Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

>> Con 'át' của Malaysia trên biển Đông


Trong những đội tàu tác chiến khá hiện đại của Malaysia, bên cạnh lớp tàu Lekiu ngang ngửa với tàu chiến các quốc gia Đông Nam Á, họ còn tàu ngầm Scorpene.

>> Tàu ngầm Kilo của Việt Nam mạnh nhất ở DNA ?

Đây là thứ vũ khí cực kì hiệu quả mà các quốc gia ASEAN chưa có (đã và đang đặt mua).

Scorpene là loại tàu ngầm hiện đại của Pháp, với khả năng “tàng hình” khá tốt cùng hệ thống trang thiết bị tiêu chuẩn. Hiện tại Scorpene cùng với Kilo của Nga và Type 214 của Đức là bộ ba tàu ngầm diesel-điện đắt hàng trên thế giới.

Trang bị vũ khí

Scorpene có 6 ống phóng lôi 21 inch, những ống phóng lôi này có thể bắn ngư lôi điều khiển và tên lửa chống hạm SM-39 Exocet có tầm bắn 50km, được hỗ trợ bởi hệ thống đo xa/tìm kiếm điện tử AR-900. Cơ số tàu ngầm mang theo sẽ là 18 quả ngư lôi hay tên lửa hoặc 30 quả mìn, tất cả cơ chế phân loại vũ khí và nạp ngư lôi đều tự động hóa hoàn toàn.

Nếu sử dụng ngư lôi tấn công thì loại ngư lôi hạng nặng Black Shark (Cá mập đen) sẽ được sử dụng, đây là loại ngư lôi điều khiển bằng dây được tích hợp với đầu dò thủy âm chủ động/ bị động Astra, hệ thống dẫn đường đa mục tiêu và thiết bị điều khiển kết hợp với một hệ thống “chống-đối phó”. Loại ngư lôi này có một động cơ điện là loại ắc-quy hỗn hợp ôxít bạc và nhôm.



Thiết kế tròn trơn láng của Scorpene




Một trong hai chiếc tàu ngầm Scorpene của Malaysia.


Hệ thống điều khiển và giám sát

Hệ thống điều khiển tác chiến SUBTICS có 6 màn hình đa chức năng và một bàn mô phỏng tác chiến trung tâm. Tất cả cả hoạt động của tàu đều được quyết định tại phòng điều khiển, và cũng như những chiếc sản phẩm của Pháp khác (Formidable là một ví dụ), khả năng tự động hóa được đẩy lên mức cao độ, với chế độ điều khiển tự động bánh lái và động cơ, hệ thống giám sát liên tục hệ thống đẩy và thiết bị, giám sát tập trung và liên tục các nguy cơ hiện hữu đối với tàu ngầm (như rò rỉ, hỏa hoạn hay sự xuất hiện các loại khí lạ), cũng như tình trạng của hệ thống máy móc có ảnh hưởng đến sự an toàn của tàu khi đang lặn.

Ở hệ thống giám sát của tàu ngầm Scorpene, thông tin dữ liệu sẽ được kết hợp từ hệ thống định vị toàn cầu GPS, bộ ghi nhật kí, máy đo độ sâu và hệ thống căn chỉnh hướng. Bản thân tàu ngầm sẽ hiển thị môi trường xung quanh lẫn nhiệt độ và độ ồn của con tàu phát ra, qua đó giúp kíp tàu giám sát trạng thái dễ bị phát hiện bởi các hệ thống dò tìm tàu ngầm hay không.




Các màn hình điều khiển trên Scorpene

Thiết kế bí mật cao

Thiết kế của Scorpene hướng đến khả năng trở thành một mẫu tàu ngầm cực kì yên tĩnh với khả năng phát hiện và tấn công mục tiêu tuyệt vời. Hình dáng thân tàu ngầm được chế tạo với mục tiêu là giảm tiếng ồn thủy động học đến mức tối đa. Các thiết bị được lắp đặt trên các mấu đàn hồi tốt, giúp con tàu chống sốc tốt hơn.

Khi lặn Scorpene sẽ tạo ra các tín hiệu thủy âm nhỏ nhất có thể, qua đó giảm tầm phát hiện của các hệ thống theo dõi của đối phương, khả năng này có được nhờ vào thiêt kế tròn thon dài, ít các phần phụ nhô ra ngoài và một chân vịt cải tiến.


Một chiếc Scorpene chuẩn bị hạ thủy


Hình vẽ mặt cắt các khoang tác chiến

Còn ở giữa các khoang, thiết bị được gắn trên các chốt đàn hồi bất cứ chỗ nào có thể, và hệ thống ồn nhất thì sẽ được gắn tới 2 mấu cao su để làm giảm tiếng ồn con tàu.

Việc làm giảm tiếng ồn tàu ngầm, biến con tàu trở thành “tàng hình” và khả năng chịu sốc, vốn là mối nguy hiểm lớn nhất khi các loại vũ khí chủ yếu diệt tàu ngầm bằng sóng xung kích, là ưu điểm lớn giúp Scorpene tác chiến trong tình trạng chiến tranh hay hòa hoãn, cũng như hỗ trợ các nhóm biệt kích người nhái tác chiến tại các vùng ven biển.

Thân thiện với thủy thủ

Việc sử dụng thép cường độ cao giúp làm giảm áp lực thân tàu, đồng thời cho phép mang nhiều dầu và đạn dược hơn. Ngoài ra không gian của kíp tàu 32 người cũng được ở rộng, tạo điều kiện làm việc thoải mái cho các thủy thủ tàu ngầm.

Trên tàu, các không gian nghỉ ngơi và làm việc đều được điều hỏa không khí bởi máy chuyên dụng, Scorpene còn có 6 giường ngủ dành thêm cho các hoạt động đặc biệt.


Mô phỏng không gian sinh hoạt của thủy thủ

Đề đề phòng trường hợp khẩn cấp, hệ thống bảo vệ sẽ kích hoạt, cung cấp nước uống, đồ ăn lẫn áp suất và không khí để đảm bảo toàn bộ thủy thủ tàu sẽ sống trong ít nhất 7 ngày, dĩ nhiên, hệ thống cứu hộ khi tàu ngầm chìm cũng được trang bị kèm theo.

[BDV news]

>> Sự nguy hiểm ẩn nấp trong các container


Các chuyên gia quân sự Mỹ cho rằng, quân đội Mỹ không đủ tự tin để đẩy lùi cuộc tấn công từ họ tên lửa chống tàu Club của Nga.

3M54 Club hay SS-N-27 theo cách gọi của NATO là một loại tên lửa chống tàu siêu âm được phát triển bởi Cục thiết kế Novator.

Sự ra đời của 3M54 Club đã làm thay đổi phương hướng tác chiến trên biển. Được mạnh danh là một chuẩn mực cho chiến lược tác chiến phi đối xứng.

3M54 Club là một họ tên lửa chống hạm đa năng, có thể triển khai hoạt động trên nhiều phương tiện khác nhau. 3M54 được chia làm 2 biến thể Club-S phóng từ tàu ngầm, Club-N phóng từ tàu nỗi và các phương tiện phóng khác.



http://nghiadx.blogspot.com
Sự đa năng trong bố trí tác chiến tạo nên sự nguy hiểm khó lường của Club.

Một trong những yếu tố quan trọng biến họ tên lửa chống hạm Club trở thành vũ khí tiêu biểu cho chiến lược tác chiến phi đối xứng là do tính linh hoạt rất cao trong bố trí tác chiến.

Họ tên lửa chống hạm Club có thể được bố trí trên các bệ phóng trên tàu chiến mặt nước, tàu ngầm, máy bay và quan trọng hơn cả là khả năng bố trí bên trong các container đựng hàng hóa thông thường.

Biến thể bố trí bên trong các container này có thể đặt bất cứ nơi đâu, trên xe tải, trên tàu hỏa, hoặc trên các tàu biển chở hàng hóa thông thường.

Việc phát hiện ra các container chứa Club là cực kỳ khó khăn, nếu sử dụng các biện pháp trinh sát bằng hình ảnh. Rất khó để nhận ra đâu là container chứa Club và đâu là container thông thường.

Ngay cả trong trường hợp sử dụng các khí tài trinh sát ảnh nhiệt, nếu container chứa Club ở trạng thái nằm yên không hoạt động, cũng rất khó để phát hiện ra.

http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống phòng thủ trên chiến hạm có chưa đầy 20 giây để đối phó với Club.

Đặc điểm kỹ thuật

Tên lửa được thiết kế với quỹ đạo bay đặc biệt kiểu “zic-zắc” nên rất khó đánh chặn, tên lửa có thể sử dụng 5 loại đầu đạn khác nhau tùy theo nhiệm vụ.

Club được dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động, trang bị đầu dò radar chủ động ARGS-54, radar này có thể khóa mục tiêu ở cự ly 20 km, phát hiện mục tiêu ở cự ly 60 km với góc tiếp cận 45 độ so với mục tiêu.

Radar ARGS-54 có khả năng quét góc phương vị từ +45 đến -45 độ, góc tà từ +10 đến -20 độ. Radar có đường kính 42cm, nặng 40kg, radar có khả năng hoạt động trong điều kiện biển động cấp 6, lượng mưa đạt 4mm/giây.

Sau khi rời ống phóng tên lửa bay lên độ cao khoảng 150m và sau đó giảm xuống khoảng 15-20 mét trong suốt hành trình.

Ở pha đầu tên lửa bay với vận tốc khoảng Mach-0,8, khi cách mục tiêu khoảng 30-40km, tên lửa leo lên độ lớn hơn và kích hoạt radar chủ động.

Sau khi khóa mục tiêu, tên lửa cắt đứt mọi liên lạc, hạ thấp độ cao xuống còn 3-5 mét trong điều kiện biển lặng, 5-10 trong điều kiện biển động, tăng tốc lao đến mục tiêu với tốc độ lên đến Mach-2,9 (khoảng 3.567 km/h).

Theo tính toán của các chuyên gia quân sự, mỗi khi tên lửa đã khóa mục tiêu, chỉ có chưa đầy 20 giây để đánh chặn tên lửa. Tuy nhiên, do bay với tốc độ cao nên lượng bức xạ hồng ngoại của tên lửa tương đối lớn.

Tên lửa có tầm bắn từ 220-300km tùy theo biến thể, chiều dài từ 6,2-8,2 mét tùy biến thể, đường kính 533mm, trọng lượng từ 1300-2300kg, đầu đạn nặng 200-400 kg bán xuyên giáp.


http://nghiadx.blogspot.com
Để phát triển những bia bay mô phỏng Club là cực kỳ tốn kém.

Biện pháp đối phó

Để đối phó lại một cuộc tấn công tiềm tàng từ họ tên lửa chống tàu Club, Hải quân Mỹ đã tốn không ít công sức và tiền của để phát triển các loại bia bay mô phỏng Club cho hải quân tập đánh chặn.

Hải quân Mỹ vừa nhận được 7 hệ thống bia bay GQM-163A Coyote SSST, được phát triển trên cở sở loại bia bay MA-31 một sản phẩn liên doanh giữa Boeing và Zvezda-Strela. Bia bay MA-31 là một mô phỏng của tên lửa hành trình chống tàu Kh-31A. Tuy nhiên, đơn giá cho mỗi bia bay GQM-163A Coyote SSST lên đến 3,9 triệu USD.

Bia bay GQM-163A Coyote SSST là một tên lửa nhiên liệu rắn, được trang bị radar dẫn đường và thiết bị đầu cuối tương tự như một lên lửa thật, nhưng không có đầu đạn.

Bia bay có tốc độ tối đa khoảng 2600km/giờ, tầm hoạt động khoảng 110km, GQM-163A Coyote SSST được sử dụng để mô phỏng các loại tên lửa chống hạm của Nga đang được xuất khẩu rộng rãi như, họ tên lửa chống hạm Club, P-800 Yakhont, BrahMos, P-270 Moskit, Kh-31A.

Hệ thống bia bay này được sử dụng để đánh giá khả năng phản ứng của hệ thống đánh chặn tên lửa trên các tàu chiến của Hải quân Mỹ. Tuy nhiên, do đơn giá khá đắt đỏ, Hải quân Mỹ chỉ đặt hàng 89 bia bay GQM-163A Coyote SSST trong vòng 10 năm tới.

Khoảng thời gian 10 năm , cũng quá đủ cho Nga có thể cho ra đời một hệ thống tên lửa chống hạm mới. Lúc đó, Hải quân Mỹ lại phải đau đầu để phát triển một loại bia bay mới.

Trong công cuộc đối phó với các cuộc tấn công tiềm tàng từ các tên lửa chống tàu siêu âm, Hải quân Mỹ đang rơi vào thế bị động.

[BDV news]

>> Cơ quan tình báo đầu não Trung Quốc (kỳ 1)



Bộ An ninh quốc gia (Ministry of State Security – MSS) là cơ quan tình báo "đầu sỏ" lớn nhất của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.


Cội nguồn của MSS

Tiền thân của Bộ an ninh quốc gia (MSS) là Văn phòng trung ương các vấn đề xã hội (Central Department of Social Affairs – CDSA) – “con mắt” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trước năm 1949.

CDSA cung cấp cho các nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc thông tin về tình hình thế giới, các sự kiện lớn và các vấn đề đang diễn ra ở nước ngoài.

Trong giai đoạn nội chiến Trung Quốc 1946-1949, CDSA đã chứng minh hiệu quả của mình góp phần vào thắng lợi của Đảng Cộng Sản trước Quốc Dân Đảng, dẫn tới sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Sau 1949, CDSA được tái tổ chức và một số nhân viên cốt cán của cơ quan này chuyển sang nắm giữ các vị trí mới trong Bộ Công an. Từ đó, CDSA không còn tồn tại mà được tái lập thành cơ quan nằm dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng Sản và mang cái tên mới là Cục điều tra Trung ương (Central Investigation Department - CID).

Cuộc Đại Cách mạng Văn hóa vô sản (1966-1976) nổ ra, CID bị phá hủy nặng nề khi hầu hết các lãnh đạo của cơ quan này bị điều về nông thôn để "giáo dục lại". Toàn bộ hoạt động và "tài sản" của CID chuyển cho Cục 2 – cơ quan tình báo Quân đội Trung Quốc quản lý.



Văn phòng của Bộ an ninh quốc gia (MSS) và Bộ công an ở Vũ Hán.


Sau cái chết của Lâm Bưu vào năm 1971, CID được tái lập. Khi Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng nắm quyền năm 1976, họ đã tìm cách mở rộng hoạt động của CID, tăng cường thu thập thông tin thông qua các "điệp viên" trong vỏ bọc nhân viên ngoại giao.

Tuy nhiên, năm 1977 Đặng Tiểu Bình nắm quyền lãnh đạo Trung Quốc thì ông đã phản đối việc sử dụng đại sứ quán làm nơi thu thập thông tin tình báo và ủng hộ việc gửi điệp viên ra nước ngoài dưới vỏ bọc phóng viên hoặc doanh nhân. Do đó, CID đã thu hồi các nhân viên của mình ở Đại sứ quán Trung Quốc.

Năm 1983, Cục điều tra trung ương (CID) sát nhập vào bộ phận phản gián thuộc Bộ công an cho ra đời Bộ an ninh quốc gia Trung Quốc (Ministry of State Security – MSS).

Người lãnh đạo đầu tiên của MSS là ông Lăng Vân (Ling Yun, sinh năm 1917) với nhiệm kỳ khá ngắn chỉ từ tháng 6/1983 tới tháng 9/1985.

Năm 1985, chức vụ đầy quyền lực của MSS chuyển sang cho ông Cổ Xuân Vượng (Jia Chunwang) lãnh đạo MSS lâu nhất từ năm 1985 tới 1998. Lãnh đạo hiện tại của MSS là ông Cảnh Huệ Xương (Geng Huichang).

Hệ thống tổ chức MSS

Bộ an ninh quốc gia Trung Quốc (MSS) được tổ chức thành nhiều cục, mỗi đơn vị được giao phó các nhiệm vụ khác nhau:

- Cục 1 (nội địa)

Cục này có nhiệm vụ tuyển mộ nhân viên làm việc cho MSS. Những người được tuyển chọn sẽ được đào tạo và đưa ra nước ngoài dưới vỏ bọc: sinh viên du học, doanh nhân, du lịch, định cư hoặc các mục đích khác.

Nếu các nhân viên gặp khó khăn với các thủ tục xuất cảnh thì cục sẽ xúc tiến giải quyết các vấn đề đó. Đối với những người đi "du lịch" thì họ sẽ trả tiền cho các thông tin tình báo thu thập được.

Cục 1 còn có trách nhiệm tiếp nhận những điệp viên Trung Quốc từ nước ngoài trở về theo thời gian nhất định để nghỉ ngơi du lịch, chữa bệnh hoặc các lý do khác.

Để đảm bao danh tính cho những người này thì họ sẽ được bố trí đi qua một quốc gia thứ ba. Trước đây, các điệp viên thường về Hong Kong dùng giấy phép về thăm nhà để tránh chỉ ra rằng họ đã nhập cảnh Trung Quốc.

MSS đã xây dựng nhiều nhà nghỉ đặc biệt nằm ở vùng ngoại ô Bắc Kinh dành cho các “vị khách về thăm quê hương”.

- Cục 2 (đối ngoại)

Cục này chịu trách nhiệm hoạt động thu thập thông tin tình báo ở nước ngoài. Đây cũng là đơn vị cung cấp bản phân tích báo cáo cho các cấp tình báo cao hơn dựa theo thông tin thu nhập được từ điệp viên.



Lãnh sự quán Trung Quốc tại thủ đô Washington (Mỹ).



Trong hoạt động, cục 2 gửi điệp viên được đào tạo ra nước ngoài dưới lớp vỏ bọc nhân viên công ty thương mại, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải biển.... Hoặc họ có thể sử dụng Đại sứ quán Trung Quốc để che chở các điệp viên dưới lốt nhà ngoại giao.

Bên cạnh việc gửi điệp viên ra nước ngoài, cục 2 còn làm công tác tuyển mộ người nước ngoài làm gián điệp cho tình báo Trung Quốc. Trong số đó, có những người làm việc với cục trong nhiều năm liên tục nhưng có một số chỉ được sử dụng khi cần thiết.

- Cục 3 (phụ trách Hong Kong, Macao và Đài Loan)

Cục 3 phụ trách hoạt động tình báo ở Hong Kong, Macao và Đài Loan, đồng thời tuyển mộ nhân viên có mối quan hệ ở các vùng lãnh thổ này.

Cục cũng sẽ tiếp nhận các điệp viên Trung Quốc hoạt động ở các vùng này khi họ trở về để báo cáo, nhận nhiệm vụ hoặc đi du lịch. Cục tiếp nhận thông tin từ các điệp viên ở từng khu vực sau đó phân tích và chuyển lên cho các cấp lãnh đạo cao hơn.

Một số điệp viên gửi tới 3 nơi này từ trước năm 1949 nhưng hầu hết những người trong lực lượng mới được tung vào. Trong khi một số ẩn nấp dưới danh nghĩa doanh nhân thì một số “nằm” trong các cơ quan Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ví dụ như, ở trong các phân xã của Tân Hoa Xã ở Hong Kong và Macao hoặc văn phòng của Đại Công báo và Wen Wei báo ở Hongkong.

Trong số các điệp viên được gửi tới đây thì chỉ có một số ít hoạt động lâu dài còn lại cứ vài năm thay một lần. Bộ an ninh quốc gia (MSS) đặc biệt tăng cường hoạt động tại Hong Kong kể từ khi nơi này trở về Trung Quốc năm 1997.

[BDV news]


>> Lực lượng Tác chiến điện tử của Hải quân Nga



Các hệ thống tác chiến điện tử của Nga được phát triển mạnh từ những năm 1980 và được coi là các tổ hợp đa chức năng và hiệu quả.


Các hệ thống tác chiến điện tử có thể nhanh chóng đánh giá tình trạng của sóng điện từ trên chiến trường, gây nhiễu sóng trinh sát của đối phương, cũng như các hệ thống kiểm soát vũ khí và binh lính.

Xuất phát từ vị trí và vài trò của tác chiến điện tử, Bộ Quốc phòng Nga đã xếp lực lượng này quan trọng ngang hàng với các ưu tiên chính trị quân sự hàng đầu.

Trong những năm gần đây, Nga không ngừng tăng cường sức mạnh cho lực lượng tác chiến điện tử, trong đó tích cực sử dụng lực lượng tác chiến điện tử của Hải quân để thu thập các tin túc tình báo, đồng thời nghiên cứu chế tạo, biên chế các chủng loại vũ khí, kỹ thuật mới cho lực lượng Hải quân nước này.



Bộ Quốc phòng Nga đã xếp Lực lượng Tác chiến điện tử của Hải quân Nga quan trọng ngang hàng với các ưu tiên chính trị quân sự hàng đầu.

Cụ thể, Hải quân Nga tích cực sử dụng các hệ thống vệ tinh để thu tập các thông tin tình báo tác chiến điện tử. Hải quân Nga hiện nay thu thập các thông tin tình báo điện tử chủ yếu thông qua hệ thống vệ tinh, máy bay và các tàu hoạt động trên biển. Trong đó, hệ thống vệ tinh tình báo của Nga rất phong phú và đa dạng.

Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Nga tiếp quản khoảng 300 vệ tinh để thu thập thông tin, 96% là vệ tinh dùng cho quân sự, các vệ tinh tinh này không chỉ có lượng lớn mà còn đầy đủ các tính năng và chất lượng nổi trội.

Các vệ tinh tình báo của Nga bao gồm có vệ tinh giám sát trên biển; vệ tinh thăm dò radar và vệ tinh trinh sát vô tuyến điện. Ngoài ra, Nga còn sở hữu công nghệ không gian thuộc dạng hiện đại nhất thế giới.

Nhờ những loại kỹ thuận hiện đại, Hải quân Nga có thể nhanh chóng triển khai hệ thống các vệ tinh tình báo điện tử trên biển để thu được thông tin tình báo điện tử quan trọng, nhằm đề ra những đối sách phù hợp trong những trường hợp có sự có xảy ra trên biển và có khả năng kiểm soát và phá huỷ các vệ tinh tình báo của địch.

Bên cạnh đó, Nga còn sử dụng hàng trăm chiếc máy bay trinh sát tình báo các loại và hàng chục chiếc tàu thuyền làm nhiệm vụ thu thập các thông tin tình báo trên biển, đến các vùng biển tương ứng, để thu thập các thông tin tình báo điện tử của các quốc gia có liên quan.

Trong phương diện thu thập thông tin tình báo điện tử, Hải quân Nga đang tiếp tục thu thập hoạt động tình báo đối với một số nước như Mỹ, Nhật,…




Máy bay vận tải AN-12 được cải tiến thành AN-12PP được bố trí bộ phận gây nhiễu đánh lừa có thể che phủ ít nhất 05 tầng sóng ngắn.


Thứ nhất, được cải tiến từ các máy bay vận tại cỡ lớn, dùng để chi viện gây nhiễu máy bay, như máy bay vận tải AN-12 được cải tiến thành AN-12PP; máy móc gây nhiễu được bố trí với công suất lớn và khá phức tạp, bộ phận gây nhiễu đánh lừa có thể che phủ ít nhất 5 tầng sóng ngắn, gây nhiễu radar và hệ thống thông tin liên lạc của địch.

Thứ hai, được cải tiến từ các máy bay chiến đấu, có nhiệm vụ đi theo đội hình và gây nhiễu đối phương, như máy bay Tu-16pp “badger – J ”, Tu-22E, các máy bay mang theo các trang thiết bị tác chiến điện tử như SPS-1, SPS2 và máy bay gây nhiễu kiểu mới SPS-44 có khả năng nhiễu sóng ra đa của đối phương ở giải tần từ 0~20Ghz.

Máy bay “con mắt – E” trang bị tác chiến điện tử chủ yếu là gây nhiễu hệ thống trinh sát điện tử Fasol, hiện Hải quân Nga có 60 chiếc như vậy.




Trực thăng Ka-27 có khả năng chặn tín hiệu và gây nhiễu trang thiết bị điện tử của đối phương.



Thứ ba, các máy bay trực thăng được cải tiến thành máy bay trực thăng tác chiến điện tử như Mi - 8J, có khả năng gây nhiễu ra đa và gây nhiễu hệ thống thông tin. Ngoài ra, Hải quân Nga còn khoảng 60 trực thăng Ka-27 chủ yếu trên các chiến hạm, có khả năng chặn tín hiệu và gây nhiễu trang thiết bị điện tử của đối phương.

Hiện nay các trang thiết bị được bố trí trên các máy bay tác chiến điện tử của Nga đang có được những ưu thế riêng và nhiều đặc tính nổi trội mà các quốc gia khác không thể so kịp như các trang thiết bị thăm dò của Nga có bước sóng dài 2-3cm và nhiều hơn phân nửa các chùm sóng mà các nước phương Tây sử dụng; có độ chính xác cao, độ chính xác trong đo lường đạt 2-3 độ; có những trang thiết bị đã được phát triển đến tần số sóng cực thấp, có khả năng uy hiếp ra đa ở tần số 18 - 40Ghz.

Song nhược điểm của máy bay tác chiến của Hải quân Nga là không có đủ các linh kiện phần cứng điều khiển tiên tiến cho các trang thiết bị tác chiến điện tử.
Tên lửa chống bức xạ

Tên lửa chống bức xạ (ARM) là loại vũ khí tầm xa tấn công bằng điện tử có hiệu quả sát thương cao nhất, thường được sử dụng trong tấn công hệ thống C3I của kẻ địch nơi phát động chiến tranh, nó trực tiếp phá hủy các radar, hệ thống thông tin liên lạc và các trang thiết bị gây nhiễu của kẻ địch.




Tên lửa chống bức xạ (ARM).


Hiện Nga phát triển ARM đến thế hệ thứ 3; Hải quân Nga sở hữu nhiều thế hệ tiên tiến nhất của ARM như KH-3, đây là hệ thống đã được Nga dùng trong chiến tranh Vùng Vịnh, có khả năng vượt trội so với tên lửa chống xạ thế hệ thứ 3 của Mỹ.

Nga đã biên chế KH—31 cho tàu “Admiral Kuznetsov”; KH-31 là loại tên lửa có hệ thống dẫn đường, nó không chỉ tấn công ra đa loại AN – MPQ - 53 mà còn có thể tấn công máy bay cảnh báo sớm như E-3A của Mỹ và các nước hiện có.

Hệ thống radar chiến hạm thăm dò đối phương

Hải quân Nga hiện sử dụng khoảng 30 loại trang thiết bị radar dùng trên chiến hạm để thăm dò đối phương. Trong đó, thiết bị radar trinh sát Brick là một trong những loại thiết bị được trang bị cho tàu ngầm.

Nga trang bị một loạt các thiết bị radar trinh sát trứ danh Clock cho các chiến hạm và radar gây nhiễu Side Ball. Hiện nay, Hải quân Nga đang sử dụng thiết bị radar trinh sát mới như Flat Road, Glass, radar gây nhiễu Bottle.




Một hệ thống radar cơ động thăm dò.


Thiết bị trinh sát Glass áp dụng cho kỹ thuật trinh sát trên không. Theo đánh giá, thiết bị gây nhiễu Bottle có tính năng ngang bằng so với thiết bị AN/ SLQ-32 được sử dụng trên các chiến hạm Mỹ.

Trình độ kỹ thuật thiết bị radar dò tìm trên chiến hạm của Nga có trình độ ngang bằng với các quốc gia châu Âu như Anh, Pháp,... Bên cạnh đó, nhờ việc học hỏi các kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, đẩy mạnh phát triển máy tính, kỹ thuật số và các thiết bị radar dò tìm gắn trên chiến hạm của Nga có thể xử lý nhanh chóng, phân đoạn tín hiệu, thống nhất hóa năng lực trinh sát và gây nhiễu, cải thiện và nâng cao trình độ các thiết bị, rút ngắn khoảng cách với Mỹ.

Thiết bị quang điện đối kháng trên chiến hạm

Nga là nước đi đầu thế giới về lĩnh vực kỹ thuật quang điện đối kháng, thậm chí Nga còn sở hữu kỹ thuật đối kháng tia laser. Ưu thế loại kỹ thuật này chủ yếu hưởng lợi từ việc ra sức mở rộng truyền hình quân sự, thiết bị thăm dò bám theo tia hồng ngoại và laser dưới thời Liên Xô cũ trong những năm 1970.

Đồng thời những năm 1980, đầu tư nghiên cứu chiến lược và áp dụng vũ khí kỹ thuật laser. Lúc đó, Liên Xô bố trí hai loại vũ khí tia laser phản vệ tinh trên mặt đất, dùng phá hủy quỹ đạo vận hành trinh sát của Mỹ trên địa cầu.

Ngày nay, Nga tiếp tục gấp rút phát triển kỹ thuật điện quang đối kháng, nghiên cứu đề xuất thiết bị điện quang ứng dụng cho Hải quân như máy gây nhiễu hồng ngoại L1668IA, đây là máy được trang bị cho máy bay trực thăng trên chiến hạm, có thể gây nhiễu như là tên lửa không đối không Sidewinder và Falcon, tên lửa đất đối không Red Eye, Small Oak và tên lửa không đối không của Pháp Mica, các thiết bị gây nhiễu hồng ngoại này có tuổi thọ là 1.200 giờ.

Việc sử dụng thiết bị quang điện đối kháng mới làm cho chủng loại và chất lượng thiết bị quang điện đối kháng trên chiến hạm Nga phát sinh biến hóa và hiệu quả lớn hơn.

Hải quân Nga không chỉ có chiến hạm bắn tia hồng ngoại và đạn laser mồi nhử tiên tiến mà sử dụng cả thiết bị gây nhiễu và hệ thống cảnh báo laser của các quốc gia phương Tây như máy gây nhiễu hồng ngoại TSHU-17 và máy cảnh báo laser Spektr-F.

Thiết bị gây nhiễu hồng ngoại TSHU-17 có hình thức điều chỉnh đa dạng, đồng thời có thể đối phó được các loại tên lửa uy hiếp trên biển. Máy cảnh báo laser Spektr-F có thể cảnh báo 4 mục tiêu nguy hiểm bên cạnh tàu chiến hạm, với độ lệch chính xác ± 5 độ nên đưa ra số liệu góc ngắm và phương vị của mối nguy hiểm

Thiết bị gây nhiễu thụ động

Thiết bị gây nhiễu thụ động trên chiến hạm chủ yếu do kiểu bắn từ pháo cối và đạn gây nhiễu mồi nhử kết hợp tạo thành. Thiết bị gây nhiễu thụ động trên chiến hạm của hải quân Nga tương đối hiện đại.

Hiện nay hình thành hàng loạt trang bị được gắn với các loại chiến hạm lớn, vừa và nhỏ. Trong đó, có hai ống bắn xoay tròn Pk-2, 16 ống bắn cố định Pk-16, 10 ống bắn cố định Pk-10.

Những thiết bị bắn này thông qua chỗ tiếp nối lắp ráp và ra-đa trên chiến hạm; các thiết bị cảnh báo trinh sát và hồng ngoại kết hợp với nhau, có thể căn cứ thuộc tính của mục tiêu uy hiếp, tự động lựa chọn bắn đạn mồi nhử thích hợp. Với các đạn mồi nhử, Hải quân Nga có đạn TSP-47, TSP-60U, SR-60; đạn hồng ngoại TST-47, TST-60U; đạn laser hỗn hợp/ hồng ngoại tiên tiến như SOM-50 và đạn tổng hợp như Sk 50.SOM-50 với đường kính 120ml, dài 12.26 li, trọng lượng 26kg.

Kích thước, trọng lượng SK-50 giống SOM-50. Các tính năng như diện tích phản xạ của đạn mồi nhử, phạm vi tỏa ra, thời gian trên không, cường độ bức xạ, thời gian bốc cháy của Nga tương đối bằng kỹ thuật các quốc gia phát triển phương Tây và phù hợp yêu cầu tác chiến hiện đại trên biển.

Thiết bị đối kháng âm thanh dưới nước

Kỹ thuật đối kháng âm thanh dưới nước của Nga khá hiện đại. Trong phương diện phá hủy âm thanh dưới nước của vũ khí từ xa, các loại vũ khí mới đại diện phương pháp phi âm thanh của Hải quân Nga về kỹ thuật thăm dò phản xô na và tính chủ động xô na có ngư lôi và thủy lôi, trong đó có các loại ngư lôi như ngư lôi siêu trọng phản chiến hạm DST-92, ngư lôi thả dù chống tàu ngầm APR-2E, ngư lôi hạng nặng chống tàu ngầm TEST-96 và ngư lôi USET-95; thủy lôi gồm có thủy lôi tự chìm SMDM, hệ thống thủy lôi chống tàu ngầm PMK-1 và thủy lôi kiểu tên lửa MSHM.

Trong số đó, ngư lôi hạng nặng DST-92 được áp dụng kỹ thuật tiên tiến phi âm thanh - thăm dò phản sonar, là loại ngư lôi tự động tấn công tàu hàng sân bay, các âm thanh mồi nhử và khí tài gây nhiễu trong nước có tác dụng hỗ trợ, trừ khi các thủy thủ được huấn luyện ứng phó bên ngoài, không thì cho đến nay chưa có biện pháp đối phó hiệu quả phương thức trên.

Trong phương diện chống nhiễu sóng âm dưới nước và gây nhiễu âm thanh, Hải quân Nga không chỉ áp dụng phổ biến cho các tàu ngầm nhằm đối phó khả năng thăm dò và làm suy yếu ngư lôi của đối phương, mà sử dụng nhiều đạn tạo khí để chống nhiễu sóng.




Hải quân Nga không chỉ áp dụng phổ biến các thiết bị gây nhiễu cho các tàu ngầm mà còn cho cả tàu chiến.


Ngoài ra, Hải quân Nga còn sử dụng số lượng lớn tàu điều khiển gây nhiễu tiếng ồn và tự động gây nhiễu suy giảm thiết bị thăm dò của đối phương. Hải quân Nga có đạn âm thanh mồi nhử GPD-3 sau khi được bắn, nó có thể thăm dò tối đa ở cự ly 250m với vận tốc 15 hải lý/giờ.

GPD-3 rất hiện đại bởi nó có tiếng ồn gây nhiễu, gây nhiễu chọn lựa và có 3 phương thức mô phỏng âm thanh vọng lại; chúng do máy phát tiếng ồn xô na lắp đặt hiệu ứng băng từ nam châm tạo thành, dùng để mô phỏng tín hiệu đặc trưng đường đi của tàu ngầm, GDP-3 là có hai cách bắn tự động và có điều khiển. Trong đó, bắn tự động là để gây nhiễu ngư lôi địch, bắn điều khiển do người bắn dùng để khống chế thời gian bắn và đối phó với thiết bị truyền cảm xô na của tàu chiến đối phương.

[BDV news]


>> 'Việt Nam là đối tác kỹ thuật - quân sự chính của Nga'



Phó Trưởng ban về Hợp tác quốc phòng Nga Alexander Formin khẳng định việc Nga sẽ không điều chỉnh kế hoạch hợp tác kỹ thuật - quân sự trong năm 2011.


“Mặc dù có một số yếu tố tiêu cực song Nga sẽ không điều chỉnh số lượng trong kế hoạch hợp tác kỹ thuật - quân sự của năm 2011”, theo báo cáo của Phó Trưởng ban về Hợp tác kỹ thuật - quân sự Liên bang Nga Alexander Fomin tại Triển lãm Hàng không - Vũ trụ Quốc tế Paris lần 49.

“Các kế hoạch là phải đạt được hiệu quả cao hơn chỉ số của năm 2010 nhưng chúng ta đang phải đối mặt với những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các sự kiện ở một số nước Arab, tuy nhiên kế hoạch sẽ không thay đổi", ông nói.



Nga có ý định xâm nhập thị trường vũ khí Châu Phi, Mỹ Latinh.


Ông Fomin nêu tên các đối tác chính của Nga trong việc hợp tác kỹ thuật - quân sự đó là Ấn Độ, Việt Nam, Algeria, Venezuela và Trung Quốc.

Đồng thời, ông cũng thừa nhận “những sự kiện trong một số các quốc gia Arab không phải không ảnh hưởng tiêu cực đến kế hoạch hợp tác với họ”.

Ông Fomin cho ITAR-TASS biết thêm, trong trường hợp này “có những thị trường chúng ta đã bỏ quên như châu Phi, nơi đó cần thiết phải quay trở lại”.

Phát biểu về khu vực Mỹ la tinh, ông nói rằng “Chúng ta cũng cần phải khai thác một cách triệt để tiềm năng của thị trường Mỹ Latin nơi mà trong những năm gần đây đã được “phát hiện”, đặc biệt Uruguay và Argentina”.

[BDV news]


>> Hải quân Australia: Riêng một góc trời


Australia ưu tiên phát triển hải quân có khả năng tác chiến vùng biển xa, độc lập triển khai kiểm soát biển trong khu vực tích cực can dự quân sự vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Australia ưu tiên phát triển hải quân có khả năng tác chiến vùng biển xa, độc lập triển khai kiểm soát biển trong khu vực tích cực can dự quân sự vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.


Hải quân Australia ra đời năm 1901, cùng lúc thành lập Liên bang, lúc đầu gọi là Hải đoàn quân Liên bang, đến năm 1909 đổi thành Hải quân Hoàng gia Australia.

