com
FELIN mở đường cho cuộc cách mạng số hóa bộ binh trong tương lai.


Với các thiết bị điện tử tích hợp, FELIN cung cấp một năng lực tác chiến hoàn toàn mới, đặc biệt trong điều kiện tác chiến đô thị, các hoạt động chống khủng bố, giải cứu con tin, đột nhập các cơ sở, căn cứ quan trọng của đối phương.

FELIN không bị hạn chế về khả năng quan sát bất cứ ngày đêm hay trong các điều kiện bị che khuất bởi các bức tường, hay các vật cản khác.

Với sự trợ giúp của thiết quan sát mục tiêu ảnh nhiệt, thiết bị đo xa kiêm chỉ thị mục tiêu laser. Súng trường FAMAS có khả năng mở rộng tiêu diệt mục tiêu ở cự ly 400-600m trong điều kiện đêm tối, trên 1.000m trong điều kiện ban ngày. Hiệu quả tiệu diệt mục tiệu đạt 100% ở cự ly 400m, 70% ở cự ly 600m.

Ngay sau khi được trình làng, hệ thống FELIN đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của quân đội nhiều nước trên thế giới. FELIN là sản phẩm của Tập đoàn An Ninh và Quốc phòng Sagem, Pháp. 9. Trực thăng bí ẩn

Chiến dịch tiêu diệt bin Laden có lẽ đã trở nên hoàn hảo hơn nếu không có 1 trong 4 chiếc trực thăng tham gia chiến dịch bị rơi, mặc dù lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã phá hủy chiếc trực thăng, song những gì còn lại của nó cũng khiến cả thế giới phải tò mò

Cho dù bin Laden đã bị tiêu diệt, song báo chí thế giới đã tốn không ít giấy mực để tìm hiểu về chiếc trực thăng bí ẩn bị rơi trong chiến dịch tiêu diệt trùm khủng bố khét tiếng này.

Danh tín của chiếc trực thăng này đến này vẫn không được công bố, một số cho rằng nó là một biến thể của trực thăng MH-60 Black Hawk nhưng nếu đem so với những chiếc Black Hawk vẫn được quân đội Mỹ sử dụng hoàn toàn không giống nhau.

Phần còn lại của chiếc trực thăng không phù hợp với bất kỳ loại trực thăng nào từng được biết đến. Điều đó cho thấy rằng Lầu Năm Góc có rất nhiều chương trình phát triển vũ khí chưa bao giờ được công bố.

h Những hệ thống vũ khí bí mật này chỉ được sử dụng cho những chiến dịch đặc biệt, thông tin về chúng chỉ được tiết lộ nếu không may gặp sự cố.

10- UAV RQ-170 Sentinel

Nếu không gặp sự cố và rơi xuống lãnh thổ Iran, Sentinel vẫn là một ẩn số đối với thế giới. Sự phát triển của loại siêu UAV này chỉ được nghe loáng thoáng qua các chuyến bay thử nghiệm hồi năm 2009.

http://nghiadx.blogspot.com
Mỹ đang đau đầu với chiếc RQ-170 đang nằm trong tay Iran.


Với chính sách bảo mật thông tin chặt chẻ, mọi thứ liên quan đến chương trình phát triển siêu UAV nhanh chóng rơi vào quên lãng. Tuy nhiên, ngày 8/12 mọi sự chú ý trên thế giới đổ dồn về Iran khi quốc gia này công bố đoạn video về một loại UAV được cho là RQ-170 bị họ bắt giữ

RQ-170 Sentinel được thiết kế là một loại UAV do thám tàng hình cao cấp, nhiều khả năng nó sẽ được vũ trang để thực hiện các phi vụ tấn công bí mật. Chiếc Sentinel được trang bị các công nghệ điện tử hàng không hiện đại bậc nhất thế giới.

Thông số kỹ thuật của Sentinel vẫn là một ẩn số, song chiếc UAV này đang thu hút sự chú ý đặc biệt của thế giới. Trong khi đó Mỹ đang lo ngại những công nghệ tối tân của mình bị tiết lộ, những quốc gia thân thiện với Iran đang mong muốn được “chiêm ngưỡng” siêu phẩm của nền khoa học công nghệ Mỹ.

Sự kiện RQ-170 khiến thế giới tiếp tục phải sửng sốt trước sự phát triển của các hệ thống vũ khí Mỹ. Còn bao nhiêu hệ thống vũ khí bí ẩn khác nữa đang được Mỹ phát triển? Đến bao giờ những hệ thống vũ khí này mới được công bố nếu nó không gặp sự cố và rơi xuống.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang