Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

>> An-70 đạt 6 kỷ lục thế giới




Tổ hợp kỹ thuật hàng không Antonov đã chuẩn bị để tiếp tục thử nghiệm máy bay vận tải quân sự cất cánh và hạ cánh ngắn An-70.

Thông tin trên được Chủ tịch, Giám đốc điều hành tổ hợp Antonov, Dmitry Kiva thông báo tại cuộc họp báo tại Hội chợ triển lãm Hàng không-Vũ trụ Paris 2011. “Chúng tôi và đối tác Nga đã tạo ra một máy bay vận tải quân sự Nga An-70 và bây giờ tiếp tục nâng cấp để cho phù hợp với mọi yêu cầu”, ông Kiva cho biết.

Ông cũng lưu ý rằng “trong các chuyến bay kiểm tra để cấp giấy chứng nhận, "An-70 đã lập 6 kỷ lục quốc tế và 15 kỷ lục quốc gia”.

Tháng 4/2011, trong thảo luận với các nhà lãnh đạo Antonov ở Kiev về các vấn đề của dự án chung Nga-Ucraina trong việc chế tạo máy bay vận tải quân sự An-70, Bộ trưởng Quốc phòng Nga, Anatoly Serdyukov cho biết sẽ đặt hàng các máy bay này. "Chúng tôi có thể mua chúng vào năm 2015-2016”, ông Serdyukov nói.

Trong thông báo, ông Kiva cho biết thêm, trong tất cả các chuyến bay thử nghiệm, máy bay đã chứng minh khả năng đáp ứng tất cả các yêu cầu. "Chúng tôi đang nâng cấp máy bay và chuẩn bị thử nghiệm tiếp. Công việc tổ chức sản xuất loạt thương mại đã bắt đầu”.



Máy bay An-70.


An-70 bắt đầu được xây dựng từ đầu những năm 1990, trong việc hợp tác công nghiệp và khoa học-kỹ thuật giữa Nga và Ukraine. Nhưng sau đó đến năm 2000 hợp tác giữa hai nước ngặp một số vấn đề ​​và trong năm 2006 Nga chính thức rút khỏi dự án.

Công việc chế tạo loại máy bay này thực sự trở lại vào tháng 8/2009, sau khi 2 bên đã thống nhất nối lại dự án và được ký kết tại triển lãm MAKS-2009. Thỏa thuận bổ sung được chấp nhận vào tháng 10/2009, để thanh toán đợt đầu tiên của 150 triệu rúp cho việc kết thúc các chuyến bay thử nghiệm An-70.

Cuối năm 2009, chỉ huy lực lượng máy bay vận tải quân sự của Không quân Nga, Trung tướng Victor Kachalkin cho rằng, máy bay An-70 “Khi đã hoàn thiện sẽ được biên chế trong quân đội Nga”.

Với 4 động cơ Propfan D-27 sản xuất bởi Antonov, máy bay có thể chở tổng trọng lượng đến 35-47 tấn hoặc 300 lính dù, khi làm công tác cứu thương sẽ chở được 200 thương binh.

An-70 là máy bay vận tải quân sự tầm trung thế hệ mới cất cánh và hạ cánh ngắn, máy bay có thể hạ cánh trên đường băng bê tông hoặc đường băng đất với chiều dài chỉ 600-700 mét. Trần bay 12.000 m, tầm bay 3.000-5.100 km với tốc độ là 700-750 km/h.

Chuyến bay đều tiên của mẫu thiết kế được thực hiện vào ngày 12/6/1994, tại Kiev, Ukraina.

[BDV news]


>> Vai trò mới của lực lượng đặc biệt SOF, Mỹ (kỳ 2)




Ngày 23-6, Tướng Gary L. North, tư lệnh lực lượng không quân Thái Bình Dương của Mỹ hiện đang ở thăm Philippines, nói với báo giới rằng căng thẳng chính trị xung quanh vấn đề tranh chấp quần đảo Trường Sa không thể là cái cớ dẫn tới chiến tranh.Mỹ cho rằng, trong điều kiện hoà bình cũng như trong chiến tranh, SOF thường đảm nhiệm những nhiệm vụ sau.

>> Vai trò mới của lực lượng đặc biệt SOF, Mỹ (kỳ 1)

- Tiến hành các hoạt động trinh sát đặc biệt, hợp tác với các đồng minh và trợ giúp các quốc gia khác trong lĩnh vực tác chiến đặc biệt;- Sẵn sàng và trực tiếp can thiệp quân sự vào những khu vực khủng hoảng trên cơ sở tiến hành chiến tranh không thông thường;
- Tiến hành các hoạt động đặc biệt với sứ mệnh "nhân đạo" như: hạn chế sự phát triển của vũ khí giết người hàng loạt; chống chủ nghĩa khủng bố; hoạt động chống ma tuý (CD); chống mìn sát thương (CM); trợ giúp nhân quyền (HA)...;
- Trợ giúp an ninh (SA); khôi phục nhân sự (tìm kiếm, giải thoát con tin)...;
- Tiến hành hoạt động tâm lý, hoạt động dân sự; Hoạt động thông tin và truyền thông; Hoạt động phòng thủ đối ngoại trong nước.

Để hoàn thành sứ mệnh của mình, SOF cần có yêu cầu cao nhằm luôn thích nghi với sự gia tăng các mối đe doạ trong môi trường quốc tế phức tạp, do vậy SOF phải có: tri thức hiện đại, tốc độ cao và luôn nâng cao khả năng tác chiến.



Lực lượng tác chiến đặc biệt NAVY SEAL thuộc USSOCOM.


SOF là lực lượng chiến đấu, song như chính Mỹ xác định, chủ yếu là sử dụng nhằm can dự từ thời bình, trong các cuộc khủng hoảng và trong các điều kiện "không có chiến tranh".

Lực lượng này hiện nay được tổ chức ở tất cả các quân chủng và nằm trong các Bộ chỉ huy chiến trường theo khu vực và đều ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.

Nếu như năm 1993, quân số của USSOCOM là 35.000 người, năm 1999 tăng lên đến 46.000 người. Hiện nay quân số của USSOCOM trên 50.000 người.

Ngoài ra SOF thuộc các quân chủng và các Bộ Tư lệnh chiến trường, tuỳ thuộc vai trò và vùng trách nhiệm, mỗi đầu mối khoảng 15.000-20.000 quân, Chẳng hạn như quân số SOF của Lục quân (USASOC) là 25.600 người trong đó có 1.000 chuyên gia dân sự.

Trang bị mới cho SOF

Thực tế chiến đấu ở Afghanistan và Iraq cho thấy sự cần thiết phải cải tiến một số công nghệ và trang bị quân sự hiện đại, đồng thời cũng cho thấy tầm quan trọng của các trang bị trong giai đoạn lên kế hoạch hay sản xuất.



Binh sĩ thuộc các lực lượng tác chiến đặc biệt SOF đều trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.


Bằng chứng là những tiến bộ về công nghệ phương tiện bay không người lái hay loại máy bay Bell/ Boeing V- 22 Osprey đã được cải tiến và tầm bay cao đủ để nhảy dù cũng như trang bị hỗ trợ đổ quân có thể giúp triển khai các đơn vị SOF đến các vùng sâu vùng xa.

Ngoài ra, các phương tiện liên lạc không dây qua vệ tinh nhằm bảo đảm an toàn cho việc truyền tải dữ liệu thông tin liên lạc và hình ảnh ở khoảng cách xa, thời gian phát và nhận nhanh chóng, phải nhỏ hơn nữa, không thể bị dò tìm và khi cần thiết có thể phá hủy được.

Các máy tính có kích thước bằng lòng bàn tay chứa các phương tiện phiên dịch nhanh sẽ hỗ trợ rất nhiều các hoạt động của SOF. Ngoài ra, nhu cầu hiện tại đối với các sản phẩm công nghệ chống thiết bị nổ tự tạo (IED) cũng được nghiên cứu….

Tương tự như vậy, máy bay vận tải C- 130 Hercules và một số loại vũ khí khác tiếp tục đóng vai trò quan trọng ở Afghanistan, Iraq và các khu vực có xung đột.



Binh lích trong biệt đội nhảy dù thuộc USSOCOM.


Xu hướng phát triển của SOF

Sự nhìn nhận vai trò, nhiệm vụ của SOF phải dựa vào chất lượng hơn là chạy theo số lượng. Thêm vào đó, Bộ Quốc phòng và Lục quân Mỹ phải xem xét lại việc thành lập thêm các đơn vị SOF trong lực lượng dự bị của Lục quân.

Phân tích về Lực lượng Đặc nhiệm số 11 là đơn vị có ban tham mưu trình độ đào tạo cao nhất, có nhiều kinh nghiệm hoạt động hiệp đồng và đảm bảo nhất trong số các lãnh đạo thuộc SOF, bao gồm cả các lực lượng SOF đang hoạt động.

Tương tự như thế, nhiều nhân viên trong đội đặc nhiệm số 11 cũng đã làm việc cho CIA, Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIA), Bộ ngoại giao và các cơ quan Chính phủ có liên quan đến vấn đề an ninh cũng như các cơ quan trong Quốc hội Mỹ.

Các thành viên của Lực lượng Đặc nhiệm số 11 thông thạo ngoại ngữ hơn bất cứ thành viên của cụm đặc nhiệm nào khác, lực lượng dự bị hay lực lượng cảnh vệ quốc gia. Lực lượng Đặc nhiệm số 11 có trụ sở gần Washington D.C.

Hiện nay, các nhiệm vụ huấn luyện, cố vấn và hỗ trợ tác chiến của SOF của Mỹ và đồng minh đang được tiến hành ở hơn 100 nước, trong đó có Afghanistan, Iraq và một số quốc gia ở châu Phi và Colombia.


[BDV news]


>> Đài Loan hoàn thành nâng cấp máy bay Chinh-Kuo




Tập đoàn phát triển công nghiệp hàng không (AIDC) Đài Loan sẽ chuyển giao phiên bản nâng cấp của chiến đấu cơ nội địa Kinh Quốc cho Không quân Đài Loan cuối tháng 6.

Theo phương tiện truyền thông Đài Loan, Tập đoàn phát triển công nghiệp hàng không Đài Loan (AIDC) đã làm việc với không quân để nâng cấp khả năng cường kích của chiến đấu cơ F-CK-1 Kinh Quốc (Chinh-Kuo). Đài Loan sẽ nâng cấp 70 chiếc F-CK-1 với tổng chi phi lên tới 590 triệu USD.

Phát ngôn viên của AIDC cho biết buổi lễ giới thiệu được lên kế hoạch tổ chức vào hôm 30/6/2011 ở Đài Trung. Ông cũng nói thêm, trong buổi hôm đó sẽ có một chiếc máy bay được ra mắt, nhưng ông không tiết lộ giá cả cũng như tổng số máy bay được nâng cấp.



Chiến đấu cơ đa năng F-CK-1 Ching-Kuo.


F-CK-1 Ching-Kuo là kết quả của chương trình phát triển chiến đấu cơ mới nhằm thay thế cho phi đội máy bay F-104 và F-5 lỗi thời trong Không quân Đài Loan. Chiến đấu cơ đa chức năng Chinh-Kuo có sử dụng một loạt các bộ phận quan trọng do các nhà sản xuất Mỹ cung cấp (động cơ, radar, thiết bị điện tử).

F-CK-1 có khả năng mang tên lửa không đối không, không đối hạm, không đối đất, bom có điều khiển hoặc. Máy bay lắp hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy cho phép đạt tốc độ tối đa 1.275km/h, tầm bay hơn 1.000km, trần bay 16.800m.


[BDV news]


>> Mỹ 'câu giờ' ở Trung Á để kiềm chế Trung Quốc




Tuy buộc phải tuyên bố bắt đầu rút quân ra khỏi Afganistan từ tháng 7.2011, thực tế Mỹ và NATO còn nhiều dự định để duy trì ảnh hưởng tại Trung Á.

Sau khi Liên Xô tan vỡ, Mỹ đã nhanh chóng nhảy vào Trung Á. Tuy buộc phải tuyên bố bắt đầu rút quân ra khỏi Afganistan từ tháng 7.2011, thực tế Mỹ và NATO còn nhiều dự định để duy trì ảnh hưởng tại khu vực này, kiềm chế các đối thủ chính trên thế giới và khu vực.

Bài viết này phân tích một số nét của chính sách đó:

Ông Jimes Appaturie, đại diện đặc biệt của Tổng thư ký NATO về các nước Nam Kavkaz và Trung Á, ngày 22/6/2011 đến thăm Dushanbe, thủ đô Tajikistan, trong 2 ngày.

Chuyển thăm của ông trùng về thời gian với vòng tham khảo ý kiến thứ ba về dự thảo hiệp định mới về hợp tác trong các vấn đề biên giới giữa Tajikistan và Nga đang diễn ra ở thủ đô nước này.

Rất ít khi có sự trùng lặp các cuộc hội đàm và thăm viếng về các vấn đề quân sự. Tuy nhiên, bộ Ngoại giao Tajikistan quả quyết với “Báo Độc lập” (Nga) rằng chuyến thăm của Jimes Appaturie là theo kế hoạch và “tình cờ trùng với việc bắt đầu vòng tham khảo ý kiến Nga– Tajikistan lần thứ ba về biên giới”.

Theo nguồn tin của “Báo Độc lập”, “Moscow và Dushanbe đã chuẩn bị ký hiệp định quy định khuôn khổ hợp tác song phương về các vấn đề biên giới, và không loại trừ là trong những ngày tới hiệp định sẽ được ký kết”.

Các cố vấn Nga, vẫn như trước đây, sẽ giúp phụ đạo và huấn luyện đội ngũ sĩ quan cấp thấp tuyển từ các quân nhân Tajikistan. Nguồn tin này cho “Báo Độc lập” biết “vấn đề đưa lính biên phòng Nga canh giữ biên giới Tajikistan – Afghanistan không được bàn đến, vì hiện Tajikistan vẫn đảm nhiệm được việc này”.

Đồng thời nguồn tin này không loại trừ “vấn đề biên giới sẽ được bàn đến trong cuộc gặp của đại diện NATO với ban lãnh đạo nước cộng hoà”. Điều này liên quan đến tình hình quân sự – chính trị ở Afghanistan, trong đó có các tỉnh phía Bắc có biên giới với Tajikistan vẫn rất căng thẳng.

Đây là chuyến thăm đầu tiên của ông Jimes Appaturie đến Tajikistan trên cương vị đại diện đặc biệt của Tổng thư ký NATO về các nước Nam Kavkaz và Trung Á từ khi ông giữ chức này tháng 12 năm ngoái.

Trước đây, vào tháng 5/2011, ông đã đến thăm Kyrgyzstan và Kazakhstan và nhận được sự đảm bảo của các nước này ủng hộ các lực lượng của liên minh Bắc Đại Tây dương (NATO) ở Afganistan.



Theo các chuyên gia Nga, Mỹ bản chất của việc "rút quân khỏi Afghanistan" là đưa quân tiến sâu vào khu vực Trung Á, phía bắc Afghanistan.


Đổi lại, quan chức Mỹ đã hứa với Astana hỗ trợ tiến hành cải cách quân đội, còn đối với Bishkek giúp củng cố đường biên giới và tiềm năng của các đơn vị biên phòng của nước này, cũng như hỗ trợ sửa chữa lớn các kho tên lửa và pháo binh của bộ Quốc phòng Kyrgyzstan.

Tajikistan mong muốn nhận được những ưu ái không kém hơn của NATO. Trước đây liên minh đã giúp Tajikistan bố trí trang bị lại cho đường biên giới với Afghanistan, củng cố các đồn biên phòng, xây dựng cầu dài 1km qua sông Pyanj, cũng như huấn luyện quân nhân ở đây phá các bãi mìn, ngăn cản vận chuyển trái phép chất ma tuý. Tất cả những việc này không phải vì những động cơ vị tha – mà bởi vì NATO chuyển hàng phi quân sự qua lãnh thổ Tajikistan sang Afghanistan. Còn từ năm 2001 Không quân Pháp đã đóng quân (5 máy bay Mirage) ở sân bay Dushanbe.

Các chuyên gia cho rằng, mong đợi hợp tác với NATO của Tajikistan không được như mong muốn – chính quyền ở Dushanbe muốn được nhiều hơn. Đó là: Khối Bắc Đại Tây dương triển khai ở đây căn cứ quân sự giống như căn cứ của họ ở nước Kyrgyzstan láng giềng, điều này có thể giúp ngân sách của chính quyền Tajikistan. Nhất là sân bay quân sự Aini đang "vô chủ" có thể dành cho các đơn vị của NATO trong khuôn khổ các chiến dịch ở Afghanistan.
Tổng thống Mỹ Barak Obama, tuy đã hứa rút quân Mỹ ra khỏi Afghanistan trước năm 2014 xem ra lại càng sa lầy ở đây.

Theo tin đài “Tiếng nói Hoa Kỳ”, đến 22/6/2011 ông Obama sẽ công bố việc rút quân Mỹ và trình bày kế hoạch chuyển giao lãnh thổ nước này cho giới quân sự Afghanistan trước năm 2014.

Trong khi đó, ông Aleksandr Knhyazev, cộng tác viên cao cấp của Viện Đông phương học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, tin rằng Mỹ và NATO sẽ không thực hiện kế hoạch rút quân ra khỏi Afganistan, mà là chuyển quân đến các tỉnh phía Bắc của nước này và tiến vào các nước Trung Á.

Ông Knhyazev nói với “Báo Độc lập”: “Theo tôi được biết, Kabul và Washington đang đàm phán về việc thiết lập các căn cứ quân sự thường xuyên của Mỹ trên lãnh thổ Afghanistan. Theo ông, Mỹ (và phần nào đó NATO) chỉ định rút khỏi miền Nam, nhưng giữ lại một số căn cứ quan trọng: Shindand trên hướng sang Iran, Kabul nhằm duy trì ảnh hưởng đối với chính quyền, Kandahar do có tầm quan trọng chiến lược.

Còn các lực lượng trên bộ chủ yếu sẽ được chuyển đến phía Bắc Afghanistan và các nước Trung Á, trước hết– đến Tajikistan và Kyrgyzstan.

Chuyên gia này nhận định, người ta tiến hành mọi việc để thực hiện kế hoạch này: không chỉ là xây dựng căn cứ rất lớn có cơ sở hạ tầng rất mạnh ở phía Bắc Afghanistan, mà cả chuẩn bị “cơ sở chính trị” đối với dư luận xã hội tại chỗ.

“Có thể nói về tổng thể, người Mỹ đang tăng cường sự hiện diện trong toàn khu vực. Có nhiều dấu hiệu, kể cả các dấu hiệu về sinh hoạt, chứng tỏ người Mỹ đến đây lâu dài.



Mỹ muốn duy trì sự đứng chân ở khu vực Trung Á để kiềm chế Nga, Iran và đặc biệt là Trung Quốc.


Ngay ở Tajikistan cũng không hiếm các trường hợp các đơn vị Mỹ đầy đủ trang bị vượt qua đưòng biên giới.

Aleksandr Knhyazev nói với “Báo Độc lập”: “Ở thành phố Batken của Kyrgyzstan đã sẵn sàng mọi thứ để triển khai căn cứ quân sự mới của Mỹ. Tôi đã tận mắt trông thấy mọi thứ và có thể xác nhận: Hoa Kỳ đang củng cố thế đứng chân ở Trung Á”.

Như vậy, có thể dự đoán rằng Washington sẽ nỗ lực triển khai các công trình, căn cứ quân sự mới ở các nước trong khu vực. Sau khi chiếm lĩnh các vị trí then chốt ở Trung Á, Mỹ sẽ thực thi nhiệm vụ nữa họ sẽ có thể cùng một lúc kiềm chế một cách có hiệu quả ba quốc gia lớn: Trung Quốc, Nga và Iran.

Mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở đây xem ra trước hết là Trung Quốc. Điểm tựa thích hợp hơn cả là vùng Murgavski của Tajikistan có biên giới với Trung Quốc.

Aleksandr Knhyazev cho rằng “đây là địa điểm tốt nhất để đặt căn cứ trinh sát điện tử để phủ sóng một vùng lãnh thổ khá lớn”.

[BDV news]


>> Tướng Trung Quốc dọa cho Việt Nam 'một bài học'




"Trung Quốc từng dạy Việt Nam một bài học và có thể cho Việt Nam bài học lớn hơn".





Nhà báo Nga Sergey Aphonin: Nếu ai hy vọng vào sự yếu mềm của Việt Nam thì họ nhầm


Tướng Trung Quốc phát biểu ngạo mạn

Trên đây là phát biểu ngạo mạn của Thiếu tướng Bành Quang Khiêm Phó Tổng Thư ký Ủy ban Chính sách An ninh Quốc gia, Hội Nghiên cứu Khoa học Chính sách Trung Quốc xuất hiện trên trang mạng hãng Thông tấn Bình luận Trung Quốc .

Trả lời phỏng vấn của phóng viên hãng Thông tấn Bình luận Trung Quốc, Tướng Bành Quang Khiêm nói tranh chấp biển Đông tồn tại từ lâu và tình hình (biển Đông) đột nhiên căng thẳng là do Việt Nam và Philippines gần đây “liên tục khiêu khích”.

Viên tướng này nói: “Trung Quốc từng dạy Việt Nam một bài học, nếu Việt Nam không chân thành sẽ còn nhận bài học lớn hơn”.

Ông Bành còn dùng những ngôn từ kích động rằng “nếu Việt Nam tiếp tục diễu võ dương oai, múa trên lưỡi dao, sớm muộn có ngày Việt Nam sẽ ngã trên lưỡi dao”.