Khi đại chiến 2 nổ ra, một phần vì phụ thuộc nhiều vào Anh, Chính phủ Australia đã tuyên chiến với Đức ngày 3/9/1939 và sẵn sàng tham chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương.

Trong ba quân chủng còn non trẻ và mỏng lực lượng, thì Hải quân được coi là khá nhất với 2 tàu tuần dương hạng nặng, 4 tuần dương hạng nhẹ, 5 tàu khu trục, 2 tàu hộ vệ và một số tàu tuần tiễu ven bờ.

Các chiến hạm Australia đã đụng trận đầu tiên ở Địa Trung Hải, rồi lần lượt tác chiến trên vùng biển Bắc Phi, Trung Đông, Nam Âu và Tây Âu.

Ở phía Đông Nam Á, lực lượng này đã tham chiến ở vùng biển Malaysia và Indonesia. Do vậy, Hải quân thu được nhiều kinh nghiệm cho tác chiến và xây dựng lực lượng sau này.

Từ sau đại chiến thế giới 2 đến nay, quân đội Australia trong đó có hải quân đã tham gia một số cuộc chiến tranh với lực lượng nhỏ, nhưng tham gia diễn tập rất nhiều.




RIMPAC 2010
Tàu hải quân các nước Australia, Pháp, Canada, Mỹ, Nhật...tham gia tập trận RIMPAC 2010.

Các cuộc diễn tập mà hải quân nước này thường xuyên tham gia gồm RIMPAC với gần 20 nước ở châu Mỹ, Milan ở Nam Á và Đông Nam Á, Kakadu với 7 nước ở vùng biển Australia, Bersama Padu ở Malaysia với 5 nước.

Bộ tư lệnh Hải quân Australia hiện nay (đóng ở thủ đô Canberra) có 5 thành phần chính là: Bộ tư lệnh hạm đội (ở căn cứ Stirling, đây cũng là căn cứ của tàu ngầm và tàu khu trục Anzac); Bộ tư lệnh Không quân Hải quân; Bộ tư lệnh yểm trợ; Bộ tư lệnh huấn luyện và Bộ tư lệnh hỗ trợ bảo vệ bờ biển.

Bộ tư lệnh hạm đội là thành phần quan trọng nhất, có các biên đội tàu ngầm, tàu tuần tiễu, tàu đổ bộ, tàu quét mìn, tàu khảo sát phục vụ, tàu huấn luyện. Bộ tư lệnh không quân hải quân có các phi đội trực thăng chống ngầm, chống tàu mặt nước, bảo đảm, huấn luyện.

Chiến lược ngăn chặn nguy cơ trên biển

Xác định là một “cường quốc hạng trung”, có nền kinh tế rất phát triển đất rộng mênh mông ở Nam bán cầu, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương nhưng Australia đánh giá tình hình “châu Á không còn như xưa”, sẽ xảy ra nhiều diễn biến phức tạp hơn, nhiều điểm tranh chấp hơn.

Do đó, nước này “tập trung tăng cường khả năng tác chiến của lực lượng hải quân nhằm chặn đứng, đẩy lùi các cuộc tấn công trên biển cũng như để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế”. Hiện nay, chủ trương này dựa vào sức mạnh Hải quân Australia, nằm ở “bộ 3” tàu ngầm, tàu hộ vệ và tàu đổ bộ hiện đại.

Tên lửa hóa tàu ngầm

Đội tàu ngầm Australia hiện có 6 chiếc lớp Collino, mỗi tàu trang bị tên lửa chống hạm chiến thuật Harpoon UGM-84C, 6 ngư lôi 533mm. Đây là loại tàu ngầm điện – dieszel truyền thống lớn nhất thế giới do Australia tự đóng.

UGM-84 phóng từ tàu ngầm
Tên lửa hành trình đối hạm UGM-84 phóng từ tàu ngầm.

Tuy nhiên, với chủ trương quốc phòng trên, 6 tàu ngầm là chưa đủ. Theo ông Paul Dibb, tác giả Sách trắng quốc phòng Australia năm 1987, các tàu ngần này cần được đóng tại Australia, và được trang bị vũ khí tầm xa có hỏa lực mạnh như các tên lửa hành trình.

Cụ thể, lực lượng tàu ngầm này cần phải có khả năng chiến đấu trong khu vực kéo dài từ phía đông Ấn Độ Dương đến phía nam Thái Bình Dương và cả các vùng biển thuộc Đông Nam Á, bao gồm cả Biển Đông, đến các đại dương phía Nam.

Bên cạnh đó, các tàu ngầm cần có khả năng phối hợp tác chiến với hải quân các nước đồng minh trong các trận chiến cường độ cao.

Vì vậy, Australia đang có kế hoạch đóng 12 tàu ngầm tầm xa với mức chi phí ước tính khoảng 36 tỷ USD. Trong đó, các tàu ngầm đầu tiên sẽ được biên chế hoạt động từ năm 2020.

Cũng theo kế hoạch các tàu ngầm mới sẽ được trang bị tên lửa hành trình Tomahawk nhằm nâng cao khả năng tác chiến và vai trò răn đe.

Đầu tư tàu đổ bộ, hướng tới biển xa

Trên mặt nước, đội tàu hộ vệ của Australia có 12 tàu gồm 4 chiếc thuộc lớp Adelaid và 8 chiếc thuộc lớp Anzac. Chiến hạm lớp Adelaid trang bị tên lửa đối hạm Harpoon RGM-84C, tên lửa phòng không SM-1MR, ngư lôi 324mm, 1 pháo 76mm, 2 trực thăng Seahawk 70B chống ngầm.

Còn tàu hạm lớp Anzac trang bị tên lửa phòng không Sea Sparrow, ngư lôi, 1 pháo 127mm, 1 trực thăng SH-2G. Tương đối yên tâm với sức mạnh này, Hải quân Australia tập trung đầu tư vào các tàu đổ bộ.

Đầu tháng 3/2011, Hải quân Australia vừa hạ thủy tàu đổ bộ lớn nhất có tên HMAS Canberra dài 230,8m, rộng 32m, lượng giãn nước từ 27.851-30.700 tấn.

Đây có thể coi là tàu sân bay cỡ nhỏ với những vũ khí trang bị được gọi là “siêu phẩm” của nước này. Sự kiện hạ thủy tàu đổ bộ trực thăng loại lớn HMAS Canberra, đưa hải quân Australia gia nhập hàng ngũ các quốc gia sở hữu các tàu đổ bộ trực thăng cỡ lớn.

HMAS Canberra
Cấu tạo tàu đổ bộ HMAS Canberra.

HMAS có tốc độ tối đa 20,5 hải lý/h, tầm hoạt động 9.000 hải lý liên tục 50 ngày đêm trên biển. Tàu đáp ứng các yêu cầu của tác chiến đổ bộ đại dương, chở 1.000 sĩ quan và lính cùng 150 xe tăng (M1A1) xe thiết giáp.

Boong tàu rộng, cho phép 6 trực thăng hạ cánh hay cất cánh cùng một lúc. Khoang dưới tàu chứa 16 máy bay hạng nặng hoặc 24 máy bay hạng trung, nhẹ. Trên tàu có bệnh viện đầy đủ trang bị.

Vũ khí trên tàu có 4 pháo bắn nhanh M242 cỡ 25mm. Hệ thống phòng thủ tên lửa có radar Giraffe quét xa trăm km, các thiết bị điện tử, tích hợp hoạt động... tiếp tục được lắp đặt.

Trước khi tàu sân bay nhỏ Canberra hạ thủy, Australia đã mua của Anh tàu đổ bộ Largs Bay 16.000 tấn chở được 700 lính hải quân đánh bộ và 24 xe tăng. Trong 4 năm tới sẽ có tiếp tàu đổ bộ HMAS Adelaide. Ba tàu này nằm trong kế hoạch toàn diện chiếm lĩnh biển xa và gần trị giá 9 tỷ USD.

Trong 20 năm tới, Australia theo đuổi chương trình canh tân Hải quân. Trong đó, sẽ biên chế 12 tàu ngầm hiện đại thay thế 6 chiếc lớp Collino, 8 tàu khu trục, 1 tàu đổ bộ HMAS Adelaide, 16 tàu chiến khác, 24 trực thăng săn ngầm, các tên lửa hành trình tầm xa…

Hải quân Australia có 13.000 người (Không quân hải quâng 1.000) với 80 tàu trong đó có 6 tàu ngầm, 12 tàu hộ vệ, 5 tàu đổ bộ cỡ lớn, hơn 20 tàu phục vụ....Máy bay hải quân hơn 50 chiếc chống ngầm S-70B-2, SH-2G...hỗ trợ chiến đấu AS-350BA.

[BDV news]


Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

>> Điểm mặt 7 tàu khu trục hàng đầu thế giới



Tàu khu trục là loại tàu chiến đa năng trên biển, có khả năng hỏa lực rất mạnh, tạo ra mối đe dọa rất lớn cho đối phương.


Tàu khu trục là loại tàu chiến được dùng để tiêu diệt tàu ngầm, tàu nổi và các chiến thuyền của đối phương, đồng thời cảnh giới cho tàu chiến cỡ lớn và lực lượng hộ tống vận tải trên biển phía mình. Ngoài ra, tàu khu trục còn được dùng để trinh sát, tuần tra, tấn công bờ biển, thả ngư lôi và thực hiện các nhiệm vụ khác, là "xương sống trên biển" đúng nghĩa.

Như vậy, tàu khu trục có khả năng tác chiến lập thể, có nhiều tiêu chuẩn để đánh giá tính năng. Bee giới thiệu 7 loại tàu khu trục lớn mang tính đại diện hiện nay:

1. Tàu khu trục lớp Arleigh Burke

Đây là tàu khu trục tên lửa mới nhất của hải quân Mỹ, là tàu khu trục đầu tiên trên thế giới được trang bị hệ thống hệ thống Aegis và tiến hành thiết kế tàng hình toàn diện, nhiệm vụ tác chiến và khả năng tác chiến gần bằng tàu tuần dương lớp Ticonderoga.



Tàu khu trục USS Nietzsche (DDG-94) lớp Afleigh Burke của hải quân Mỹ.


Trên tàu có nhiều loại vũ khí trang bị khác nhau, có thiết bị điện tử rất thông minh, lần đầu tiên sử dụng công nghệ phóng thẳng tên lửa, có khả năng tác chiến toàn diện đối đất, đối biển, đối không và chống tàu ngầm, nên nó được mệnh danh là "vệ sĩ" của hạm đội tàu sân bay Mỹ. Nó đại diện cho trình độ cao nhất của tàu khu trục hải quân Mỹ, được gọi là đỉnh cao của tàu nổi trên thế giới hiện nay.

Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 7/1991.
- Lượng choán nước chuẩn: 6.625 tấn.
- Lượng choán nước tối đa: 8.422 tấn (loại I), 9.033 tấn (loại II), 9.217 tấn (loại IIA).
- Tốc độ tối đa: 32 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 5.000 hải lý với vận tốc 20 hải lý/giờ.
- Hệ thống tác chiến: Aegis.
- Thiết bị phóng tên lửa: 2 hệ thống phóng thẳng MK41, bốn mô-đun cài đặt ở đầu, 8 mô-đun cài đặt ở đuôi, 29 viên đạn sẵn sàng ở đầu, 61 viên đạn sẵn sàng ở đuôi, tổng cộng lượng đạn sẵn sàng là 90.
- Tên lửa: tên lửa phòng không Standard của tàu, tên lửa hành trình Tomahawk, tên lửa chống tàu ngầm ASROC, tên lửa chống hạm Harpoon (từ chiếc Flatt thứ 24 trở đi được lắp đặt thêm tên lửa phòng không kiểu Ram).
- Pháo: 1 khẩu 127 mm MK45, 2 hệ thống pháo Phalanx 6 nòng 20mm MK15.
- Ngư lôi: 2 ống phóng ngư lôi MK32.
- Máy bay trực thăng: 2 máy bay trực thăng chống tàu ngầm Sea-Hawk loại SH-60B/F.

2. Tàu khu trục lớp Kongou

Tàu khu trục lớp Arleigh Burke phiên bản Nhật Bản, là sản phẩm đầu tiên Mỹ chuyển nhượng cho nước đồng minh hệ thống tác chiến phòng không Aegis và tàu khu trục lớp Arleigh Burke, vì vậy nó có hầu hết các đặc tính kỹ thuật của lớp Burke. Tàu khu trục lớp Kongou đã được nâng cao rất lớn về khả năng phòng không theo đội hình, thuộc 4 đội tàu hộ tống của Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản, có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện chiến lược phòng thủ viễn dương tích cực của Nhật Bản.



Tàu khu trục Chokai lớp Kongou của Nhật Bản.


Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào phục vụ: tháng 3/1993.
- Lượng choán nước chuẩn: 7.250 tấn.
- Lượng choán nước tối đa: 9.485 tấn.
- Tốc độ tối đa: 30 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 4500 hải lý với vận tốc 20 hải lý/giờ.
- Hệ thống tác chiến: Aegis.
- Pháo: 1 khẩu pháo chính cỡ nòng 127 mm của Italia, 2 hệ thống vũ khí tầm gần Phalanx.
- Thiết bị phóng tên lửa: đầu và đuôi tàu đều có 1 thiết bị phóng thẳng MK41.
- Tên lửa: loại Standard SM-2MR, tên lửa chống tàu ngầm ASROC, tên lửa chống hạm Harpoon.
- Ngư lôi: 2 ống phòng ngư lôi loại HOS-302 do Nhật Bản phỏng chế.

3. Tàu khu trục Type 45

Tàu khu trục Type 45 của hải quân Hoàng gia Anh là tàu chiến có tính năng tổng thể tiên tiến nhất trong số rất nhiều tàu phòng không cỡ lớn mới được chế tạo. Là tàu khu trục phòng không thế hệ mới, nó vừa có khả năng phòng không mạnh, vừa có khả năng tác chiến biển gần mạnh, đó là tấn công vào sâu trong lục địa. Đồng thời nó còn đảm nhiệm nhiệm vụ chống hạm, chống tàu ngầm, có thể tham gia một cách đa năng vào tác chiến liên hợp trên biển trên phạm vi thế giới của hải quân Hoàng gia Anh.



Tàu khu trục Bold D32 Type 45 của Anh


Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 7/2009.
- Lượng choán nước chuẩn: 7.700 tấn.
- Lượng choán nước tối đa: 8.700 tấn.
- Tốc độ tối đa: 29 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên lục: 7000 hải lý, với vận tốc 18 hải lý/giờ.
- Hệ thống tác chiến: PAAMS (hệ thống tên lửa phòng không chính).
- Pháo: 1 khẩu pháo chính cỡ nòng 114 mm.
- Thiết bị phóng tên lửa: hệ thống phóng thẳng MK41.
- Tên lửa: tên lửa hành trình chiến thuật Tomahawk, tên lửa phòng thủ loại tăng tầm phóng Standard 2 và loại Standard 3A.
- Trực thăng: Sử dụng trực thăng đa năng Merlin EH-101.

4. Tàu khu trục lớp Horizon

Đây là tàu khu trục phòng không thế hệ mới do Pháp và Ý cùng phát triển, nó đã tiếp thu tinh hoa của công nghệ quân sự châu Âu, tập trung được nhiều tính năng. Ngoài khả năng chi viện hỏa lực phòng không có hiệu quả cho tàu sân bay, nó còn có khả năng tác chiến chống tàu ngầm, chống hạm và tấn công bờ biển khá mạnh.



Tàu khu trục tàng hình Sherlock lớp Horizon của hải quân Pháp


Tàu khu trục lớp Horizon hỗ trợ rất lớn cho Pháp và Italia tăng cường sức mạnh quân sự trên biển ở Địa Trung Hải và khu vực Đại Tây Dương. Mô hình hợp tác thành công này sẽ là mô hình hợp tác của châu Âu trong phát triển tàu chiến.

Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 12/2008 (phiên bản Pháp), tháng 12/2007 (phiên bản Italia).
- Lượng choán nước tối đa: 6.970 tấn (phiên bản Pháp), 6.700 tấn (phiên bản Italia).
- Tốc độ tối đa: 29 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 7000 hải lý với tốc độ 17 hải lý/giờ.
- Hệ thống tác chiến: PAAMS (hệ thống tên lửa phòng không chính).
- Pháo: phiên bản Pháp trang bị 2 pháo 76 mm Otto Melara và 2 pháo 20 mm Jiyate, phiên bản Italia trang bị 3 pháo 76 mm Otto Melara và 2 pháo tự động 25 mm.
- Thiết bị phóng tên lửa: Thiết bị phóng thẳng Silva.
- Tên lửa: 16 quả Aster 15 và 32 quả Aster 30, tên lửa Exocet loại tăng tầm phóng MM40 (phiên bản Pháp), tên lửa MK3 Otto Matt.
- Ngư lôi: 2 thiết bị phóng ngư lôi, trang bị ngư lôi hạng nhẹ 324 mm loại MU-90 kiểu mới.
- Trực thăng: Phiên bản Pháp trang bị trực thăng NH-90, phiên bản Italia trang bị trực thăng NH-90 hoặc EH-101.

5. Tàu khu trục lớp King Sejong

Tàu khu trục cấp 1 do Hàn Quốc chế tạo có tính năng tàng hình tốt, đã trang bị tên lửa chống hạm Harpoon nổi tiếng của phương Tây, hệ thống phóng thẳng MK41, có khả năng phòng không và chống hạm khá mạnh, có khả năng tìm kiếm mục tiêu trên không và khả năng chiến đấu đa mục tiêu mà các tàu khu trục trước đây của Hàn Quốc không có. Sự xuất hiện King Sejong của Hàn Quốc báo hiệu hải quân Hàn Quốc bắt đầu đi ra đại dương, có ý nghĩa sâu rộng đối với Hàn Quốc.



Ngày 25/5/2007 tại thành phố cảng Ulsan đông nam, hải quân Hàn Quốc làm lễ hạ thủy chiếc tàu khu trục Aegis lớp King Sejong đầu tiên, đánh dấu Hàn Quốc trở thành nước thứ 5 sở hữu tàu khu trục Aegis kế tiếp sau Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nga và Na Uy. Tàu Kinh Sejong 7.600 tấn này có thể mang theo 16 quả tên lửa hạm đối hạm, 128 quả tên lửa hạm đối không và nhiều tên lửa hành trình, ngư lôi.


Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 12/2008.
- Lượng choán nước chuẩn: 7.700 tấn.
- Lượng choán nước tối đa: 10.000 tấn.
- Tốc độ tối đa: 30 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 5500 hải lý.
- Vũ khí: 1 khẩu pháo 127 mm MK45 MOD4, 4 hệ thống tên lửa chống hạm tầm xa loại Sao biển SSM-700K, hệ thống vũ khí tầm gần Người gác cổng 30 mm, tên lửa đất đối không SM-2 Block IIIB, 32 quả tên lửa hành trình Basaltic IIIC, 16 quả tên lửa chống tàu ngầm K-ASROC Red Shark, 1 hệ thống phóng tên lửa RIM-116, 32 quả ngư lôi K745 LW Youth Torpedo.
- Trực thăng: Trực thăng West của Anh, trực thăng chống tàu ngầm Lynx.

6. Tàu khu trục lớp Udaloy II

Sự xuất hiện của tàu khu trục lớp Burke đã làm cho Nga ý thức được khoảng cách rất lớn về tàu chiến giữa mình với Mỹ. Trên nền tảng tàu chiến chống tàu ngầm cỡ lớn lớp Udaloy, Nga đã tích hợp các ưu điểm của lớp Modern, ví dụ lắp đặt thêm tên lửa chống hạm SS-N-22 Sunburn, chế tạo ra tàu khu trục lớp Udaloy II. Nhưng do Liên Xô tan rã, chỉ chế tạo được một chiếc Đô đốc Chabanenko.



Tàu khu trục chống tàu ngầm lớp Udaloy II của hải quân Nga


Khả năng tác chiến tổng hợp của Udaloy II tương đối mạnh, là tàu khu trục đa năng xương sống của hải quân Nga, có thể thực hiện các nhiệm vụ phòng không, chống hạm, chống tàu ngầm và hộ tống. Trong đó, khả năng chống tàu ngầm nổi bật hơn, được mệnh danh là “Vua chống tàu ngầm thế giới”. Nga từng nói rằng, về bất cứ phương diện nào, con tàu này đều không thua tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Mỹ.

Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 1/1999.
- Lượng choán nước chuẩn: 7.400 tấn.
- Lượng choán nước tối đa: 8.900 tấn.
- Tốc độ tối đa: 30 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 6000 hải lý với vận tốc 20 hải lý/giờ.
- Pháo: 1 khẩu pháo AK-130.
- Tên lửa: 2 quả tên lửa chống hạm SS-N-22 Sunburn, 2 thiết bị phóng thẳng tên lửa phòng không SA-N-9 (64 quả sẵn sàng chiến đấu), 2 hệ thống phòng không tầm gần Kashtan.
- Ngư lôi: 2 ống phóng ngư lôi chống tàu ngầm 533 mm, được trang bị ngư lôi tự dẫn 406 mm.
- Vũ khí chống tàu ngầm ở đáy biển: 2 máy phóng tên lửa RBU-6000 12 nòng.
- Trực thăng: 2 trực thăng chống tàu ngầm Ka-27.

7. Tàu khu trục lớp Spruance

Đây là tàu khu trục chống tàu ngầm cấp 1 được hải quân Mỹ thiết kế để ứng phó với tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, sau đó nó được cải tiến nhiều lần để thích ứng với nhu cầu chiến tranh trên biển hiện đại, lắp đặt thêm nhiều vũ khí trang bị tiên tiến và hệ thống phóng thẳng, cuối cùng nó trở thành tàu khu trục cấp 1 có khả năng chống hạm, đối đất và phòng không rất mạnh, cùng với tàu khu trục lớp Arleigh Burke tạo nên đội hình chính của tàu khu trục hải quân Mỹ.



Tàu khu trục Kincaid lớp Spruance của hải quân Mỹ


Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 9/1975.
- Lượng choán nước chuẩn: 5.770 tấn.
- Lượng choán nước tối đa: 8.040 tấn.
- Tốc độ tối đa: 33 hải lý/giờ.
- Khả năng chạy liên tục: 6000 hải lý với vận tốc 20 hải lý/giờ.
- Vũ khí: 2 pháo 127 mm MK-45, 2 pháo tốc độ nhanh MK-15 "Phalanx" 6 nòng, 4 súng máy 12,7 mm, 2 giàn phóng tên lửa "Harpoon", 1 giàn phóng tên lửa MK-29 (24 quả tên lửa "Sea Sparrow" luôn sẵn sàng), hệ thống phóng tên lửa thẳng MK-41 (61 quả tên lửa hành trình "Tomahawk" và tên lửa chống tàu ngầm "ASROC" luôn sẵn sàng), 2 ống phóng ngư lôi MK-32.
- Trực thăng: 1 trực thăng Ram Phillips.

[Bee news]


>> Nga sẽ can dự vào vấn đề Biển Đông?



Nga đã có phản ứng khá nhanh sau khi ASEAN và Trung Quốc thông qua được Quy tắc hướng dẫn thực thi DOC.


Kommersant được coi là báo phản ánh quan điểm của giới kinh doanh Nga và một trong các báo lớn phát hành toàn liên bang, bài này giữ cách diễn đạt của Nga về Biển Đông.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Ngày 21/7, ở Indonesia đã khai mạc cuộc gặp thường niên ASEAN – Trung Quốc, trong đó các bên đã thông qua “lộ trình” về các quy tắc ứng xử trên biển Đông có tranh chấp.

Chín năm qua, Bắc Kinh và các bên tranh chấp các nguồn giàu cacbuahydro trong khu vực này đã không thể thoả thuận được văn bản này. Tuy nhiên, các nước ASEAN cho rằng “lộ trình” chưa đủ sức bảo vệ chống lại những tham vọng ngày càng tăng của Trung Quốc, nên họ cố gắng vận động các quốc gia thế giới, trong đó có Nga, tham gia hợp tác với khu vực.

Ngày 22/7, các nước thành viên ASEAN thảo luận về triển vọng hợp tác đó với Bộ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga Sergey Lavrov, Phóng viên báo Kommersant Aleksandr Gabuev đưa tin chi tiết từ Bali.

Tất cả những người tham dự hội nghị bộ trưởng ASEAN năm nay ở Bali nhất trí gọi “lộ trình” được thông qua hôm qua là sự kiện lịch sử. Văn kiện này có một lịch sử khá dài.

Ngay từ năm 2002, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ASEAN (Brunei, Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Lào, Malaysia, Mianma, Singapore, Thái Lan và Philippines) đã ký tuyên bố về ứng xử trên biển Đông.

Văn kiện này quy định những nguyên tắc giải quyết hoà bình các tranh chấp và một trong những mục đích chủ yếu của nó là đưa ra việc soạn thảo bộ luật ứng xử trong khu vực, một văn kiện có tính pháp lý bắt buộc.



Cuối cùng, ASEAN và Trung Quốc đã đạt được bước tiến quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.


Tuy nhiên, khi bắt tay vào thoả thuận các nguyên tắc của bộ luật, các bên rơi vào các cuộc thương thảo kéo dài. Như rất nhiều người tham dự hội nghị than phiền với phóng viên báo Kommersant rằng, có lỗi trong việc này là lập trường khác biệt của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không muốn ràng buộc mình bằng bất cứ cam kết nào. Từ năm 2002, Trung Quốc tích cực củng cố hạm đội của mình và xem ra tính toán rằng các lập luận bằng vũ lực sẽ tác động tốt nhất.

Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đòi những vùng lãnh thổ rộng lớn trong vùng biển Đông. Vấn đề là ở chỗ, theo dữ liệu của các nhà địa chất Trung Quốc, trong thềm lục địa có nhiều tài nguyên – 213 tỷ thùng dầu mỏ. Theo đánh giá của Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ, đây là khu vực đứng thứ 3 về trữ lượng dầu khí trên thế giới sau Venezuela và Arab Saudi.

Để lập luận cho các yêu sách của mình về nguồn tài nguyên giàu có này, các bên tranh chấp cố gắng thiết lập sự kiểm soát trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (tên quốc tế là Spratly) và quần đảo Hoàng Sa (tên quốc tế là Paracel). Điều này cho phép đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm biển quanh mỗi đảo.

Hiện nay các bên tranh chấp đều tích cực xây dựng ở đây cơ sở vật chất, do đó trên biển Đông bất cứ lúc nào cũng có thể bùng nổ xung đột nguy hiểm.

Đến nay các đụng độ đã xảy ra mỗi tháng. Hồi tháng 5, các tàu quân sự Trung Quốc đã tiến đến gần các tàu của Tổng công ty dầu mỏ quốc gia Việt Nam PetroVietnam và cắt cáp thăm dò của tàu, việc này đã gây nên những phản đối chống Trung Quốc mạnh mẽ.

Sau đó một đụng độ tương tự đã xảy ra với các tàu nghiên cứu của Philippines. Manila đã kết tội Trung Quốc xâm phạm nội thủy của mình và tuyên bố phạt đại sứ Trung Quốc ở Philippines vì ông này đã to tiếng với một sĩ quan địa phương trong cuộc tranh cãi về phân định lãnh thổ.

Tháng 6, Trung Quốc đã cử một tàu chiến thăm hữu nghị Singapore, con tàu này đã đi qua tất cả những vùng có tranh chấp trên biển Đông.

Cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc Kinh khiến một số nước láng giềng của nước này tìm kiếm sự bảo hộ của Mỹ. Nhất là năm 2010, Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton tuyên bố việc giải quyết công bằng các tranh chấp ở biển Đông nằm trong lĩnh vực lợi ích quốc gia của Mỹ.



Tàu Hải quân Mỹ tập trận ở Philippines.


Đồng thời, Mỹ là đồng minh quân sự của Philippines và một năm rưỡi trở lại đây tăng mạnh việc hợp tác quân sự với cả Việt Nam. Sau hết, trước đây một tuần lần đầu tiên Mỹ, Australia và Nhật Bản đã diễn tập chung ở biển Đông. Dù mỗi nước chỉ cử 1 tàu tham dự thì sự việc đã làm Bắc Kinh rất cảnh giác đề phòng.

Xét tổng thể, chính triển vọng hình thành một liên minh chống Trung Quốc mạnh ở biển Đông với sự tham gia của Mỹ đã thúc đẩy Trung Quốc hợp tác. Kết quả là đã xuất hiện “lộ trình” xác định những nguyên tắc chung ứng xử trong khu vực, trong đó có việc thông báo cho nhau về các cuộc chuyển quân và thăm dò địa chất. Song để chuyển nó thành bộ luật có tính ràng buộc pháp lý thì còn cần những cuộc đàm phán kéo dài.

Các nhà ngoại giao Trung Quốc định mô tả việc ký “lộ trình” như một bước đột phá. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chuyên trách các cuộc đàm phán này Lưu Chấn Dân tuyên bố: “Đây là văn kiện bản lề trong lĩnh vực hợp tác của Trung Quốc và ASEAN. Bây giờ chúng ta đã có những triển vọng lớn lao để hợp tác”.

Các nước láng giềng của Trung Quốc ở biển Đông tiếp nhận sự kiện này dè dặt hơn. Nguồn tin ở Bộ Ngoại giao Singapore giải thích cho phóng viên báo Kommersant: “Các cuộc đàm phán về văn bản ràng buộc pháp lý có thể còn kéo dài mấy năm nữa, còn ngay bây giờ cần sự bảo hiểm chống sự đối đầu với Trung Quốc”.

Theo ông, trong những điều kiện như vậy ASEAN muốn dựa vào việc lôi kéo các nước ngoài khu vực can dự vào đây để làm đối trọng đối với ảnh hưởng của Trung Quốc. Ông nói: “Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đã có hiện diện ở khu vực nhưng chúng tôi còn muốn thấy những nước khác can dự vào đây, trong đó có Ấn Độ, Australia. Chúng tôi đặt nhiều hi vọng vào Nga”.

Ngày 22/7, trong cuộc gặp cấp bộ trưởng Nga – ASEAN mà đại diện cho Nga là Bộ trưởng Ngoại giao Sergey Lavrov. Theo người nói chuyện với phóng viên báo Kommersant ở Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Moscow sẵn sàng đáp lại đề nghị của ASEAN, củng cố vị thế của mình ở khu vực.

Theo ông, những ưu tiên của Nga là hợp tác với Đông Nam Á nhằm hiện đại hoá (trước hết như thị trường tiêu thụ sản phấm của Nga), cũng như thúc đẩy sáng kiến mà Tổng thống Nga Dmitry Medvedev và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm đào đưa ra tháng 9/2010 về củng cố an ninh trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trên nguyên tắc an ninh toàn vẹn”

[BDV news]


>> Mỹ có nên mở rộng căn cứ quân sự ở Australia?



Sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến Mỹ phải lưu tâm. Có ý kiến cho rằng cường quốc này nên tăng cường quân sự ở Australia nhằm kiềm chế Trung Quốc.


Trong một bài luận gần đây, Tiến sĩ Toshi Yoshihara - một nhà nghiên cứu về chiến lược chính trị Trung Quốc, trường ĐH Hải chiến, đảo Rhodes, Hoa Kỳ đã đưa ra ý kiến cần tăng cường hơn nữa sự hiện diện của đội quân xứ cờ hoa tại Australia, đặc biệt là hải quân.

Triển khai kế hoạch này sẽ khẳng định và nâng cao vị thế của Mỹ tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, đồng thời đối phó với Trung Quốc – đất nước đang phát triển mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng bị coi là yếu tố tiềm ẩn gây bất ổn khu vực.


Tiến sĩ Toshi Yoshihara.


Ý kiến này xuất phát từ sự quan sát đánh giá về tiềm lực quân sự Mỹ và thỏa thuận tại Hội đàm quân sự Australia – Mỹ năm 2010.

Phân tích của Tiến sĩ Yoshihara chỉ ra rằng Mỹ nên mở rộng hơn nữa các căn cứ và cơ sở quân sự ở châu Á Thái Bình Dương vượt ra khỏi những khu vực mà Trung Quốc có thế gây ảnh hưởng trong tương lai.

Trong chiến lược đó, Australia có vị trí quan trọng. Sở dĩ nói vậy là bởi khoảng cách từ Australia đến các khu vực Mỹ quan tâm là rất thích hợp.

Những cơ sở vật chất và căn cứ sẵn có ở Australia có ý nghĩa lâu dài mang chiều sâu chiến lược. Chúng có thể bổ sung, thậm chí thay thế cho các căn cứ quân sự Guam và Diego Garcia.

Tuy nhiên ý kiến này không hoàn toàn được ủng hộ.

Theo ông Ron Huisken tại Đại học Quốc gia Australia, phản ứng này là không cần thiết và đã vượt quá phạm vi phân tích.


Ông Ron Huisken


Thậm chí ông còn cho rằng, kiến nghị của ông Yoshihara trong thời điểm hiện tại có thể truyền đi những tín hiệu chính trị sai lầm. Nếu Mỹ làm vậy, các nước đồng minh, bè bạn sẽ dấy lên mối nghi ngờ rằng Mỹ đã trở nên yếu ớt và phải “chật vật” trong việc kiềm chế Trung Quốc.

Năm 1992, Mỹ rời các căn cứ quân sự ở Philippines và chỉ để lại khoảng 100.000 nhân viên quân sự để thực hiện các nhiệm vụ. Sau đó Mỹ đã phải mất khá nhiều thời gian để khôi phục lòng tin về các khu vực Mỹ cam kết.

Quả thực sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc đang gia tăng không ngừng. Song mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn kinh tế, Mỹ vẫn có thể kìm hãm Trung Quốc trong vài năm tới.

Hai cường quốc Mỹ, Trung và các quốc gia khác trong khu vực Đông Á mới chỉ bắt đầu kiểm tra các cơ hội nhằm thiết lập một luật chơi chung sao cho phù hợp với các bên. Mỹ có quan hệ khá rộng và tầm ảnh hưởng mạnh mẽ. Về khoản này, Trung Quốc vẫn còn thua kém.

Có nhiều tín hiệu trái ngược nhau về việc liệu Trung Quốc có muốn nuôi dưỡng mối quan hệ quốc tế rộng rãi và thật lòng hay không.

Ông Huisken nhấn mạnh, "Điểm mấu chốt là chúng ta vẫn có cơ hội để thiết lập hòa bình và ổn định của khu vực Đông Á dựa trên một cơ cấu quyền lực mới và rộng hơn một cách an toàn”.

Tăng cường sự hiện diện của Mỹ về cơ bản là không thay đổi gì nhiều. Hơn nữa nếu xảy ra vào thời điểm này có thể sẽ không làm cải thiện các chi phí và mối quan tâm an ninh. “Thay vào đó, truyền đạt một tư duy mới, có thể là vị thế của Mỹ đối với châu Á sẽ hợp lý hơn”, ông Huisken cho hay.

[BDV news]


>> MiG-31 - 'Ngôi sao' không quân Nga


Với hệ thống radar mạnh kết hợp tên lửa đối không tầm xa, sức công phá lớn - MiG-31 là "cơn ác mộng" với bất kỳ loại chiến đấu cơ nào trên thế giới.

Ra đời từ cơn ác mộng của phòng không Israel và cả Không quân Liên Xô

Một trong các tiêm kích đánh chặn chủ lực của Không quân Liên bang Nga ngày nay, MiG-31 là sản phẩm kế thừa MiG-25, “nỗi kinh hoàng” một thời đối với các chuyên gia quân sự phương Tây mỗi khi cất cánh. Tiêm kích đánh chặn tầm xa MiG-25 thời điểm đó có tầm bay cao lên tới hơn 20.000m, tốc độ tối đa gấp 3 lần vận tốc âm thanh (Mach 3).

Sự kiện gây sửng sốt cho phương tây đó là vào năm 1971, MiG-25 cất cánh từ Ai Cập đã lượn vài vòng dạo chơi trên vùng trời Israel. Toàn bộ hệ thống phòng không và không quân Israel hoàn toàn bất lực đứng nhìn không có cách nào ngăn chặn. Tiêm kích đánh chặn F-4 của Israel đều bị MiG-25 cho "hít khói".

Tuy nhiên, đây cũng là “điểm yếu chết người” của MiG-25, việc bay ở tốc độ Mach 3,2 làm động cơ bị phá hủy hoàn toàn. Vì vậy, các phi công lái MiG-25 đều được khuyến cáo là chỉ bay ở vận tốc tối đa Mach 2,5.

Ngoài ra, MiG-25 còn mắc một số lỗi khác như: thiếu khả năng cơ động ở tốc độ đánh chặn, khó khăn khi hoạt động ở độ cao thấp và động cơ phản lực R-15B-300 thiếu hiệu quả với tốc độ siêu âm ở phạm vi chiến đấu ngắn. Vì lẽ đó, Liên Xô “âm thầm” nghiên cứu tiêm kích mới thay thế MiG-25.




Tiêm kích "tiền bối" MiG-25.


Và "người kế nhiệm", tiêm kích đánh chặn hạng nặng MiG-31.

Năm 1967, chương trình phát triển bắt đầu. Giai đoạn 1972-1975, nhà máy Mikoyan chế tạo nguyên mẫu MiG-31 mang tên Ye-155MP.

Ngày 16/9/1975, Ye-155MP (số hiệu 831) cất cánh lần đầu tiên dưới sự điều khiển của phi công thử nghiệm Alexandr Fedotov.

Năm 1976, nguyên mẫu thứ hai bay lần đầu. Các máy bay này đều đã hoàn thiện với hệ thống điện tử đầy đủ gồm cả radar Zaslon và cảm biến hồng ngoại.

Năm 1977, thêm 2 mẫu thử nghiệm nữa thử nghiệm bay. Các mẫu Ye-155MP này có sự đổi khác trong hệ thống vũ khí đó là thêm pháo 6 nòng cỡ 23mm Gsh-23M.

Cuối năm 1978, chương trình thử nghiệm hoàn thành. Trong quá trình đánh giá MiG-31, một số loại máy bay khác tham gia vào như Tu-104 lắp thử radar Zaslon, MiG-21 và MiG-25 thử nghiệm hệ thống tên lửa đối không R-33).

Năm 1979, dây chuyền sản xuất hàng loạt MiG-31 chính thức đi vào hoạt động. Chiếc MiG-31 cuối cùng chuyển giao năm 1994. Có tất cả 450 chiếc MiG-31 đã được sản xuất.Năm 1981, những tiêm kích đánh chặn MiG-31 đầu tiên được biên chế vào Không quân Liên Xô.

Những nhầm lẫn về MiG-31

Cũng giống như các thiết kế khác của Liên Xô, MiG-31 cũng bị bủa vây trong những suy đoán của tình báo Phương Tây.

Năm 1976, viên phi công phản bội tổ quốc, Viktor Belenko lái 1 chiếc MiG-25 chạy trốn sang Nhật Bản. Chỉ chờ có thế, người Mỹ như “chết đuối vớ được cọc” đã tích cực mổ xẻ MiG-25 và tìm ra được không ít bí mật.

“Kẻ phản bội” Belenko có lẽ nghe phong thanh về thiết kế mới của Liên Xô nên tiết lộ của Phương tây một số thông tin về loại máy bay mới. Belenko miêu tả thiết kế mới này là chiếc “Super Foxbat” với 2 chỗ ngồi, cửa hút khí giống với MiG-23 và có khả năng đánh chặn tên lửa hành trình. Thực tế, thì MiG-31 không hề giống với bất kỳ lời nói nào của Belenko.

Vệ tinh do thám của Phương Tây còn thu nhận được hình ảnh về loại máy bay lạ của Liên Xô hoạt động ở Trung tâm thử nghiệm Zhukovsky gần thị trấn Ramenskoye, họ suy đoán đây là phiên bản đánh chặn cánh cố định của chiến đấu cơ cánh cụp cụp cánh xòe và họ đặt tên nó là RAM-K. Trên thực tế, đây là chiến đấu cơ chiếm ưu thế trên không Sukhoi Su-27 “Flanker” không liên quan gì tới MiG-31.

Năm 1985, NATO mới có trong tay bức ảnh đầu tiên về MiG-31 do phi công Na Uy chụp được trên vùng biển Barent. Có những phỏng đoán cho rằng Liên Xô cố tính để lộ MiG-31 nhằm “quảng cáo” cho mẫu máy bay mới này.

Đặc điểm kỹ thuật

Kiểu dáng khí động học của MiG-31 đáp ứng yêu cầu bay tốc độ cao ở tầm thấp. Cấu trúc thân được hình thành từ: 49% thép Nikel, 16% Titan, 33% hợp kim nhôm và 2% composite.

Buồng lái MiG-31 thiết kế với hai chỗ ngồi: phi công ngồi trước và sĩ quan kiểm soát hệ thống vũ khí (Weapon system officer – WSO) ngồi sau. Sĩ quan WSO có trách nhiệm điều khiển hoạt động radar và triển khai vũ khí đối phó mục tiêu đối phương.

Việc sử dụng sĩ quan WSO cho phép giảm tải khối lượng công việc cho phi công chính và tăng thêm hiệu quả chiến đấu bởi sĩ quan WSO chỉ tập trung chiến đấu.


Hai vị trí ngồi của phi công và sĩ quan điều khiển vũ khí. Hai phi công đều trang bị ghế phóng khẩn cấp Zvezda K-36DM.

MiG-31 là chiến đấu cơ đầu tiên trên thế giới trang bị radar quét mảng pha điện tử chủ động, N007 Zaslon. Radar có tầm hoạt động 200km, bắt bám 10 mục tiêu và tiêu diệt 4 trong số đó cùng lúc.

MiG-31 còn trang bị cảm biến tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại (IRST), radar theo dõi trong khi quét (TWS), hệ thống radar cảnh báo sớm (RWR), thiết bị nhận diện bạn – thù (IFF), thiết bị truyền nhận dữ liệu không đối không và không đối đất.

Về hệ thống vũ khí, tiêm kích đánh chặn MiG-31 có khả năng tiêu diệt các mục tiêu trên không ở cả tầm ngắn, tầm trung và tầm xa. Chiến đấu cơ thiết kế một pháo Ghs-6-23M (6 nòng cỡ 30mm) đạt tốc độ bắn siêu nhanh 6.000-8.000 viên/phút (lượng đạn dự trữ 206 viên) phù hợp với không chiến tầm cực gần.

Hỏa lực đối không chủ lực của MiG-31 là 4 tên lửa không đối không tầm xa Vympel R-33. Tên lửa được dẫn đường bằng quán tính kết hợp radar bán chủ động. R-33 có tầm bắn khoảng 160km (hoặc 228km với biến thể R-33S).


Bốn tên lửa không đối không tầm xa R-33 lắp dưới thân.

R-33 lắp đầu đạn nặng 47,5kg cùng tốc độ hành trình Mach 4,5 sẽ là sự kết hợp hoàn hảo đủ sức tiêu diệt các loại máy bay trinh thám SR-71 hay “pháo đài bay” B-1, B-52 của Mỹ. Ngoài ra, MiG-31 mang được 4 tên lửa đối không tầm ngắn R-60 và 2 tên lửa tầm trung R-40TD1.

Tiêm kích đánh chặn siêu âm MiG-31 trang bị hai động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy Solovyev D-30F6 cho phép đạt tốc độ tối đa Mach 2,83 (3.000km/h), tầm hoạt động tối đa 3.300km, trần bay trên 20.000m.

Ở trần bay thấp, MiG-31 vẫn đạt tốc độ siêu âm Mach 1,2 (1.500km/h) và như vậy nó đã khắc phục được điểm yếu của MiG-25. Dù có tầm hoạt động lý thuyết lớn hơn 3.000km nhưng thực tế bán kính chiến đấu của máy bay chỉ khoảng 720km với tốc độ trung bình Mach 2,35.

Biến thể nâng cấp MiG-31BM

Thời kỳ Hậu Xô Viết, nền kinh tế Nga ảnh hưởng nặng nề, ngân sách quốc phòng cắt giảm mạnh dẫn tới việc nhiều loại vũ khí không được bảo dưỡng, hỏng hóc. Các đơn vị không quân MiG-31 cũng chịu chung số phận.

Thời điểm năm 1996, chỉ khoảng 20% số MiG-31 còn hoạt động tốt. Khi nền kinh tế Nga khởi sắc, ngân sách quốc phòng đảm bảo thì giới lãnh đạo Nga khôi phục hoạt động MiG-31.

Năm 2006, 75% số tiêm kích MiG-31 đưa vào hoạt động đầy đủ. Không quân Nga còn tiến hành hiện đại hóa MiG-31 kéo dài thời gian sử dụng đồng thời đáp ứng nhu cầu chiến tranh hiện đại.

Tháng 8/2010, Quân đội Nga công bố thông tin hoàn thành chương trình nâng cấp MiG-31 thành biến thể MiG-31BM. Với việc này, MiG-31 của Không quân Nga có thể phục vụ tốt trong nhiều năm tới.


Biến thể cải tiến MiG-31BM có khả năng mang nhiều vũ khí công nghệ mới.

MiG-31BM được trang bị radar mảng pha Zaslon M mạnh hơn radar đời đầu lắp trên MiG-31. Zaslon M có tầm hoạt động 300-400km, theo dõi 24 mục tiêu và tiêu diệt 6 trong số đó cùng lúc.

Buồng lái của máy bay tiện nghi hơn đem lại sự thoải mái cho phi công, nó được lắp màn hình HUD và màn hình màu tinh thể lỏng hiển thị thông số kỹ thuật bay cũng như tình trạng vũ khí.

Vũ khí đối không chủ lực của MiG-31BM là tên lửa tầm xa R-37 mạnh hơn so với R-33. R-37 có tầm bắn từ 150-398km, tốc độ hành trình Mach 6, hệ dẫn đường kết hợp quán tính và radar chủ động, lắp đầu đạn nổ phân mảnh 60kg. MiG-31BM mang tên lửa đối không tầm ngắn - tầm trung tiên tiến hơn như R-73 và R-77.

MiG-31BM có thể thực hiện nhiệm vụ chế áp hệ thống phòng không đối phương (SEAD) bằng tên lửa chống radar Kh-31P, Kh-58. Trong nhiệm vụ không đối đất, MiG-31BM tấn công tiêu diệt mục tiêu bằng tên lửa đối đất Kh-29 hoặc tên lửa hành trình đối đất tầm xa Kh-59.

Dù có tới gần 500 chiếc được chế tạo nhưng MiG-31 không hề được xuất khẩu ra nước ngoài. Sau khi Liên Xô giải thể năm 1991, cũng như nhiều loại vũ khí khác. MiG-31 được chia cho các thành viên liên bang. Liên bang Nga thừa hưởng nhiều nhất (khoảng 400 chiếc) và một số ít cho Kazakhstan.

Thực tế, một vài quốc gia đã từng cố gắng nhập khẩu MiG-31. Điển hình là Trung Quốc, năm 1992 Quân đội Trung Quốc lên kế hoạch mua 24 MiG-31 của Nga. Họ dự tính nhập các bộ phận máy báy về lắp ráp tại nhà máy Thẩm Dương, với tốc độ “ra lò” 4 chiếc/tháng. Trung Quốc còn tính tới việc ký hợp đồng kèm chuyển giao giấy phép sản xuất 700 chiếc, ít nhất 200 chiếc sẽ đi vào phục vụ năm 2010. Dù vậy, hợp đồng “béo bở” này không bao giờ được thực hiện.

Sau đó, Trung Quốc thay thế bằng hợp đồng mua và lắp ráp Su-27/30. Trung Quốc đã ngang nhiên vi phạm bản quyền tự ý sao chép công nghệ Su-27 và cho ra đời thiết kế trái phép J-11.

>> Nhận diện 5 sát thủ đình đám của tàu sân bay



Các chiến đấu cơ của tàu sân bay, tàu chiến là con cưng của bầu trời "chiến", luôn thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận bởi tính chất đặc biệt của chúng.


Các chiến đấu cơ được trang bị cho tàu sân bay hay tàu chiến đều sử dụng tàu sân bay và tàu chiến như là một đường băng, chúng được sử dụng để tấn công các mục tiêu trên không, trên biển, dưới nước và mặt đất, hoặc thực hiện các nhiệm vụ cảnh báo sớm, do thám, tuần tra, hộ tống, thả mìn, rà phá bom mìn và hạ cánh thẳng đứng. Đây là lực lượng quan trọng để giành và giữ quyền kiểm soát, quyền làm chủ biển trên chiến trường biển.

Căn cứ vào phạm vi sử dụng, các chiến đấu cơ này của hải quân được chia thành nhiều loại: máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, máy bay tuần tra chống tàu ngầm, máy bay vận tải và máy bay cứu hộ. Chúng có tính năng khác nhau, tiêu chuẩn đánh giá khác nhau.

Bee giới thiệu 5 loại máy bay nổi tiếng hiện đang được trang bị cho tàu chiến.

1. Máy bay tấn công Super Hornet F/A-18E/F

F/A-18E/F là máy bay chủ lực hiện nay của tàu chiến hải quân Mỹ, là biểu tượng của sức mạnh hải quân Mỹ. Ở đâu có tàu sân bay Mỹ, ở đó không thể thiếu bóng dáng Super Hornet. Nó chủ yếu được sử dụng cho phòng không hạm đội, và có thể được sử dụng cho tấn công đối đất.



Máy bay chiến đấu Super Hornet F/A-18E/F của quân đội Mỹ.


F/A-18E/F được trang bị cho tàu sân bay dựa trên nền tảng F/A-18C. Trong đó, F/A-18E là loại 1 chỗ ngồi, còn F/A-18F là loại 2 chỗ ngồi.

So với F/A-18C/D, loại máy bay này tiếp tục kế thừa được ưu điểm là độ tin cậy và khả năng bảo vệ tốt, khả năng bay tốt và phóng vũ khí có độ chính xác cao, đồng thời đã được nâng cấp về nhiều mặt gồm: thiết kế ngoại hình theo hướng tăng cường khả năng tàng hình; trang bị radar APG-79 với khả năng định vị được xe đang di chuyển hay đứng im với phạm vi tầm bắn của vũ khí điển hình, độ chính xác đạt 0,1 - 0,3 m; hành trình và tải trọng được tăng đáng kể; khả năng tấn công chính xác vào ban đêm và khả năng tác chiến thông tin tốt hơn.



Các chủng loại vũ khí được lắp đặt trên Super Hornet F/A-18E/F.

Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 6/2002.
- Tính năng: Dài 18,31 m, cao 4,88 m, sải cánh (chứa tên lửa) 13,62 m, (gập cánh) 9,32 m, diện tích cánh 46,45 m². Trọng lượng rỗng 13.387 kg, nhiên liệu tối đa ở bên trong 6.531 kg, nhiên liệu tối đa bên ngoài 4.436 kg, khả năng tải trọng tối đa bên ngoài là 8.051 kg, trọng lượng cất cánh (nhiệm vụ tấn công) là 29.937 kg. Tốc độ bay tối đa M1.8 +, tốc độ tối đa (lực đẩy trung bình) là M1.0 +, trần bay 15.240 m, thời gian tuần tra trên không (mang 6 quả tên lửa cự ly trung bình, 3 thùng dầu phụ 1.818 lít, cách tàu sân bay 278 km) là 2 giờ 15 phút.

- Hệ thống vũ khí: 2×AIM-9 Sidewinder ở 2 đầu cánh; AIM-120 AMRAAM; AIM-7 Sparrow; AGM-84 Harpoon; AGM-88 HARM; AGM-65 Maverick; Bom AGM-154 Joint Standoff Weapon; Bom thông minh JDAM; loạt bom mục đích thông thường Mk80; CBU.

2. Máy bay chiến đấu Rafale M

Rafale là máy bay chiến đấu đa năng do công ty Dassault, Pháp nghiên cứu chế tạo cho hải quân, không quân Pháp. Loại máy bay này có 2 động cơ, cánh tam giác, có tính linh hoạt cao. Máy bay chiến đấu 1 chỗ ngỗi Rafale M thiết kế cho hải quân đã đưa vào trang bị cho tàu sân bay từ năm 1998.



Máy bay chiến đấu một chỗ ngồi Rafale M của hải quân Pháp.


Rafale có thể hoàn thành các nhiệm vụ như tấn công đối đất, chiếm ưu thế trên không vào cả ban đêm và trong mọi điều kiện thời tiết. Nó có tính cơ động và nhanh nhạy cao, có thể cất cánh và hạ cánh trong cự ly ngắn, có khả năng tác chiến vượt tầm nhìn và khả năng tàng hình nhất định. Tính năng chung của nó đan xen giữa máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba và thế hệ thứ tư.

So với Rafale C, Rafale D, Rafale E, thì Rafale M đã có một số cải tiến về thân máy bay để thích ứng khi cất cánh, hạ cánh trên tàu sân bay. Mỗi chiếc Rafale có giá rất đắt, hiện chưa xuất khẩu. Ralafe đã tham gia không kích Libya vừa qua.

Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: năm 1998.
- Tính năng: Dài 15,3 m, cao 5,34 m, sải cánh 10,9 m, diện tích cánh 46 m², trọng lượng rỗng 9.060 kg, trọng lượng cất cánh tối đa 21.500 kg, tốc độ tối đa 2.0 Mach, bán kính tác chiến 1.093 km.

- Hệ thống vũ khí: Được trang bị một pháo 30 mm GiatM, tốc độ phóng 2.500 phát/phút; tổng cộng có 13 giá treo ở bên ngoài (loại của không quân là 14), tải trọng (đạn dược) bình thường là 6.000 kg, tải trọng tối đa 8.000 kg; khi thực hiện nhiệm vụ đánh chặn có thể mang theo 8 quả tên lửa "Mika" và 2 thùng dầu phụ; khi tấn công đối đất có thể mang theo 16 quả bom, 2 quả tên lửa "Mika" và 2 thùng dầu phụ 1.300 lít.

3. Máy bay chiến đấu Su-33

Su-33 là máy bay tác chiến chủ lực của tàu sân bay Nga, đồng thời là máy bay chiến đấu hạng nặng duy nhất được trang bị cho tàu chiến trên thế giới hiện nay, có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ như giành quyền kiểm soát trên không, phòng ngự hạm đội, chi viện trên không và do thám.



Máy bay chiến đấu Su-33 đang bay với tốc độ cao.

Năm 1975, trên nền tảng Su-27, Cục Thiết kế Sukhoi của Liên Xô đã bắt đầu nghiên cứu phát triển máy bay trang bị cho tàu chiến, mô hình ban đầu được đánh số là T10K. Tháng 8/1987 thực hiện chuyến bay đầu tiên, khi đó gọi là Su-27K, tháng 11/1989 lần đầu tiên được thử nghiệm trên tàu sân bay mang tên Tbilisi (tức Kuznetsov sau này), không lâu sau đổi tên thành Su-33, NATO gọi là Flanker-D. Tháng 4/1993 được trang bị cho Hải quân Nga, tháng 8/1998 chính thức được đưa vào biên chế tác chiến, hiện có 24 chiếc được trang bị cho tàu sân bay Kuznetsov của Nga.



Máy bay Su-33 trên tàu sân bay của hải quân Nga.


Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: tháng 4/1993.
- Tính năng: Sải cánh 14,7 m (gấp cánh 7,4 m), dài 21,185 m, cao 5,9 m, trọng lượng rỗng 17 tấn, tải trọng mang theo bên ngoài tối đa 6,5 tấn, trọng lượng cất cánh bình thường 29,94 tấn, tốc độ lớn nhất (cao 11.000 m so với mặt đất) 2.300 km/giờ, tốc độ tối thiểu là 240 km/giờ, tầm bay thực tế là 3.000 km, khoảng cách cất cánh (dốc 14 độ) 120 m, trọng lực G tối đa 8G.

- Hệ thống vũ khí: 1 khẩu pháo 30 mm GSh-301 (150 viên đạn); tên lửa không đối không tầm trung R-27; tên lửa không đối không tầm gần R-73; tên lửa chống hạm siêu âm cỡ lớn Kh-41 mới, vận tốc cất cánh tối đa đạt 250 km.

4. Máy bay chiến đấu MiG-29K

MiG-29K là một loại máy bay “xấu số”. Ngay từ năm 1984, chính quyền Liên Xô đã chính thức phê duyệt phát triển máy bay trang bị cho tàu chiến MiG-29K trên nền tảng của máy bay chiến đấu MiG-29; năm 1989, MiG-29K đã thử nghiệm cất cánh và hạ cánh thành công trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov; đến giữa năm 1992, hai máy bay nguyên mẫu MiG-29K đã hoàn thành 420 lần cất cánh và 80 lần hạ cánh, đặt nền tảng vững chắc trang bị máy bay này cho tàu sân bay.



Máy bay chiến đấu MiG-29K


Tuy nhiên, sau khi Liên Xô sụp đổ, do sự chi tiêu quân sự thiếu hụt nghiêm trọng, quân đội Nga không thể đồng thời phát triển và đặt mua hai máy bay MiG-29K và Su-33. Cuối cùng, lãnh đạo quân đội Nga đành phải từ bỏ MiG-29K có bán kính tác chiến và tải trọng nhỏ hơn, quyết định sử dụng Su-33.

Năm 1996, để đáp ứng nhu cầu máy bay của hải quân Ấn Độ, nước có có thể mua tàu sân bay Đô đốc Gorshkov, công ty MiG của Nga đã đề xuất cải tiến MiG-29K nguyên mẫu thành MiG-29K mới cùng với phương án xuất khẩu loại máy bay này 2 chỗ ngồi. Năm 2009, Ấn-Nga đã ký kết một gói thỏa thuận, xuất khẩu máy bay MiG-29K cho Ấn Độ, số phận của loại máy bay này có bước ngoặt.

Đồng thời, trong nội bộ Hải quân Nga ngày càng có nhiều tiếng nói mong muốn thay thế Su-33 của tàu sân bay Kuznetsov bằng MiG-29K mới với giá thành thấp hơn, tính năng tác chiến tổng hợp mạnh hơn, diện tích chiếm dụng ít hơn. Có thể dự kiến, MiG-29K sẽ trở thành lực lượng quan trọng của không quân Hải quân Nga trong tương lai.



Máy bay MiG-29UBK của không quân Ấn Độ tiến hành thử nghiệm tiếp dầu trên không.


Các thông số chính:

- Thời gian đưa vào sử dụng: năm 2010, phục vụ trong Hải quân Ấn Độ.
- Tính năng: Trọng lượng tối đa 22,4 tấn, động cơ là RD-33, lực đẩy là 8.300 kg, tốc độ tối đa là 2.200 km, trần bay hiệu quả là 17.500 m, phạm vi hoạt động là 1850 km; nếu chỉ mang theo 3 thùng dầu phụ, phạm vi của nó có thể đạt 3000 km; tải trọng (đạn dược) là 4,5 tấn.

- Hệ thống vũ khí: 8 loại tên lửa không đối không, gồm R-60MK và R-73E tầm gần, R-77RVV-AE tầm xa và R-27ER/ET tầm trung; về mặt chống hạm, trang bị tên lửa chống radar đầu dò thụ động Kh-31, tên lửa Kh-35 và tên lửa chống radar; về mặt tấn công đối đất, trang bị 25 loại vũ khí, gồm bom dẫn đường chính xác KA B-500KR, Kh-25ML/25MP, Kh-29T, Kh-31G/31A và Kh-35U; ngoài ra còn trang bị bom không dẫn đường, tên lửa, pháo 30 mm GS H-301, luôn sẵn sàng tác chiến với 150 viên đạn.

5. Máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler

EA-18G được công ty Boeing phát triển trên nền tảng Super Hornet F/A-18F hai chỗ ngồi, độ cong cao giúp nó có thể thực hiện rất tốt nhiệm vụ tấn công điện tử (AEA) trên sàn tàu sân bay hoặc trên mặt đất. EA-18G "Growler" có thể mang theo tên lửa không đối đất chống radar, có thể cất cánh, hạ cánh trong cự ly cực ngắn, đồng thời có khả năng gây nhiễu thiết bị điện tử và radar của đối phương. Nó sẽ thay thế EA-6B “Prowler” hiện nay của hải quân Mỹ (trang bị từ năm 1971).



Máy bay tấn công EA-18G Growler do công ty Boeing sản xuất.


"Growler" sử dụng hệ thống radar quét điện tử tiên tiến AESA, hệ thống thông tin đã được cải tiến, hệ thống hỏa lực mạnh hơn (EA-18G có 10 điểm treo vũ khí, còn EA-6B chỉ có 5 điểm treo vũ khí). Ngoài ra, EA-18G có tốc độ bay, khả năng tồn tại trên chiến trường cũng lớn hơn EA-6B.

EA-18G "Growler" có khả năng tấn công điện từ rất mạnh. Dựa vào máy thu chiến thuật ALQ-218V (2) và máy làm nhiễu điện tử chiến thuật mới ALQ-99 do công ty Northrop Grumman thiết kế, EA-18G có thể thực hiện có hiệu quả cao các nhiệm vụ áp chế của hệ thống radar tên lửa đất đối không.

Khác với trước đây, EA-18G có thể thông qua phân tích tần suất phóng tự động theo dõi tư liệu của đối tượng gây nhiễu, áp dụng “phương pháp trắc lượng can thiệp đường cơ sở dài” tiến hành định vị chính xác hơn đối với nguồn bức xạ để thực hiện “gây nhiễu theo kiểu bám sát-ngắm trúng”. Biện pháp này đã tập trung rất lớn năng lượng gây nhiễu, lần đầu đã thực hiện “tấn công chính xác” lĩnh vực phổ điện từ.

Với việc sử dụng công nghệ trên, EA-18G có thể gây nhiễu hiệu quả radar và các thiết bị điện tử khác ngoài 160 km, vượt khỏi phạm vi tấn công của bất kỳ hỏa lực phòng không nào hiện có. Không chỉ như vậy, máy thu chiến thuật ALQ-218 (2) được lắp đặt ở đầu cánh còn là hệ thống duy nhất trên thế giới có thể gây nhiễu hệ thống thông tin của đối phương trong khi bản thân nó vẫn có khả năng nghe lén điện tử.

So sánh EA-18G Growler và F/A-18F Super Hornet:




[Bee news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang