[BDV news] Xe tăng là mũi nhọn tấn công chính của lục quân trên chiến trường, do đó, người ta luôn phát triển các loại vũ khí từ thô sơ đến hiện đại nhất để chống lại nó. Để có khả năng tồn tại, hệ thống bảo vệ của xe tăng cũng phải phát triển theo với một tốc độ không kém.
Với khả năng chống chịu hỏa lực đặc biệt trên chiến trường, xe tăng vẫn là phương tiện lý tưởng để thực hiện nhiệm vụ đột kích trên chiến trường. Để đảm bảo được vị trí này, hệ thống bảo vệ của xe tăng đã trải qua quãng đường phát triển rất dài. Giáp dày và dày hơn nữa Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến thuật chiến hào còn chiếm ưu thế, các loại pháo trên chiến trường còn kém chính xác, vũ khí chính trên chiến trường chủ yếu là các loại súng liên thanh, súng trường, lựu đạn cùng phương tiện đột kích chính là kỵ binh, ưu thế tuyệt đối thường thuộc về những quân đội phòng thủ. Yếu tố quyết định sự thành bại trên chiến trường thường không phụ thuộc vào những trận đánh lớn mà chủ yếu phụ thuộc vào tiềm năng kinh tế và sức chịu đựng của xã hội nước tham chiến. Trong thời điểm này, sự xuất hiện của xe tăng đã làm thay đổi tất cả. Hai loại xe tăng trên chiến trường đầu tiên, Little Willie và Big Willie do Anh phát triển và sản xuất đã thực sự trở thành nỗi sợ hãi của các đơn vị phòng thủ của quân đội Đức lúc đó. Trong trận chiến sông Somme, mặc dù chỉ có 18 chiếc xe tăng Anh tham gia tấn công (31 trong tổng số 49 chiếc được chuẩn bị đã gặp phải nhiều vấn đề trục trặc kỹ thuật khác nhau và không thể ra trận) đã tiến được 5 km trong một ngày với số thương vong giảm 20 lần. Những chiếc Willie của Anh, mặc dù chỉ được trang bị vỏ giáp trước dày 10 mm, giáp sườn dày từ 6-8 mm (còn thua xa cả loại xe trinh sát bọc thép hạng nhẹ BRDM-1/2 sau này), nhưng loại xe tăng này đã gần như “miễn dịch” hoàn toàn với các loại vũ khí bộ binh hạng nhẹ được sử dụng chủ yếu khi đó. ![]() Xe tăng đầu tiên của thế giới - Little Willie - do Anh chế tạo với lớp giáp làm bằng thép cán và ghép với nhau bằng đinh tán Không chỉ mỏng, kỹ thuật gia công giáp xe tăng thời kỳ này còn rất thô sơ. Những tấm giáp này được làm đơn thuần bằng thép cán (RHA - Rolled homogeneous armor) và cũng vì độ dày hạn chế, chúng được ghép với nhau bằng đinh tán. Đến trước chiến tranh thế giới thứ hai, để chế áp xe tăng, vũ khí thường được dùng là các loại pháo bắn đạn xuyên, làm bằng các loại hợp kim thép cứng, có sơ tốc đầu đạn cao. Do hạn chế về chất lượng thuốc phóng do công nghệ hiện thời, pháo chống tăng trước thế chiến thứ hai thường có cỡ nòng nhỏ hơn 50 mm như Pak-36 của Đức, M3 của Hoa Kỳ, M-1930 của Liên Xô (cỡ nòng 37 mm); Hotchkiss của Pháp (cỡ nòng 25 mm) hay Ordnance QF-2 pounder của Anh (cỡ nòng 40 mm). Để đối phó với những loại đạn chống tăng này, các nhà sản xuất chỉ cần cần gia tăng độ dày của giáp. ![]() Với lớp giáp mỏng, vũ khí chống tăng chuyên dụng đầu tiên chỉ là súng trường cỡ nòng lớn. Trong ảnh là khẩu M1918 T-Gewehr cỡ nòng 13 mm được quân đội Đức sử dụng trong Thế chiến thứ nhất Trong suốt thời kỳ lịch sử này, cuộc đua chỉ diễn ra giữa độ dày giáp thép xe tăng và cỡ nòng của súng chống tăng. Tuy nhiên, cho đến khi độ dày giáp thép đã chạm đến ngưỡng không thể tăng thêm do ảnh hưởng đến kích cỡ, khối lượng và không gian vận hành của tổ lái, nhà sản xuất buộc phải nghĩ đến một giải pháp thay thế khác. Xoay nghiêng lớp giáp Chiến tranh thế giới thứ hai là thời điểm nhảy vọt, phát triển vượt bậc của các loại súng chống tăng cỡ nòng lớn. Kể từ khi người Đức phát minh ra súng chống tăng Pak-38 với cỡ nòng 50 mm; các loại xe tăng giáp đứng như T-28 của Liên Xô, M2, M3 Stuart của Hoa Kỳ hay A9 (cruiser tank mk-1) của Anh ... đã gần như vô dụng trên chiến trường. Ngay cả loại tăng hạng nặng giáp đứng như T-35 của Liên Xô cũng nhanh chóng bị loại bỏ. ![]() Pháo Flak-88 mm, tử thần của các loại xe tăng đồng minh trong Thế chiến hai Điều này buộc các nhà sản xuất xe tăng nghĩ đến một phương pháp hiệu quả hơn, không ảnh hưởng đến khối lượng, tính cơ động của xe tăng nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho xe trên chiến trường. Chính vì vậy, giáp kiểu nghiêng ra đời. ![]() Xe tăng giáp đứng sớm vô dụng trên chiến trường, ngay cả loại hạng nặng như T-35 của Liên Xô ![]() Lớp giáp thép dày tới 102 mm của xe tăng Tiger (Đức) vẫn bị đạn pháo chống tăng hạ gục. Giáp nghiêng mang rất nhiều ưu điểm so với giáp thẳng đứng. Trước hết, giáp nghiêng làm giảm khối lượng thép cần thiết mà vẫn đảm bảo độ dày (tính trên khối lượng) của giáp xe tăng, giúp xe chống lại các loại súng chống tăng cỡ nòng lớn. ![]() Trong hình mô tả vectơ động năng của đạn đã bị phân tán khi gặp giáp nghiêng Không chỉ thế, giáp thép nghiêng còn có tác dụng đặc biệt chống lại các loại đạn thanh xuyên, vốn được dùng chủ yếu trong Thế chiến 2. Những loại đạn thanh xuyên có khối lượng riêng không đủ lớn, tốc độ không đủ cao hay đơn thuần bắn từ khoảng cách quá xa có thể bị trượt, nảy hoặc gẫy khi bắn vào giáp nghiêng của xe tăng. ![]() Các hiệu ứng tác động của giáp nghiêng đối với đạn chống tăng dạng thanh xuyên: a - bật lại tức thời, b - trượt đi, c - bật lại khi đã xuyên một phần, d - bật ngược trở lại và e - bẻ gãy thanh xuyên. Trong Thế chiến thứ hai, xe tăng T-34 của Liên Xô là loại xe tăng chủ lực đầu tiên khai thác thành công ưu điểm của giáp nghiêng và trở thành loại xe tăng cực kỳ hiệu quả trên chiến trường. Đây cũng là chiếc xe tăng được chương trình Discovery bình chọn là loại xe tăng hiệu quả nhất mọi thời đại, tính đến thời điểm hiện nay. ![]() Xe tăng T-34 là xe tăng đầu tiên khai thác hiệu quả năng lực của giáp nghiêng trên chiến trường. Trong điều kiện chiến trường, góc chạm của đạn không phải lúc nào cũng theo phương ngang, do đó để tối ưu hóa hiệu quả của giáp nghiêng, nhiều loại xe tăng đã chọn cách thiết kế tháp pháo hình chỏm cầu (vỏ trứng), sớm nhất là IS-3 của Liên Xô, sau đó là một số loại của phương Tây như M60 Patton của Mỹ; Leopard 1A1 của Đức hay Type-74 của Nhật Bản. Sau này, mẫu tháp pháo chỏm cầu trở thành tiêu chuẩn cho hầu hết các thiết kế xe tăng Liên Xô và Nga. ![]() Xe tăng Type-74 Nana-yon của Nhật Bản với thiết kế tháp pháo hình chỏm cầu. ![]() Thiết kế chỏm cầu vẫn được áp dụng với loại xe tăng hiện đại nhất hiện nay của quân đội Nga - T80-UM2 Black Eagle. Cuối chiến tranh thế giới thứ hai, việc phát minh ra đạn chống tăng đầu nổ lõm, có hiệu quả xuyên giáp không phụ thuộc vào tốc độ bay và góc chạm với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại rocket chống tăng cá nhân như Bazooka (Mỹ), Panzerschreck, Panzerfaust (Đức), các nhà thiết kế giáp bảo vệ xe tăng đã nhận ra rằng nếu chỉ có một lớp giáp thép dày, kể cả giáp nghiêng vẫn là chưa đủ, và họ cần phải sáng chế ra phương tiện bảo vệ khác hiệu quả hơn. Điều này khiến lịch sử thiết kế xe tăng bước sang trang tiếp theo. |
Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011
>> Hệ thống phòng thủ xe tăng (kỳ 1)
Nhãn:
Anh,
Chiến Tranh Thế Giới thứ 2,
Đức,
Leopard 1A1 tank,
liên xô,
Little Willie,
M60 Patton tank,
Mỹ,
Nga,
Nhật Bản,
RHA,
T-34 tank,
tank,
Type-74 tank,
xe tăng
>> Hàn Quốc phát triển hệ thống phòng vệ cho Báo đen
[BDV news]Cục Phát triển quốc phòng Hàn Quốc ADD mới đây đã tiết lộ kế hoạch phát triển hệ thống phòng vệ chủ động APS (Active Protection System) để lắp cho tăng chủ lực K2 Black Panther (Báo đen) để chống tên lửa chống tăng của đối phương.
APS được phát triển từ năm 2006, dự kiến hoàn thành phát triển APS trước cuối năm 2011, song chưa rõ thời điểm đưa hệ thống vào trang bị cho Lục quân Hàn Quốc. Hàn Quốc đã chi cho dự án này 40 tỷ won (36 triệu USD). APS bao gồm: radar phát hiện và bám 3 tọa độ, các sensor hồng ngoại phát hiện và bám, máy tính điều khiển, bệ phóng và tên lửa chống tên lửa. Radar làm nhiệm vụ bắt và bám các tên lửa chống tăng, máy tính thì tính toán quỹ đạo bay của chúng, còn các tên lửa chống tên lửa sẽ tiêu diệt các tên lửa đe dọa xe tăng. APS sẽ sử dụng bệ phóng bắn các tên lửa chống tên lửa LOGIR cỡ 70 mm để tiêu diệt tên lửa chống tăng đối phương bắn vào xe tăng. Tên lửa LOGIR (Low Cost Guided Imaging Rocket) do Hàn Quốc hợp tác với Mỹ phát triển, được trang bị hệ dẫn ảnh hồng ngoại và hệ thống điều khiển. LOGIR hoạt động theo cơ chế bắn-quên và có thể bay với tốc độ đến Mach-2 (2.300 km/h). Theo tính toán của ADD, từ thời điểm bắt mục tiêu cho đến khi tiêu diệt mục tiêu bằng tên lửa chống tên lửa sẽ mất 0,2-0,3 giây. Lục quân, Không quân và Hải quân Hàn Quốc tỏ ra quan tâm đến hệ thống này để trang bị cho các loại xe, máy bay và hạm tàu. ![]() Xe tăng chủ lực K-2 Black Panther của Hàn Quốc. Ảnh: Defpro. ![]() ADD giới thiệu ảnh bệ phóng APS cùng với tên lửa có điều khiển 70 mm trong triển lãm khoa học công nghệ quốc phòng ở Hawaii hôm 15/3/2011. Ảnh: mnd.go.kr. ![]() Xe tăng chủ lực K2 lắp ống thông hơi để vượt vật cản nước. Ảnh: militaryphotos.net. |
>> Ấn Độ chi 3,1 tỷ USD mua tên lửa Akash
[BDV news] Ấn Độ lên kế hoạch trang bị cho quân đội tổ hợp tên lửa phòng không Akash nhằm đối phó với mối đe dọa tại vùng biên giới đông bắc nước này.
Ngày 28/3/2011 tờ báo The Hindu đưa tin, Ấn Độ vừa kí hợp đồng trị giá 3,1 tỷ USD với công ty Bharat Dynamics cung cấp tổ hợp tên lửa phòng không Akash. Tuy nhiên, số lượng tên lửa chưa được tiết lộ. Bên cạnh đó, một hợp đồng cung cấp tên lửa phòng không trị giá khoảng 230 triệu USD cũng được ký kết với Không quân Ấn Độ. Theo thông báo từ tháng 2/2010, Không quân Ấn Độ cần trang bị 8 tiểu đoàn tên lửa phòng không Akash đến năm 2015. ![]() Akash là một trong tổng số 5 tên lửa do Tổ DRDO phát triển. Với 3,1 tỷ USD Lục quân Ấn Độ có thể sở hữu khoảng 18 tiểu đoàn trang bị tổ hợp tên lửa phòng không mới. Một bộ phận tên lửa Akash gồm 8 xe mang bệ phóng tên lửa (mỗi bệ mang 3 tên lửa), trung tâm điều khiển hỏa lực, radar đa chức năng Rajendra, thiết bị liên lạc và hệ thống cung cấp năng lượng. Dự kiến, đơn vị tên lửa đầu tiên sẽ trang bị cho Lục quân Ấn Độ vào đầu năm 2012. Bên cạnh đó, Không quân Ấn Độ sẽ tiếp nhận đơn vị Akash vào nửa đầu năm 2011. Theo thông báo của Bộ quốc phòng Ấn Độ, trong 20 năm tới Lục quân và Không quân Ấn Độ có kế hoạch sở hữu tới 3.000 tên lửa Akash. Hệ thống phòng không Akash trang bị tên lửa đánh chặn có tầm bắn tối đa 30km, độ cao bay tối đa 18km, tốc độ hành trình bay Mach 2,5. |
Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 2)
[BDV news]Những thế hệ tên lửa chế tạo trong giai đoạn 1970 - 1980 của Nga, đến nay còn nguyên giá trị tác chiến.
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 1) >> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 3) Họ tên lửa SS-N-9 Họ tên lửa SS-N-9 (NATO gọi là Siren) là loại tên lửa chống hạm tầm trung, được trang bị cho các tàu chiến loại nhỏ và tàu ngầm. SS-N-9 có tên thiết kế là Malakhit P-120, 4K84, bắt đầu được trang bị trong quân đội Nga từ năm 1972, có tầm bắn lên tới 110 km. Cho tới thời điểm hiện nay, SS-N-9 vẫn còn được sử dụng trong quân đội Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, phần lớn loại tên lửa này đã được Nga thay thế bằng loại tên lửa đời mới hơn SS-N-22 Sunburn. ![]() P-120 có tầm bắn 110km, được trang bị cho hải quân Nga và nhiều nước trên thế giới. SS-N-9 có kích thước 0,96x11,85 m, sải cánh rộng 2,1 m, hoạt động trong bán kính từ 90-110 km với vận tốc cực đại lên tới 1.100 km/h. SS-N-9 có trọng lượng khoảng 3.200 kg, đầu nổ có thể là đầu đạn thường hoặc đầu đạn hạt nhân với trọng lượng lên tới 500 kg, sử dụng động cơ đẩy phản lực, nhiên liệu rắn. Malakhit P-120 được trang bị lần đầu tiên cho hải quân Liên Xô vào tháng 3/1972 trên các tàu nổi hộ tống lớp nhỏ như Tarantul, Nanuchka. Vào năm 1997, loại tên lửa này được trang bị cho các tàu ngầm lớp PAPA, với cơ số 8 tên lửa trên một tàu ngầm, trong đó có thể có 2 tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, các tàu ngầm lớp này đã được cho "về hưu", thay thế bằng những lớp tàu ngầm mới hiện đại hơn nhiều. ![]() P-120 được trang bị cho các tàu chiến lớp Tarantul, Nanuchka. Ảnh đưa tên lửa lên tàu chiến lớp Tarantul. Kể từ khi chính thức được trang bị cho hải quân, đến nay đã có hơn 500 tên lửa được sản xuất. Loại tên lửa này từng sử dụng trong cuộc đụng độ giữa Nga và Gruzia. Malakhit P-120 được trang bị hai đầu dẫn đường, một đầu dẫn bằng radar chủ động và một đầu tự dẫn bằng hồng ngoại. Radar dẫn đường của P-120 được đặt phía dướng bụng tên lửa, hoạt động ở dải tần tương tự khiến cho việc phát hiện và đối phó khi bị tấn công trở nên vô cùng khó khăn. Hơn thế, hệ thống dẫn đường của P-120 còn cho phép các người điều khiển có thể lập trình mục tiêu trước khi tên lửa được phóng đi. ![]() Trong cuộc chiến với Gruzia tháng 8/2008, P-120 trang bị cho hạm đội Biển đen đã đánh chìm một tàu chiến của Gruzia. So với các loại tên lửa chống hạm thế hệ trước, P-120 có thể được phóng trên mặt nước hoặc khi tàu ngầm đang lặn ở độ sâu 50m. Khi tên lửa được phóng, tên lửa bay lên cao với vận tốc siêu âm, rồi từ từ chuyển xuống bay là là, cách mặt nước khoảng 40 m. Trên đường hành trình tìm mục tiêu, nhân viên điều khiển có thể lập trình thay đổi đường đi và mục tiêu để có thể tấn công mục tiêu một cách chính xác hơn hoặc thay đổi mục tiêu tấn công theo yêu cầu của chỉ huy. Họ tên lửa SS-N-12 SS-N-12 (NATO gọi là Sandbox) là loại tên lửa chống hạm tầm xa, sử dụng nhiên liệu lỏng, được trang bị cho tàu sân bay Kiev của Liên Xô, các tàu ngầm lớp Echo II và Juliett và sau đó còn được trang bị cho các tàu khu trục lớp Slava và một số loại tàu chiến khác. ![]() Sandbox có khả năng tác chiến trong phạm vi 550 km, được trang bị cho tàu sân bay, các tàu ngầm và tàu khu trục lớp Slava. SS-N-12 có tên thiết kế là Bazalt P-500, Bazalt 4k80, bắt đầu được trang bị trong quân đội Nga từ năm 1975 với mục tiêu thay thế lớp tên lửa Shaddock. P-500 có kích thước 11,7x1,544 m, sải cánh rộng 2,6m, hoạt động trong bán kính khoảng 550 km, có thể mang đầu đạn thường (từ 500 kg đến 1.000 kg) hoặc đầu đạn hạt nhân (350KT). ![]() Các ống phóng tên lửa Sandbox trên tàu khu trục lớp Slava. Tên lửa sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính và radar hoạt động chế độ chủ động. Do tầm hoạt động xa, hệ thống dẫn đường của tên lửa được cập nhật thông quan một số loại máy bay như Tu-95, Ka-25 và Ka-27 Helix hoặc thông tin truyền dẫn qua vệ tinh. Điểm ưu việt của thế hệ P-500 là hệ thống gây nhiễu điện tử hiện đại, khiến cho hệ thống phòng thủ đối phương khó có thể phát hiện và tiêu diệt trước khi tên lửa lao đến mục tiêu. So với các thế hệ tên lửa trước đó, P-500 có tầm hoạt động xa hơn và bay thấp hơn khiến cho hệ thống phòng thủ của đối phương trở nên vô hiệu. ![]() Do có phạm vi tác chiến xa, Sandbox thường sử dụng hệ thống dẫn đường truyền dẫn qua một số loại máy bay như Tu-95, Ka-25 và Ka-27 Helix Họ tên lửa SS-N-19 Không thỏa mãn với khả năng tấn công của các thế hệ tên lửa trước đó, vào giữa thập kỷ 1970, Liên Xô tiếp tục yêu cầu các nhà thiết kế vũ khí nghiên cứu loại tên lửa chống hạm có tên SS-N-19 (NATO gọi là Shipwreck) với khả năng hỏa lực mạnh và xác định đây là vũ khí số một nhằm trang bị cho các tàu chiến cỡ lớp, các tàu sân bay và tàu ngầm tên lửa. ![]() Shipwreck được thiết kế nhằm chống lại các mục tiêu là các tàu sân bay, các hạm đội lớn của đối phương. SS-N-19 có tên thiết kế là Chelomey P-700 Granit, 3M45, kích thước 0,96x10,2 m, sải cánh rộng 3,2 m, hoạt động trong phạm vi 450 km với vận tốc tối đa lên tới 1,7M (gấp 1,7 lần vận tốc âm thanh). Thân tên lửa P-700 được thiết kế để có thể chịu được vận tốc siêu âm ở độ cao thấp. P-700 sử dụng động cơ tua bin phản lực nhiên liệu lỏng hoặc động cơ phản lực thẳng dòng. P-700 có trọng lượng lên tới 4.350 kg, có thể sử dụng đầu đạn thường, nặng 750 kg hoặc đầu đạn hạt nhân với sức công phá lên tới 500KT. ![]() Vị trí bố trí tên lửa Shipwreck trên tàu khu trục tên lửa lớp Kirov của Nga P-700 được trang bị hệ thống điều khiển bắn hiện đại với hàng loạt cải tiến. Hệ thống dẫn đường, kiểm soát mục tiêu hoạt động thông qua nhiều cảm biến, cho phép hệ thống có thể tự động lựa chọn các mục tiêu. Tính năng mới này nhằm mục đích thực hiện các cuộc tấn công vào các hải đội của đối phương và lựa chọn mục tiêu có giá trị nhất để tiêu diệt. Radar dẫn đường được đặt ở phía mũi của tên lửa. Trong quá trình hành trình tìm mục tiêu, radar của tên lửa hoạt động ở chế độ chủ động trên dải băng tần X. Khi tên lửa tiến gần đến mục tiêu, rada chủ động chuyển sang hoạt động ở dải băng tần Ku. ![]() Shipwreck được trang bị hàng loạt cho các tàu chiến lớp Oscar. Ảnh là một chiếc tàu chiến lớp Oscar. P-700 được trang bị hàng loạt cho các tàu ngầm thuộc lớp Oscar. Mỗi tàu ngầm có 20 ống phóng chứa tên lửa, được đặt nghiêng một góc 47 độ. Trước khi tên lửa được phóng ra khỏi ống, ống phóng sẽ được nước tràn ngập. Họ tên lửa SS-N-21 SS-N-21 (NATO gọi là Sampson) có tên thiết kế là 3k10 Granat, RK-55 Granat, S-10/3M10 là tên lửa đối hạm chiến lược tầm trung, trang bị cho tàu ngầm, sử dụng động cơ đẩy phản lực và bắt đầu trang bị cho hải quân Nga kể từ năm 1984. Sampson được xem là loại tên lửa có khả năng tác chiến ngang ngửa với tên lửa Tomahawk của Mỹ. ![]() Granat được cho là có khả năng tấn công và tiêu diệt mục tiêu ngang ngửa với tên lửa Tomahawk của Mỹ. Ảnh là một quả tên lửa RK-55 Granat. Sampson được thiết kế nhằm trang bị cho các tàu ngầm lớp Victor 3, Akula 1/2, Sierra 1/2 và Yankee Notch. Mỗi tàu ngầm có thể mang từ 20-35 tên lửa. Sampson có kích thước 8,09x0,51 m, trọng lượng 1.700 kg, có thể phóng từ ống phóng ngư lôi 533 mm. Sampson sử dụng hệ dẫn đường quán tính, có khả năng cập nhật thông tin địa hình trên đường bay và điều khiển từ trung tâm chỉ huy. Sampson có thể tiêu diệt mục tiêu cách tàu lên tới 2.400km, hành trình trên biển với vận tốc 0,7 M, mang đầu đạn hạt nhân có sức công phá 200 kt hoặc đầu đạn thường nặng 400 kg hoặc đầu đạn có chứa nhiều đầu đạn con bên trong. ![]() Samspon được trang bị cho các tàu ngầm lớp Victor 3, Akula 1/2, Sierra 1/2 và Yankee Notch. Ảnh là một chiếc tàu ngầm lớp Yankee Notch của Nga. Kể từ khi chính thức đưa vào trang bị cho hải quân, đến nay, có hơn 240 tên lửa Sampson triển khai trên 37 tàu ngầm của Nga. Theo Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược START 2, loại tên lửa này đã được cắt giảm đáng kể, hiện còn khoảng 200 tên lửa. Tuy nhiên, một số nguồn tin cho rằng, một số tên lửa này đã được hoán cải mang đầu đạn thông thường hoặc loại mang nhiều đầu đạn con. Nguồn tin cho hay, có thể Nga trang bị loại tên lửa này cho các tàu ngầm hiện đại lớp Delta 1/2/3 và có thể triển khai trên một số khu trục hạm. |
Nhãn:
Hải quân Nga,
Họ tên lửa SS-N-12,
Họ tên lửa SS-N-9,
Khu trục lớp Slava,
Sandbox missile,
Shipwreck,
Tàu chiến lớp Oscar,
tên lửa,
Tên lửa chống hạm,
Tomahawk,
Tu-95
Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011
>> Sức mạnh tên lửa chống tăng Spike của Israel
[BDV news] Quân đội Israel có một loại vũ khí chống tăng hiện đại do Hãng Rafael nghiên cứu, chế tạo mà trong suốt một thời gian dài không ai biết, kể cả Mỹ.
![]() Tên lửa chống tăng có điều khiển Spike NLOS của Israel đã được giữ bí mật trong nhiều năm liền. Đó chính là tên lửa chống tăng có điều khiển Spike NLOS, biến thể mới nhất thuộc dòng tên lửa Spike hiện đang có mặt trong biên chế của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Chile, Columbia, Croatia, Ecuador, Phần Lan, Pháp, Đức, Ý, Newzealand, Peru, Ba Lan, Rumania, Singapore, Slovenia, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ. Khác với các tên lửa cùng lớp thế hệ trước, Spike NLOS (Non Line Of Sight) không được giới thiệu rộng rãi trong triển lãm vũ khí mặc dù đã xuất xưởng từ vài năm trước. Trong suốt một thời gian dài Israel đã giữ bí mật về loại tên lửa mới này, cất giữ nó trong kho vũ khí chuyên dụng. Chỉ mới cách đây một tuần Israel mới chính thức tiết lộ. Ngay đến cả đồng minh thân cận như Mỹ cũng không được biết đến loại tên lửa này trong suốt một thời gian dài. Sau đó, Mỹ cũng đã phát hiện ra sự hiện diện của Spike NLOS nhờ bản đồ vệ tinh. Thậm chí ngay đến tên của tên lửa này cũng được bảo mật khi cất giữ trong kho vũ khí chuyên dụng. Ở đây tên lửa Spike NLOS được gọi là Tamuz và chỉ có sỹ quan mới biết có sự hiện diện của nó trong kho. ![]() Ngay từ khi xuất hiện trên thị trường vũ khí thế giới, Spike NLOS đã được nhiều nước ưu chuộng và tin dùng. Spike NLOS lần đầu tiên được thử nghiệm trong điều kiện tác chiến vào năm 2006 khi diễn ra chiến tranh Lebanon lần hai. Khi đó, Spike NLOS đã được sử dụng để tiêu diệt nhóm tay súng Hezbollah. Sau khi thử nghiệm thành công, Israel đã quyết định cho triển khai Spike NLOS tại biên giới dải Gaza, đồng thời giới thiệu và xuất khẩu loại vũ khí này ra nước ngoài, đặc biệt là giới thiệu cho Ả Rập như một “món quà đặc biệt” phòng thân trong trường hợp xảy ra chiến tranh. ![]() Cận cảnh hệ thống phóng tên lửa chống tăng Spike NLOS. Spike NLOS lần đầu tiên được biết đến trên thị trường vũ khí thế giới vào cuối năm 2009 tại triển lãm vũ khí tổ chức tại Singapore. Tuy nhiên, khi đó, Israel vẫn chưa chính thức khẳng định đã trang bị loại tên lửa hiện đại này cho quân đội của mình. Theo tuyên bố của các nhà chế tạo, Spike NLOS là hệ thống tên lửa điện quang đa năng, đa dụng, có thể ứng dụng trên nhiều phương tiện tác chiến khác nhau (trên bộ, trên không, trên biển). Tên lửa loại này có bán kính hoạt động 25 km, trọng lượng 71 kg, rất nhẹ mà giá thành lại rẻ cả trong bảo dưỡng lẫn khai thác, sử dụng nên vừa mới xuất hiện trên thị trường vũ khí thế giới đã được nhiều quốc gia ưa chuộng, tin dùng. ![]() Dòng tên lửa chống tăng có điều khiển Spike thế hệ thứ 3. Spike NLOS có thể mang nhiều loại đầu đạn khác nhau: nổ phá mảnh, xuyên phá, thông minh, đa năng,…Nó có thể tích hợp với hệ thống dẫn đường vệ tinh hoặc máy bay không người lái, có hệ thống định vị mục tiêu riêng kết hợp điều khiển từ xa. [Vitinfo news] Ấn Độ chi 1 tỷ đôla mua tên lửa Spike của Israel Theo thông tin của đại diện Bộ Quốc phòng Ấn Độ, thỏa thuận này xem xét việc cung cấp 321 máy phóng, 8356 tên lửa, 15 thiết bị huấn luyện và thiết bị khác. Hợp đồng có tổng trị giá là 1 tỷ đôla. Rafael là công ty duy nhất tham gia vụ đấu thầu được tuyên bố vào tháng 6/2010. Công ty General Dynamics và Raytheon của Mỹ, MBDA của châu Âu và Rosoboronexport của Nga không tham gia đấu vì Ấn Độ đòi hỏi thực hiện một phần đơn hàng tại các doanh nghiệp quốc phòng nước này. Về phần mình, tập đoàn Rafael đã bày tỏ sẵn sàng chuyển một phần hợp đồng cho tập đoàn quốc doanh Bharat Dynamics của Ấn Độ. Theo thông tin hiện có, cản trở chính đối với các công ty tham gia là yêu cầu chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, Defense News không tiết lộ các công ty không tham gia đấu thầu có từ chối chuyển giao công nghệ của mình cho ngành công nghiệp quốc phòng Ấn Độ hay không cũng như quan điểm của Rafael về vấn đề này. Lực lượng Lục quân Ấn Độ nhận tổ hợp tên lửa chống tăng Spike ở những dạng khác nhau gồm dạng tên lửa sẵn sàng sử dụng được lắp ráp tại Israel, dạng tên lửa được lắp ráp một phần, còn khâu lắp ráp cuối cùng sẽ diễn ra tại Ấn Độ và một số bộ phận tên lửa sẽ được sản xuất tại tập đoàn quốc doanh Bharat Dynamics của Ấn Độ. Bộ Tư lệnh Lực lượng Lục quân Ấn Độ dự định trang bị tên lửa chống tăng Spike này cho trang thiết bị bọc thép hiện có do Nga sản xuất. Theo tuyên bố của Bộ Quốc phòng Ấn Độ, việc thử nghiệm tổ hợp tên lửa chống tăng trong điều kiện chiến đấu đã hoàn tất, đặc điểm tên lửa phù hợp với tất cả các yêu cầu của Lực lượng Lục quân Ấn Độ bao gồm tầm xa tiêu diệt mục tiêu không được dưới 2,5km trong điều kiện cả ban ngày và ban đêm và độ chính xác là 90%. Việc Ấn Độ mua tổ hợp tên lửa chống tăng thế hệ 3 của nước ngoài xuất phát từ sự chậm trễ đưa tổ hợp tên lửa chống tăng Nag nội địa vào trang bị và từ dự định tiếp cận được những công nghệ hiện đại sản xuất tên lửa chống tăng. Hiện nay, Lục quân Ấn Độ được trang bị tổ hợp tên lửa chống tăng Milan-2 – đây là hệ thống thế hệ 2 được sản xuất vào thập niên 70. Tổ hợp tên lửa chống tăng Milan-2 được sản xuất tại công ty Bharat Dynamics Limited từ đầu thập niên 80 theo thỏa thuận cấp phép về chuyển giao công nghệ với MBDA. Tên lửa Spike đặt trên ô tô, tàu biển và trực thăng được trang bị 2 đầu đạn chiến đấu và hệ thống tự dẫn đường nâng cao tính chính xác khi bắn những mục tiêu di chuyển của kẻ địch. Theo nhiều thông số, tên lửa này giống với tên lửa FGM-148 Javelin của Mỹ. Tên lửa Spike có nhiều phiên bản khác nhau như tên lửa tầm ngắn, tầm trung, tầm xa và tầm xa hạng nặng cũng như phiên bản Spike NLOS (Non Line Of Sight). |
Nhãn:
Ba Lan,
Chile,
Columbia,
Croatia,
Ecuador,
Lục quân Ấn Độ,
Newzealand,
Peru,
Phần Lan,
Quân đội Israel,
Rumania,
Singapore,
Spike NLOS,
Tập đoàn Rafael,
Tên lửa chống tăng,
Ý
>> Chương trình hạt nhân Iran tiến thoái lưỡng nan
[BDV news] Theo Mark Fitzpatrick của viện nghiên cứu chiến lược quốc tế, Iran đang bước “chậm chạp” trong quá trình chế tạo vũ khí nguyên tử và quốc gia hồi giáo này cần khoảng 2 năm nữa để đạt mục tiêu đó.
“Iran đã có thể đẩy nhanh quá trình hơn nữa. Họ đã bắt đầu dự án này từ cách đây 25 năm. Thời điểm đầu tiên Iran bắt đầu chương trình làm giàu hạt nhân là năm 1985”, Mark Fitzpatrick nói. Trong báo cáo “Đánh giá khả năng sở hữu vũ khí sinh hóa và hạt nhân của Iran”, Mark Fitzpatrick so sánh chương trình này của Iran với chương trình phát triển hạt nhân của Pakistan. Pakistan hoàn thành chương trình phát triển vũ khí hạt nhân trong vòng 11 năm. ![]() Nhà máy điện hạt nhân Bushehr của Iran. Tuy nhiên, ông Mark Fitzpatrick cũng cho rằng Iran chưa thực sự “quyết tâm” phát triển bom nguyên tử. “Tới nay thì họ vẫn chưa hạ quyết tâm cao độ vì vậy vẫn còn thời gian dành cho đối thoại”, ông Fitzpatrick là cựu nhân viên của bộ ngoại giao Mỹ. Iran "lưỡng lự" vì trở ngại? Cuối năm ngoái, ngoại trưởng Israel Moshe Yaalon đã công bố vài trở ngại đã làm chậm chương trình làm giàu hạt nhân của Iran. Một trong số đó là virus máy tính, loại sâu Stuxnet đã lây nhiễm vào các máy ly tâm làm giàu Uranium của Iran. Nhiều thông tin cho rằng sâu Stuxnet được Israel và Mỹ tạo ra để phá hoại chương trình làm giàu Uranium của Iran. Tờ New York Times đã công bố thông tin cho rằng cơ quan tình báo Mỹ và Israel đã cộng tác để phát triển loại virus này. “Stuxnet đã khiến cho một số máy li tâm ngưng hoạt động. Tuy nhiên, nó không thành công vì sau đó các máy li tâm này đã hoạt động trở lại”, ông Fitzpatrick nói. Lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chương trình phát triển hạt nhân của quốc gia Hồi giáo này. Tên lửa đạn đạo Sajil 2 có khra năng trang bị đầu đạn hạt nhân cũng cần ít nhất 2 năm nữa mới có thể đi vào hoạt động. Báo cáo của Mark Fitzpatrick cũng chỉ ra rằng những quá trình nỗ lực liên tục trong suốt 25 năm qua của Iran khiến cho cộng đồng quốc tế không thể tin vào mục tiêu sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Iran đã chịu 4 lệnh cấm vận từ Liên Hiệp Quốc vì từ chối ngừng quá trình làm giàu hạt nhân. Mỹ cùng nhiều quốc gia phương tây đã cáo buộc Iran đang phát triển bom hạt nhân. Theo một nghị sĩ, thì quan chức tình báo Mỹ kết luận rằng Iran “đang quyết tâm hơn” trong phát triển vũ khí hạt nhân. “Tôi không thể tiết lộ chi tiết, tuy nhiên rõ ràng là họ đang tiếp tục quyết tâm chế tạo vũ khí hạt nhân”, nghị sĩ độc lập Joe Lieberman – chủ tịch hội đồng nghị sĩ phụ trách an ninh nội địa Mỹ nói với hãng tin AFP. |
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 1)
Tên lửa đối hải, vũ khí chủ công để tiêu diệt các mục tiêu trên biển, luôn là mối đe dọa đáng sợ đối với các tàu chiến hiện đại.
>> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 2) >> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ 3) >> Tên lửa chống hạm của Nga (kỳ cuối) Tên lửa đối hải là vũ khí của các tàu chiến, hầu hết bay ở tầm thấp, có thể bay với vận tốc dưới âm hay vượt âm. Tên lửa đối hải thường sử dụng hệ thống dẫn đường kết hợp giữa hệ dẫn quán tính và rada chủ động hay hệ thống hồng ngoại thụ động, viết tắt là ASM (Anti-Ship Missile), nhưng cũng thường được gọi là AShM để tránh nhầm lẫn với các tên lửa không đối đất. Trước đây, loại tên lửa này thường được chú trọng vì có tầm bắn xa, đầu nổ có sức công phá lớn hơn nhiều so với các loại hỏa lực trên tàu khác như pháo tàu, ngư lôi. ![]() Ảnh khu trục hạm Eilat chụp 3 tháng trước khi bị bắn chìm. Việc tầu khu trục Eilat của Israel bị tên lửa SS-N-2 bắn hạ trong cuộc chiến với Ai Cập đánh dấu một bước ngoặt mới đối với tác chiến trên biển. Tên lửa đối hải là một mối đe dọa đáng kể đối với các tàu chiến hiện đại và nó được sử dụng rộng rãi. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, kỹ thuật điều khiển thông minh được ứng dụng rộng rãi thì việc sử dụng các tên lửa đối hải tầm xa lại càng được các nước quan tâm để trang bị cho hải quân của mình. Tên lửa đối hải có thể được phóng từ nhiều trạm phóng khác nhau, gồm: tàu chiến (các loại tàu tham chiến trên mặt nước); tàu ngầm, máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng và các phương tiện cơ giới trên bộ. Nga là nước nghiên cứu chế tạo nhiều loại tên lửa đối hải để sử dụng cho hải quân và xuất khẩu. Một số loại tên lửa đối hải của Nga qua các thời kỳ gồm: Họ tên lửa SS-N-2 SS-N-2 (NATO gọi là Styx) có tên thiết kế đặt theo các phiên bản khác nhau là P-15, P-20, P-21, P-22 và P-27. SS-N-2 là tên lửa hành trình, đối hải đầu tiên của Nga. SS-N-2 được thiết kế từ đầu những năm 1950 và chính thức được đưa vào trang bị trong quân đội Liên Xô vào năm 1967. SS-N-2 tham chiến lần đầu vào năm 1967 trong cuộc chiến giữa Ai Cập và Israel. Trong cuộc chiến này, Ai Cập đã bắn ba tên lửa SS-N-2, đánh chìm khu trục hạm Eilat của Israel. Thông số kỹ thuật SS-N-2 sử dụng động cơ đẩy nhiên liệu lỏng, có tầm hoạt động từ 40 đến 80 km, vận tốc đạt 0,9M (0,9 lần tốc độ âm thanh). Tên lửa được thiết kế có chiều dài 5,8 m, chiều rộng 0,76 m và sải cánh rộng 2,4 m. Khối lượng của tên lửa phụ thuộc vào từng phiên bản khác nhau, 2.125 kg (kiểu SS-N-2A), 2.500 kg (kiểu P-20); đầu nổ 480 kg (kiểu SS-N-2A), 500 kg (kiểu P-20). ![]() Với khối lượng đầu nổ lên tới 500kg, SS-N-2 trở thành nỗi ám ảnh của các loại tàu chiến nổi.Các phiên bản khác nhau của SS-N-2 P-15M Termit: đây là phiên bản cải tiến của P-15, được trang bị hệ thống dẫn đường mới và các cánh của tên lửa có thể gập lại. P-20 Rubezh cũng là một biến thể của P-15 thông qua việc tăng tầm bắn bằng cách sử dụng một loại nhiên liệu mới. Một số tính năng khác cũng được cải tiến trên phiên bản này, gồm: tăng tầm hoạt động của radar, cải tiến hệ thống khóa mục tiêu và bổ sung tính năng chống nhiễu do Ấn độ sản xuất. P-20 Rubezh sử dụng đầu dò MS-2A, là một loại rada có tầm hoạt động rộng, khả năng chính xác cáo, khó bị phát hiện bởi đối phương và chống phân mảnh. P-21 Rubezh cũng là một biến thể của P-15, được trang bị thêm đầu dò hồng ngoại. P-22 Rubezh được cải tiến từ phiên bản P-20M, trang bị đầu dò hồng ngoại, được đặt ở mũi của tên lửa. Đầu dò này được sử dụng dự phòng trong trường hợp đầu dò radar bị gây nhiễu. P-27 Rubezh cũng được cải tiến từ P-20M, trang bị đầu dò hoạt động ở dải tần L. Cơ chế hoạt động SS-N-2 thường được trang bị cho các tàu lớp Osa-Il, Tarantul I. Đây là loại tên lửa được điều khiển theo chế độ “bắn và quên”, đầu tự dẫn chủ yếu dùng radar chủ động, có loại dùng hồng ngoại. Khi tên lửa được phóng từ tầu, trong thời gian đầu, tên lửa sẽ hoạt động ở chế độ tự dẫn cho đến khi đến gần mục tiêu, rada tích cực sẽ kích hoạt, giúp điều khiển tên lửa tấn công chính xác mục tiêu. ![]() SS-N-2 thường được trang bị cho các tàu lớp Osa-Il, Tarantul I. Ảnh nạp tên lửa trên tàu chiến lớp Tarantul I. Điểm yếu lớn nhất của loại tên lửa này là thay vì dùng động cơ phản lực dùng không khí thì nó lại dùng động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng, điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến tầm bắn của nó. Ngày nay, với tốc độ chậm, kích thước lớn và thiết kế khí động kém không cho phép cơ động gấp, các tên lửa dòng P-15 dù được nâng cấp hệ dẫn đường tiên tiến cùng thiết bị chống nhiễu mới nhất cũng khó còn đảm đương được nhiệm vụ nguyên thủy của nó là chống chiến hạm được nữa do quá dễ bị phát hiện từ xa và bắn hạ dễ dàng nhưng bù lại nó có khung thân rất rộng cùng đầu đạn lớn nên rất thuận lợi cho việc hoán cải công năng thành tên lửa hành trình tấn công mặt đất. Họ tên lửa SS-N-3 SS-N-3 là loại tên lửa được chế tạo từ thời Liên Xô, nhằm chống lại các hạm đội tàu sân bay. SS-N-3 (NATO gọi là Shaddock và SS-C-1) có tên thiết kế theo các phiên bản khác nhau là P-5, P-6, P-35 và S-35. SS-N-3 có kích thước 0,96x11,85 m; sải cánh rộng 3,2 m; tầm hoạt động từ 460-500 km; đầu tự dẫn dùng radar chủ động kết hợp điều khiển bằng lệnh; trọng lượng tùy theo phiên bản, giao động từ 4.600-5.400 kg; đầu nổ nặng 900 kg; động cơ đẩy dùng động cơ nhiên liệu lỏng. ![]() Tên lửa Shaddock được Liên Xô chế tạo nhằm tiêu diệt các cụm tàu sân bay của đối phương. Phiên bản đầu tiên của SS-N-3 là P-5, sử dụng hệ dẫn đường bằng quán tính, được trang bị cho các tàu ngầm loại Echo II, Whiskey Conversion và Juliett. P-5 sử dụng loại cánh gập được, do đó có thể trang bị cho các loại tầm ngầm loại nhỏ. P-5 có tầm bắn lên tới 500 km, hoạt động ở độ cao từ 100-400 m và hành trình ở tốc độ 0.9 M. Vào những năm 1960, P-5 có thể xuyên thủng qua hệ thống phòng thủ bờ biển của Mỹ. Phiên bản P-6 được thiết kế với độ chính xác cao hơn so với P-5 và sử dụng vào mục đích tấn công các tàu sân bay của Mỹ. P-6 được trang bị cho các tàu ngầm loại Echo II và Juliett, sử dụng hệ dẫn đường bằng rada tích cực. P-6 có thể mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường. ![]() Tàu ngầm Juliett được trang bị tên lửa Shaddock mang đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường Phiên bản P-35 (NATO gọi là SEPAL), cũng sử dụng hệ dẫn đường bằng radar, được trang bị cho các tàu khu trục lớp Grozny và Sevastopol. P-35 có thể sử dụng đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường, hoạt động với vận tốc 1,2 M, đây là loại tên lửa có tốc độ vượt âm. Phiên bản S-35 được trang bị cho lực lượng phòng thủ bờ biển, đặt trên xe chuyên dùng. ![]() Phiên bản S-35 được khai hỏa. Để phóng P-5, tàu ngầm bắt buộc phải nổi lên mặt nước, kích hoạt radar dẫn đường để điều khiển tên lửa hướng tới mục tiêu. Sau khi phóng, tên lửa leo lên tầm cao, tăng tốc tới vận tốc cực đại, và bắt đầu tìm kiếm vùng phía trước với radar dẫn đường. Hình ảnh kết quả được truyền tới tàu phóng thông qua 1 kênh TV. Khi một mục tiêu được xác định, thao tác viên trên tàu xác minh liệu có phải đó là mục tiêu mong muốn hay không. Thao tác viên điều khiển tên lửa bằng cách bật hệ thống tìm đường của nó sang chế độ tự động. Kế đó, tên lửa đi xuống tầm thấp (nhưng vẫn ở tốc độ siêu âm) rồi chui xuống nước 10 - 20 m trước khi tới mục tiêu và phát nổ để phá hoại mục tiêu dưới nước, tăng mức độ thiệt hại cho đối phương. |
Nhãn:
Hải quân Việt Nam,
liên xô,
Nga,
Styx,
Tàu lớp Osa-Il,
tên lửa,
Tên lửa chống hạm,
Tên lửa đối hải,
Tên lửa Shaddock,
Tên lửa SS-N-2,
Tên lửa SS-N-3
>> Mây phóng xạ là gì?
[Vnexpress news] Thuật ngữ "mây phóng xạ" xuất hiện trên các phương tiện truyền thông tại Việt Nam và thế giới trong nhiều ngày qua, tuy nhiên không phải ai cũng biết khái niệm cụ thể về nó.
![]() Mô hình di chuyển của mây phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I hôm 18/3. (Ảnh: paranoidnews.org) Bộ Quốc phòng Mỹ và Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) dùng thuật ngữ "mây phóng xạ" để chỉ khí nóng, hơi nước, khói, bụi và các sản phẩm của phản ứng phân hạch hạt nhân được tạo ra sau vụ nổ bom nguyên tử. Thuật ngữ này cũng được dùng cho các sự cố trong nhà máy điện hạt nhân, mặc dù các lò phản ứng không phát nổ giống như bom nguyên tử. Trên thực tế tỷ lệ các chất đồng vị phóng xạ trong đám vật chất phát sinh từ vụ nổ của bom hạt nhân hoàn toàn khác với vụ nổ của lò phản ứng. Thông tin từ Tổ công tác xử lý thông tin sự cố Nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1 của Bộ Khoa học và Công nghệ chiều 28/3 cho biết trạm quan trắc của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã phát hiện đồng vị phóng xạ I-131 trong không khí, nhưng hàm lượng rất nhỏ, không ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Đối phó với tình hình ô nhiễm phóng xạ từ Nhật Bản sắp ảnh hưởng tới Việt Nam, 3 bệnh viện đã được chuẩn bị để điều trị nhiễm phóng xạ đó là Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ Huế và Bệnh viện Chợ Rẫy. Trường hợp nếu có biểu hiện nghi vấn sẽ được chuyển tiếp đến các cơ sở y tế như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ Huế, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện TƯ Quận đội 108, Viện Y học phóng xạ quân đội… kiểm tra nhiễm xạ trong. Theo từ điển Khoa học và Công nghệ McGraw-Hill, mây phóng xạ là thuật ngữ dùng để chỉ một lượng không khí và hơi nước mang theo các chất phóng xạ từ vụ nổ hoặc sự cố hạt nhân. Các nguyên tố hóa học có thể có một hoặc nhiều đồng vị. Các đồng vị có số nguyên tử và số proton trong hạt nhân nguyên tử giống nhau song số neutron của chúng khác nhau nên số khối cũng khác. Chúng được gọi là "đồng vị" vì nằm cùng vị trí trong bảng tuần hoàn hóa học. Hạt nhân nguyên tử gồm hai loại: ổn định và không ổn định. Phân rã phóng xạ hay phân rã hạt nhân là hiện tượng hạt nhân nguyên tử không ổn định tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân để đạt tới trạng thái ổn định. Các nguyên tử có tính phóng xạ (không ổn định) được gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các đồng vị không có tính phóng xạ được gọi là đồng vị bền. Chẳng hạn, nguyên tố Carbon (C) có hai đồng vị phóng xạ là C-12 và C-13, một đồng vị phóng xạ là C-14. Tia phóng xạ là các dòng hạt chuyển động nhanh phát ra từ các chất phóng xạ trong quá trình phân rã hạt nhân. Chúng có thế là chùm các hạt mang điện dương (như hạt alpha, hạt proton) hay mang điện âm (như electron) hay không mang điện (như hạt neutron, hạt gamma, hạt neutrino). Một số người cũng chưa hiểu tại sao người dân Trung Quốc đổ xô đi mua muối chứa i-ốt do lo ngại mây phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, trong khi báo chí Nhật Bản đưa tin các chuyên gia phát hiện đồng vị phóng xạ i-ốt bên ngoài nhà máy. Tại sao người dân Trung Quốc muốn đưa muối i-ốt vào cơ thể họ trong khi nguyên tố này cũng có thể tồn tại trong mây phóng xạ? Nguyên tố i-ốt có tới 37 đồng vị, trong đó chỉ có I-127 là đồng vị ổn định. Muối chứa I-127 và những viên nén i-ốt kali (KI) có thể được dùng để rửa trôi đồng vị phóng xạ I-131, một sản phẩm phụ của phản ứng phân hạch hạt nhân, trong cơ thể người. Như vậy có nghĩa là người ta dùng đồng vị bền duy nhất của i-ốt để ngăn chặn tác động của đồng vị phóng xạ i-ốt. |
Nhãn:
Bom nguyên tử,
Bộ quốc phòng Mỹ,
Công nghệ McGraw-Hill,
Fukushima-1,
Hải quân Việt Nam,
khí hạt nhân,
liên quân NATO,
mây phóng xạ,
Nhật Bản,
trung quốc,
viet nam
>> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 3)
Nếu bom chìm, súng cối, rocket chống ngầm có tính chất phòng vệ thụ động thì máy bay, tên lửa tầm xa săn ngầm là những vũ khí tấn công tầu ngầm có tính chủ động.
>> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 1) >> Vũ khí diệt tầu ngầm qua các thời kỳ (kỳ 2) ![]() Ống phóng tên lửa chống ngầm RPK-6 trên khu trục hạm Neutrasimiy của Nga. Các phiên bản ngư lôi chống ngầm trang bị đầu dò tự dẫn hạng nhẹ thường được dùng làm đầu đạn trên các tên lửa đối hạm để đối phó với tầu ngầm ở khoảng cách xa. Điển hình của dòng vũ khí này có thể kể đến tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC phóng từ tầu nổi, UUM-44 SUBROC phóng từ tầu ngầm của Mỹ và các dòng RPK của Nga như RPK-6 Vodopad, RPK-9 Medvedka phóng từ tầu nổi; RPK-2 Viyuga, RPK-7 Vorobei phóng từ tầu ngầm. Những loại tên lửa này có thể phóng đi từ những ống phóng chuyên dụng hoặc các loại ống phóng ngư lôi 533 mm hay 650 mm; có tầm bay vượt trội so với rocket chống ngầm (UUM-44 SUBROC có tầm bay tới 55km hay tên lửa nhiên liệu rắn của hệ thống RPK-6/7 có tầm bay tới 100 km). ![]() Tên lửa VL-ASROC đang được bắn thử nghiệm. Đầu đạn sau khi phóng đến vị trí phát hiện tầu ngầm sẽ tự tách ra và được thả bằng dù xuống biển và tự tìm mục tiêu bằng thiết bị định vị âm thanh gắn kèm. Máy bay săn ngầm Sự phát triển của không quân trong thời kỳ hiện đại đã mang đến một giải pháp chống ngầm hữu hiệu, đó là các máy bay chống ngầm. Nhiệm vụ chủ động săn tìm và tiêu diệt tầu ngầm thường được giao cho các loại máy bay cánh cố định, có tốc độ bay vừa phải và thời gian bay lớn. Điển hình cho loại máy bay này là máy bay săn ngầm P3C - Orion của Mỹ và Ilyushin IL-38 của Nga. P3C Orion có tốc độ bay hành trình khi làm nhiệm vụ là 610 km mỗi giờ và có thể bay liên tiếp 14 tiếng liên tục, còn thông số này đối với IL-38 là 645 km mỗi giờ trong 12 tiếng hành trình. Các loại máy bay săn ngầm này thường có tải trọng lớn, vì bên trong chứa các thiết bị phát hiện và theo dõi tầu ngầm hiện đại như các loại sonar; radar tìm và diệt mục tiêu, cảm biến địa từ trường. ![]() Máy bay săn ngầm P3C-Orion của Hải quân Mỹ. ![]() Máy bay săn ngầm IL-38 của Nga đang phục vụ cho không quân Ấn Độ. Ngoài ra, chúng cũng được trang bị các loại vũ khí như ngư lôi tự dẫn chống ngầm, bom chìm, tên lửa chống hạm (AGM-86 Harpoon trên P3C) và thậm chí là tên lửa không đối không để tự vệ như AA-11 Archer trên IL-38). Năng lực hoạt động của những chiếc máy bay săn ngầm này rất lớn; những chiếc IL-38SD mới của Hải quân Nga có khả năng phát hiện và tấn công tầu ngầm ở khoảng cách lên đến 150 km. Nhiệm vụ của các tầu săn ngầm hay tự vệ trước tầu ngầm của những tầu chiến thông thường khác cũng được san sẻ cho những chiếc trực thăng chống ngầm trang bị đi theo tầu. Những chiếc trực thăng đảm nhận nhiệm vụ này có thể kể đến như SH-60B Seahawk của Hoa Kỳ, AW101 Merlin của Anh hay Ka-27 Helix của Nga. ![]() Trực thăng chống ngầm AW-101 Merlin của Anh với các thiết bị điện tử chứa trong khoang bụng có hình dáng đặc trưng. ![]() Trực thăng chống ngầm SH-60B Seahawk của Mỹ đang bắn một quả ngư lôi MK-46. ![]() Phi đội săn ngầm tiêu chuẩn của Ka-27. Chúng cũng được trang bị các loại radar, cảm biến điện từ trường, sonar ... để phát hiện tầu ngầm và các loại vũ khí chống ngầm như ngư lôi, bom chìm hay tên lửa chống hạm. Phát triển kỹ thuật phát hiện và theo dõi tầu ngầm. Phát triển song song cùng vũ khí tiêu diệt là các loại thiết bị do thám, giúp phát hiện chính xác sự hoạt động của tầu ngầm. Với mục tiêu chủ động phát hiện, theo dõi và tiêu diệt các tầu ngầm đối phương, những hệ thống phao thủy âm (sonar) đơn giản như ASDIC không còn đáp ứng được yêu cầu chiến tranh hiện đại. Dù ngày nay kỹ thuật sử dụng sonar chủ động và bị động đều có những tiến bộ vượt bậc nhưng các tầu ngầm hiện đại đều được trang bị những thiết bị khử âm hiệu quả. Những tầu ngầm tấn công như loại Akula của Nga có lớp phủ cách âm dày đến 100 mm, gồm nhiều loại vật liệu khác nhau có thể ngăn chặn âm thanh ở tất cả các tần số, giúp tiếng động nó phát ra giảm đến 100 lần. Do đó, việc sử dụng những kỹ thuật khác để phát hiện tầu ngầm là điều tất yếu. ![]() Các phương pháp theo dõi và phát hiện tầu ngầm phổ biến hiện nay Radar: Các tầu ngầm hoạt động bằng động cơ diesel thường có thời gian lặn liên tục kéo dài từ vài ngày đến một tuần, sau đó chúng phải nổi lên để vận hành động cơ diesel, sạc lại các bộ pin trong tầu. Tại thời điểm này, chúng dễ bị phát hiện bởi radar gắn trên các loại máy bay săn ngầm. Dù chỉ phát hiện tầu ngầm khi chúng nổi lên trên mặt nước, nhưng radar có thể giúp phát hiện được các tầu ngầm ở khoảng cách cực kỳ xa để khoanh vùng và sử dụng các biện pháp đối phó bổ sung. Hiện nay, một số hệ thống radar hiệu quả đang được Hải quân Mỹ sử dụng phải kể đến AN/APS-115 trên máy bay P3C Orion và AN/APS - 124 gắn trên trực thăng SH-60B Seahawk. Cảm biến địa từ trường (MAD - Magnetic Anomaly Detector): Về nguyên tắc cơ bản, cảm biến MAD hoạt động tương tự như những thiết bị dò kim loại: Một vật làm bằng kim loại có kích cỡ lớn như tầu ngầm sẽ tạo ra một khu vực địa từ trường khác thường xung quanh nó. Các cảm biến MAD sẽ tính toán dựa trên cường độ của điểm thay đổi địa từ trường này các thông số như kích cỡ, chất liệu vật cản để xác định đó có phải là tầu ngầm hay không. Trước sự phát triển mãnh liệt của tầu ngầm Liên Xô, và sau này là của Nga, Trung Quốc, Mỹ đã kịp "chạy theo" những bước dài và phát triển công nghệ cảm biến điện từ trường gồm các hệ thống AN/ASQ-81 sử dụng trên máy bay săn ngầm S3B Viking và hệ thống AN/ASQ-208 trên máy bay P3C Orion. Cảm biến điện từ: Các thiết bị cảm biến điện từ sẽ kiểm tra và phát hiện các tần số “lạ” của sóng radio phát ra khi tầu ngầm đối phương liên lạc với căn cứ. Loại cảm biến này không những gắn được trên các tầu nổi và máy bay, mà chúng thậm chí có thể gắn trên cả những tầu ngầm tấn công để phát hiện và tiêu diệt tầu ngầm đối phương. Cảm biến hồng ngoại (IR-Infra Red sensor): Các cảm biến hồng ngoại (FLIR hay IRDS) có thể phát hiện được những vùng nước ấm tạo ra do động cơ tầu ngầm phát nhiệt khi vận hành. Đặc biệt là về đêm khi các hệ thống khác hoạt động kém hiệu quả. Không những thế, các cảm biến hồng ngoại gắn trên máy bay săn ngầm còn có thể sử dụng để theo dõi các phương tiện hoạt động trên biển khác như tầu nổi, người nhái... Thiết bị quan sát quang điện: Được dùng để cải thiện tầm nhìn của mắt thường, giúp dễ dàng phát hiện ra các tầu ngầm hoặc kính tiềm vọng của chúng nổi trên mặt nước. |
Nhãn:
Anh,
Hải quân Mỹ,
Hải quân Nga,
Không quân Ấn Độ,
Máy bay săn ngầm P3C-Orion,
Mỹ,
Nga,
tàu ngầm,
tên lửa,
Trực thăng chống ngầm,
Vũ khí diệt tầu ngầm
Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011
>> Động đất ở Nhật là do thử vũ khí hạt nhân?
[VietnamDefence news] Đó là giả thiết ác ý về thảm kịch động đất/sóng thần/điện hạt nhân hôm 11.3 ở Nhật Bản do một blogger nổi tiếng Trung Quốc mới nêu ra và nhanh chóng được thảo luận ngay cả ở trên báo chí thế giới.
![]() Theo giả thiết này, trận động đất là do vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất bất thành của Nhật Bản gây ra, còn các sự cố sau đó ở nhà máy điện nguyên tử Fukushima-1 là được dàn dựng để che giấu nguyên nhân thực sự của hiện tượng tăng phông bức xạ ở Nhật Bản, tức là che giấu vụ thử hạt nhân. Trước hết, blogger nọ nhắc đến phát biểu mới đây của tỉnh trưởng Tokyo Shintarō Ishihara rằng, vũ khí hạt nhân có thể được sử dụng chống lại Trung Quốc. Phát biểu của vị tỉnh trưởng lập tức có vẻ kỳ lạ vì Nhật Bản không nằm trong câu lạc bộ hạt nhân và luôn tuyên bố không định sở hữu vũ khí hạt nhân. Phải chăng đó chỉ là những mỹ từ giả dối và ông Ishihara đã buột miêng nói ra mưu đồ thật sự của giới lãnh đạo Nhật Bản? Trong bài viết này, blogger cũng lưu ý đến một xoáy nước khổng lồ hình thành gần bờ biển Nhật Bản sau trận động đất hôm 11.3. Các bức ảnh xoáy nước đã nhanh chóng xuất hiện trên tất cả các báo chí thế giới và theo tác giả, cái xoáy nước đó được chính là do vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất gây ra. Vấn đề là ở chỗ, sau vụ nổ, đáy biển bất ngờ sụt xuống khiến nước như là “bị hút vào một boongke ngầm dưới đất”. Ngoài ra, tác giả bài viết thấy rất khó tin việc tất cả các hệ thống cấp điện của nhà máy Fukushima-1 đều hỏng, dẫn đến rò rỉ phóng xạ. Theo giả thiết chính thức, các máy phát điện diesel đã bị hỏng sau khi đợt sóng thần cao 10 m tràn qua bờ biển đảo Honshu và nhà máy Fukushima-1. Chẳng lẽ, những người Nhật đầy thực dụng lại không tính đến yếu tố nhà máy điện nguyên tử nằm trong vùng có thể bị tác động của sóng thần để mà có biện pháp bảo vệ cần thiết cho nó, tay blogger Trung Quốc nhận xét. Một điều thú vị nữa là việc tàu sân bay Mỹ Ronald Reagan chỉ ở cách nhà máy điện nguyên tử Fukushima-1 100 km trong một thời gian ngắn nhưng đã bị nhiễm xạ ở mức 1 tháng, mặc dù vùng sơ tán ở khu vực nhà máy điện chỉ vẻn vẹn có 20-30 km. Tác giả cho rằng, việc đó xảy ra là vì rò rỉ phóng xạ đã xảy ra không phải ở nhà máy điện mà trên biển khi thử hạt nhân. Cuối cùng, bài viết lưu ý rằng, giới chức Nhật rất miễn cưỡng chia sẻ thông tin về sự cố và không cho các chuyên gia của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA và Hiệp hội Hạt nhân thế giới WNA đến nhà máy điện gặp sự cố. ![]() 1. Sự xuất hiện xoáy nước: Tại tâm chấn dưới đáy biển, khi các mảng địa tầng dịch chuyển, tạo ra một vết nứt dài 380 km và rộng 190 km. Và nước biển bắt đầu đổ vào chính vết nứt này, tạo ra xoáy nước khổng lồ trong những giờ đầu thảm họa. 2. Sự cố mất điện tại nhà máy điện nguyên tử Fukushima-1: Báo chí đã nhiều lần nói con đê phòng hộ của nhà máy điện nguyên tử chỉ cao có 4 m nên không thể nào ngăn được sóng thần cao 10 m ập đến nó. Đây đúng là một sai sót nghiêm trọng của người Nhật, nhưng cáo buộc họ đã cố ý làm việc này là quá ngu. 3. Tàu sân bay Ronald Reagan bị nhiễm xạ: Phông bức xạ gần nhà máy Fukushima-1 ở những thời điểm nhất định cao hơn mức bình thường 1.600 lần. Ở khoảng cách 20-50 km so với nhà máy điện nguyên tử, phông bức xạ cũng cao hơn mức bình thường hàng chục, hàng trăm lần vì thế mức nhiễm xạ bằng 1 tháng chẳng có gì là phi tự nhiên, mà trái lại là rất nhỏ. 4. Việc giới chức Nhật che giấu các sự kiện: Đây là điều ngớ ngẩn nhất trong bài viết này. Thủ tướng Nhật đã liên tục thông báo về tình hình trong nước cứ 20 phút một lần và theo tính toán của các phóng viên, ông đã không ngủ gần 5 ngày đêm. Khu vực gần Fukushima-1 không bị đóng kín và ở đó đã có mặt hàng chục phóng viên các nước, kể cả một kênh truyền hình Nga. Các chuyên gia quốc tế cũng đã có mặt ở Nhật từ lâu và làm việc cùng với các chuyên gia hạt nhân của Nhật Bản. Vì thế, không có bất cứ cơ sở nào để nói rằng, các sự kiện ở Nhật Bản là là thảm họa kỹ thuật và do vụ thử vũ khí hạt nhân của Nhật hay của một nước nào khác gây ra. Đây là thảm họa thiên nhiên mà từ đó người ta cần rút ra những kết luận phù hợp, chứ không phải đưa ra những giả định và luận thuyết không tưởng nhất. |
Nhãn:
blogger,
Bộ Quốc phòng Nhật,
Fukushima-1,
IAEA,
Nga,
nguyên tử,
Nhật Bản,
sóng thần,
Tàu sân bay Mỹ Ronald Reagan,
Tokyo,
trung quốc,
vietnamdefence
>> Nga trang bị hệ thống rocket phóng loạt thế hệ mới Tornado
[VietnamDefence news] Năm 2011, Lục quân Nga sẽ mua một số hệ thống rocket phóng loạt Tornado-G, đại diện cục báo chí Bộ Quốc phòng Nga về Lục quân Sergei Vlasov cho biết.
![]() Hình ảnh được cho là của hệ thống rocket phóng loạt Tornado Theo ông Vlasov, Tornado-G sẽ thay thế các hệ thống Grad và có "hiệu quả hơn nhiều các loại trước đó nhờ tăng uy lực đạn đối với mục tiêu, áp dụng các hệ thống dẫn và ngắm tự động hóa, trắc đặc và đạo hàng, cho phép hoạt động độc lập”. ![]() Hình ảnh được cho là của hệ thống rocket phóng loạt Tornado ![]() ![]() Chưa rõ cụ thể khi nào hệ thống mới được nhận vào trang bị. Hiện có rất ít thông tin về Tornado-G. Hệ thống này dùng để tiêu diệt và chế áp sinh lực, tăng-thiết giáp, các trận địa pháo/cối và sở chỉ huy của đối phương. Dự đoán, Tornado-G là hệ thống rocket 2 cỡ, có khả năng bắn đạn 122 mm và 300 mm, lắp trên khung gầm ô tô MAZ-543M. Các hình ảnh được cho là của hệ thống rocket phóng loạt Tornado Cũng có nguồn tin nói rằng, hệ thống Tornado hiện có 2 biến thể Tornado-G bắn đạn 122 mm và có hiệu quả chiến đấu cao hơn 2,5-3 lần so với hệ Grad, và Tornado-S bắn đạn 300 mm và có hiệu quả chiến đấu cao hơn hệ Smerch 3-4 lần. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Chuyên mục Quân Sự
Hải quân Trung Quốc
(263)
Hải quân Mỹ
(174)
Hải quân Việt Nam
(171)
Hải quân Nga
(113)
Không quân Mỹ
(94)
Phân tích quân sự
(91)
Không quân Nga
(83)
Hải quân Ấn Độ
(54)
Không quân Trung Quốc
(53)
Xung đột biển Đông
(50)
Không quân Việt Nam
(44)
tàu ngầm
(42)
Hải quân Nhật
(33)
Không quân Ấn Độ
(16)
Tàu ngầm hạt nhân
(15)
Hải quân Singapore
(12)
Xung đột Iran - Israel
(12)
Không quân Đài Loan
(9)
Siêu tên lửa
(8)
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(7)
Tranh chấp biển Đông
(7)
Xung đột Trung - Mỹ
(4)
Xung đột Việt-Trung
(2)