Trước đó, báo Văn Hối, vốn được coi là tiếng nói của Bắc Kinh ở Hong Kong ngày 18/6 cũng đăng bài xã luận chỉ rõ Trung Quốc phải làm tốt công tác chuẩn bị về mặt quân sự để nếu các nước liên quan khăng khăng làm theo ý mình và có hành động khiêu khích thái quá trên biển Đông thì họ sẽ bị giáng trả mạnh mẽ.

Bài xã luận của tờ Văn Hối, cộng với phát biểu vừa qua của một quan chức cao cấp phụ trách vấn đề an ninh Trung Quốc thể hiện thái độ không nhất quán của một số quan chức nước này xung quanh vấn đề biển Đông.

Trước đó, về mặt chính thức, Trung Quốc luôn cao giọng nhấn mạnh tới “hòa bình” và chỉ có một bộ phận cư dân mạng sử dụng ngôn từ mang tính chất quyết liệt như “khai chiến” trên các trang web quân sự.

Trong cuộc Đối thoại Shangri-la lần thứ 10 tại Singapore từ 3 đến 5/6, chính Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt có bài phát biểu nhấn mạnh cam kết của Trung Quốc về việc phát triển hòa bình.

Trong khi ấy, trước và sau bài phát biểu của ông Lương Quang Liệt tại Đối thoại Shangri-la, các tàu của Trung Quốc liên tục có những hành vi gây hấn, cắt cáp các tàu thăm dò Bình Minh 02 và Viking II của tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, trong lúc các tàu này đang khảo sát hoặc tiến hành thăm dò địa chất tại vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Sự việc tàu Trung Quốc liên tục có hành vi gây hấn tại vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng gây quan ngại trong giới học giả quốc tế.

Giáo sư Carl Thayer, hiện đang công tác tại Khoa Nhân văn và Xã hội học trường ÐH New South Wales của Australia, cho rằng: “Hành động cắt dây cáp của Trung Quốc trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam vi phạm luật biển quốc tế và làm cho vùng biển này không còn an toàn như trước. Tàu Việt Nam đang làm việc trong vùng biển đặc quyền kinh tế mà Công ước về luật biển quốc tế quy định cho họ. Hành động này rõ ràng chấm dứt những gì lạc quan nhất mà Trung Quốc và ASEAN và đang thương thảo về biển Đông”.

Còn trong cuộc hội thảo về an ninh biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ hôm 21/6 vừa qua, giáo sư Peter Dutton của Đại học Hải quân Mỹ cho rằng hiện có hai cơ chế là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC).

Ông nhấn mạnh: “UNCLOS nói rõ rằng tuyên bố về quyền tài phán của một quốc gia đối với tài nguyên phải dựa trên yếu tố địa lý của đường bờ biển. Việc Trung Quốc tuyên bố quyền tài phán trong đường chữ U, hay đường 9 khúc, mà không đề cập dù là gián tiếp đến các đặc điểm địa lý từ bờ biển hay đường cơ sở là một vi phạm căn bản luật quốc tế”.

Cũng tại hội thảo này, Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain nêu đích danh Trung Quốc là nguyên nhân gây ra căng thẳng ở biển Đông đồng thời khẳng định những tuyên bố chủ quyền của nước này là “không có cơ sở nào theo luật quốc tế”.

Tại cuộc hội thảo quốc tế “Triển vọng hợp tác, những vấn đề hội tụ và động lực ở biển Đông” do Trung tâm Habibie của Indonesia phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu chiến lược châu Á (CASS) của Ấn Độ tổ chức tại Jakarta mới đây, tiến sĩ Ian Storey, thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore), cho rằng những vụ việc và đang xảy ra cho thấy tình hình ở biển Đông đang diễn tiến đáng quan ngại. Theo nhà nghiên cứu về an ninh hàng hải khu vực Iskander Rehman, cách hành xử của Trung Quốc “ dẫn tới sự căng thẳng không chỉ với tàu Việt Nam mà cả các tàu của Mỹ, Nhật Bản và Philippines”.

Như thế, một cách khách quan nhất, chính Trung Quốc mới là bên khiến cho tình hình biển Đông trở nên căng thẳng và phát biểu trên của ông Bành Quang Khiêm càng làm sai lệch bản chất của sự việc và cho thấy phía Trung Quốc luôn sẵn sàng hăm dọa dùng vũ lực với các nước láng giềng trong khu vực.

Ngược lại, trước sau như một, Việt Nam luôn khẳng định quyết tâm và lập trường của là thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật Biển cũng như Tuyên bố về các ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) nhằm xây dựng khu vực biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị và ổn định.

Tại Hội nghị lần thứ 21 các quốc gia thành viên Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 diễn ra từ ngày 13-17/6, tại New York, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ, Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc Lê Lương Minh khẳng định việc gần đây Trung Quốc liên tục phá hoại hoạt động khảo sát bình thường do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, là những hành vi có chủ ý, được tính toán kỹ, nhằm mục đích biến các vùng biển hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam thành khu vực tranh chấp, xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, vi phạm các quy định và nguyên tắc cơ bản của Công ước.

Trưởng đoàn Việt Nam cũng bác bỏ đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc ở biển Đông, khẳng định đường yêu sách này hoàn toàn không có bất cứ cơ sở pháp lý quốc tế nào, đặc biệt là theo Công ước Luật Biển.

Chia sẻ quan điểm của Việt Nam, nhiều nước ASEAN phát biểu nhấn mạnh cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Công ước Luật Biển khi tiến hành các hoạt động trên biển; đề cao sự cần thiết của việc duy trì hòa bình, ổn định và an ninh ở khu vực biển Đông, thực hiện đầy đủ DOC và tiến tới sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).

Nhà báo Nga: Nếu ai hy vọng vào sự yếu mềm của Việt Nam thì họ nhầm

Việt Nam hiện vẫn tỏ ra bình tĩnh và kiềm chế trước các sự kiện vừa qua tại biển Đông. Tuy nhiên, sức chịu đựng nào cũng có giới hạn của nó. Lịch sử nhiều lần chứng minh Việt Nam luôn biết cách đứng vững. Nếu ai đó hy vọng vào sự yếu mềm của Việt Nam thì họ nhầm, nhà báo nổi tiếng của Nga Sergey Aphonin khẳng định.

Nhà báo nổi tiếng của Nga, Sergey Aphonin trong cuộc trao đổi với phóng viên thường trú tại Moscow ngày 23/6 cho biết ông hy vọng các bên tham gia tranh chấp chủ quyền ở biển Đông sẽ ký được một Thỏa thuận giải quyết vấn đề một cách hòa bình.

Theo nhà báo Aphonin, nếu nhìn trên bản đồ thế giới thì quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa rõ ràng có liên hệ với Việt Nam. Chủ quyền của Việt Nam đối với những hòn đảo này được chứng mình từ lâu bằng nhiều bằng chứng và tư liệu khác nhau. Những hòn đảo này tự nhiên được ghi vào thành phần của hai tỉnh tương ứng của Việt Nam.

Trên thế giới, đối với nhiều thế hệ, Việt Nam từng là ngọn đuốc đấu tranh chống xâm lược, vì nền độc lập, tự do của đất nước, với sự ủng hộ của những người bạn chân chính và dư luận quốc tế. Không lẽ có ai đó đang muốn dập tắt ngọn đuốc ấy?

Từng là phóng viên thường trú của hãng thông tấn TASS và báo Sự thật Đoàn viên ở miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ, sau đó nhiều lần đến thăm Việt Nam trong thời bình, ông Aphonin tỏ ra khâm phục nhân dân Việt Nam - một quốc gia đang có một vị trí xứng đáng trên diễn đàn khu vực và quốc tế - trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tại Liên Hiệp Quốc và những tổ chức quốc tế khác.

Cuối cùng, nhà báo Nga khẳng định: “Việc sử dụng sức mạnh để giải quyết vấn đề lãnh thổ là hành động vô nghĩa! Cần giải quyết vấn đề một cách văn minh. Và điều quan trọng nhất là các bên cần tránh một cuộc xung đột quân sự. Điều này chỉ có lợi cho hoà bình và ổn định ở khu vực Đông Nam Á và toàn thế giới”.

Nước Anh cũng lo lắng về biển Đông

Theo thông tin từ Hạ viện Anh, đến ngày 24/6, có 9 nghị sĩ ký tên vào ủng hộ bản kiến nghị lên Hạ viện về tình hình căng thẳng ở biển Đông.

Chín nghị sĩ đó là: Peter Bottomley, Martin Caton, Mark Durkan, Mike Hancock, Mark Hendrick, George Howarth, John Leech, Tony Lloyd và Jim Shannon.

Trước đó, tại phiên họp sáng 16/6 của Hạ viện Anh, Hạ nghị sỹ George Howarth, Chủ tịch Nhóm nghị sỹ Anh - Việt và Hạ nghị sỹ Mark Hendrick, Chủ tịch nhóm Nghị sỹ Anh - Trung, cùng đứng tên đệ trình bản kiến nghị lên Hạ viện.

Nội dung kiến nghị nêu rõ: “Thành viên Hạ viện quan ngại về tình hình tranh chấp leo thang tại biển Đông. Chúng tôi nhận thấy có nhiều tuyên bố khác nhau về lãnh thổ ở khu vực này, đồng thời hoan nghênh tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc rằng họ sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp”.

Hai hạ nghị sĩ cũng hoan nghênh lời kêu gọi của các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) giải quyết tranh chấp thông qua những giải pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ, Công ước LHQ về luật biển 1982 (UNCLOS) và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, tránh làm tình hình trong khu vực phức tạp thêm.

Hai hạ nghị sĩ kêu gọi có các hướng tiếp cận song phương và đa phương để giải quyết những mâu thuẫn ở biển Đông một cách hòa bình và khôi phục sự ổn định trong khu vực.[BDV news]


Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

>> Căng thẳng ở Trường Sa không thể là cớ dẫn tới chiến tranh




Ngày 23-6, Tướng Gary L. North, tư lệnh lực lượng không quân Thái Bình Dương của Mỹ hiện đang ở thăm Philippines, nói với báo giới rằng căng thẳng chính trị xung quanh vấn đề tranh chấp quần đảo Trường Sa không thể là cái cớ dẫn tới chiến tranh.





Tướng Gary L. North, tư lệnh lực lượng không quân Thái Bình Dương


Ông nhắc lại quan hệ hai nước dựa trên hiệp định phòng thủ chung (Mutual Defense Treaty) và nhấn mạnh rằng Mỹ luôn ủng hộ Philippines.

Về sự gia tăng căng thẳng quanh khu vực quần đảo Trường Sa tướng Gary L. North nói: "cái chính là ở chỗ các quốc gia nhận thức tham vọng của mình" Ông cho rằng "không cứ có sức mạnh quân sự là có lẽ phải"

"Quan hệ 60 năm hợp tác phòng thủ chung giữa Mỹ và Philippines sẽ bảo đảm cho họ có được sự bình yên phải có", tướng North tuyên bố trong buổi tiệc tối cùng ngày do đại sứ Mỹ Harry Thomas tại Philippines tổ chức tại nhà riêng để chào đón ông cùng với tổng tham mưu trưởng lực lượng không quân Philippines Eduardo Oban.

Chính quyền Philippines nhiều lần lên tiếng tố cáo Trung Quốc gây hấn tại Trường Sa.

Malaysia, Taiwan và Brunei cũng đã có những tuyên bố về chủ quyền một phần ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Về hiệp định Phòng thủ chung, North cho biết "cả hai quốc gia luôn tôn trọng cam kết và sẵn sàng đáp trả mọi khiêu khích, song tình hình căng thẳng cần phải được giải quyết hòa bình và thông qua ngoại giao dựa trên tuyên bố về ứng xử biển Đông mà các bên đã ký kết."

Ông cho biết Chính phủ Mỹ sẽ không chỉ theo dõi sát diễn biến căng thẳng giữa các nước đòi chủ quyền ở Trường Sa mà còn theo dõi diễn biến liên quan tới các hoạt động dân sự, thương mại, phát triển công nghiệp, tội phạm xuyên quốc gia như cướp biển, buôn người và đánh bắt cá bất hợp pháp ở khu vực Thái Bình Dương.

[BDV news]


>> Trung Quốc với Mỹ: Sẵn sàng nói chuyện, trừ vấn đề biển Đông




Trung Quốc muốn hội đàm với Mỹ về các vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, các vấn đề kinh tế, nhân quyền... nhưng trừ vấn đề biển Đông.




Trung Quốc chối bỏ trách nhiệm là nhân tố gây bất ổn trên biển Đông.


Chối bỏ trách nhiệm

Tờ Nhân Dân Nhật báo Trung Quốc đã đăng tải bài phát biểu của Thứ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Trương Chí Quân trước một số ý kiến của các phóng viên trong và ngoài nước về cuộc hội đàm sắp tới giữa Trung-Mỹ về các vấn đề của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Theo đó, Trung Quốc tiếp tục khẳng định lập trường của mình, nghĩa là, Trung Quốc không phải là tác nhân gây ra các tranh chấp hiện nay.

“Dù hiện nay, xuất hiện một số xu hướng lộn xộn trong khu vực, nhưng không phải do chúng tôi gây ra, quan điểm của chúng tôi về vấn đề này trước sau vẫn không thay đổi. Chúng tôi hy vọng các nước khác cần có thái độ kiềm chế, hành động có trách nhiệm, và xây dựng tính hợp tác theo các ban hành của chúng tôi. Nếu chúng ta có thể cùng nhau làm như vậy, các vấn đề sẽ được giải quyết một cách dễ dàng hơn. Chúng tôi không muốn các tranh chấp như vậy ảnh hưởng đến sự ổn định của khu vực, cũng như quan hệ giữa các nước liên quan” Thứ trưởng Quân đã cho biết như vậy.

Thứ trưởng Quân cho rằng, các nước láng giềng trong khu vực như Việt Nam, Phillippine mới chính là những nước phải chịu trách nhiệm cho những căng thẳng hiện nay trên biển Đông. Ông Quân cho biết thêm

Tuy kêu gọi các nước có thái độ kiềm chế nhưng Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc lại có phát ngôn có tính răn đe khi ông này nói: "Tôi tin rằng một số nước trong khu vực hiện nay đang chơi với lửa, tôi hy vọng rằng Mỹ sẽ không bị đốt cháy bởi những ngọn lửa này".

Thế nào là có trách nhiệm?

Trong suốt thời gian trả lời phỏng vấn của các phóng viên, thứ trưởng Trương Chí Quân nhắc đi nhắc lại: “Trung Quốc không phải là tác nhân gây căng thẳng trên biển Đông, các nước cần hành động có trách nhiệm”.

Không rõ ông thứ trưởng quên hay cố tình quên Trung Quốc mới chính là những người đang hành động thiếu trách nhiệm, thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế, thiếu tôn trọng tuyên bố ứng xử trên biển Đông DOC mà chính phủ nước này đã đặt bút ký với ASEAN vào năm 2002.

Phải chăng hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế theo công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển của Việt Nam, phá hoại các hoạt động hợp pháp của Việt Nam là một hành động có trách nhiệm của Trung Quốc?

Trung Quốc vẫn úp mở với dư luận thế giới về đường “lưỡi bò” chiếm 80% diện tích biển Đông. Các nước trong khu vực nhiều lần yêu cầu Bắc Kinh làm rõ đòi hỏi chủ quyền của mình với đường “lưỡi bò” này. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn im hơi lặng tiếng. Đây cũng là thái độ có trách nhiệm với cộng đồng các nước trong khu vực và thế giới?

Các nước trong khu vực và dư luận thế giới nên hiểu như thế nào về các tuyên bố của Bắc Kinh?

Gạt Mỹ ra khỏi các vấn đề trên biển Đông

Sắp tới, trong cuộc hội đàm bắt đầu từ ngày 25/6 tại Honolulu, thuộc quần đảo Hawai, thứ trưởng Quân cùng trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Kurt Campbell sẽ dẫn đầu phái đoàn 2 bên tham gia vào chương trình nghị sự về tình hình trong khu vực và các vấn đề liên quan.

Trong bài phát biểu của mình, ông Trương Chí Quân nhấn mạnh: “Trung Quốc và Mỹ cần xử lý đúng đắn các vấn đề liên quan đến Đài Loan, Tây Tạng, các vấn đề kinh tế, thương mại, nhân quyền cũng như các vấn đề liên quan trong khu vực, trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lợi ích của nhau”.

Đồng thời, ông Trương Chí Quân cho biết: “Các vấn đề về biển Đông không nằm trong chương trình nghị sự giữa đôi bên, tuy nhiên, phía Mỹ cho biết sẽ nêu vấn đề này ra trong chương trình. Chúng tôi tiếp tục khẳng định quan điểm của mình, chúng tôi không chịu trách nhiệm cho các căng thẳng hiện nay trên biển Đông”.

Việc sẵn sàng nói chuyện với Mỹ nhiều vấn đề nhưng trừ vấn đề biển Đông càng tỏ rõ thái độ Trung Quốc không muốn Washington can dự vào một khu vực mà Bắc Kinh đang muốn áp đặt quan điểm và chính sách chủ quyền phi lý của mình.

Như vậy, Bắc Kinh đã chủ động và cố gắng không đề cập đến các căng thẳng trên biển Đông trong hội đàm với Mỹ, qua đó, loại bỏ vai trò và sự can thiệp của nước này hòng chấm dứt nỗ lực đa phương hóa các tranh chấp trên biển Đông mà các nước ASEAN đang theo đuổi.

Nếu các đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh là có cơ sở và phù hợp với luật pháp quốc tế, việc đa phương hóa các sẽ giúp cho các đòi hỏi của Trung Quốc nhanh chóng đạt được sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, Bắc Kinh liên tục phản đối đa phương hóa, điều này càng làm cho thế giới hiểu rõ những đòi hỏi chủ quyền của họ là vô căn cứ đối với luật pháp quốc tế.

[BDV news]


>> Su-30MK2, 'ông hoàng' của Không quân Việt Nam




Theo hãng tin RIA Novosti, Nga đã bắt đầu thực hiện hợp đồng cung cấp cho Việt Nam lô hàng máy bay tiêm kích Su-30MK2.




Máy bay tiêm kích Su-30MK2 là loại máy bay 2 chỗ ngồi, có thể tiếp dầu trên không.


Theo đó, 4 chiếc chiến đấu cơ Su-30MK2 đầu tiên đã được chuyển giao cho Không quân Việt Nam, nằm trong hợp đồng ký năm 2009.

Xin giới thiệu với độc giả một số thông tin về chiến đấu cơ Su-30MK2.

Su-30MK2 có thể tiêu diệt các mục tiêu trên không bằng tên lửa điều khiển tầm trung và tầm ngắn, tiêu diệt các mục tiêu mặt đất và mặt nước bằng tất cả các loại vũ khí có độ chính xác cao.

Su-30MK2 có thể tác chiến độc lập hoặc theo biên đội trong nhiều kiểu thời tiết, có thể tác chiến trong đêm tối. Chiến đấu cơ này cũng có thể được dùng để huấn luyện các kỹ thuật bay và thủ đoạn sử dụng vũ khí tiêu diệt đường không cho phi công.


Theo đánh giá của các chuyên gia Nga, biến thể Su-30MK2 dành cho Việt Nam có nhiều cải tiến để tác chiến hỗn hợp.

Với tính năng linh hoạt có thể bổ nhào, quay tròn và dễ dàng thay đổi góc bay, Su-30MK2 có thể làm nhiệm vụ tiêm kích đánh chặn và giành ưu thế trên không.

Khi thực hiện nhiệm vụ cường kích, máy bay có thể tấn công chính xác các mục tiêu trên mặt đất, tiêu diệt hệ thống phòng không - radar của đối phương. Loại máy bay tiêm kích này cũng là "quả đấm" lợi hại trong nhiệm vụ tác chiến không - hải, có khả năng diệt gọn các mục tiêu trên biển.

Su-30MK2 có kết cấu khung càng chắc chắn bảo đảm độ tin cậy, có khả năng cất cánh với trọng lượng cất cánh tối đa lên đến 38 tấn.



So sánh khả năng của Su-30MK2 với một số máy bay chiến đấu Mỹ về radar, động cơ, khả năng mang vũ khí.

Hệ thống điện tử hiện đại

Ở chế độ không đối không, radar của Su-30MK2 làm việc bảo đảm sục sạo các mục tiêu trên không, làm cơ sở cho các quyết định tấn công các mục tiêu bằng tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tầm xa với các hệ thống điều khiển khác nhau; sục sạo, bắt và bám các mục tiêu quan sát được bằng mắt thường trong hoạt động tác chiến tầm gần.

Ở chế độ không đối đất, radar của Su-30MK2 cho phép phát hiện mục tiêu trong nhiều điều kiện thời tiết, xác định tọa độ các mục tiêu mặt nước và mặt đất, cung cấp tọa độ cho việc điều khiển tên lửa Kh-31А, Kh-35E, Kh-59МК tấn công.



Buồng lái Su-30MK2.

Hệ thống ngắm bắn quang – điện tử của máy bay gồm thiết bị định vị quang học và hệ thống chỉ thị mục tiêu gắn trên mũ phi công. Thiết bị định vị quang học là khối kết hợp giữa thiết bị định vị quan sát ảnh hồng ngoại – theo dõi và thiết bị đo xa – chỉ thị mục tiêu bằng laser, được sử dụng để phát hiện và theo dõi các mục tiêu trên không ở bán cầu phía trước và phía sau mục tiêu theo bức xạ nhiệt, đo cự ly từ máy bay đến các mục tiêu mặt đất và trên không bằng tia laser.

Ngoài ra, nó còn được dùng để chiếu laser vào các mục tiêu mặt đất, dẫn đường cho các tên lửa không đối đất có đầu tự dẫn laser chủ động tấn công.

Vũ khí đa dạng

Vũ khí của Su-30MK2 gồm pháo tự động 30mm loại GSh-301 (150 viên), bom hoặc tên lửa được bố trí trên 12 điểm treo dưới cánh và thân.

Vũ khí tên lửa “không đối không” gồm các tên lửa có điều khiển tầm trung R-27 (R-27T1 và R-27ET1 được trang bị đầu tự dẫn nhiệt, R-27R1 và R-27ER1 được trang bị đầu tự dẫn radar bán chủ động), tên lửa R-27P1, R-27EP1, tên lửa tầm ngắn R-73E với đầu tự dẫn hồng ngoại, tên lửa tầm trung RVV-AE với đầu tự dẫn radar chủ động.

Để tiêu diệt các mục tiêu mặt đất (mặt nước), Su-30MK2 sử dụng các loại vũ khí có điều khiển và không điều khiển.

Vũ khí có điều khiển “không đối đất” bao gồm tên lửa Kh-59ME, Kh-35E và Kh-59MK, tên lửa siêu tốc tầm trung Kh-31P với đầu tự dẫn radar thụ động, tên lửa tầm ngắn Kh-29T (E) với đầu tự dẫn nhiệt hoặc Kh-29L với đầu tự dẫn laser, bom điều khiển KAB-500KP (KAB-500-OD).

Vũ khí không điều khiển bao gồm bom loại 500kg, 250kg và 100kg, bom cháy và tên rocket S-8, S-13, S-25-OFM.


Danh mục các loại vũ khí của Su-30MK2

Thông số cơ bản của Su-30MK2

Động cơ: 2xAL-31F
Dài: 21,9m; Cao: 6,4m; Sải cánh: 14,7m
Trọng lượng cát cánh tối đa 34.500 kg
Tải trọng vũ khí: 8.000kg
Dự trữ nhiên liệu: 9.720kg
Tốc độ tối đa: Mach 2
Trần bay thực tế: 17.300m


[BDV news]


Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

>> Không quân Việt Nam nhận tiếp 4 Su-30МК2




Nga đã bàn giao cho Việt Nam lô đầu tiên gồm 4 tiêm kích Su-30МК2 trưởng đoàn Rosoboronoexport tại triển lãm Le Bourget Sergei Kornev cho biết.




Su-30MK2 Flanker-G


Theo Trung tâm phân tích mua bán vũ khí thế giới TsAMTO, đây là lô máy bay đầu tiên được chuyển giao theo hợp đồng mua 8 Su-30МК2 ký đầu năm 2009 trị giá gần 400 triệu USD. Hợp đồng này không bao gồm vũ khí hàng không.

Đầu tháng 2.2010, Nga và Việt Nam đã ký hợp đồng thứ hai mua bán 12 Su-30МК2 và vũ khí hàng không, trị giá gần 1 tỷ USD. Nga sẽ bàn giao số máy bay theo hợp đồng này cho Việt Nam vào năm 2011-2012. Cũng theo hợp đồng này, Việt Nam sẽ nhận được vũ khí hàng không và phụ tùng cho cả lô máy bay này lẫn 8 Su-30МК2 đặt mua trước đó.

Việt Nam bắt đầu ráo riết mua vũ khí trang bị không quân của Nga từ giữa thập niên 1990 sau thời gian dài suy giảm hợp tác kỹ thuật quân sự song phương. Năm 1995, Việt Nam mua của Nga lô đầu tiên gồm 6 Su-27 (5 Su-27SK, 1 Su-27UBK) trị giá 150 triệu USD. Đầu năm 1997, Hà Nội mua lô thứ hai gồm 6 Su-27 (5 Su-27SK, 1 Su-27UBK).

Trong số các thương vụ thực hiện trước đó, có hợp đồng nâng cấp 2 tiêm kích MiG-21bis.

Năm 1996-1998, hãng KnAAPO và công ty Sukhoi đã nâng cấp 32 máy bay tiêm kích-bom một chỗ ngồi Su-22М4 và 2 máy bay huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi Su-22UM3. Hiện nay, 53 máy bay tiêm kích-bom Su-22М4/Su-22UM3 đang là chủ lực của lực lượng máy bay tiến công của Không quân Việt Nam.

Tháng 12.2003, Rosoboronoexport đã ký hợp đồng bán cho Việt Nam 4 Su-30МК, giao hàng năm 2004. Đây là mẫu cơ sở Su-30МК được cải tiến thích ứng các yêu cầu của Không quân Việt Nam. Tính cả giá Su-30МК kiểu cơ sở, vũ khí hàng không, phụ tùng và những cải tiến cần thiết theo yêu cầu của Việt Nam, hợp đồng trị giá gần 120 triệu USD.

Nga đang xúc tiến máy bay huấn luyện chiến đấu Yak-130 vào thị trường Việt Nam. Xét đến việc Việt Nam mua thêm Su-30МК, công ty Sukhoi đang đàm phán xây dựng tại Việt Nam một trung tâm bảo dưỡng kỹ thuật cho các máy bay Su.



[Vietnamdefence news]


>> 'Pháo đài Brest', bản hùng ca của Hồng quân Liên Xô




Bộ phim Pháo đài Brest giúp người xem hiểu được phần nào về những ngày đầu cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
3h sáng ngày 22/6/1941, Phát xít Đức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô theo kế hoạch Barbarossa. Hầu hết các tập đoàn quân của Liên Xô đều bị bất ngờ trước đợt tấn công vũ bão của quân Đức với nhiều ưu thế về quân số, trang thiết bị cũng như việc không có kế hoạch phòng ngự nên phải chịu nhiều thiệt hại nằng nề.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn những chiến sĩ Hồng Quân Liên Xô càng chứng tỏ được sự kiên cường của họ bằng những trận chiến quyết tử thủ chứ không chịu đầu hàng quân xâm lược. Những chiến sĩ ở pháo đài Brest là một trong những tấm gương như thế.

Cuộc chiến của những chiến sĩ Hồng Quân Liên Xô chống lại Phát Xít Đức được thể hiện một cách xuất sắc qua bộ phim “Pháo đài Brest” của đạo diễn Nga, Alexander Kott.

Hoàn cảnh lịch sử

Với vị trí địa lý nằm ở cửa ngõ Đế quốc Nga và Ba Lan, pháo đài Brest (nay thuộc Belarus) và thành phố cùng tên nằm trên đường tiến quân của Cụm Tập đoàn quân Trung Tâm của Đức. Vì vậy, pháo đài Brest bị sư đoàn bộ binh của Đức tấn công với quân số khoảng 17.000 binh lính ngay từ những giờ đầu tiên của cuộc chiến.

Trước đó, lực lượng đồn trú ở pháo đài Brest của Hồng quân chỉ có khoảng từ 3.500 binh lính của các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 6 và 42, đội Biên phòng Cận vệ 17. Ngoài ra, trong pháo đài Brest còn có 300 gia đình của các quân nhân và các học viên của các trường quân sự thuộc hai Trung đoàn bộ binh 84 và 125.




Cổng vào Pháo đài Brest.
Dưới cuộc tấn công bất ngờ lúc 3h15’ sáng ngày 22/6 của pháo binh và không quân Đức theo sau đó là cuộc tấn công của bộ binh, lực lượng đồn trú của Hồng Quân ở pháo đài Brest chịu những thiệt hại nặng nề về cở sở vật chất và bị chia cắt thành những khu vực phòng thủ biệt lập.

Dù đã chịu những đòn choáng váng sau đợt tấn công ồ ạt và bất ngờ của một đối thủ hoàn toàn áp đảo về trang bị và quân số, và bị vây chặt và hoàn toàn bị cắt đứt khỏi bất cứ nguồn tiếp tế nào từ nên ngoài, lực lượng Hồng quân tại pháo đài Brest vẫn chiến đấu kiên cường và liên tục tung những đòn phản công vào đối thủ.

Kế hoạch ban đầu của Đức là làm chủ pháo đài Brest trong vòng 12 tiếng tuy bị kéo dài hơn 1 tháng. Ngày 30/6, quân Đức mới làm chủ được khu vực thành nội và đến cuối tháng 7 mới hoàn toàn làm chủ được pháo đài sau khi tiêu diệt các ổ đề kháng cuối cùng của Hồng quân.


Thiếu tá Piotr Mikhailovich Gavrilov, một trong các sỹ quan Liên Xô chỉ huy phòng thủ pháo đài Brest, trực tiếp chỉ huy khu phòng thủ Đồn Đông. Ông bị quân Đức bắt sau ngày 23/7/1941 sau khi bị thương nặng.
Trận Brest cùng với trận Moskva, trận Leningrad và trận Stalingrad được người dân Liên Xô xem là biểu tượng của sức kháng cự kiên cường trước sự tấn công của Đức quốc xã trong thế chiến thứ 2.

Ngày 8/5/1965, pháo đài Brest được phong danh hiệu Pháo đài Anh hùng theo sắc lệnh của Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô.

Với chiến tích của mình, pháo đài Brest và câu chuyện về những người anh hùng của Hồng quân đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật trong đó có bộ phim “Pháo đài Brest”.

Bộ phim “Pháo đài Brest”

Bộ phim “Pháo đài Brest” (tên gốc tiếng Nga là Brestskaya krepost) của đạo diễn Alexander Kott ra mắt ngày 4/11/2010 vào dịp kỷ niệm 65 năm Ngày chiến thắng (9/5/1945-9/5/2010).

Dự án phim nhận được tài trợ khoảng 7 triệu USD từ 2 nhà nước Nga và Belarus.

Theo nhà biên kịch Konstantin Vorobiov của “Pháo đài Brest”, bộ phim được thúc đẩy bằng sự thành công của bộ phim tài liệu cùng tên ra mắt năm 2006.

Brestskaya krepost được quay tại pháo đài Brest nhằm đảm bảo tính chân thực của bộ phim. Quá trình chuẩn bị cho bộ phim mất khá nhiều thời gian chủ yếu do quá trình viết kịch bản với những tranh cãi xung quanh tính chính xác so với lịch sử.

Bộ phim bắt đầu khởi quay từ tháng 6/2009 và đóng máy vào tháng 12/2009.



Poster bộ phim "Pháo đài Brest"
Phần lớn bộ phim được các nhà quay phim và diễn viên người Nga tham gia sản xuất. Điều này để làm tăng sự chân thực của bộ phim. Cư dân thành phố Brest được kêu gọi tham gia các cảnh quần chúng.

Brestskaya krepost kể về cuộc chiến ở pháo đài Brest qua lời kể của Sasha Akimov (Aleksei Kopashov thủ vai), một học viên quân nhạc 15 tuổi. Bắt đầu bằng những thước phim về cuộc sống thường nhật của quân đồn trú và gia đình họ trong pháo đài Brest cũng như cuộc hẹn câu cá lúc 3h sáng ngày 22/6/1941 của Sasha và Anhia.

Trong phim, lúc quân Đức tấn công, đã có người nghe tiếng bom rơi, pháo nổ vẫn tưởng nghĩ rằng "lại là diễn tập". Thậm chí, khi nhận ra bị tấn công rõ ràng, có sĩ quan còn kêu gọi "không để cuốn vào khiêu khích" hoặc người trông kho quân sự kiên quyết không phát vũ khí cho chiến sĩ Hồng quân vì.... "chưa có lệnh". Những chi tiết chân thực này đã khắc họa thành công sự bất ngờ của lực lượng Hồng quân đồn trú trong pháo đài Brest trước cuộc tấn công của quân Đức và cũng là bài học "Không để Tổ quốc bị bất ngờ" cho các lực lượng vũ trang.



Sau 1 đêm thức giấc, Sasha thấy mình bị ném vào 1 cuộc chiến tranh.
Sau đó, câu chuyện xoay quanh cuộc chiến đấu ở 3 cụm đề kháng chính của Hồng quân trong pháo đài Brest được chỉ huy bởi Trung đoàn trưởng Pyotr Mikhailovich Gavrilov (Aleksandr Korshunov), Chính ủy Efim Moiseevich Fomin (Pavel Derevyanko) và Chỉ huy tiền đồn 9, Andrey Mitrofanovich Kizhevatov (Andrey Merzlikin).

Bằng những hình ảnh như người thương binh liên tục quay máy phát điện bằng tay để các bác sĩ thực hiện mổ cho các thương binh hay viên sỹ quan không uống nước trong vài ngày nhưng vẫn để dành nước cho các thương, bộ phim khắc họa thành công những gian khổ, thiếu thốn mà các chiến sĩ hồng quân phải chịu đựng khi bị bao vây trong pháo đài Brest.

Qua đó, Brestskaya krepost thể hiện rõ nét sự kiên cường của những người lính Hồng quân cũng như sự mưu trí, dũng cảm của họ, không chỉ phòng thủ họ còn tổ chức những đợt phản công gây thiệt hại cho quân địch hay hình ảnh viên sĩ quan ở lại cầm chân quân địch để đồng đội rút lui.

Trả lời phỏng vấn hãng thông tấn Voice of Russia, đạo diễn Nga Aleksandr Kott khẳng định chủ đề của bộ phim là tái hiện tất cả những nỗi khủng khiếp mà nhân dân Liên Xô đã phải trải qua trong những ngày đầu chiến tranh: "Chính tại Brest, nơi tất cả mọi thứ thể hiện rõ nét nhất - từ hỗn loạn, kinh hoàng đến lấy lại sức mạnh và sự cứng cỏi. Phim rất kiệm lời, đây là bộ phim về trạng thái. Chúng tôi giới thiệu nhân vật trong những thời điểm đau thương bi tráng nhất trong đời họ, khi người ta cần phải lựa chọn. Ở đó có những người nhát gan trở thành mạnh mẽ, và ngược lại, có những kẻ phản bội. Những người bảo vệ pháo đài bị tản mát, họ chiến đấu mà không biết là ở bên cạnh mình, cách đó 100 m có ai đó còn sống và cũng đang chống cự".

Tương phản với hình ảnh Hồng quân, “Pháo đài Brest” cũng cho thấy sự tàn bạo của quân Phát xít khi sử dụng tù binh là người già và trẻ em để ép đối phương đầu hàng.

Bộ phim cũng thể hiện rõ những cố gắng của quân Đức trong việc đánh chiếm pháo đài bằng cách sử dụng những khẩu pháo hạng nặng, hơi ngạt, súng phun lửa, xe bọc thép và cả những trận không kích.

Bộ phim kết thúc bằng cảnh chú bé học viên Sashka Akimov năm nào nay đã già dẫn người cháu đến thăm tượng đài tưởng niệm trận chiến bảo vệ pháo đài Brest. Tại đây 2 người đã được "trở về" với pháo đài Brest những ngày trước chiến tranh. Kết thúc của phim như một lời khẳng định, những anh hùng của pháo đài Brest sẽ sống mãi trong tâm trí mọi người.

“Pháo đài Brest” nhận được lời khen của tổng thống Nga Dmitry Medvedev: “Đây là một bộ phim rất hay về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”.

Dưới đây là một số hình ảnh trích trong bộ phim:



Cuộc phản công của Hồng quân khu vực Đồn Đông dưới sự chỉ huy của thiếu tá Pyotr Mikhailovich Gavrilov.



Chiến sĩ Hồng quân khắc lên tường dòng chữ "Thà chết không hàng" ngày 26/6/1941.

Trung úy Andrey Mitrofanovich Kizhevatov ở lại cầm chân địch cho đồng đội rút lui.

Binh lính Đức sử dụng người già, trẻ em và thương binh để ép các chiến sĩ Hồng quân đầu hàng.

Quả bom 1800kg bị không quân Đức ném xuống làm rung chuyển pháo đài Brest.

Quân Đức xử bắn Chính ủy Efim Moiseevich Fomin vì ông là người... "vừa Do Thái, vừa Cộng sản".


[BDV news]


>> Học giả Trung Quốc yếu thế khi thảo luận về biển Đông





Các học giả thống nhất ở một điểm: Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho căng thẳng gia tăng.
Hai ngày thảo luận về an ninh hàng hải ở Biển Đông, các học giả quốc tế đặt nhiều câu hỏi về khả năng của những xung đột nóng và cuộc chạy đua vũ trang trên Biển Đông, khi các bên có xu hướng cứng rắn hơn.

Ai đang làm nổi sóng Biển Đông?

Các học giả Trung Quốc cho rằng chính Mỹ, và Việt Nam, Philippines gây căng thẳng ở Biển Đông. GS Tô Hạo nói rằng, phải có lí do gì mới xảy ra nhiều sự cố như vậy trên Biển Đông trong thời gian ngắn. Trung Quốc - Việt Nam từng hợp tác tốt trong quá khứ. Hẳn Việt Nam phải có hành động nào đó, và Trung Quốc đáp trả. (Việc đổ lỗi này không có gì mới, nếu nhìn vào những phát biểu chính thức của Trung Quốc sau các sự cố vừa qua - NV).

Một vị học giả khác cũng đến từ Trung Quốc thì cho rằng, chính Mỹ hậu thuẫn cho ASEAN nói riêng và Việt Nam nói chung trong việc nói cứng với nước này về Biển Đông. Có viên chức của Đại sứ quán Trung Quốc còn đặt thẳng câu hỏi cho học giả Việt Nam: "Nếu Mỹ không đứng đằng sau lưng, thì các anh có phản ứng mạnh như thế không?" (Trong khi đó, TS Trần Trường Thủy nói rõ: việc Việt Nam công khai những hành động của Trung Quốc là muốn Trung Quốc nghĩ lại, thay đổi cách hành xử).

Góc nhìn này không nhận được sự chia sẻ của các học giả quốc tế. Câu hỏi "có ai ở đây ủng hộ quan điểm của Trung Quốc" được đáp lại bằng tràng cười học giả, không hơn. Các học giả thống nhất ở một điểm: Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho căng thẳng gia tăng.Về việc các nước ASEAN kêu gọi Mỹ can dự ở biển Đông, TS Stein Tonnesson cho rằng "chuyện này hoàn toàn do lỗi của Trung Quốc, đặc biệt là do những hành vi của lực lượng hải giám nước này trong hai năm vừa rồi".



TNS John McCain tại buổi tiếp tân hội thảo. Ảnh: TT.


TNS John McCain đã "nói thẳng" sự thật "không mấy vui vẻ": Một trong những lực lượng chính làm cho các căng thẳng trên biển Đông trầm trọng hơn, và làm cho giải pháp hòa bình của các tranh chấp này khó khăn hơn để đạt được, đó là hành vi hung hăng của Trung Quốc và việc đòi chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ mà họ tìm cách theo đuổi.

Còn GS Carl Thayer thì cho rằng Trung Quốc đang "trả đũa" Việt Nam vì vai trò của nước này trong việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông năm 2010 trên tư cách chủ tịch ASEAN. Hành động của Trung Quốc ở Bãi Cỏ Rong nhằm mục đích thăm dò xem liệu Hiệp định an ninh chung Mỹ - Philippines có giá trị hay không đối với cụm đảo Kalayaan.

Về việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm cuối tháng 5 và đầu tháng 6 ngay trước và sau thềm hội nghị an ninh lớn ở Shangri-La, các học giả cho rằng chủ đích của Trung Quốc là để đo phản ứng của các nước, đặc biệt là Mỹ, đối với các động thái gây hấn của mình. Trên góc độ nào đó, Trung Quốc đã cảm thấy mình có khả năng thách thức trật tự mà Mỹ đang kiểm soát.

Đâu mới là bộ mặt thật của Trung Quốc?

Hiện nay, một mặt, giới lãnh đạo Bắc Kinh khi tiếp xúc với Mỹ (Tổng thống Obama vào tháng 1/2011 và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tại Shangri La) thể hiện quyết tâm kiềm chế, vì quan hệ chiến lược Mỹ - Trung. Mặt khác, Trung Quốc lại leo thang liên tục bằng các áp lực quân sự và phi quân sự lên Việt Nam và Philippines ở Biển Đông.

"Chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc. Ngay sau những tuyên bố hòa bình của bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc ở Shangri-La chỉ vài ngày, tàu Trung Quốc lại tiếp tục cắt cáp tàu Viking 2", ông Quý chỉ rõ.

Giới học giả tại hội thảo đặt câu hỏi: Đâu mới là bộ mặt thật của Trung Quốc (real China)?

Liệu Bắc Kinh có thực sự chân thành, hay chỉ sử dụng những lời ngọt ngào ở cấp lãnh đạo chính trị để lừa phỉnh Mỹ và ASEAN tin rằng sự leo thang dọa dẫm sẽ chấm dứt? Hay lãnh đạo nước này dùng quân sự để bắt các nước ASEAN yếu hơn nhượng bộ, và có lẽ, sau đó, sẽ là sự nhượng bộ từ Mỹ?

Vẫn không có câu trả lời rõ ràng cho những câu hỏi này, trong khi mối lo về các sự cố vẫn hiện hữu, khi tần suất các sự cố thời gian qua tăng đáng ngại.

Nếu Trung Quốc cứ tiếp tục những hành động lấn át, thì tình hình Ðông Nam Á sẽ rất bất ổn, vì "bất cứ một động thái nhỏ nào cũng có thể biến thành chuyện lớn", TS Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam nói.

Cần tạo áp lực ngoại giao tổng hợp, tránh đối đầu

Theo GS Carl Thayer, cả Philippines và Việt Nam nên có các bước đi để tăng cường khả năng thực thi chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước. Sự yếu kém của họ chỉ càng mời mọc Trung Quốc hành xử quyết đoán hơn.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là đối đầu bằng vũ lực với Trung Quốc. Bởi như lo ngại của không ít học giả, chủ nghĩa dân tộc lên cao ở Bắc Kinh và Hà Nội sẽ khiến leo thang mức độ tranh chấp, theo tính toán hoặc có thể, không chủ ý.

Hiện nay, Trung Quốc hăm dọa láng giềng, láng giềng hăm dọa lại. Thế nhưng, nếu Việt Nam cứng tới mức xảy ra xung đột nóng, Trung Quốc càng hưởng lợi nhiều, vị giáo sư người Úc này nói.

Theo ông, ASEAN và cộng đồng quốc tế phải đấu tranh về mặt ngoại giao với những hành xử quyết đoán mang tính hiếu chiến của Trung Quốc.

Cần tạo "áp lực ngoại giao tổng hợp" lên Trung Quốc trong hai hội nghị tới đây, ARF và Thượng đỉnh Đông Á để nước này tôn trọng cam kết của mình trong DOC.


Tàu hải giám Trung Quốc thường xuyên quấy nhiễu vùng biển thuộc chủ quyền các nước khác.


Trong khi bác bỏ khả năng chiến tranh, trao đổi tại hội thảo, GS Tô Hạo nhiều lần nhấn mạnh Việt Nam và Trung Quốc là anh em. Theo ông này, anh em thì cũng có khác biệt. Người anh lớn hơn, mạnh hơn, luôn muốn người em nghe lời mình còn người em lúc nào cũng bị áp lực ở dưới tầm che chở của anh, nên có tâm lí sợ anh là lẽ thường.

GS Carl Thayer lưu ý, Việt Nam cần hết sức cẩn trọng tính toán việc cứng rắn với Trung Quốc. Việt Nam phải học từ lịch sử của chính mình. Hơn ai hết, Việt Nam biết "quan hệ anh em" của hai nước vẫn xảy ra chiến tranh.

TS Trần Trường Thủy khẳng định, Việt Nam không muốn đứng ở phía đối đầu với Trung Quốc. Các học giả Việt Nam và ASEAN đều nhắc lại chủ trương theo đuổi giải pháp hòa bình trên Biển Đông, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.

Luật sư Nguyễn Duy Chiến của Học viện Ngoại giao Việt Nam lại lưu ý: "Để giải quyết mâu thuẫn cần phải dựa trên những mâu thuẫn thật chứ không thể tạo ra mâu thuẫn giả để gây căng thẳng. Một số nước cố tình ngụy tạo mâu thuẫn giả ở vùng biển của nước khác".

Về phía Trung Quốc, TS Stein Tonneson cũng nhắn Giáo sư Tô Hạo: "Trong vòng 2 năm qua, Trung Quốc đã có thái độ hiếu chiến hơn với các nước láng giềng. Tôi buộc lòng phải quy trách nhiệm cho Bắc Kinh, và hy vọng là khi về nước, ông sẽ khuyên chính quyền ông nên xét kỹ lại chính sách sai lầm của mình, và cải thiện".

ASEAN đoàn kết đưa ra COC

Ông Dino Patti Djalal, Đại sứ Indonesia - nước chủ tịch ASEAN đương nhiệm, cho rằng: "Bất cứ điều gì xảy ra đều ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực, đến toàn bộ các nước khác trong ASEAN". Cách giải quyết tốt nhất, theo ông, ASEAN phải tiếp tục xây dựng niềm tin.

Đó cũng là một trong ba nhân tố cấu thành của Tuyên bố chung của các bên về ứng xử trên biển Đông (DOC) và tiến đến xây dựng Bộ quy tắc về ứng xử của các bên trên biển Đông (COC).

Hiện nay, một DOC không có tính ràng buộc pháp lý đã không ngăn được căng thẳng gia tăng trên Biển Đông.

Tiến sĩ Peter Dutton cho rằng không bao giờ thiếu những ý tưởng để giải quyết vấn đề, mà chỉ thiếu ý chí chính trị. Ông nói: "Các bên đều phải có nhượng bộ về chính trị, nếu không sẽ dẫn đến việc nước mạnh hơn sẽ làm những gì có thể làm và nước nhỏ làm điều phải làm".

Theo ông Dino, COC hiện chỉ còn vướng một, hai điều và Indonesia sẽ cố thúc đẩy việc tiến tới ký kết COC. Việc ký COC sẽ giúp tình hình biển Đông diễn biến theo chiều hướng dễ nắm bắt và có thể kiểm soát được.

Một số người lạc quan, COC có thể ra đời vào dịp kỉ niệm 10 năm DOC. Thế nhưng, Gs Carl Thayer cho rằng, điều đó khó xảy ra trừ khi ASEAN duy trì được sự thống nhất, cố kết và cùng ở một điểm. Nhưng rõ ràng, có những thành viên ASEAN khá nhát, rụt rè.

"Chính các thành viên ASEAN cần xây dựng Hiệp định về các quy tắc ứng xử trên Biển Đông, và sau khi thông qua, có thể để mở cho các quốc gia không thành viên", GS Carl Thayer gợi ý.

Theo ông, các nước khác cần ủng hộ ASEAN trong nỗ lực đạt thỏa thuận về COC.

Đồng thời, theo TS Đặng Đình Quý, các bên cần thúc đẩy hợp tác về biển và quân sự dưới hình thức tuần tra chung, diễn tập chung với sự tham gia của Trung Quốc, ASEAN và các nước có liên quan; đồng thời các bên cần công khai, minh bạch, giảm mua sắm vũ khí và thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin.

Cơ chế "gác tranh chấp, cùng khai thác" không hiệu quả

Hầu hết các học giả đều nhận định rằng cơ chế “khai thác chung” đã không phát huy tác dụng, bởi các bên không thống nhất với nhau trong việc xác định đâu là khu vực tranh chấp, đâu là khu vực không có tranh chấp. Chuyên gia của VN và Philippines có cách tiếp cận khá giống nhau về việc nên xác định đâu là vùng biển, đảo tranh chấp và đâu là những vùng không có tranh chấp để có thể tiến hành khai thác chung. Theo ông Đặng Đình Quý, cách phân loại này sẽ “tạo môi trường an toàn cho các công ty dầu mỏ” cũng như là “hợp tác về hàng hải và quân sự để xây dựng niềm tin”.

Ông Henry S.Bensurto, tổng thư ký Ủy ban các vấn đề biển và đại dương thuộc Bộ Ngoại giao Philippines, cho biết nước này đang hoàn tất đề xuất về việc chia lô các khu biển để hình thành vùng biển hòa bình, hữu nghị. Theo phương án này, các vùng biển sẽ được chia ra làm các khu vực đang tranh chấp, khu vực chồng lấn có thể áp dụng “lưỡng chế độ” để cùng khai thác cũng như các khu vực không còn tranh chấp.

Mỹ ở đâu khi Trung Quốc tạo sự cố trên Biển Đông

Về phía Mỹ, bà Bonner Glaser, Giám đốc Ban Trung Quốc của CSIS cho hay, kế hoạch của Mỹ trong năm 2011 là thể hiện bức tranh hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc. Cả hai nước đều là thành viên của khu vực, có thể hợp tác với nhau. Đáng tiếc thay, các sự cố xảy ra liên tục. Có lẽ, Mỹ cần phải xem lại kế hoạch của mình.

Theo bà Bonner, hiện nay, nhiều nước muốn Mỹ phải đứng lên, một lần nữa cảnh báo Trung Quốc về những hành động hiếu chiến của mình, dù cũng có người nhấn mạnh, Mỹ - Trung cần hợp tác nhiều hơn.

GS Tô Hạo của Trung Quốc thì cho rằng, việc Mỹ tham gia một cách tích cực để giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông cũng được Trung Quốc chào đón. Tuy nhiên "những can thiệp của Mỹ có nhiều khi không tích cực ở ĐNA và đó là lý do vì sao Trung Quốc không chào đón những can thiệp này".


Để Biển Đông không nổi sóng đòi hỏi các nước phải hành xử thiện chí và tôn trọng lẫn nhau.


Thế nhưng, TS Marvin Ott từ ĐH John Hopkins lại lo: "Khi một Trung Quốc hung hãn đang phải đối diện với một quốc gia duy nhất có thể lên tiếng mạnh nhất để chống lại tham vọng của họ, mà Mỹ không khuyên được Trung Quốc, thì tôi nghĩ chúng ta có một vấn đề lớn, và tương lai thật u ám".Theo ông, Trung Quốc "từng xem như Biển Ðông là ao nhà của mình từ năm 1949," và giờ đây trách nhiệm lớn nhất của Mỹ là tìm cách để tránh chiến tranh, duy trì ổn định thế giới.

TS Trần Trường Thủy, Học viện Ngoại giao Việt Nam chỉ ra một thực tế, năm 2002, không phải ngẫu nhiên Trung Quốc tham gia Tuyên bố của các bên về các nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông, giúp khu vực có được gần thập kỉ tương đối ổn định. Thời điểm đó, Mỹ tuyên bố Đông Nam Á là mặt trận thứ 2 trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, khiến Trung Quốc xích lại gần, thân thiện hơn với Đông Nam Á.

Mới đây, tại ARF tháng 7/2010, sau khi 13 nước nêu vấn đề Biển Đông tại Hội nghị, và ủng hộ việc thực hiện DOC, sớm ra đời COC, và Mỹ tuyên bố lợi ích quốc gia ở Biển Đông, Trung Quốc áp dụng chính sách mềm hơn sau đó. Việc bắt ngư dân đòi tiền chuộc ít hơn, và Trung Quốc cũng ít dọa các tàu và công ty nước ngoài hợp tác với láng giềng. Trung Quốc cũng quay lại bàn đàm phán cùng ASEAN để bàn về DOC và hướng tới COC, dù những hành động có vẻ thiện chí này không diễn ra được bao lâu.

"Dù Mỹ không nói sẽ không tuyên bố ủng hộ cụ thể chủ quyền của ai, Mỹ cần lên tiếng rõ quan điểm của mình về việc Trung Quốc dựa vào đáy biển để đòi chủ quyền. Không nên để sự lập lờ, thiếu rõ ràng như hiện tại", ông Henry S. Bensurto, Tổng thư ký Ủy ban các vấn đề biển và đại dương thuộc Bộ Ngoại giao Philippines nói.

"Chính Mỹ được hưởng lợi lớn nhất nhờ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, đó là duy trì bởi quyền lực và sự lãnh đạo của Mỹ. Chúng ta từ bỏ vai trò đó là nguy hiểm cho thế giới và cho chính nước Mỹ", TNS John McCain nói.

[BDV news]


>> Báo Nga: Việt Nam đầu tư mạnh cho phòng không




Việt Nam sẽ đầu tư mạnh cho mua sắm và hiện đại hóa hệ thống phòng không tầm trung và tầm xa giai đoạn 2011-2014.
Hãng tin Armstrade (Nga) cho biết: Kế hoạch hiện đại hóa lực lượng phòng không Việt Nam đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng thông qua, cùng với hải quân, không quân sẽ là những lực lượng được ưu tiên hàng đầu cho kế hoạch tiến thẳng lên hiện đại hóa.

Theo đó, Việt Nam sẽ đầu tư mạnh cho việc mua sắm các hệ thống tên lửa phòng không tầm trung, các hệ thống phòng không tầm xa nâng cấp của hệ thống S-300, cùng với một vài hệ thống tên lửa phòng không thế hệ mới của Nga, đồng thời, nâng cấp các hệ thống tên lửa phòng không được chuyển giao từ thời Liên Xô.



Dàn tên lửa S-300 của Việt Nam được nhập khẩu từ Nga: Cự ly phát hiện là 300 km, diệt mục tiêu cự ly gần là 5 km, cự ly xa là 150 km, độ cao 27.000 m và thấp nhất là 10m.
Trung tâm phân tích mua bán vũ khí toàn cầu TSAMTO của Nga nhận định rằng, việc ký kết các hợp đồng mua sắm hệ thống tên lửa phòng không mới sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2011-2014.

TSAMTO cũng đưa ra bản nhận định về thị trường vũ khí của Nga giai đoạn 2011-2014. Trong đó tập trung nhấn mạnh đến thị trường tên lửa phòng không của Nga. Theo đó, giai đoạn 2011-2014, Nga sẽ bán ra toàn cầu khoảng 254 đơn vị tên lửa phòng không các loại, với giá trị khoảng 5,1 tỷ USD dù các đơn hàng cung cấp 16 hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Tor-M1 cho Libya và các hợp đồng xuất khẩu tên lửa cho Syria, Yemen bị gián đoạn bởi những bất ổn chính trị và lệnh cấm của Liên Hợp Quốc áp đặt lên các quốc gia này. Trong thời gian tới các hợp đồng này nhiều khả năng sẽ không thực hiện được. Bù lại Nga đã có thêm các thị trường mới như Brazil, Arab Saudi.

Cùng với đó là kế hoạch hiện đại hóa lực lượng phòng không của Venezuela, Algeria, Ấn Độ, Georgia. Đặc biệt là kế hoạch hiện đại hóa lực lương phòng không của Việt Nam.

Trong danh sách các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa xuất khẩu, S-300/S-400 của Nga cùng với Patriot PAC-3 và THAAD của Mỹ sẽ là hai đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường vũ khí phòng không thế giới.

TSAMTO cũng đánh khá cao những nỗ lực tham gia thị trường xuất khẩu của hệ thống tên lửa FT-2000 biến thể xuất khẩu của hệ thống HQ-9 do Trung Quốc sao chép từ S-300 của Nga. Giá cả chính là điểm mạnh của hệ thống tên lửa do Trung Quốc sản xuất.

Cùng với nỗ lực giới thiệu hệ thống tên lửa phòng không Aster-30 của châu Âu, hiện tại FT-2000 của Trung Quốc cùng với S-300 của Nga, Patriot PAC-3 của Mỹ, Aster-30 của châu Âu đang tham gia đấu thầu cho chương trình cung cấp hệ thống tên lửa phòng không tầm xa cho Thổ Nhĩ Kỳ.

Dù có sự sụt giảm về giá trị, song giai đoạn 2011-2014, Nga tiếp tục dẫn đầu thế giới trong việc xuất khẩu các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa. Vị trí thứ 2 thuộc về Mỹ, trong giai đoạn 2011-2014, Mỹ sẽ xuất khẩu khoảng 103 hệ thống tên lửa phòng không với giá trị 6,5 tỷ USD. Như vậy, Nga sẽ dẫn đầu thế giới về số lượng xuất khẩu trong khi đó Mỹ sẽ dẫn đầu về giá trị xuất khẩu.

[BDV news]


>> Nhật, Mỹ : Trung Quốc là mối đe dọa





Nhật Bản và Mỹ đã thống nhất “mục tiêu chiến lược chung” giữa hai quốc gia nhằm đối phó lại những động thái gia tăng quân sự của Trung Quốc.

Đây là tin tức mới được tiết lộ bởi Nhật báo Yomiuri xung quanh Hội nghị an ninh quốc phòng cấp cao Nhật Bản – Mỹ, được tổ chức tại Wasington hôm 21/6.Tham dự hội nghị có Ngoại trưởng Nhật Bản Matsumoto Takeaki, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Toshimi Kitazawa, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates.Dù không nêu đích danh nhưng cả Nhật và Mỹ đều ám chỉ “Trung Quốc là một mối đe dọa”, một nguồn tin từ chính phủ Nhật Bản cho biết.





Hai vị Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản và Mỹ: ông Toshimi Kitazawa và ông Robert Gates

Tại cuộc họp, các Bộ trưởng đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc về sự gia tăng hoạt động hải quân của Trung Quốc gần đây. Họ cũng nhất trí tăng cường an ninh và hợp tác quốc phòng với Australia, Ấn Độ và Hàn Quốc, cũng như Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).

Sau cuộc họp, 4 bộ trưởng đã đưa ra một tuyên bố chung bao gồm 24 mục tiêu chiến lược. Trong tuyên bố này chỉ rõ “những thách thức của môi trường an ninh không bền vững” tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, coi giải quyết căng thẳng ở khu vực Đông Nam Á là vấn đề trọng điểm.

Hai bên cũng kêu gọi Trung Quốc “tuân thủ các nguyên tắc ứng xử quốc tế”, các quốc gia nên “nâng cao tính minh bạch”trong các hoạt động quân sự.

Ngoại trưởng Nhật Bản Matsumoto Takeaki bày tỏ ý kiến muốn Nhật Bản và Mỹ chủ động hỗ trợ các nước Đông Nam Á.

Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tại một cuộc họp báo bên lề cũng khẳng định Mỹ luôn duy trì sự hiện diện, nỗ lực bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Á, ngay cả khi Trung Quốc nổi lên như một gã khổng lồ.

Một số nhà quan sát nói rằng Tokyo và Washington đã bắt đầu tìm cách xây dựng "một mạng lưới ngăn chặn Trung Quốc" tập trung vào mối quan hệ với các đồng minh trong khu vực.

[BDV news]


>> Trung Quốc 'giương lưỡi lê' trên mặt báo





Trong vài ngày gần đây, trên các tờ báo uy tín, được coi là “báo Đảng” của Trung Quốc liên tiếp có những bài viết cứng rắn, bày tỏ thái độ của quốc gia này về những căng thẳng trên biển Đông, bất chấp phản ứng kịch liệt từ dư luận quốc tế.
Mới đây nhất, ngày 21/6, Thời báo Hoàn Cầu đã có một bài xã luận có tên “Trung Quốc phải phản ứng lại những hành động khiêu khích của Việt Nam”. Thời báo Hoàn Cầu là phụ bản chính thống của Nhân dân nhật báo (People’s Daily) – tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Bài xã luận đã đưa ra những tuyên bố cứng rắn nhất từ trước đến giờ, bao hàm cả những lời lẽ mang tính đe dọa quân sự. “Trung Quốc sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình trên biển Hoa Nam (cách Trung Quốc gọi biển Đông)”, sẵn sàng “sử dụng lực lượng hải giám để đối phó, và nếu cần, sẽ dùng lực lượng hải quân tấn công lại”. Thậm chí, bài xã luận này còn không ngần ngại tuyên bố “Trung Quốc tự tin để tiêu diệt các tàu xâm lược Việt Nam”. Đây không phải là tờ báo duy nhất đưa ra lý lẽ kiểu này, cùng ngày China Daily cũng đổ lỗi “nguồn gốc của tranh chấp trên biển Hoa Nam hiện nay là do những hành động đơn phương của Việt Nam và Philipppines”.




Bà Lý Hồng Mai.
Tác giả bài viết này còn đề nghị Trung Quốc trước hết phải nói rõ cho quốc tế biết lập trường của mình về vấn đề biển Đông, thứ hai là phải bám lấy nguyên tắc “cùng phát triển những vùng đang tranh chấp”, và thứ ba là chính phủ phải lập ra một cơ quan cao cấp về các vấn đề biển để phối hợp hành động, đồng thời khẳng định đường ranh giới hình chữ U (đường 9 đoạn bất hợp pháp trên Biển Đông). Trước đó, ngày 20/6, trên tờ Nhân dân nhật báo cũng có một bình luận của nữ ký giả Lý Hồng Mai tiêu đề “Việt Nam nên tỉnh giấc mộng dữ”.



Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân.
Trong bài viết này, tác giả cho rằng Việt Nam nên “kiềm chế những tham vọng xa vời trên biển Hoa Nam, đừng hy vọng gắn bó với Mỹ. Lý do đơn giản là một khi Mỹ cảm thấy lợi ích riêng bị đe dọa sẽ sẵn sàng hy sinh lợi ích của các nước xung quanh vùng biển này”. Trung Quốc cũng đã ám chỉ khả năng dùng đến quân sự để giải quyết căng thẳng vài ngày trước đó.

Hôm 18/6,Văn Hối – tờ báo uy tín của Bắc Kinh - đã đăng bài xã luận có đoạn “Cho dù chủ trương giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng phương thức hòa bình, nhưng Trung Quốc cũng đã làm tốt các công tác chuẩn bị cần thiết về mặt quân sự, có đủ quyết tâm và thực lực để bảo đảm lợi ích cốt lõi của đất nước không bị xâm phạm".

Trong bài viết có cụm từ “quyết không ngồi đó để nhìn” mà nhất định sẽ có đòn “phản kích mạnh mẽ", cho thấy thái độ kiên quyết, cứng rắn, không ngại sử dụng vũ lực của Bắc Kinh. Không chỉ thông qua những bài báo, ngày 22/6, Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân một lần nữa yêu cầu Mỹ không can dự vào tranh chấp khu vực. “Tốt hơn hết Mỹ nên ngừng can thiệp vào tranh chấp ở Nam Hải (biển Đông), Washington nên để cho các nước liên quan tự giải quyết.

Bất kỳ sự tham gia nào của Washington cũng khiến tình hình thêm phức tạp”. Ngoài ra, vị thứ trưởng này tuyên bố Trung Quốc không hề gây hấn trên Biển Đông, họ rất quan tâm đến cái gọi là “hành động khiêu khích” của các bên ở vùng biển tranh chấp. Ông này cho rằng tốt hơn hết Mỹ nên đứng ngoài cuộc đối với những căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian gần đây. Cùng với tiết lộ thử nghiệm tàu sân bay vào 1/7 tới , những tuyên bố ngày càng gay gắt từ phía Trung Quốc được cho là sự đáp trả lại việc các học giả quốc tế “chỉnh huấn” quốc gia này tại Hội nghị an ninh hàng hải quốc tế.
Những gì Trung Quốc nói, những việc Trung Quốc làm đã trưng cho thế giới thấy bản chất cái mà nước này gọi là “kiềm chế”, “phấn đấu vì hòa bình”. Một loạt động thái mới của Trung Quốc chắc chắn sẽ khiến sự căng thẳng trong khu vực ngày càng trầm trọng.

[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang