Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Hải quân Ấn Độ

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Ấn Độ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hải quân Ấn Độ. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

>> Ấn Độ giúp VN xây dựng hạm đội tàu ngầm



Trong khuôn khổ chương trình xây dựng đối tác chiến lược, Hải quân Ấn Độ sẽ giúp đỡ Hải quân Việt Nam phát triển hạm đội tàu ngầm.


http://nghiadx.blogspot.com
Với kinh nghiệm phong phú của mình Ấn Độ sẽ giúp Việt Nam xây dựng hạm đội tàu ngầm. Trong ảnh, một sĩ quan hải quân Ấn Độ quan sát bên ngoài tàu ngầm Kilo bằng kính tiềm vọng.


Hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng là một phần cơ bản trong khuôn khổ xây dựng đối tác chiến lược giữa Ấn Độ và Việt Nam.

Cũng giống như Việt Nam, trong biên chế của quân đội Ấn Độ nói chung và hải quân nói riêng có rất nhiều trang thiết bị có nguồn gốc từ Liên Xô và Nga.

Ấn Độ là một trong nhưng quốc gia nước ngoài sử dụng tàu ngầm Kilo sớm nhất, với những kinh nghiệm phong phú. Hải quân Ấn Độ sẳn sàng chia sẽ điều này với Hải quân Việt Nam cho kế hoạch xây dựng hạm đội tàu ngầm Kilo trong thời gian tới.

Một quan chức của Hải quân Ấn Độ cho biết: “Chúng tôi đang giúp đỡ Việt Nam trong việc xây dựng hạm đội tàu ngầm của họ. Kinh nghiệm của chúng tôi trong vận hành tàu ngầm Kilo sẽ được chia sẻ với họ”.

Vị quan chức này cũng từ chối cung cấp thông tin, liệu các thủy thủ Việt Nam có được cung cấp kinh nghiệm thực tế trên các tàu ngầm Kilo của Ấn Độ hay không.

Việt Nam đã chính thức công bố việc mua 6 tàu ngầm điện diesel từ Nga vào năm 2009 và gần đây nhất, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng đã lên tiếng xác nhận việc xây dựng hạm đội tàu ngầm trong khoảng 5-6 năm tới.

Hiện tại trong biên chế Hải quân Ấn Độ đang có 10 tàu ngầm điện diesel lớp Sindhughosh, đây là biến thể xuất khẩu cho Ấn Độ của tàu ngầm Kilo thuộc dự án 877EKM.

Ông Uday Bhaskar, Giám đốc Viện Hải dương Commodore nhấn mạnh, Việt Nam là một đối tác chiến lược quan trọng của Ấn Độ, chúng tôi có nhiều điểm chung trong các vấn đề lịch sử. “Cả hai chúng tôi có rất nhiều vũ khí trang bị từ Nga, vì thế Ấn Độ có thể mang lại nhiều hỗ trợ kỷ thuật cho phía Việt Nam”, ông nói.

Trước đó trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ AK Antony đến Việt Nam năm 2010, phía Ấn Độ đã cam kết tăng cường giúp đỡ Việt Nam hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân.

Trong đó có chương trình nâng cấp các chiến hạm có từ thời Liên Xô, cũng trong khuôn khổ chuyến thăm này, phía Ấn Độ đã chuyển giao cho Hải quân Việt Nam rất nhiều trang thiết bị kỹ thuật để nâng cấp các chiến hạm từ thời Liên Xô.

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

>> So sánh tàu sân bay Trung Quốc và Ấn Độ



Không lâu sau khi Trung Quốc chính thức công bố các bức ảnh mới nhất về tàu sân bay Thi Lang, Ấn Độ cũng cho thấy họ nhận tàu sân bay đầu tiên của mình.


Một điều khá trùng hợp là cả hai đều hoàn thành tàu sân bay của mình bằng cách mua lại và hoán cải những chiếc tàu chiến dưới thời Liên Xô cũ.

Cụ thể, trong khi Trung Quốc mua lại tàu sân bay đang đóng dỡ Varyag, đang trùm mền tại cảng của Biển Đen chờ bán sắt vụn từ Ukraine. Còn Ấn Độ thì mua lại chiếc tàu sân bay trực thăng Đô đốc Gorshkov (tuần dương hạm Baku), thuộc lớp tàu sân bay trực thăng Kiev từ hải quân Nga.

So sánh hai tàu sân bay

Đối với Varyag (Thi Lang theo cách gọi của Trung Quốc), đây là một tàu sân bay đúng nghĩa hơn. Tàu thuộc lớp Kuznetsov với các thông số cơ bản: dài: 300m, rộng: 38m, độ mớn nước: 11m, lượng giãn nước: 65.000 tấn.


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu sân bay Varyag đang được tân trang tại cảng Đại Liên, Trung Quốc.


Đây là một kiểu tàu sân bay chiến thuật. Về sức chứa, Varyag có khả năng chứa 26 máy bay chiến đấu cùng với 24 trực thăng.

Theo các thông tin được công bố trên các trang mạng quốc phòng Trung Quốc giời gian qua, Varyag được trang bị hệ thống hỏa lực rất mạnh mẽ, hoàn toàn có thể đem so sánh với các tàu khu trục hay tuần dương hạng nặng khác.

Nguyên bản tàu sân bay trực thăng Đô đốc Gorshkov chỉ bố trí hoạt động được các máy bay trực thăng và máy bay cất hạ cánh thẳng đứng kiểu Yak-38M.

Hai đường băng được thiết kế hơi xéo so với boong tàu, với chiều dài là 160 và 180 mét. Phần boong tàu được mở rộng hơn với nguyên bản.

Để có thể sử dụng các máy bay chiến đấu cất cánh thông thường, toàn bộ hệ thống tên lửa chống hạm P-500, pháo hạm 130mm được tháo bỏ để nhường chỗ cho đường băng. Trên tàu sân bay lớp này, 2 máy bay không thể cất cánh cùng lúc, đây là một hạn chế lớn của các tàu sân bay của Nga.


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu sân bay Đô đốc Gorshkov sau khi được hoán cải và nâng cấp.


So với tàu sân bay Varyag thì tàu sân bay Đô đốc Gorshkov (hay INS Vikramaditya theo cách đặt tên của Ấn Độ) “mi nhon” hơn. Thông số cơ bản như sau: Chiều dài: 283m, rộng: 31m, mớn nước 8,2m, lượng giãn nước 45.000 tấn.

Khả năng mang máy bay của INS Vikramaditya khiêm tốn hơn Thi Lang, tàu sân bay này chỉ có thể mang 16 máy bay chiến đấu Mig-29K, tối đa là 16 chiếc trực thăng Ka-28 hoặc Ka-31, bằng một nửa so với tàu sân bay của Trung Quốc.

Hệ thống vũ khí trên tàu thiên về chức năng phòng thủ với 8 hệ thống phòng thủ tầm cực gần Kashtan.

Điểm mạnh của tàu sân bay INS Vikramaditya là cấu trúc thượng tầng không phải thay đổi quá nhiều. Hệ thống điện tử dựa trên hệ thống radar mảng pha đa chức năng, kết hợp với trực thăng chỉ huy và cảnh báo sớm trên không Ka-31AEW.

Toàn bộ công việc hoán cải và nâng cấp được thực hiện bởi các chuyên gia của Nga, những người có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này.

Với tàu sân bay Varyag, toàn bộ công việc hoán cải và nâng cấp được thực hiện tại Trung Quốc. Toàn bộ cấu trúc thượng tầng của tàu phải thiết kế lại để phù hợp với một radar mảng pha đa chức năng sản xuất trong nước.


http://nghiadx.blogspot.com

Tiêm kích trên hạm Mig-29K đã sẳn sàng hoạt động.


Nhiều ý kiến cho rằng, sẽ có sự khác biệt về chất lượng của hai tàu sân bay này.

Với tàu sân bay Varyag, hiện tại Trung Quốc chưa xác định rõ loại máy bay chiến đấu nào sẽ được trang bị trên tàu. Nguyên mẫu tiêm kích trên hạm nội địa J-15 đang trong giai đoạn phát triển, chắc chắn chưa thể triển khai.

Công tác đàm phán mua tiêm kích trên hạm Su-33 từ Nga đang gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, Ấn Độ đã xác định rõ ràng MiG-29K sẽ là chiến đấu cơ hoạt động trên tàu sân bay của họ, và mọi việc đã sẵn sàng.


http://nghiadx.blogspot.com

Tiêm kích trên hạm J-15 vẫn chỉ là mẫu thử nghiệm chưa sẳn sàng hoạt động.


Xét về công nghệ và khả năng không chiến, MiG-29K được đánh giá vượt trội so với Su-33, chính Không quân hải quân Nga đang dự định thay thế toàn bộ Su-33 trên tàu sân bay Kuznetsov bằng MiG-29K.

Kết luận, tàu sân bay Varyag hay Thi Lang của Trung Quốc có lợi thế về khả năng chuyên chở trong khi tàu sân bay INS Vikramaditya của Ấn Độ lại có lợi thế về tiêm kích trên hạm.

“Kẻ tám lạng, người nữa cân”, sự xuất hiện của hai tàu sân bay này sẽ làm thay đổi đáng kể tình hình an ninh quốc phòng tại châu Á.

>> 'Trung Quốc có 1 thì Ấn Độ có 2 tàu sân bay'



Một sĩ quan Hải quân Ấn Độ cho rằng tuyên bố của Trung Quốc về tàu sân bay đầu tiên sẽ chạy thử trên biển vào cuối năm nay đang gây chấn động trên toàn thế giới.

Tuy nhiên Ấn Độ cũng cảm thấy không quá lo ngại dù điều này đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ chen lấn không gian chiến lược ở Ấn Độ Dương.

http://nghiadx.blogspot.com


Thứ nhất, dù tàu sân bay này có đi được biển vào năm 2012-2013 thì Trung Quốc cũng phải mất thêm một số năm nữa để nắm vững nghệ thuật phức tạp của việc điều khiển máy bay tiêm kích trên một sân bay di động trên biển, rồi còn phải biến toàn bộ hoạt động của tàu sân bay thành một pháo đài di động, vũ khí tiến công mạnh.

Trong khi đó, tính đến nay, Ấn Độ đã có “nghề” điều khiển những chiếc tàu sân bay “boong phẳng” được 50 năm từ sau khi hạ thủy chiếc tàu INS Vikrant, cùng với phi đội máy bay Sea Hawk vào năm 1961. Hiện nay Hải quân Ấn Độ đang điều khiển tàu INS Viraat 28.000 tấn với 11 máy bay tiêm kích Sea Harrier hạ cánh thẳng đứng.

Một quan chức Hải quân Ấn Độ nhận xét: “Tàu sân bay có thể đi được 600 hải lý/ngày (khoảng 25 hải lý/giờ) rõ ràng là phương tiện để thay đổi thế trận. Nhưng phải mất rất nhiều thời gian để điều khiển nó một cách có hiệu quả xét về góc độ học thuyết hạm đội và sách lược, đào tạo và kỹ thuật".

S quan này cho rằng điều đáng lưu ý ở đây là Trung Quốc có được tàu sân bay đầu tiên bằng cách tu sửa lại con tàu sân bay hoen rỉ 67.000 tấn mang tên Varyag do Liên Xô chế tạo dở dang trong những năm 1980.

Thứ hai, Ấn Độ đã chuẩn bị “biên chế” các phi đội MiG-29K, những máy bay tiêm kích siêu âm đầu tiên mà họ có được, cho tàu sân bay Vikramaditya (hiện là tàu Đô đốc Gorshkov) mà phía Nga sẽ bàn giao vào đầu năm 2013. Hơn nữa, tàu sân bay 40.000 tấn do Ấn Độ tự đóng lấy tại cảng Cochin “sẽ được hạ thủy trong vài tháng tới” sẽ đi vào hoạt động vào năm 2015.

Với những gì có được về công nghệ tàu sân bay, Ấn Độ đang nhằm mục tiêu có được 2 “Nhóm tàu sân bay - tiến công” (CBG) được trang bị các máy bay tiêm kích, máy bay trinh sát, tàu khu trục, tàu ngầm, tàu khu trục nhỏ và tàu tiếp dầu vào năm 2015. Về phương diện này, hiện nước Mỹ đã có đến 11 CBG để triển khai sức mạnh trên toàn cầu.

Viên sĩ quan này khẳng định: “Tàu sân bay Vikramaditya sẽ mang lại cho Ấn Độ những khả năng tấn công biển thực thụ chưa từng có. Với khả năng tiếp dầu trên không và tầm hoạt động tăng gấp đôi cùng với các tên lửa vượt tầm ngắm (BVR) và tên lửa chống tàu có điều khiển, bom thông minh và trang bị tên lửa, những chiếc MiG-29K sẽ tăng khả năng chiến đấu lên gấp 4 lần so với các máy bay tiêm kích Sea Harrier.”

Hải quân Ấn Độ đã có 11 trong số 45 máy bay MiG-29K mà Ấn Độ đã đặt hàng với hóa đơn trên 2 tỷ USD. Hai bên đã nhất trí bàn giao tàu Vikramaditya cho Ấn Độ vào đầu năm 2013 sau khi đã nâng giá khời đầu năm 2004 từ 974 triệu lên 2,33 tỷ USD.

Cuối cùng, viên sĩ quan quả quyết: “Tàu sân bay Vikramaditya sẽ bắt đầu chạy vào cuối năm 2011 sau các thử nghiệm về độ cản và rẽ nước. Sau đó sẽ tiến hành các thử nghiệm rộng rãi khác trên biển. Hơn 150 sĩ quan và thủy thủ Ấn Độ đã được đưa sang Nga đào tạo. Đợt tiếp theo sẽ sang vào tháng 1/2012”.

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

>> Sẽ không còn độc quyền về công nghệ quân sự?



Các cường quốc mới nổi bắt đầu sở hữu công nghệ quân sự mũi nhọn đánh dấu cục diện thế giới mới đang hình thành.

Gần đây, sau khi Ấn Độ bắt đầu tuyên bố bắt đầu chế tạo chiếc tàu ngầm hạt nhân thứ hai, thì Brazil cũng cho biết, họ cũng bắt đầu tự chế tạo tàu ngầm hạt nhân và cho biết, họ đã có kế hoạch này từ năm 2008: chế tạo 4 tàu ngầm thông thường và 1 tàu ngầm hạt nhân. Như vậy, khi kế hoạch này được hoàn thành, Brazil sẽ kế tiếp Ấn Độ trở thành nước sở hữu công nghệ tàu ngầm hạt nhân thứ 7 trên thế giới.



Mô hình tàu ngầm hạt nhân tương lai của Brazil.


Việc Ấn Độ, Brazil phát triển tàu ngầm hạt nhân không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng tàu ngầm hạt nhân là sản phẩm mũi nhọn của công nghệ quân sự, vì vậy nó được dư luận chú ý.

Phá vỡ độc quyền về công nghệ quân sự mũi nhọn

Đã từ lâu, chỉ có một số ít quốc gia nắm được công nghệ quân sự mũi nhọn, bao gồm máy bay chiến đấu tiên tiến, tên lửa phòng không khu vực (S-300 của Nga, Patriot của Mỹ), tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân…; ngoài ra còn bao gồm lĩnh vực công nghệ đỉnh cao như vũ khí hạt nhân, công nghệ vũ trụ…

30 năm trước, chỉ có các nước phát triển như Mỹ, Nga, Pháp, Anh có khả năng nghiên cứu chế tạo máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba. Còn hiện nay, cũng chỉ có một số nước có thể chế tạo tên lửa phòng không tầm xa như S-300, Patriot. Và rất ít nước sở hữu các công nghệ quân sự mũi nhọn như tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân.



Mô hình tàu ngầm hạt nhân tự sản xuất của Ấn Độ.


Việc hai nước đang phát triển Ấn Độ và Brazil bắt đầu đặt chân vào lĩnh vực tàu ngầm hạt nhân, trên thực tế đã báo hiệu xu thế phá vỡ sự độc quyền về lĩnh vực công nghệ quân sự mũi nhọn.

Nâng cao toàn diện vị thế của các cường quốc mới nổi

Ấn Độ và Brazil đều là những nước đang phát triển, đều là những nước thứ ba có nền kinh tế phát triển tương đối nhanh trong những năm qua, đều là thành viên của BRIC (từ chỉ nhóm các nước Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung Quốc (China) ).



Tàu ngầm hạt nhân lớp Arihant do Ấn Độ tự sản xuất.


Nhìn về phương Tây, các cường quốc truyền thống luôn có quyền phán quyết cuối cùng đối với các vấn đế của thế giới. Nền tảng của “bá quyền” không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngoại giao, tài nguyên, mà cuối cùng nó sẽ thể hiện ở ưu thế về sức mạnh quân sự. Mà hạt nhân của ưu thế sức mạnh quân sự chính là độc quyền những công nghệ quân sự mũi nhọn.

Trên thực tế, các cường quốc truyền thống luôn muốn giữ vững vai trò độc quyền trong lĩnh vực này. Cách thức của họ là phong tỏa công nghệ, thậm chí sử dụng phương thức hành vi quốc tế ở mức độ nhất định. Điển hình nhất là sự độc quyền đối với công nghệ vũ khí hạt nhân.



Nga từng cho Ấn Độ thuê tàu ngầm hạt nhân Seal.


Tuy nhiên, Ấn Độ và Brazil đã bắt đầu phát triển công nghệ vũ khí hạt nhân. Lúc đầu hai nước này hận một số phản đối nhưng sau đó lại được các cường quốc truyền thống ngầm thừa nhận.



Tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Ấn Độ


Những điều đó cho thấy, đã đến lúc không thể tiếp tục duy trì sự độc quyền về công nghệ quân sự, đặc biệt là công nghệ quân sự đỉnh cao, xu thế truyền bá công nghệ là tất yếu. Mặt khác, các cường quốc truyền thống nới lỏng độc quyền lĩnh vực này vừa đúng vào lúc khai phá lĩnh vực công nghệ quân sự mũi nhọn mới, đây là điểm khởi đầu của sự độc quyền mới.

Trên thực tế, Mỹ đang nỗ lực phát triển các công nghệ hàng không vũ trụ, máy bay không người lái, công nghệ tàng hình, và Mỹ muốn độc quyền những công nghệ mới này. Như vậy, cho dù mất đi độc quyền về công nghệ quân sự mũi nhọn truyền thống, Mỹ vẫn có thể duy trì ưu thế đầy đủ về sức mạnh quân sự.

[BDV news]


Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

>> Báo Nga: 'Ấn Độ, Mỹ sau lưng Việt Nam'



Ấn Độ và Mỹ sẽ trợ giúp Việt Nam trước nỗi lo về sự trỗi dậy mạnh bạo của Trung Quốc.


Tờ Sự thật (Pravda) của Nga vừa đăng bài bình luận về việc Ấn Độ và Mỹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với vấn đề biển Đông.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Việt Nam không đơn độc trong cuộc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Trong tương lai gần, hạm đội tàu khu trục của Ấn Độ sẽ tới biển Đông. Đây là một nhóm khu trục hạm có hệ thống điều khiển phòng thủ tên lửa.

Theo những báo cáo từ New Delhi cuối tháng 6/2011, Hải quân Ấn Độ có dự định đóng quân lâu dài ở biển Đông. Phía Ấn Độ đã có kế hoạch xây dựng sự hiện diện quân sự tại vùng biển này.

Theo thông báo chính thức của chính phủ Ấn Độ, sự hiện diện lâu dài ở biển Đông giúp Ấn Độ nâng cao vai trò của mình trong khu vực Đông Nam Á, nơi có đường vận chuyển hàng hải chiến lược từ Thái Bình Dương vào Ấn Độ Dương đi qua.

Cụ thể, phía Việt Nam sẽ cung cấp bến đỗ cho tàu chiến Ấn Độ cũng như căn cứ hải quân ở Nha Trang và vịnh Hạ Long. Ấn Độ cũng sẽ cung cấp viện trợ giúp Việt Nam phát triển lực lượng hải quân thông qua đóng tàu mới và huấn luyện thủy thủ Việt Nam.

Bằng động thái trên, Ấn Độ, một trong những đối thủ lớn của Trung Quốc trong khu vực đã cho thấy kế hoạch ngăn cản sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.



Tàu khu trục Ins-Mumbai của Ấn Độ từng cập Cảng Đình Vũ, Hải Phòng năm 2009 trong chuyến thăm Việt Nam.


Trước đó, Trung Quốc không che giấu dã tâm thiết lập tầm kiểm soát trên toàn biển Đông cũng như những quần đảo nằm trong khu vực. Lý do dã tâm này ngoài đường vận chuyển hàng hải chiến lược còn có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phong phú ở biển Đông.

Hiện tại, Trung Quốc đang kiểm soát quần đảo Hoàng Sa (chiếm từ Việt Nam năm 1974) và một số đảo chìm ở Trường Sa một các bất hợp pháp.

Trong 6 tháng đầu năm 2011, Trung Quốc đã có nhiều hành động khiêu khích với cả Việt Nam và Philippines. Mức độ căng thẳng tăng cao đến mức Manila phải kêu gọi sự hỗ trợ từ Washington cũng như gia nhập và phát triển mặt trận đoàn kết chống mối đe dọa từ Trung Quốc với các nước trong khu vực.

Nguyên nhân của việc Trung Quốc đẩy cao các căng thẳng là do áp lực từ việc giá xăng tăng cao cũng như cuộc thương lượng về giá gas giữa Trung Quốc và Nga không có nhiều tiến triển.

Mặc dù, hải quân Trung Quốc vượt trội so với Hải quân Việt Nam và Philippines nhưng căng thẳng tăng cao đã khiến nhiều quốc gia trong khu vực cảnh giác với Trung Quốc. Indonesia cũng bày tỏ lo ngại việc Trung Quốc dùng quần đảo Trường Sa làm bàn đạp để nhảy vào những quốc gia gần đó như Malaysia và Indonesia.

Với Ấn Độ, một lý do khác để nước này lo ngại sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc là Pakistan cung cấp cho Trung Quốc một căn cứ hải quân ở bờ biển nước này.Trong trường hợp, sức mạnh của Trung Quốc ở biển Đông được tăng cường, Ấn Độ sẽ có nguy cơ "lưỡng đầu thọ địch".

Ca sĩ phía sau hậu trường

Tuy nhiên, thế giới cũng không nên quên về "ca sĩ phía sau hậu trường" khi nói về vấn đề biển Đông và Trung Quốc. Nước Mỹ đang đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng liên minh chống Trung Quốc với Ấn Độ.

Từ sau tháng 12/2007, nhiều quan chức Mỹ có ảnh hưởng, bao gồm cả giám đốc CIA đã thường xuyên đến thăm Việt Nam. Đối diện với sự đe dọa từ phía Trung Quốc, 2 bên đều thể hiện ý muốn quên đi bất bình trong quá khứ. Điều này càng làm rõ hơn khả năng hiện diện quân sự của Mỹ và Ấn Độ trong khu vực trong tương lai gần.

Cả Ấn Độ và Mỹ đều sẽ không giới hạn bản thân trong những cuộc gặp xã giao mà sẽ tiếp tục tiến hành đào tạo lực lượng hải quân Việt Nam. Điều này sẽ gây ra những phản ứng từ phía Trung Quốc như kêu gọi Mỹ không can thiệp vào những tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông.

Tuy nhiên, những lời kêu gọi này khó mà dọa nạt được người Mỹ. Nếu không tăng cường các hoạt động trong khu vực, người Mỹ sẽ mất nhiều lợi ích cũng như những điểm chiến lược quan trọng về mặt địa lý về tay Trung Quốc.

[BDV news]


Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

>> Nguy hiểm tiềm ẩn của robot lặn UUV



Công ty Columbia Group đã giới thiệu một tàu ngầm robot (UUV) đa dụng có khả năng thay đổi khái niệm chiến tranh tương lai trên đại dương.

Robot này có tên Proteus, dài 7,6 m, nặng gần 3 tấn và có thể di chuyển ngầm dưới nước với tốc độ đến 10 hải lý/h (18 km/h).

Phẩm chất chủ yếu “thợ săn ngầm” này là là tính tự hoạt và linh hoạt sử dụng. Với một lần nạp nhiên liệu, Proteus có thể chạy ngầm trong phạm vi 600 km, với tốc độ trung bình 5-9 km/h, hoạt động trong 92 giờ.

Nhờ có hình dáng thuôn nhọn, động cơ có độ ồn nhỏ và tốc độ chạy ngầm thấp, robot này hầu như tàng hình và có khả năng xâm nhập qua hệ thống phòng thủ chống tàu ngầm của đối phương.

Tính năng của Proteus cho phép nó đảm nhiệm nhiều chức năng: từ tuần tra vùng biển cho đến bí mật theo dõi các tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đường đạn xuyên lục địa.



Robot có khoang chở hàng có thể chứa hàng hóa lên tới 180 kg gồm các loại cảm biến (sensor), thiết bị liên lạc, thuốc nổ, nhiên liệu bổ sung...


Proteus cũng có thể chở 7 lính đặc nhiệm trang bị đầy đủ, nhờ thế nó trở thành phương tiện lý tưởng để chuyên chở lực lượng đặc nhiệm đến các con tàu hoặc bờ biển đối phương.

Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà UUV này được gọi là "ác thú dưới nước". Bởi nó có thể tác chiến một thủy lôi cơ động nặng 800 kg MK67 hoặc các ngư lôi tự dẫn tối tân nhất МК54 cỡ 324 mm. Robot cũng có thể mang một thiết bị lặn không người lái Sea Fox dùng để phá nổ thủy lôi.

Giới quân sự Mỹ nhiều lần tỏ ý muốn đưa vào trang bị các robot có thể thực hiện các nhiệm vụ ngầm dưới nước để tiết kiệm sinh mạng binh sĩ, đồng thời, có thể thực hiện các nhiệm vụ xa hàng ngàn hải lý, trong hàng tháng trời.

Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, Đô đốc Gary Roughead cho rằng các tàu ngầm không người lái (UUV) có trang bị vũ khí là tất yếu. Tàu ngầm robot tương lai sẽ có thể mang được các vũ khí như ngư lôi và vô hiệu hóa thủy lôi. Hoặc bản thân chúng sẽ là một thứ vũ khí cảm tử lao vào mục tiêu. Proteus được thiết kế theo cách tiếp cận đầu.

Các robot như Proteus ban đầu có lẽ sẽ được sử dụng như một trong các vũ khí trang bị của các tàu ngầm. Tuy vậy, rõ ràng là tiềm năng to lớn của chúng sẽ là mối đe dọa lớn đối với các tàu nổi và tàu ngầm trị giá có khi lên tới 1 tỷ USD.

Với số tiền đó, đáy đại dương sẽ hết sức sôi động với các robot tự hoạt tàng hình, được trang bị các cảm biến, vũ khí và các hệ thống liên lạc hiện đại.

Các robot đó sẽ có thể đối phó hiệu quả với mọi loại tàu chiến, cũng như hiện thực hóa ước mơ lâu nay của giới quân sự là theo dõi sát các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa của đối phương.

[BDV news]


Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

>> Ấn Độ chế tạo tàu ngầm lớp Arihant thứ 2



Ấn Độ bắt đầu chế tạo tàu ngầm hạt nhân lớp “Arihant” thứ 2 tại xưởng đóng tàu Vishakhapatname.

Hiện tại, nhà máy đóng tàu đang lắp ráp thân tàu. Dự kiến, tàu ngầm mới sẽ mang tên “Arhidaman”, được chế tạo và bắt đầu thử nghiệm trên biển vào năm 2015.

Theo các báo, tàu ngầm lớp “Arihant” thứ 2 sẽ có một số thay đổi trong thết kế để khắc phục các khiếm khuyết trong quá trình thử ghiệm của chiếc đầu tiên, đã hạ thuỷ vào tháng 7/2009. Những thay đổi của chiếc tàu ngầm thứ 2 trong dự án chưa được công bố.

Trước đó, Hải quân Ấn Độ tuyên bố rằng có ý định sở hữu 6 chiếc tàu như vậy, nhưng đến thời điểm mới ký hợp đồng để xây dựng 4 tàu ngầm loại này.

Theo kế hoạch, “Arihant” sẽ được đưa vào sử dụng trong hải quân Ấn Độ từ năm 2012 sau khi hoàn thành tất cả các bài kiểm tra.

Đến nay, chiếc tàu ngầm nguyên tử “Nerpa”, trong hải quân Ấn Độ được gọi tên “Chakra” là tàu ngầm hạt nhân duy nhất trong lực lượng vũ trang Ấn Độ. Tàu ngầm này được đóng ở Nga, sau đó, Ấn Độ thuê lại từ cuối năm 2011 với thời hạn 10 năm.

Tàu ngầm lớp Arihant là dự án phát triển tàu ngầm hạt nhân chiến lược đầu tiên của Ấn Độ. Con tàu đầu tiên của dự án đã hạ thuỷ, 2 chiếc đang được xây chế tạo, theo kế hoạch của dự án sẽ có 5 tàu ngầm được đóng.



Tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo INS Arihant đầu tiên của Ấn Độ.


Ban đầu, đây là dự án thiết kế tàu ngầm nguyên tử của riêng có tên là AVT (Công nghệ đóng tàu tiên tiến) được Chính phủ Ấn độ công bố vào năm 1985. Tàu ngầm nguyên tử của Ấn độ được phát triển trên nền tảng tàu ngầm “Skat”, project 670 của Liên Xô. Sau đó, dự án đã được định hướng lại để chế tạo thành các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo.

Năm 1998, bắt đầu đóng tàu ngầm đầu tiên với tên gọi INS Arihant, nhưng đã bị trì hoãn do vấn đề thiết kế, chế tạo lò phản ứng và mãi đến năm 2009 con tàu mới được hạ thuỷ. Theo kế hoạch, tàu được đưa vào sử dụng trong năm 2011. Tất cả tàu sẽ được xây dựng ở trung tâm đóng tàu “Vishakapatnam” trên vịnh Bengal.

Tàu ngầm lớp “Arihant” có lượng giãn nước 6.000 tấn, tốc độ lên đến 24-30 hải lý/giờ tuỳ theo các phương án khác nhau.

Vũ khí chính của tàu là 12 tên lửa đạn đạo K-15 Sagarika, có tầm bắn 700 km. Tên lửa này được phóng thành công lần cuối vào ngày 26/2/2009.

Sau đó, trên tàu ngầm dự tính trang bị tên lửa đạn đạo “Agni-3”, có tầm bắn lên đến 3.500 km, tên lửa được chứa trong ống phóng chắc chắn nằm phía sau mui tàu và có hướng thẳng đứng. Trên tàu có trang bị 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533 mm.

[BDV news]


Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011

>> 'Lính gác trời' của quân đội Ấn Độ



Ấn Độ vẫn thực hiện chương trình chế tạo các loại tên lửa có điều khiển bất chấp những rào cản về tài chính và những phản ứng tiêu cực từ các quốc gia khác.


Mục đích chiến lược của chương trình này là chế tạo và phát triển trung tâm sản xuất và nghiên cứu – khoa học, bảo đảm chế tạo các loại tên lửa hiệu quả nhất cho các lực lượng vũ trang đất nước.

Theo đơn đặt hàng của lực lượng không quân, tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung Akash đã ra đời vào những năm 1980 và được sản xuất hàng loạt. Nó dùng để tiêu diệt các mục tiêu trên không trong điều kiện đối phương sử dụng các phương tiện chế áp vô tuyến chủ động. Tổ hợp cho phép bảo vệ các mục tiêu và các đơn vị quân đội.

Tổ hợp gồm bệ phóng (3 tên lửa có điều khiển Akash), radar đa năng Rajendra (trang bị anten mảng pha), trạm điều khiển, thiết bị hỗ trợ. Tất cả các thành phần của tổ hợp tên lửa phòng không được bố trí trên khung xe chiến đấu bộ binh BMP-2.



Bệ phóng của tổ hợp Akash


Về hình dạng bên ngoài và kết cấu, tên lửa phòng không có điều khiển Akash tương tự tên lửa thuộc tổ hợp tên lửa tầm trung Club của Nga.

Phần đuôi tên lửa lắp đặt cánh phụ, có chức năng thay đổi độ nghiêng của tên lửa. Tên lửa có thể đạt vận tốc gần 500m/giây chỉ trong vòng 4,5giây, sau đó động cơ RPD tăng tốc lên gấp đôi trong khoảng thời gian chỉ 30 giây.

Động cơ RPD sử dụng nhiên liệu rắn, thành phần gồm nitrat xenlulo, nitroglixerin, magie bột. Ôxy khí quyển được sử dụng như là một chất ôxy hóa.

Tên lửa phòng không có điều khiển được trang bị đầu đạn nổ mảnh (trọng lượng gần 60kg) với cự ly văng mảnh gần 20m. Việc kích nổ đầu đạn được tiến hành bởi đầu nổ xung hiệu ứng dopler vô tuyến hoặc tiếp xúc.

Trong tổ hợp Akash sử dụng phương pháp điều khiển hỗn hợp tên lửa có điều khiển: điều khiển bằng mệnh lệnh ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối quỹ đạo bay, điều khiển bằng radar bán chủ động ở giai đoạn cuối quỹ đạo bay (khoảng 3-4 giay trước khi gặp mục tiêu).

Tên lửa được trang bị bộ thu nhận tín hiệu điều khiển và máy phát. Anten của các thiết bị này được bố trí ở cánh đuôi.

Bệ phóng tự hành của tổ hợp có chức năng vận chuyển, bảo quản và phóng tên lửa Akash.

Với mục đích giảm trọng lượng, kết cấu các thành phần chính của bệ phóng được chế tạo từ hợp kim nhôm. Một máy phát tuabin khí chạy dòng điện xoay chiều 3 pha với tần số 400Hz (điện áp 200 và 115V) được sử dụng để bảo đảm bệ phóng hoạt động. Bệ phóng theo chiều dọc (8 - 60°) và chiều ngang (360°).

Bệ phóng được trang bị thiết bị điều khiển, liên kết trắc địa và định hướng, máy thu của hệ thống dẫn đường vô tuyến vũ trụ NAVSTAR. Thiết bị này được chế tạo dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Mỹ và được sản xuất ở bởi các nhà máy của Ấn Độ.



Trạm radar đa năng Rajendra.


Radar đa năng Rajendra bảo đảm sục sạo, đánh chặn và tự động bám các mục tiêu khí động học ở cự ly đến 60km, xác định nguồn gốc mục tiêu và dẫn hướng 4 trong số các tên lửa trong điều kiện bị đối phương chế áp vô tuyến mạnh.

Radar được tích hợp hệ thống kiểm soát hoạt động và xác định hỏng hóc.



Phóng thử nghiệm tên lửa Akash.


Trạm điều khiển điều phối hoạt động của tất cả các thành phần thuộc tổ hợp tên lửa phòng không; tiến hành thu thập, xử lý thông tin nhận được từ radar Rajendra và bệ pháo tự hành; bám đến 64 mục tiêu đồng thời; đánh giá mức độ nguy cơ; xử lý các dữ liệu bắn và điều khiển tên lửa…

Quá trình hoạt động tác chiến được tự động hóa tối đa nhờ vào việc sử dụng tổ hợp máy tính kỹ thuật số siêu nhanh, kết nối với các vị trí làm việc của chỉ huy và trắc thủ. Trạm điều khiển có thể làm việc độc lập hoặc trong chế độ tập trung.

Một đơn vị vận hành tổ hợp tên lửa phòng không Akash (cấp đại đội), được trang bị 4 bệ phóng, 1 trạm radar đa năng Rajendra và trạm điều khiển. Đại đội này có thể thuộc thành phần tiểu đoàn hoặc tác chiến độc lập.

Tiểu đoàn – đơn vị chiến thuật chính của tổ hợp, gồm 8 đại đội hỏa lực. Khi tác chiến độc lập, đại đội sẽ được bổ sung thêm radar 2 tọa độ quan sát trên không.

Các đặc tính kỹ - chiến thuật:

Cự ly bắn tối đa: 27km
Cự ly bắn tối thiểu: 3km
Vận tốc tối đa của mục tiêu: 700m/s
Số lượng các mục tiêu bắn đồng thời: 4
Thời gian phản ứng: 15 giây
Trọng lượng của tên lửa: 700kg

[BDV news]


Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

>> Tiêm kích trên hạm đa năng MiG-29K




MiG-29K (NATO gọi là Fulcrum-D, biến thể huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi MiG-29KUB) là máy bay tiêm kích đa năng triển khai trên tàu sân bay, thế hệ 4++.

Đây là tiêm kích đầu tiên của Nga có khả năng cất/hạ cánh từ tàu sân bay theo kiểu thông thường, tức là có chạy đà cất cánh và chạy đà hạ cánh.

MiG-29K thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 23.7.1988 và được đưa vào trang bị năm 1993. Năm 1991, máy bay bắt đầu tham gia thử nghiệm quốc gia song không hoàn thành quá trình thử nghiệm. Do kinh phí cho các chương trình quân sự bị cắt giảm mạnh, Nga hủy bỏ việc cải tiến MiG-29K.

MiG-29K (migavia.ru)

2 mẫu chế thử MiG-29K đã thực hiện tổng cộng hơn 420 chuyến bay, trong đó có gần 100 chuyến bay trên tàu sân bay.

Nga trở lại với tiêm kích trên hạm vào giữa thập niên 1990 khi Ấn Độ muốn mua của Nga tàu sân bay Đô đốc Gorshkov. Họ cũng cần các tiêm kích trên hạm cho tàu sân bay này. Nga quyết định phát triển máy bay mới trên cơ sở MiG-29 tại Viện thiết kế mang tên A.I. Mikoyan. Máy bay tiêm kích này có ký hiệu 9-41, song vẫn giữ tên của mẫu máy bay trước đây là MiG-29K.

Năm 1999, Nga bắt đầu ráo riết phát triển tiêm kích trên hạm mới, mặc dù những đường nét đầu tiên của máy bay được hoàn thành từ năm 1996. Cuối thập niên 1990, các công trình sư bắt đầu chế tạo những bộ phận tổng thành đầu tiên cho các máy bay MiG-29K thử nghiệm. Sau khi ký hợp đồng với Ấn Độ, phía Ấn Độ cũng tích cực tham gia định hình diện mạo máy bay mới.


MiG-29K (migavia.ru)


Năm 2002, đã bắt đầu thử nghiệm các hệ thống và bộ phận riêng lẻ của MiG-29K.

MiG-29K hiện nay là biến thể hiện đại hóa sâu của máy bay MiG-29K mẫu 1988 (9-31).

Tiêm kích thử nghiệm MiG-29K/KUB thực hiện chuyến bay đầu tiên vào tháng 1.2007. Chiếc máy bay sản xuất loạt lần đầu tiên cất cánh vào tháng 3.2008.

Tuy có bề ngoài tương đồng, MiG-29K có trọng lượng lớn hơn 30 % so với MiG-29B của Không quân Ấn Độ. MiG-29K sẽ được trang bị các tên lửa có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở ngoài tầm nhìn thẳng, tên lửa chống hạm có điều khiển, rocket, bom và 1 pháo 30 mm. Dự trữ bay của MiG-29K/KUB tăng hươn gấp đôi, chi phí giờ bay giảm gần 2,5 lần.

Tiêm kích trên hạm MiG-29K (1 chỗ ngồi) và MiG-29KUB (2 chỗ ngồi) là máy bay đa năng thế hệ 4++, có thể làm nhiều nhiệm vụ (giành ưu thế trên không, phòng không cho binh đoàn tàu, tiêu diệt mục tiêu mặt nước, mặt đất) bất kể ngày đêm và trong điều kiện thời tiết phức tạp.

MiG-29K có các tính năng kỹ thuật và khai thác tốt hơn, độ tin cậy cao hơn. Hệ thống avionics của máy bay có cấu trúc mở. Radar trên khoang đa năng, đa chế độ Zhuk-ME cho phép bám đến 10 mục tiêu và tấn công đồng thời 4 mục tiêu trong số đó.

Máy bay có khung thân cải tiến, sử dụng các vật liệu composite (chiếm 15%), có độ bộc lộ radar nhỏ và tải trọng chiến đấu lớn hơn, các thùng nhiên liệu dung tích lớn hơn và hệ thống tiếp dầu trên không, hệ thống gấp cánh cải tiến, hệ thống điều khiển điện từ xa kỹ thuật số kiểu tứ trùng.

MiG-29К được trang bị cơ cấu hãm để hạ cánh trên tàu sân bay và có bộ càng gia cường, cánh gấp và lớp phủ đặc biệt chống tác động ăn mòn của nước biển.

Tính năng kỹ-chiến thuật của MiG-29K

Trọng lượng cất cánh: thông thường/tối đa, kg: 18.550 / 24.500;
Kích thước: Chiều dài x chiều cao x sải cánh, m: 17,3 x 4,4 x 11,99
Tốc độ tối đa: ở độ cao nhỏ/ở độ cao lớn, km/h: 1.400 / 2.200;
Tầm bay: ở độ cao nhỏ/ở độ cao lớn, km: 750 / 1.650;
Số điểm treo vũ khí: 8;

Vũ khí:
6 tên lửa không-đối-không tầm trung RVV-AE;
8 tên lửa tầm ngắn R-73E;
4 tên lửa chống hạm Kh-31A và Kh-35E;
4 tên lửa chống radar Kh-31P;
4 bom có điều khiển KAB-500KR; 1 pháo 30 mm GSh-301
MiG-29K và biến thể máy bay huấn luyện chiến đấu 2 chỗ ngồi MiG-29KUB đang được sản xuất loạt cho Hải quân Ấn Độ.





[Vietnamdefence news]


Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

>> Ấn Độ chi 100 tỷ rupee mở rộng căn cứ hải quân





Hải quân Ấn Độ đã sẵn sàng chi khoảng 100 tỷ rupee cho dự án mở rộng căn cứ hải quân chiến lược Karwar tại bang Karnataka. Tàu sân bay INS Vikramaditya, tàu ngầm tấn công Scorpene các một số tàu chiến khác dự kiến sẽ được đặt tại căn cứ này trong tương lai.


Tuyên bố được đưa ra vào thời điểm Ấn Độ đang phải đối mặt với khả năng Trung Quốc có thể sử dụng cảng biển nước sâu Gwadar tại Pakistan làm nơi triển khai tàu chiến. Cảng Gwadar của Pakistan được Trung Quốc giúp đỡ xây dựng từ thập kỷ trước và kéo dài cho tới bây giờ.




Trước đó, thông tin này được Bộ trưởng Quốc phòng Pakistan Ahmed Mukhtar khẳng định khi công khai tuyên bố Islamabad đã yêu cầu Bắc Kinh xây một căn cứ hải quân tại Gwadar, tạo ra lối vào trực tiếp tới khu vực vùng Vịnh.

Mặc dù, Trung Quốc sau đó đã nhanh chóng phủ nhận không quan tâm gì đến việc thiết lập một căn cứ hải quân tại Gwadar, nhưng vai trò lo lớn của Bắc Kinh trong việc xây dựng các cảng ở Bangladesh, Myanmar và Sri Lanka lại khẳng định nỗ lực của Trung Quốc trong việc thực hiện chiến lược “chuỗi ngọc trai” của nước này tại khu vực Ấn Độ Dương.

Pakistan có 5 căn cứ hải quân và cảng biển lớn tại Gwadar, Ormara, Karachi, Pasni và Jiwani, trong khi đó căn cứ Karwar của Ấn Độ là căn cứ hải quân lớn thứ ba sau Mumbai và Visakhapatnam, thuộc bờ biển phía Đông.

“Sau một thời gian trì hoãn, Bộ quốc phòng đã chuẩn bị một báo cáo giải trình cho Ủy ban An ninh Nội các (CCS) về giai đoạn 2A của dự án “Seabird” tại Karwar sau khi điều chỉnh báo cáo dự án chi tiết”, một quan chức cho hay.

Dự án Seabird vẫn còn nhùng nhằng do sự trì hoãn lâu dài, và rắc rối khác liên quan đến vấn đề ngân sách kể từ khi được phê duyệt vào năm 1985 với chi phí ban đầu là 3,5 tỷ rupee. Giai đoạn 1 đã hoàn thành với tổng chi phí là 2,63 tỷ rupee, cho phép hải quân đặt 11 tàu chiến tại Karwar.

Trong gia đoạn 2, ngoài vai trò là cảng cho tàu neo và cập bến, Karwar còn là một căn cứ không quân, kho vũ khí, xưởng sửa chữa và đóng tàu, và hầm chứa tên lửa. Mục tiêu cuối cùng nhằm đặt khoảng 50 tàu chiến lớn tại Karwar sau khi giai đoạn 2B hoàn tất.

Sau khi hoàn tất công việc xây dưng, Hải quân Ấn Độ sẽ triển khai hai nhóm chiến đấu trên tàu sân bay INS Vikramaditya 44.570 tấn và tàu sân bay nội địa 40.000 tấn, dự kiến sẽ được biên chế vào 2015. Karwar là một căn cứ quan trọng cho hoạt động của lực lượng hải quân Ấn Độ tại Ấn Độ Dương và xa hơn nữa.


[Vitinfo news]


Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

>> Chiến lược Liên châu và việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông



Phân tích động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây, trong không gian ngoài phạm vi Biển Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông và có tham khảo các giải pháp của các quốc gia khác đang tiến hành chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

LTS: Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết của nhóm tác giả Quỹ Nghiên cứu Biển Đông Lê Vĩnh Trương, Dư Văn Toán, Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Trọng Bình, Đàm Quang Minh, Phạm Thu Xuân như một góc nhìn riêng để tham khảo.

Trong những năm gần đây Trung Quốc tiếp tục có những hành động xâm phạm nghiêm trọng đến vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và của các nước khác trên Biển Đông. Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường phân định ranh giới trên biển không có cơ sở pháp lý và chiếm gần hết Biển Đông. Trung Quốc đơn phương cho các tàu hải giám và kiểm ngư, những tàu thuyền quân sự và cảnh sát trá hình, vào những khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các nước khác.

Sự kiện gần đây nhất là một đội tàu hải giám đã đi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở vị trí (vĩ độ, kinh độ) nằm cách đường cơ sở của Việt Nam chưa tới 120 hải lý, phá hoại và cản trở hoạt động thăm dò địa chấn của Việt Nam. Hành động này vi phạm nghiêm trọng trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) và Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Sự việc không chỉ ở tầm Biển Đông nằm sát bên cạnh yết hầu kinh tế và quân sự của Việt Nam!

Sự việc nằm ở chiến lược Liên châu (Chuỗi ngọc trai) đầy toan tính của Trung Quốc nhằm gia tăng sức mạnh năng lượng, kinh tế và quân sự của mình.

Không gian chiến lược này sẽ khởi đầu từ đảo Hải Nam của Trung Quốc, tiến ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), của Việt Nam và một số đảo tại quần đảo Trường Sa (của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm), xuống kênh đào Kra, ôm lấy Myanmar và dừng bước tại cảng Karachi của Pakistan. Con đường trên biển này sẽ bảo đảm về mặt tiếp liệu, vận tải nhiên liệu, sản phẩm và quân đội khi cần thiết. (Hình 1)



Vòng cung Liên châu: từ giao thông vận tải sang liên hoàn quân sự
(Nguồn: String of Pearls: Meeting the challenge of China's rising power across the Asian littoral - Christopher J. Pehrson)

Bài này sẽ phân tích động thái của Trung Quốc trong thời gian gần đây, trong không gian ngoài phạm vi Biển Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông và có tham khảo tới các giải pháp của các quốc gia khác đang tiến hành chống lại sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Những gì đang diễn ra liên quan đến Trung Quốc?

Những bất ổn liên tục xảy ra tại Trung Quốc từ cuối tháng 4.2011 đến nay như cuộc đình công 5 ngày của các tài xế xe tải tại Thượng Hải, tiếp theo đó là các vụ đánh bom tại Giang Tây và những cuộc biểu tình tại Nội Mông.

Trong thời gian đó, Trung Quốc liên tục cử những phái đoàn quân sự ra nước ngoài trong tháng 5.2011.

Ngày 26.5.2011, Trung Quốc ngang ngược cắt đứt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 ngày 26.5.2011 mặc dù đã có sự phản đối của tàu biên phòng hộ tống và chính tàu Bình Minh 02 thuộc PVN.

Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố rằng, họ chỉ hoạt động trên vùng biển Trung Quốc một cách ngụy biện. Vậy chúng ta phải chỉ rõ cho nhân dân toàn thế giới thấy rằng, họ đã nói không đúng sự thật bằng các bản đồ và các bài viết của chúng ta.

Vào ngày 31.5.2011, 3 tàu quân sự Trung Quốc đã nổ sung uy hiếp, ngăn cản 4 tàu cá của tỉnh Phú Yên trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên, Việt Nam đã đề nghị Bộ Ngoại giao can thiệp.

Những hành động này là một hành động có tính toán Trung Quốc để vừa giảm nhiệt trong nước vừa phục vụ ý đồ tiến xuống phía nam để phục vụ cho chiến lược Liên châu nhằm khống chế cả Biển Đông và Ấn Độ Dương.

Từ "China Garlands India with String of Pearls",
(Nguồn: Militarisation of China's Energy Security Policy - Defence Cooperation and WMD Proliferation Along its String of Pearls in the Indian Ocean, TS Christina Y. Lin

Do những nhu cầu bức thiết trên, Trung Quốc đã tạm thời hy sinh hình ảnh phát triển hòa bình để lấn xuống biển Đông một cách mạnh bạo. Không phải Trung Quốc không biết rằng, họ đang đứng trên luật pháp quốc tế, nhưng họ đang tận dụng thời cơ hiện tại bên ngoài và giải quyết những bất ổn nội bộ để đi nhanh hơn trên con đường bá quyền của mình.

Trung Quốc liên tục tác động đến Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar để phá vỡ nguyên tắc đồng thuận phát ngôn của ASEAN, mặt khác luôn muốn trói các nước trong tranh chấp biển Đông vào "khung giải quyết" là "thương lượng song phương" cho một vấn đề quốc tế. Trước Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN vào tháng 10/2009 tại Huahin, Thái Lan, bà Tiết Hán Cần, đại sứ Trung Quốc tại ASEAN đã phát biểu: "Trung Quốc cho rằng, đây là bất đồng giữa Trung Quốc và các nước riêng rẽ xung quanh Biển Đông, chứ không phải giữa Trung Quốc và ASEAN... Và bà cũng nói thêm: "Cuộc họp này của ASEAN phải là trong khuôn khổ hợp tác, chứ không phải là để tranh cãi". Đây là động tác hạn chế người khác nói, còn chính Trung Quốc thì vừa nói vừa hành động thô bạo.

Sau tuyên bố tại Hội nghị ARF tháng 7.2010 của ngoại trưởng Mỹ H. Clinton, Trung Quốc đã phản ứng quyết liệt. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì cho rằng, phát biểu của ngoại trưởng Mỹ là "Đưa vấn đề song phương thành vấn đề quốc tế, hoặc đa phương sẽ chỉ làm trầm trọng thêm tình hình và gây thêm khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này". Đây chỉ là một ngụy biện nhằm bẻ đũa từng chiếc.

Tháng 11.2010, Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông lần thứ hai, Hội thảo này là cơ hội cho Việt Nam để tìm kiếm những tiếng nói đa phương cho việc giải quyết tranh chấp. Trong Hội nghị có tính cách kênh hai lần này Trung Quốc đã làm giảm nhẹ tuyên bố "lợi ích cốt lõi" của mình. Tuy nhiên, việc không khẳng định và không phủ nhận tuyên bố vô lý này cho thấy ASEAN, Ấn Độ và thế giới cần cảnh giác cao hơn nữa.



Những căn cứ của Trung Quốc trong vòng cung Chuỗi Ngọc Trai
(Nguồn: Militarisation of China's Energy Security Policy - Defence Cooperation and WMD Proliferation Along its String of Pearls in the Indian Ocean Tiến Sĩ Christina Y. Lin)

Như tác giả Dương Danh Huy đã nhận xét, đây không phải hành động đầu tiên và không phải cuối cùng tại Biển Đông. Chúng tôi bổ sung, những hành động này sẽ không chỉ xảy ra trên Biển Đông và biển Nhật Bản mà sẽ sắp sửa xảy ra tại Ấn Độ Dương và các vùng nước khác trong tương lai rất gần.

Ngẫu nhiên không may mắn cho Việt Nam là ở ngay tâm điểm của chiến lược Liên châu của Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết vận động sâu rộng đến nhân dân và chính phủ các nước ASEAN, Ấn Độ, Bangladesh và cả Pakistan, Afganistan, thì nguy cơ có thể sẽ biến thành cơ hội.

Việt Nam chúng ta sẽ cô độc nếu chỉ dừng sự đấu tranh tại biển Đông mà không mở rộng sang các nước vẫn đang nắm tình hình nhưng trù trừ không lên tiếng như ASEAN và cả Mỹ và Ấn Độ.

Những biện pháp bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông

Về ngoại giao

Ngoại giao nhân dân: Phổ biến thông tin về sự ngang ngược của Trung Quốc đến tất cả các tầng lớp nhân dân, hội đoàn dân sự trong một chiến lược lâu dài bằng tiếng Việt và nhiều thứ tiếng khác. Những hoạt động khoa học, văn hóa thể thao của Việt Nam tại các nơi trên thế giới sẽ được bổ sung nội dung bị ức hiếp của ngư dân và các công ty Việt Nam. Trong đó, nêu bật thái độ bất chấp UNCLOS 1982 và DOC 2002 của Trung Quốc.

Không giới hạn việc bảo vệ chủ quyền quốc gia chỉ ở trong nước mà cần phải có một sự vận động sâu rộng có tầm mức quốc tế. Không giới hạn việc tác động đến chính giới mà còn mở rộng ra đông đảo các tầng lớp nhân dân và học giả Trung Quốc bằng truyền thông và ngoại giao kênh hai.

Về sức mạnh tổng hợp:

- Trong đánh bắt và khai thác hải sản, Trung Quốc dùng chiêu bài hải giám và ngư chính để ngụy trang cho các hành động bạo lực của mình. Vậy, Việt Nam cũng cần có những đội tàu dân sự, nhưng được trang bị đủ mạnh để phản ứng lại tàu dân sự giả hiệu của Trung Quốc.

- Chiến lược biển của Việt Nam sẽ không tách rời các hoạt động hợp tác xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh thái hay công viên đại dương xuyên quốc gia với láng giềng. Và nếu cần thì các công tác khảo sát địa chấn và thềm lục địa có thể thuê các công ty nước ngoài kết hợp thực hiện. Cần có một bộ có đủ chức năng liên ngành để lo việc bảo vệ chủ quyền và phát triển và khai thác biển.

- Ðẩy mạnh và nhanh cùng quyết tâm hơn nữa trong việc hiện đại hoá nền kinh tế, quân sự, vũ trang toàn dân song song với việc tổ chức một xã hội và nền chính trị hiện đạị, tạo ra một sức mạnh vững chắc và đầy đủ thế và lực trên trường quốc tế, đủ sức đối phó với nước xâm lấn.

- Kiên quyết hơn trong sử dụng sức mạnh răn đe, nếu chúng ta chưa đủ sức mạnh như Nhật Bản để bắt giữ tàu Trung Quốc thì Việt Nam cũng phải có khả năng dùng máy bay chiến đấu để xua đuổi tàu Trung Quốc vi phạm chủ quyền như Philippines đã từng thực hiện..

- Nhanh chóng và dài hạn thực hiện một chiến lược liên kết toàn cầu, nhất là với các cường quốc kinh tế và quân sự với sách lược từng vùng, từng giai đoạn để tự phá vỡ vòng vây ngày càng thắt chặt này. Việc vận động nhân dân và chính phủ của các nước nằm trong "chuỗi ngọc trai" sẽ do một cơ quan chuyên trách của Chính phủ thực hiện cùng với sự đóng góp ý kiến của người dân Việt Nam. Cảnh báo cho nhân dân thế giới và nhân dân Ấn Độ về những tham vọng này của Trung Quốc cũng sẽ là một phần của ngoại giao nhân dân.

Kết luận

Tất cả những giải pháp đều có những mặt cần phải bổ sung và chuyển hướng chiến lược nhanh, đáp ứng, phản công kịp thời với sự biến động những biến động của tình thế. Để có một tổng thể các giải pháp, cần có một sự động não toàn dân, vận động toàn dân cùng sức người sức của khắp nơi trên thế giới.

Sự "trỗi dậy" của Trung Quốc và sự bộc lộ tham vọng to lớn của họ qua chiến lược Liên châu chứng tỏ họ đã bỏ qua giai đoạn "giấu mình chờ thời', khiến cả thế giới lo ngại, không chỉ ASEAN, và Ấn Độ mà Mỹ, Nhật Bản và các nước có lợi ích trong giao thông hàng hải trên toàn thế giới.

Thực chất của tình trạng căng thẳng trên Biển Đông, dẫn đến cuộc chiến về hoạt động đối ngoại vừa qua chính là việc Trung Quốc muốn gia tăng ảnh hưởng lên khu vực, đè bẹp các nước ASEAN, thăm dò phản ứng của Mỹ và Ấn Độ.

Do vậy, việc Trung Quốc sử dụng vũ lực hay không một phần cũng sẽ do các nước có thái độ nhân nhượng quá đáng hay không và người Mỹ, người Ấn có thực hiện đúng tư thế của những nước có lợi ích quốc gia về hàng hải hay không.

[BDV news]


Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

>> Ấn Độ cam kết trợ giúp Afghanistan



Ấn Độ sẽ trợ giúp Afghanistan tăng cường lực lượng an ninh sau khi Mỹ rút khỏi quốc gia này.

Cam kết này đã được thông qua sau một cuộc gặp giữa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hai nước.

Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ AK Antony cho biết: “Chính phủ Ấn Độ sẳn sàng làm việc với chính phủ Afghanistan trong việc xây dựng khả năng của lực lượng an ninh nước này”.

Đầu tháng 5/2011, Ấn Độ đã cam kết một khoản viện trợ trị giá 500 triệu USD cho Afghanistan, nâng mức viện trợ của New Delhi lên mức 2 tỷ USD, chủ yếu dành cho các dự án phát triển.

Viện trợ quân sự của Ấn Độ chủ yếu giới hạn trong các hoạt động đào tạo nhân viên an ninh và các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhỏ. Hiện tại Ấn Độ chưa thể gia tăng các hoạt động viện trợ quốc phòng lớn cho Kabul, bởi điều này có thể làm gia tăng những căng thẳng với quốc gia láng giềng Pakistan.



Bộ trưởng BQP Afghanistan và người đồng nhiệm Ấn Độ trong chuyến thăm của ông đến New Delhi hồi đầu tháng 5/2011.


Chính quyền của Tổng thống Hamid Karzai đang tăng cường các hoạt động đào tạo nhân viên an ninh và quân đội, để theo kịp lộ trình rút quân của NATO vào năm 2014. Lực lượng quân đội Mỹ sẽ bàn giao lại quyền kiểm soát đất nước cho quân đội Afghanistan bắt đầu từ tháng 7/2011.

Bộ trưởng Quốc phòng Afghanistan Abdul Rahim Wardak cho biết: “Chúng tôi sẽ chào đón bất kỳ sự giúp đỡ quốc tế nào trong lĩnh vực đào tạo và giúp đỡ lực lượng an ninh để đảm bảo an ninh quốc gia. Chúng tôi cũng rất quan tâm đến việc tăng cường mối quan hệ giữa Ấn Độ và Afghanistan trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực quốc phòng”.

Ông Abdul Rahim Wardak đã có chuyến thăm chính thức đến Ấn Độ kể từ khi trùm khủng bố Osama bin Laden bị tiêu diệt. New Delhi đã tích tực tăng cường quan hệ với chính quyền của Tổng thống Hamid Karzai, sau khí Mỹ lật đổ chế độ Taliban vào năm 2001.

Trước đó, trong suốt hơn 2 thập kỷ Ấn Độ đã không có bất cứ quan hệ nào với Kabul dưới thời Taliban, lực lượng mà Ấn Độ cho là có mối quan hệ thân thiết với Pakistan.

Theo lộ trình đã được đề ra, NATO sẽ rút khỏi Afghanistan từ năm 2014, trong khi đó lực lượng an ninh và quân đội nước này vẫn chưa sẵn sàng để đảm đương nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

Đặc biệt, sau khi bin Laden bị tiêu diệt, Taliban và Al Qaeda đã có những tuyên bố cứng rắn thề trả thù cho bin Laden làm cho tình hình an ninh tại Afghanistan trở nên phức tạp hơn.

Chính quyền của Tổng thống Karzai cần sự trợ giúp từ nước ngoài để đảm bảo an ninh quốc gia và đây là cơ hội để Ấn Độ tăng cường quan hệ với Afghanistan.
[BDV news]


Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

>> Đầu tư cho hải quân Ấn Độ vượt Trung Quốc



Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc trong đầu tư tài chính nhằm hiện đại hóa cho lực lượng hải quân.

Theo đó trong vòng 20 năm tới, Ấn Độ sẽ chi tiêu khoảng 46,96 tỷ USD cho việc hiện đại hóa lực lượng hải quân. Đóng mới 101 tàu chiến, bao gồm các tàu khu trục tàng hình hiện đại, tàu đổ bộ thế hệ mới và tàu ngầm hạt nhân chiến lược.

Với tốc độ hiện đại hóa như vậy, Hải quân Ấn Độ nhiều khả năng sẽ vượt mặt Hải quân Trung Quốc trong khoảng 20 năm tới.

Nhận định này được đưa ra bởi phó chủ tịch Cơ quan phân tích quốc tế AMI Bob Nugent.



Ấn Độ sẽ dẫn đầu châu Á trong đầu tư cho hải quân 20 năm tới.


Trong một cuộc họp báo xung quanh triển lãm IMDEX Asia 2011, theo đó khoản đầu tư cho hải quân của Trung Quốc trong vòng 20 năm tới khoảng 23,99 tỷ USD để đóng mới 113 tàu chiến.

Như vậy khoản đầu tư cho hải quân của Ấn Độ gấp 2 lần của Trung Quốc, trong các khoản đầu tư lớn, có các chương trình đóng mới tàu sây bay và tàu ngầm hạt nhân chiến lược tương tự như Trung Quốc.

Ngoài các tàu chiến được đóng mới từ các nhà máy đóng tàu trong nước, Ấn Độ còn đặt hàng đóng mới tàu chiến từ nước ngoài chủ yếu từ Nga.



Tàu khu trục tàng hình Project 11356 của Ấn Độ được đóng mới tại Nga.


Các chuyên gia lưu ý là, không gian của các nhà máy đóng tàu Ấn Độ khá chật hẹp và gần như đã được sử dụng hết. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và kế hoạch giao tàu cho quân đội. Mặt bằng không đủ các nhà máy sẽ khó lòng mà mở rộng và tăng tốc độ sản xuất.

Hiện tại, chương trình tàu ngầm tấn công lớp Scorpene không thể tăng tốc độ và tiến độ giao hàng vì không còn không gian để sản xuất bổ sung.

Theo nhận định của AMI, kinh phí cung cấp cho Hải quân Ấn Độ chiếm đến 27,8% tổng mức đầu tư cho hải quân của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chi phí cho hải quân của Trung Quốc và Ấn Độ gấp nhiều lần kinh phí mà Nga đầu tư cho hải quân.

Sự đầu tư lớn của Ấn Độ và Trung Quốc đã đẩy khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào một cuộc chạy đua trên biển.

Ngoài hai nước trên, một loạt các nước khác cũng dự kiến những khoản đầu tư khổng lồ cho hải quân đáng chú ý là: Đài Loan 16 tỷ USD, Australia 14 tỷ USD, Indonesia 7 tỷ USD, Pakistan 2,85 tỷ USD, Singapone 1,74 tỷ USD.

Trong vòng 20 năm tới, châu Á tiếp tục dẫn đầu thế giới về số lượng và tốc độ đóng mới tàu chiến. Dự kiến trong 3 năm tới sẽ có khoảng 340 chiếc tàu chiến được đóng mới.

[BDV news]


Thứ Hai, 30 tháng 5, 2011

>> Nga giúp Hải quân Việt Nam tương đương với Ấn Độ



Trung tâm phân tích mua bán vũ khí TSAMTO của Nga nhận định, hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Nga ở trên mức đối tác chiến lược.


Sự kiện chuyển giao tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 thứ 2 cho Việt Nam là một cột mốc quan trọng trong khuôn khổ chương trình hợp tác kỹ thuật quân sự tầm đối tác chiến lược giữa hai nước.

Trước đó đầu tháng 5/2011, Hải quân Nhân Dân Việt Nam cũng đã tổ chức tiếp nhận chiếc tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đầu tiên.

Hợp đồng đóng mới tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đã được ký kết vào năm 2006, tàu được khởi đóng vào năm 2007. Theo số liệu của TSAMTO giá trị hợp đồng khoảng 350 triệu USD.

Zelenodolsky PKB đã đề xuất biến thể của tàu hộ tống tên lửa Tatarstan cho Hải quân Việt Nam với một loạt các nâng cấp.



Tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đang được đưa lên tàu vận chuyển.


Tàu được thiết kế với khả năng tàng hình nhẹ, trang bị hệ thống phòng không phức tạp Palma-SU với hệ thống dẫn hướng quang-điện tử. Hệ thống tên lửa chống hạm Kh-35 Uran E. Vũ khí khác bao gồm, pháo hạm cải tiến AK-176M 76mm, hai pháo bắn siêu nhanh AK-630M 30mm, ống phóng ngư lôi kép 533mm.

Đặc biệt, tàu hộ tống tên lửa Gepard thứ 2 đã được cải tiến hiệu suất của động cơ, tốc độ trung bình của tàu vượt quá 21 hải lý/giờ thay vì 18 hải lý/giờ như ban đầu, tốc độ tối đa đạt 28 hải lý/giờ.

Tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 có thể thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau, tuần tra, hộ tống, tìm kiếm, phát hiện và tiêu diệt các mục tiêu mặt nước, phòng không và tàu ngầm.

Tàu có khả năng hoạt động độc lập hoặc tác chiến biên đội, tàu có khả năng hoạt động liên tục 20 ngày trên biển. Nội thất của tàu đã được cải tiến rất nhiều để tăng độ tiện nghi cho thủy thủ đoàn.

Phía Việt Nam đã bày tỏ ý định đóng mới thêm 2 chiếc nữa theo giấy phép từ phía Nga tại một nhà máy đóng tàu của Việt Nam, tuy nhiên đề nghị này chưa thực hiện được.

Hợp tác quân sự giữa Nga và Việt Nam trong những năm gần đây có bước phát triển vượt bậc.

Hiện tại Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, hợp tác trong các lĩnh vực kỹ thuật quân sự giữa hai nước sẽ được mở rộng hơn nữa trong thời gian tới.

Trước đó, Việt Nam cũng đã hoàn thành việc mua giấy phép đóng mới tàu tuần tra tên lửa Project 1241.8. Điều kiện để đóng tàu tuần tra tên lửa này tại Việt Nam đã hoàn tất vào năm 2006. Năm 2010, việc giải quyết một phần của giấy phép để đóng mới 10 tàu tuần tra tên lửa đã bắt đầu. Dự kiến công việc đóng mới 10 tàu tuần tra tên lửa Project 1241.8 sẽ được hoàn thành vào năm 2016.

Ngoài ra, phía Việt Nam cũng đã hoàn thành việc ký kết hợp đồng mua 10-12 tàu tuần tra cao tốc Project 10412. công việc đang được tiến hành tại nhà máy đóng tàu Almaz ở St Petersburg. Tàu tuần tra Project 10412 có khả năng đạt tốc độ tới 30 hải lý/giờ.



Hệ thống phòng thủ bờ biển K-300P Bastion.


Không chỉ vậy, Việt Nam cũng đã trở thành khách hàng nước ngoài đầu tiên của hệ thống phòng thủ bờ biển di động K-300P Bastion. Bên cạnh đó Việt Nam cũng đang xúc tiến các hoạt động để ký kết một thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật trong sản xuất tên lửa chống tàu Yakhont.

Năm 2009, Việt Nam và Nga cũng đã ký kết hợp đồng lớn nhất từ trước đến nay về việc mua bán 6 tàu ngầm tấn công điện-diesel Kilo 636. Cùng với đó là hợp đồng xây dựng cơ sở hạ tầng hầu cần và dịch vụ kỹ thuật cho tàu ngầm tại Việt Nam.

Việt Nam hy vọng nhận được một khoản vay từ Nga để mua các thêm các tàu ngầm, tàu hậu cần, tàu cứu hộ và máy bay chiến đấu hải quân. Lực lượng tàu ngầm và hàng không hải quân sẽ là những cấu trúc mới trong cơ cấu lực lượng vũ trang Việt Nam.

Bên cạnh việc mua vũ khí mới,Việt Nam cũng đã ký kết hợp đồng mua hệ thống mô phỏng huấn luyện hải quân Laguna 1241RE dùng để huấn luyện chiến đấu cho tàu tuần tra tên lửa Project 1241.8. Hệ thống mô phỏng huấn luyện Laguna-11661cho tàu hộ tống tên lửa Gepard.

Ngoài hải quân, không quân Việt Nam cũng đang được hiện đại hóa sâu rộng với các hợp đồng mua máy bay và hệ thống phòng không mới từ Nga. Việt Nam và Nga cũng đang xúc tiến các hoạt động để ký kết hợp đồng nâng cấp các hệ thống phòng không được Liên Xô chuyển giao trước đây.

TSAMTO nhận định, khối lượng công việc các hợp đồng mua bán vũ khí hải quân của Việt Nam gần tương đương với sự giúp đỡ mà Nga dành cho Hải quân Ấn Độ
[VietnamDefence news]


>> Việt Nam tự chủ số lượng tên lửa bảo vệ lãnh hải



Quan hệ hợp tác Nga - Việt trong những năm gần đây đã có tính chất đối tác chiến lược. Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Việt Nam.


Việt Nam là khách hàng đầu tiên mua hệ thống tên lửa bờ biển cơ động К-300P Bastion-P sau khi ký hợp đồng mua 2 hệ thống này vào năm 2006.

Nga đang chuẩn bị hợp đồng hỗ trợ Việt Nam sản xuất tên lửa chống hạm Yakhont. Hợp đồng này trị giá ước 300 triệu USD.

Tên lửa Yakhont được phóng từ hệ thống Bastion-P do công ty NPO của Nga nghiên cứu và chế tạo, chủ yếu dùng để tấn công các mục tiêu trên đất liền và trên biển. Phạm vi tấn công là 300 km, có thể dùng để bảo vệ đường bờ biển dài hơn 600km.



Hải quân Nhân dân Việt Nam thao diễn với hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion-P

Tên lửa Yakhont

Có tên thiết kế là 3k-55 Onyx/Yakhont P-800, SS-N-26 là tên lửa tầm trung chiến thuật, phát triển từ năm 1983, trang bị cho hải quân Nga vào năm 1999. Đến năm 2001, P-800 đã được triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả trên biển, trên không và đất liền.

Trong vài năm gần đây, Nga bán bản quyền hợp tác sản xuất P-800 cho Ấn Độ dưới tên là Brahmos A và Brahmos S.


SS-N-26 là tên lửa chiến thuật tầm trung, được trang bị cho cả máy bay, tàu chiến và trên xe ô tô. Ảnh là một chiếc Su-33 được trang bị Yakhont.

Về mặt thiết kế, P-800 giống tên lửa chống hạm Moskit (SS-N-22) và P-700 Granit. P-800 có kích thước 8,9 x 0,9 (m), trọng lượng 3 tấn, đầu đạn nặng 250 kg, sải cánh rộng 1,7 m, sử dụng động cơ đẩy phản lực thẳng, nhiên liệu lỏng, hoạt động trong phạm vi từ 120 - 300 km tùy theo độ cao và hành trình với vận tốc 2,5 M.

So với các tên lửa đối hải thế hệ trước, hành trình của P-800 đặc biệt hơn. Ngay khi rời bệ phóng P-800 bay vút lên cao, hành trình gần tới mục tiêu thì dần dần hạ thấp độ cao. Khoảng cách tới mục tiêu khi tên lửa hạ thấp có thể được lập trình từ trước.

Việc kiểm soát độ cao của tên lửa được thực hiện nhờ radar KTRV-Deltal K313, cho phép tên lửa có thể hoạt động tại độ cao từ 1.000 m đến 5000 m.



Nga và Ấn Độ phối hợp sản xuất một phiên bản SS-N-26, có tên là Brahmos A/S.
Ảnh là hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion, sử dụng tên lửa Brahmos.



Hệ thống dò mục tiêu Granit - Elektron được trang bị cho Yakhont của Nga và Brahmos của Ấn Độ.

P-800 sử dụng hệ thống dò tìm mục tiêu Granit – Elektron. Đây là một trong những hệ thống rò tìm mục tiêu kỹ thuật số hiện đại nhất của Nga cho đến ngày nay. Radar có thể hoạt động ở hai trạng thái: chủ động và thụ động.

Trong chế độ chủ động, radar hoạt động ở giải băng tần rộng với điều biến phổ tần ngẫu nhiên, có thể xác định mục tiêu cách 50km. Khi tên lửa phát hiện mục tiêu và lại gần ở khoảng cách 25 - 30 km, tên lửa tắt mọi liên lạc với hệ thống và chỉ sử dụng radar ở trạng thái thụ động.

Nhờ công nghệ hiện đại, P-800 có thể chống lại hiệu quả hệ thống gây nhiễu của đối phương, đồng thời cho phép hoạt động trong điều kiện biển động cấp 7.



Brahmos của Ấn độ có những cải tiến lớn về hệ thống dẫn đường và Ấn độ dự kiến triển khai trên cả máy bay Su-27/30

Trong phiên bản hợp tác sản xuất với Ấn độ, tên lửa Brahmos có những cải tiến đáng kể về hệ thống dẫn đường. Biến thể Brahmos dự kiến được Ấn độ triển khai trên các tàu chiến, các hệ thống phòng thủ bờ biển di động và trên máy bay Su27/30.

Nga và Ấn độ cũng đang xem xét triển khai phiên bản Brahmos tấn công đất liền. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào khả năng tăng độ chính xác cũng như hệ thống dẫn đường bổ sung.

Hệ thống Bastion-P

Hệ thống phòng thủ bờ biển sử dụng tên lửa P-800 được đặt tên là hệ thống phòng thủ Bastion. Đây là một hệ thống phòng thủ bờ biển di động, sử dụng xe MZKT-7930 TEL, trọng tải 41 tấn, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa, hoạt động trong đội hình bao gồm các xe mang tên lửa, xe chỉ huy, hệ thống radar truyền tiếp thông tin.

Hệ thống này được thiết kế dựa trên phiên bản của tên lửa chống tàu có tốc độ siêu âm nổi tiếng Ruby K301. Ống phóng TPS dạng kín của hệ thống dài 8,9m, đường kính 71cm, trọng lượng 3.900 kg. Tổng chiều dài của hệ thống bao gồm cả đầu đạn và hệ thống điều khiển là 8,6m. Đạn của tên lửa có đượng kính là 67cm.



Hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion sử xe MZKT-7930 TEL, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa.

Hệ thống Bastion-P (còn gọi là Fortress-P) chuẩn gồm: Mô hình cơ bản của một tổ hợp bao gồm 4 xe mang tên lửa tự hành K340P SPU (loại xe dựa trên khung gầm xe tải MZKT-7930). Mỗi xe mang 2 ống phóng TPS chứa tên lửa; 1-2 xe điều khiển K380P MBU (trọng tải 25 tấn trên khung xe MZKT- 65273) có thể triển khai chiến đấu chỉ trong vòng 5 phút.

Theo yêu cầu của khách hàng, số lượng của các trang thiết bị trên các loại xe kể trên có thể điều chỉnh.

Ngoài ra, còn có một xe đảm bảo sẵn sàng chiến đấu MOBD và 4 xe chở đạn K342P TZM (trên khung xe MZKT-7930), trang bị cần cẩu có trọng tải 5,9 tấn dùng để tiếp đạn cho xe K340P và các thiết bị hỗ trợ kỹ thuật huấn luyện chiến đấu đi kèm.



Bastion-P được gọi là hệ thống tên lửa đối hạm tiên tiến nhất trên thế giới với thời gian triển khai bố trí của tên lửa chống tàu Fortress chỉ mất 5 phút.


Hệ thống này còn được trang bị thiết bị hỗ trợ ngắm bắn như, hệ thống radar ngắm bắn tự động Monolit-B hay hệ thống ngắm bắn đường không 1K130E.

Khi nhận lệnh phóng, đạn tên lửa được kích hoạt buồng đốt để thoát khỏi ống phóng trước khi mở hệ thống cánh ổn định hướng và điều hướng. Tên lửa này có hiệu quả tác chiến cao nhờ tốc độ nhanh, hành trình bay đa dạng, diện tích phản xạ radar nhỏ, do được bọc một lớp vật liệu có tính năng hấp thụ sóng radar.

Với tính năng “bắn rồi quên”, đạn tên lửa công kích mục tiêu hoàn toàn tự động sau khi nhận phần tử bắn từ hệ thống trinh sát/điều khiển của tổ hợp.
[BDV news]


Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

>> Ấn Độ hiện đại hóa lực lượng tăng thiết giáp



Bộ Quốc phòng Ấn Độ thông qua kế hoạch hiện đại hóa quy mô lớn lực lượng tăng thiết giáp của mình.


Theo kế hoạch chương trình hiện đại hóa quy mô lớn lực lượng tăng thiết giáp sẽ bắt đầu vào năm 2012. Chương trình hiện đại hóa sẽ chú trọng nâng cấp toàn diện tất cả các hệ thống trên tất cả các loại tăng thiết giáp của quân đội Ấn Độ.

Trong đó, Ấn Độ đặc biệt chú trọng đến nâng cấp hệ thống điện tử và vũ khí, trước hết sẽ ưu tiên nâng cấp 2000 chiếc T-72 trong biên chế. Ngoài ra, công suất động cơ được tăng lên khoảng 1.000 mã lực, lớp giáp bảo vệ cũng được tăng cường, hệ thống điều khiển hỏa lực và thiết bị liên lạc được thay mới.

Trong kế hoạch, loại xe tăng nội địa Arjun được nâng cao tốc độ sản xuất, dù mới được đưa vào biên chế. Bên cạnh đó, xe tăng Arjun vẫn được xem xét để cải thiện khả năng hoạt động.


Tăng chiến đấu chủ lực nội địa Arjun.


Sửa đổi hệ thống điện tử, hệ thống trao đổi dữ liệu, lắp đặt hệ thống bảo vệ chủ động, thay thế pháo chính để tích hợp khả năng phóng tên lửa chống tăng qua nòng pháo.

Đối với loại tăng chủ lực T-90 Bhishma, sản phẩm hợp tác sản xuất với Nga cũng sẽ có nhiều thay đổi trong hệ thống, đặc biệt là thiết bị hồng ngoại nhìn đêm mới sẽ được biến đổi để tương thích với điều kiện môi trường khắc nghiệt tại Ấn Độ.

Cũng theo kế hoạch, 900 chiếc T-55 sẽ được nâng cấp bao gồm thay thế pháo D-10T 100mm bằng pháo L-7 105mm do Ấn Độ mua giấy phép sản xuất từ Anh. Xe còn được thay thế các thùng nhiên liệu, sửa đổi khung gầm.

Tuy nhiên, dự án nâng cấp 900 chiếc tăng T-55 không phải là ưu tiên. Chương trình nâng cấp có thể chỉ được thực hiện cuối cùng. Sau khi nâng cấp, số tăng T-55 này sẽ được đưa vào bảo quản trong kho, dành cho trường hợp xảy ra chiến tranh tạo sự áp đảo về số lượng.

Mặc dù đã lỗi thời, song T-55 vẫn tỏ ra khá hiệu quả trong việc chống lại các phương tiện bọc giáp nhẹ và trung bình.

Ngoài xe tăng, kế hoạch của Bộ Quốc phòng Ấn Độ còn chú ý tới việc hiện đại hóa 1.600 xe chiến đấu bộ binh BMP. Các nâng cấp bao gồm thay thế động cơ mới mạnh hơn, hệ thống giám sát thông tin liên lạc và kiểm soát bắn...

Chương trình hiện đại hóa này thể hiện tham vọng rất lớn của Ấn Độ trong việc cân bằng lực lượng tăng thiết giáp với các nước láng giềng là Trung Quốc và Pakistan. Trước đó, đã có những lo ngại trong giới quân sự Ấn Độ rằng lực lượng tăng thiết giáp của họ đang tụt hậu so với Trung Quốc.
[BDV news]


Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

>> Tejas của Ấn Độ sẽ cất cánh vào tháng 7



DRDO dự định tiến hành các chuyến bay thử nghiệm đầu tiên phiên bản huấn luyện chiến đấu của dòng máy bay tiêm kích Tejas vào tháng 7/2011.

DRDO: Tổ chức nghiên cứu và phát triển quốc phòng Ấn Độ

Trước đây, theo thông báo, đến cuối năm 2011 phiên bản Tejas một chỗ ngồi sẽ cất cánh. Tuy nhiên, mẫu máy bay này còn trong quá trình thử nghiệm. Ở thời điểm hiện tại, mẫu Tejas đầu tiên đang trải qua các thử nghiệm trên mặt đất.



Máy bay tiêm kích Tejas. Ảnh bharat-rakshak.com


Không quân Ấn Độ dự định sẽ đưa vào trang bị vào tháng 12/2012. Còn Hải quân Ấn Độ đã đặt hàng 6 chiếc máy bay tiêm kích mới Tejas. Đến năm 2014, việc cung cấp sẽ được hoàn tất.

Điểm khác biệt giữa Tejas của không quân với các biến thể dành cho hải quân ở chỗ có khung dài hơn, khả năng quan sát tốt hơn…

Theo kế hoạch của DRDO, Tejas sẽ được lắp đặt động cơ General Electric F404-IN20 và trang bị cho các tàu sân bay.

[BDV news]


Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

>> Ấn Độ phát triển tên lửa đánh chặn



Ấn Độ đã bắt đầu phát triển một mạng lưới các hệ thống phòng không có khả năng bắn hạ bất cứ tên lửa nào của đối phương ở vị trí cách xa 5000km trước khi nó có thể bay vào không phận Ấn Độ.

Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Quốc phòng (DRDO) đã phát triển loại tên lửa có thể đánh chặn tên lửa của đối phương cách xa 2.000km trong khuôn khổ chương trình Hệ thống Phòng thủ Tên lửa Đạn đạo (BMD) và hiện đang tiến hành giai đoạn thứ hai.

Giám đốc DRDO V K Saraswat tiết lộ, trong giai đoạn thứ hai này, các chuyên gia đã thiết kế và phát triển để tên lửa có khả năng bắn hạ bất cứ tên lửa nào đang bay tới ở khoảng cách 5.000km.




Theo ông, tên lửa đánh chặn ở tầm bắn 5.000km này sẽ sẵn sàng hoạt động vào trước năm 2016.

“Hiện tại, các tên lửa của chúng tôi được thiết kế để nhắm tới các mục tiêu trong phạm vi 2.000km. Sau đó, chúng tôi sẽ nâng tầm bắn các tên lửa đánh chặn lên mức 5.000km. Đó sẽ là giai đoạn II của hệ thống BMD”, ông nói them.

Tháng 7 năm ngoái, DRDO đã thử nghiệm thành công giai đoạn I của tên lửa đánh chặn nội địa từ bãi thử nghiệm kết hợp (ITR) ở đảo Wheeler, ngoài khơi bờ biển Orissa.

Về khả năng hợp tác với Mỹ hoặc bất cứ quốc gia nào khác để phát triển các hệ thống BMD, ông Saraswat cho biết: “Tiến trình hợp tác quốc tế của chúng tôi hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc thúc đẩy tiến trình phát triển của riêng chúng tôi. Bất cứ khi nào chúng tôi cảm thấy cần thiết công nghệ mới thì chúng tôi mới tính đến chuyện hợp tác”.

Liên quan đến việc Mỹ đề xuất với Ấn Độ về Hệ thống Phòng thủ Tên lửa Aegis, ông khẳng định: “Sẽ luôn luôn có các đề xuất bán trang thiết bị. Tại Ấn Độ, đây không chỉ là nỗ lực của DRDO mà còn là một chương trình thực sự, vì thế tôi nghĩ không nên lo lắng về vấn đề này”.

Ấn Độ cũng đang phát triển radar theo dõi tầm xa (LRTR) trang bị cho hệ thống BMD với sự hợp tác cùng Israel.
[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang