Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2011

>> Phòng không Nga bó tay với tên lửa JAGM



Việc trang bị JAGM cho trực thăng AH-64 Apache sẽ làm thay đổi lớn cán cân sức mạnh trên chiến trường.

Mục tiêu của chương trình JAGM (Joint Air-to-Ground Missile - tên lửa liên quân, không-đối-diện, có điều khiển) là chế tạo loại tên lửa có điều khiển kiểu module, có khả năng sát thương cao để trang bị cho máy bay, trực thăng và máy bay không người lái (UAV) của Lục quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ, thay thế các loại tên lửa không-đối-diện nổi tiếng BGM-71 TOW, AGM-114 Hellfire (Hellfire-2, Hellfire Longbow) và AGM-65 Maverick.

Tên lửa có thể tiêu diệt các mục tiêu tĩnh và động ở cự ly khác nhau trong mọi thời tiết. Lục quân và Thủy quân lục chiến Mỹ dự kiến mua hàng ngàn quả JAGM.

JAGM sẽ bảo đảm tiêu diệt chính xác mục tiêu mặt đất trong thời tiết phức tạp với tổn thất phụ tối thiểu. Bộ phận then chốt của tên lửa là đầu tự dẫn đa chế độ chính xác cao, kết hợp khả năng dẫn bằng hồng ngoại, radar và laser bán chủ động. Đầu tự dẫn đa chế độ chính xác cao này đang ở giai đoạn phát triển.




JAGM sẽ tương thích với các bệ phóng hiện có trên các máy bay.

Tham gia cuộc thầu phát triển JAGM có 2 đội thiết kế: một là của công-xooc-xi-om của các công ty Raytheon và Boeing và hai là của hãng Lockheed Martin. Tháng 9.2008, Lockheed Martin ký được hợp đồng 122 triệu USD, nhóm Raytheon/Boeing nhận được hợp đồng 125 triệu USD trong khuôn khổ chương trình JAGM.

Theo Armstrade, 25.8.2010, nhóm Raytheon/Boeing đã tiến hành thử nghiệm thành công tên lửa JAGM. Họ thông báo đã hoàn thành loạt đầu tiên 3 lần phóng thử nghiệm do Bộ Quốc phòng Mỹ tài trợ mẫu chế thử tên lửa liên quân hạng nhẹ mới JAGM tại trường thử White Sands, New Mexico.

Raytheon và Boeing đã lần đầu tiên công bố đoạn video quay cảnh bắn chiến đấu tên lửa tối tân JAGM. Trong khi thử nghiệm ngày 23.6.10, JAGM đã sử dụng hệ dẫn laser, tiêu diệt thành công một mục tiêu có kích thước 8х8 ft (2,5х2,5 m) ở cách bệ phóng 16 km. Vụ thử này là một trong những bước cuối cùng để nhận tên lửa này vào trang bị.

Trên cảnh quay thấy rõ tên lửa rời thanh dẫn hướng bệ phóng, lấy độ cao và bổ nhào tiêu diệt mục tiêu. Một trong những yêu cầu của vụ thử là thử đầu tự dẫn 3 chế độ về hiệu quả bắt mục tiêu ở tất cả các chế độ: hồng ngoại, laser và sóng milimet. Đầu tự dẫn 3 chế độ bảo đảm độ chính xác tiêu diệt mục tiêu cao và bảo vệ chống mọi loại nhiễu.

Theo hợp đồng 125 triệu USD ký với Lục quân Mỹ, nhóm Raytheon/Boeing trong 27 tháng phải thiết kế, chế tạo và tiến hành phóng thử 3 mẫu chế thử JAGM trang bị đầu tự dẫn kết hợp 3 chế độ. Raytheon nhà thầu chính của hợp đồng.

Khi phát triển đầu tìm mới, nhóm thiết kế sử dụng kết quả nghiên cứu mà Raytheon thu được khi chế tạo bom có điều khiển GBU-53/B (SDB-2).

Lần phóng được thực hiện đã hoàn tất giai đoạn đầu bắn thử nghiệm tên lửa. Hai lần phóng đầu tiên JAGM được thực hiện vào tháng 4.2010. Trong khi thử nghiệm, cả 3 hệ dẫn đã làm việc đồng thời và bảo đảm truyền số liệu viễn trắc cần thiết để tiếp tục hoàn thiện hệ thống vũ khí.

Đồng thời với nhóm Raytheon/Boeing, một nhóm công ty khác do Lockheed Martin đứng đầu cũng đang phát triển một thiết kế thay thế khác cho tên lửa JAGM. Bên đặt hàng dự định tiến hành các vụ thử nghiệm các mẫu chế thử vào mùa thu năm nay tại các trường thử Yuma và White Sands sử dụng một bệ mang mặt đất mô phỏng một trực thăng.




Theo Armstrade, 5.4.2010, Lockheed Martin đã thông báo hoàn thành tốt đẹp loạt thử nghiệm toàn diện đầu tìm đa chế độ cho tên lửa liên quân có điều khiển JAGM (Joint Air-to-Ground Missile) lớp không-đối-diện thế hệ mới. Đại diện của Lockheed Martin cho biết, các vụ thử đã cho thấy khả năng hoạt động đồng thời của tất cả các sensor.

Lockheed Martin đã chế tạo một số đầu tự dẫn 3 chế độ để thử nghiệm mặt đất, bay không tách khỏi máy bay mang và bay thử. Sắp tới, sẽ bắt đầu thử nghiệm không tách khỏi máy bay mang với mục đích khẳng định các tham số công tác của tên lửa trong khi bay. Các vụ thử nghiệm bổ sung trong điều kiện khí hậu nóng, rung và nhiễu điện từ cũng sẽ tiến hành trong năm nay.

Chương trình chế tạo JAGM là sự kế tiếp dự án của Lockheed Martin phát triển tên lửa liên quân không-đối-diện thế hệ mới JCM (Joint Common Missile) dùng để thay thế tên lửa chống tăng có điều khiển AIM-114 Hellfire và BGM-71 TOW. Tuy nhiên, tháng 6.2007, Bộ Quốc phòng Mỹ đã hủy hợp đồng phát triển JCM.

JAGM đe dọa phòng không lục quân

 Với sự xuất hiện của JAGM trên chiến trường, sức mạnh hỏa lực và khả năng bảo vệ của trực thăng sẽ tăng mạnh, còn hiệu quả của phòng không lục quân hiện đại sẽ giảm đi.

Việc trang bị JAGM cho trực thăng AH-64 Apache sẽ làm thay đổi lớn cán cân sức mạnh trên chiến trường. Vấn đề là ở chỗ, các hệ thống phòng không lục quân hiện đại dùng để bảo vệ các đơn vị triển khai trên chiến trường có tầm bắn chỉ gần 10 km. Ví dụ, hệ thống tên lửa phòng không tối tân của Nga Tor-M2U (sẽ bắt đầu nhận vào trang bị vào năm 2011) có tầm bắn giả thiết giỏi lắm cũng chỉ gần tới 16 km.



AH-64 với JAGM có thể bắn phá khá an toàn các hệ thống tên lửa phòng không, hơn nữa lại còn lợi dụng các vị trí ẩn nấp và nếp gấp địa hình, nhờ nguyên lý bắn-quên (tức là nhô lên khỏi nơi ẩn nấp, phóng tên lửa và lại ẩn nấp).

Trong khuôn khổ dự án JAGM, Lục quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ sẽ nhận gần 35.000 tên lửa để thay thế AIM-114 Hellfire-2 và Hellfire Longbow trên các máy bay mang chủ yếu, trong đó có các trực thăng tiến công AH-64 Apache của Lục quân, UAV đa năng tầm xa Warrior, các trực thăng tiến công AH-1Z Super Cobra của Thủy quân lục chiến, các trực thăng đa nhiệm MH-60 Sea Hawk của Hải quân Mỹ. JAGM cũng sẽ thay thế tên lửa AGM-65 Maverick trên các máy bay tiêm kích F/A-18 A/E Hornet.

Dự định, tên lửa bắt đầu được thử nghiệm bay vào quý II năm 2010. Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ chọn một nhà thầu duy nhất của chương trình này vào quý IV. Dự kiến, JAGM sẽ được nhận vào trang bị vào năm 2016.


(rnd.cnews)

>> Tiềm lực quân sự của CHDCND Triều Tiên



Bấy lâu nay, Mỹ, Hàn Quốc và một số nước phương Tây luôn kêu gào về cái gọi là “sức mạnh quân sự của CHDCND Triều Tiên”. Điều đáng nói là cho đến nay rất ít thông tin được kiểm chứng xung quanh kho vũ khí của CHDCND Triều Tiên và tiềm lực quân sự của nước này hiện vẫn là điều bí ẩn.
Quân đội CHDCND Triều Tiên được thành lập ngày 8/2/1948 với 3 binh chủng Hải, Lục, Không quân. Theo sách trắng về quân sự năm 2006 của Hàn Quốc, việc phát triển vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường của CHDCND Triều Tiên đang đe dọa nghiêm trọng tới an ninh khu vực Đông Bắc Á, đặc biệt là bán đảo Triều Tiên. Hàn Quốc cho rằng, CHDCND Triều Tiên có khoảng 3.700 xe tăng, 2.100 xe bọc thép, 4.800 bệ phóng tên lửa, 8.500 pháo tự hành 170 ly và 3.100 thiết bị vượt sông. CHDCND Triều Tiên có 9 sư đoàn thường trực, 4 sư đoàn cơ giới, 1 sư đoàn tăng, 1 sư đoàn pháo binh.

Lực lượng Không quân và Hải quân của CHDCND Triều Tiên không có gì đáng kể bởi trang thiết bị và vũ khí đều quá niên hạn sử dụng. Được biết, không quân có 30 máy bay ném bom và máy bay trinh sát, 510 máy bay vận tải bao gồm cả máy bay AN-2s và 310 chiếc trực thăng. Tuy nhiên, không quân phải huy động khoảng 30 chiếc máy bay chiến đấu trong tổng số 820 chiếc máy bay tiêm kích để tham gia tuần tiễu. Hải quân có khoảng 60 tàu ngầm, 420 tàu chiến, 260 tàu vận tải và 60 tàu khác cùng 2 sư đoàn đóng ở vùng biển phía đông và phía tây với 12 đội tàu chiến và 2 lữ đoàn bắn tỉa trên biển đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Hải quân. Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn sở hữu khoảng 2.500-5.000 tấn chất độc gây tê liệt hệ thần kinh, sát thương ngoài da, chất gây nôn và khí cay...

Tuy nhiên, giới quân sự trong và ngoài khu vực đặc biệt quan tâm tới kho vũ khí hạt nhân cũng như các loại tên lửa khác của CHDCND Triều Tiên. Giới quân sự đều cho rằng, sau khoảng 30 năm phát triển, công nghệ tên lửa của CHDCND Triều Tiên đã có những bước tiến đáng kể.





Quân kỳ của quân đội CHDCND Triều Tiên

Scud - khởi nguồn của những vũ khí chiến lược
 Tuy tên lửa Scud do Liên Xô chế tạo, có thể mang đầu đạn hạt nhân, hóa học hoặc sinh học, nhưng sau khi được đưa tới sử dụng tại CHDCND Triều Tiên một thời gian, các nhà khoa học nước này đã nâng cấp và biến nó trở thành cơn ác mộng của những quốc gia hữu quan.

Theo giới truyền thông, mặc dù tiếp nhận tên lửa của Liên Xô từ năm 1969, nhưng những tên lửa Scud đầu tiên mà CHDCND Triều Tiên có được lại đến từ Ai Cập. Chính Ai Cập đã giúp CHDCND Triều Tiên nâng cấp, phát triển hệ thống tên lửa của mình. Đầu những năm 80, Ai Cập đã cung cấp cho CHDCND Triều Tiên một số tên lửa Scud-B của Liên Xô, có thể mang đầu đạn nặng tới 200kg cùng tầm bắn 300 km. Nhờ đó các nhà máy nghiên cứu, chế tạo tên lửa được xây dựng gần biên giới Trung Quốc đã sản xuất thành công loại tên lửa tự tạo đầu tiên được biết tới dưới tên gọi Hwasong-5 (năm 1984).

Ba năm sau (1987), CHDCND Triều Tiên đã ký với Iran một hợp đồng mua bán vũ khí với tổng trị giá 500 triệu USD, trong đó có khoảng 100 tên lửa Hwasong-5. Các Tiểu Vương quốc Arập thống nhất cũng từng mua 25 tên lửa Hwasong-5 cùng một số vũ khí khác của CHDCND Triều Tiên (năm 1989).

Giới chuyên môn cho rằng, CHDCND Triều Tiên đã phát triển hai phiên bản mới từ Scud-B thành Scud-C (Hwasong-5) và Scud-D (Hwasong-6). Trong khi Scud-B chỉ bắn ở cự ly 300km thì Scud-C bắn được 500km, còn Scud-D có thể bắn mục tiêu cách xa 700 km. Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn thử nghiệm loại tên lửa KN-02 có thể bắn tới những mục tiêu ở Hàn Quốc. Sau đó, CHDCND Triều Tiên còn phát triển Scud thành Nodong, Taepodong-1 và Taepodong-2.

Nodong - sự nâng cấp đáng tự hào
Giới quân sự từng cho rằng, tên lửa Taepodong-1 tuy bắn tới Nhật Bản, nhưng không nguy hiểm bằng loại tên lửa Nodong (Rodong). Với tầm bắn 2.000 km, các tên lửa Nodong có thể phá hủy bất cứ mục tiêu nào của Nhật Bản và bất cứ căn cứ quân sự nào của Mỹ trên lãnh thổ Nhật.

Theo nghiên cứu của một trung tâm hạt nhân Mỹ, Nodong có độ chính xác không cao - sai số từ 2 km đến 4 km so với mục tiêu. Tuy bắn không chính xác nhưng Nodong luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhật Bản bởi quốc gia này nằm trọn trong phạm vi "phát huy hiệu quả" của tên lửa này. Nhiều chuyên gia quân sự của Nhật Bản từng khẳng định, các loại tên lửa của CHDCND Triều Tiên đủ sức tấn công Nhật Bản, Hàn Quốc, cũng như các căn cứ quân sự Mỹ đặt trên lãnh thổ 2 quốc gia kể trên.

Kể từ khi CHDCND Triều Tiên bắn thử tên lửa Nodong có khả năng mang đầu đạn hạt nhân (tháng 3/1993), loại vũ khí này nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trong kho vũ khí của nước này. Sau đó (tháng 3/1994), CHDCND Triều Tiên còn mời chuyên gia quân sự Iran và Pakistan tới quan sát vụ bắn thử tên lửa Nodong. Được biết, tên lửa Nodong có thể mang theo một đầu đạn nặng 1.200 kg cùng tầm bắn 1.300 km, hoặc một đầu đạn nặng 1.000kg với tầm bắn 1.500km. Có tin nói rằng, tên lửa Ghauri (còn gọi là Hatf-5) của Pakistan được nghiên cứu, chế tạo thành công sau khi mua tên lửa Nodong của CHDCND Triều Tiên.

Taepodong-1 - lời cảnh cáo đầu tiên

 Tháng 8/1998, CHDCND Triều Tiên đã khiến cả thế giới phải sửng sốt sau khi phóng thử tên lửa Taepodong-1 với tầm bắn 2.000 km. Taepodong-1 được phóng đi (31/8/1998) từ bãi thử Musudan-ni ở bờ biển phía bắc Hamgyong. Sau khi bay được 1.090 km, Taepodong-1 đã bị rơi xuống Thái Bình Dương. Taepodong-1 là loại tên lửa được chế tạo từ sự tổng hợp các thành phần của Nodong và Scud. Tuy có thể bắn xa, nhưng Taepodong-1 còn thiếu độ chính xác hơn cả Nodong.

Giới chuyên môn cho biết, để bắn Taepodong-1, người ta cần một vị trí cố định, cũng như thời gian chuẩn bị khá lâu và điều này dễ bị đối phương phát hiện. Vệ tinh do thám của Mỹ và Nhật Bản không bỏ sót bất cứ động thái nào trong suốt quá trình phóng thử Taepodong-1. Tình báo Mỹ cũng như Hàn Quốc đều cho rằng, trong khi triển khai tên lửa tầm ngắn Nodong và Scud, CHDCND Triều Tiên vẫn không ngừng phát triển loại tên lửa có thể bắn xa từ 4.000 km đến 6.000 km.

Taepodong-2 - sự hoàn thiện của răn đe

 Theo giới chuyên môn, Taepodong-2 có tầm bắn từ 5.000 km đến 6.000 km, dùng động cơ nhiên liệu lỏng làm tầng đẩy 1 và tên lửa Nodong làm tầng đẩy 2. Mỹ cho rằng, Taepodong-2 đã được phóng thử hồi tháng 7-2006, nhưng thất bại. Giới chuyên môn nghi ngờ độ chính xác của Taepodong-2 cũng như khả năng mang đầu đạn lớn của nó. Ngoài ra, Taepodong-2 cũng có nhược điểm giống Taepodong-1, đó là phải có hệ thống phóng cố định khi bắn.

Có người nói rằng, Taepodong-2 có thể bắn tới thành phố Chicago, bang Illinois, Mỹ. Sau Taepodong-2, CHDCND Triều Tiên đang nghiên cứu Taepodong-3 có khả năng mang được đầu đạn nặng từ 500 kg đến 1.000 kg với tầm bắn từ 10.000 km đến 12.000 km. Nếu Taepodong-3 được thử nghiệm thành công thì điều này có nghĩa, Mỹ cũng giống như Hàn Quốc và Nhật Bản đều nằm trong tầm bắn của tên lửa CHDCND Triều Tiên. Giới quân sự cho biết, rất khó xác định và phá hủy kho vũ khí của CHDCND Triều Tiên vì nó không nằm cố định với số lượng không nhất định.

Theo giới truyền thông, ngay từ đầu năm 1999, vệ tinh do thám Mỹ đã phát hiện ra sự chuẩn bị của CHDCND Triều Tiên để phóng Taepodong-2 bởi giàn đỡ Taepodong-1 được nâng từ 22 lên 33. Nhưng việc chuẩn bị này bị hoãn lại vào cuối năm 1999 và mãi tới năm 2005 các thông số kỹ thuật của Taepodong-2 mới xuất hiện (lần đầu tiên) cho dù CHDCND Triều Tiên bắt đầu nghiên cứu loại tên lửa này từ năm 1990.

Những thông tin khó kiểm chứng

Bộ Quốc phòng Hàn Quốc từng cho rằng, CHDCND Triều Tiên sở hữu khoảng 600 tên lửa Scud và 100 tên lửa Nodong. Trong khi đó các nước phương Tây lại tuyên bố, CHDCND Triều Tiên sở hữu hơn 800 tên lửa đạn đạo các loại, trong đó bao gồm cả Taepodong-2. Nhưng theo thông tin của Mỹ thì CHDCND Triều Tiên sở hữu hơn 1.000 tên lửa Nodong và tên lửa Scud. Ngay từ năm 1965, Chủ tịch Kim Nhật Thành lúc đó đã cho thành lập Học viện Quân sự Hamhung để nghiên cứu công nghệ tên lửa nhằm sản xuất loại tên lửa có khả năng bắn tới Nhật Bản.

Giới truyền thông từng đưa tin, tướng Park Jae-kyung, tướng Hyun Chul-hee và tướng Lee Myong-su, 3 người thường xuất hiện bên cạnh Chủ tịch Kim Jong-il là "cha đẻ" của chương trình hạt nhân và tên lửa tại CHDCND Triều Tiên. Ngoài ra, còn phải kể tới 2 nhà khoa học Do Sang-rok và Seo Sang-guk. Cả 2 nhà khoa học này đều từng giảng dạy tại Trường đại học Kim Nhật Thành cho dù họ hơn kém nhau tới 30 tuổi. Được biết, ông Do Sang-rok tuy sinh ra (năm 1903) tại CHDCND Triều Tiên nhưng lại trưởng thành ở Hàn Quốc sau đó quay trở lại CHDCND Triều Tiên từ năm 1946 và đã chết năm 1990.




Những vũ khí hiện đại của CHDCND Triều Tiên
Ông Do Sang-rok được cố Chủ tịch Kim Nhật Thành và Chủ tịch Kim Jong-il đặc biệt coi trọng, quý mến. Còn ông Seo Sang-guk (sinh năm 1938) được coi là người đi đầu trong việc chế tạo bom hạt nhân và từng được Chủ tịch Kim Jong-il gửi quà cách đây 11 năm (1998) vì những cống hiến cho công cuộc phát triển khoa học quốc gia.

Tình báo Mỹ cho rằng, Tiến sĩ Abdul Qadeer Khan, người vừa được Tòa án tối cao Pakistan trả tự do hôm 6/2/2009 là người đã cung cấp cho CHDCND Triều Tiên công nghệ uranium để đổi lấy công nghệ tên lửa vào năm 1997. Giới truyền thông cho rằng, ngay từ năm 1984 CHDCND Triều Tiên đã xây dựng 2 lò tinh chế plutonium tại Trung tâm Khoa học hạt nhân Yongbyon, cách Bình Nhưỡng khoảng 100 km về phía bắc. 10 năm sau (1994), Mỹ cho rằng, Bình Nhưỡng đã có đủ nguyên liệu để chế tạo 10 quả bom plutonium

(ANTG)

Chủ Nhật, 20 tháng 2, 2011

>> Hải quân Malaysia: Ba loại chiến hạm chủ lực



Không chịu kém cạnh hải quân các nước Singapore, Thái Lan, Indonesia..., gần đây, Malaysia tăng cường hiện đại hóa hải quân bằng một loạt hợp đồng mua khu trục, tàu hộ tống, tàu ngầm.

Khu trục hạm lớp Lekiu

 Lekiu là chiến hạm mạnh nhất, hiện đại nhất của Hải quân Malaysia, được đóng tại nhà máy Yarrow (Glasgow, Anh) theo thiết kế tiêu chuẩn khu trục hạm hạng nhẹ F2000.

Khu trục hạm Lekiu có lượng giãn nước 2.270 tấn, chiều dài 106 mét, chiều rộng 12,75 m. Hệ thống động lực của tàu gồm 4 động cơ diesel MTU 20V 1163 TB93 cho phép đạt tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, tầm hoạt động khoảng 8.000 km. Thủy thủ đoàn của tàu là 146 người (18 sĩ quan).





Khu trục hạm hạng nhẹ lớp Lekiu của hải quân Malaysia

Lekiu trang bị hệ thống tên lửa hành trình chống hạm tầm ngắn MM-40 Block II Exocet. MM-40 mang đầu đạn phá-mảnh nặng 165 kg, tốc độ hành trình 0,9M, tầm bắn 70 km. Ở giai đoạn bay hành trình, tên lửa sử dụng hệ dẫn quán tính (INS), giai đoạn cuối sử dụng đầu tự dẫn radar chủ động.

Tên lửa MM - 40 Exocet rời bệ phóng (minh họa)

Vũ khí phòng không của Lekiu gồm hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Seawolf tầm bắn 6 km của hãng MBDA, dùng để đối phó với các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu siêu âm và tên lửa hành trình. Tên lửa Seawolf đặt trong hệ thống ống phóng thẳng đứng (16 ống). Sau khi phóng, tên lửa bay tới mục tiêu với tốc độ 2,5M.


Tên lửa đối không Seawolf phóng thẳng đứng

Ngoài ra, trên tàu còn bố trí 2 pháo phòng không 30 mm, tầm bắn 10 km, tốc độ bắn 650 phát/phút; pháo hạm Bofors 57 mm, tầm bắn 17 km.

Lekiu còn lắp một cụm cơ cấu phóng lôi chống ngầm 324 mm.

Boong tàu phía sau bố trí một khoang chứa trực thăng và sân đáp cho trực thăng chống ngầm Lynx của hãng AgustaWestland.

Lekiu được trang bị hệ thống chỉ huy chiến đấu Nautis F, tương tự loại sử dụng trên tàu hộ tống Nakhoda Ragam của Brunei cùng các loại radar tìm kiếm, radar điều khiển hỏa lực, hệ thống định vị.

Nhìn chung, xét hệ thống chiến đấu thì Lekiu thua kém các khu trục hạm của Thái Lan, Singapore, Indonesia và Việt Nam. Hệ thống tên lửa chống hạm MM-40 Exocet chỉ có tầm bắn 70km, kém xa các hệ thống RGM-84 Harpoon (140 km) và Kh-35 Uran (135 km), thường được trang bị cho các tàu chiến chủ lực như Formidable, Gepard...

Tàu hộ tống Laksamana

Năm 1981, chính phủ Iraq ký hợp đồng với Fincantieri mua 6 tàu tên lửa Assad. Tuy nhiên, tàu Assad không được chuyển giao sau khi có lệnh cấm vận quốc tế áp đặt với Iraq (năm 1991). Năm 1995, Malaysia ký hợp đồng mua lại 4 chiếc Assad và đặt tên mới là Laksamana. Từ 1997-1999, công việc chuyển giao số tàu này hoàn tất.


Tàu hộ tống lớp Laksamana

Lớp Laksamana trang bị tổ hợp tên lửa hành trình đối hạm Otomat Mark2/Toseo. Tên lửa lắp một đầu đạn thuốc nổ mạnh 210kg, tốc độ hành trình Mach 0,9, tầm bắn hiệu quả 150km. Laksamana sử dụng tổ hợp tên lửa phòng không Albatros trang bị tên lửa đối không Aspide để phòng chống máy bay và tên lửa diệt hạm. Aspide được dẫn đường bằng radar bán chủ động, tầm bắn 15km.


Tên lửa chống hạm Otomat rời bệ phóng

Trên tàu Laksamana bố trí 2 pháo tháp: 1 pháo Oto Melara 76 mm ở phía boong trước và 1 pháo Oto Melara 40 mm ở boong sau. Cả 2 pháo đều có khả năng tấn công mục tiêu cỡ nhỏ trên biển, trên đất liền và phòng không.
Để hỗ trợ chống ngầm, chống hạm, tàu còn được trang bị thêm 2 cụm cơ cấu phóng lôi ILAS-3 của Whitehead Alenia để phóng ngư lôi chống tàu ngầm A244/S lắp hệ dẫn hỗn hợp chủ động-thụ động, tầm bắn 7 km.

Hệ thống điện tử của tàu gồm: radar sục sạo trên không-trên biển RAN 12L/X, radar định vị Kelvin Hughes 1007, hệ thống đối phó điện tử (radar đánh chặn INS-3, radar gây nhiễu TQN-2), hệ thống định vị siêu âm ASO 94-41.

Hộ tống hạm lớp Laksamana có tốc độ tối đa 36 hải lý/giờ, tầm hoạt động 4.300 km.


Ở đuôi tàu Laksamana có bố trí 6 ống phóng tên lửa chống hạm Otomat và pháo tháp 40 mm

Tàu ngầm tiến công Scorpene

Tháng 6/2002, chính phủ Malaysia kí với DCNS của Pháp hợp đồng mua hai tàu ngầm tấn công lớp Scorpene. Chiếc đầu tiên mang tên KD Tunku Abdul Rahman hạ thủy năm 2007. Tháng 9/2009, Scorpene chuyển giao cho hải quân Malaysia.


Tàu ngầm Scorpene đầu tiên của Hải quân Malaysia

Tùy từng biến thể, Scorpene có chiều dài 66-76m, lượng giãn nước 1.500-2.000 tấn. Thân tàu làm bằng vật liệu thép ứng suất đặc biệt có độ giãn nở cao cho phép tàu lặn sâu, phần mũi tàu thiết kế mang hình dáng giống mũi cá ngừ có tác dụng giảm tiếng ồn phát ra khi lặn.

Thủy thủ đoàn của Scorpene gồm 31 người. Bên trong tàu phân thành các phòng điều khiển, phòng nghỉ ngơi của thủy thủ và phòng cách âm. Tất cả các phòng đều lắp điều hòa nhiệt độ cùng hệ thống bảo đảm sinh hoạt, cho phép thủy thủ đoàn tồn tại trong 7 ngày liên tục.

Scorpene trang bị hệ thống điều khiển chiến đấu hiện đại SUBTICS và các hệ thống sonar dưới nước.

Tàu ngầm Scorpene được lắp 6 ống phóng ngư lôi 533 mm ở mũi tàu (với cơ số 18 ngư lôi hạng nặng Black Shark) và tên lửa chống hạm phóng từ tàu ngầm SM-39 Exocet.

SM-39 là tên lửa chống hạm tầm ngắn do Pháp phát triển từ năm 1975. Trên tàu ngầm, SM-39 được đặt trong contenơ, phóng từ ống phóng lôi 533 mm. Khi thoát ly mặt nước, SM-39 tách khỏi contenơ ở độ cao 30 m và bay tới mục tiêu.


Contenơ chứa tên lửa SM-39 thoát khỏi mặt nước

SM-39 sử dụng hệ dẫn quán tính (INS) và đầu tìm radar chủ động giai đoạn cuối, mang đầu đạn 165 kg, tầm bắn 50 km.
Scorpene được trang bị động cơ diesel-điện, hệ thống động cơ không cần không khí (AIP). Tầm hoạt động khi chạy nổi khoảng 12.000 km (tốc độ 8 hải lý/h), chạy ngầm 1.000 km (tốc độ 5 hải lý/h), lặn sâu tối đa 300m, thời gian hoạt động trên biển trung bình 50 ngày. Chiếc tàu Scorpene thứ hai được hạ thủy và đang trong giai đoạn thử nghiệm.


(tổng hợp)

>> Tàu Nga lắp pháo Tây



Vài năm gần đây, Nga tăng mạnh việc mua sắm vũ khí và công nghệ quân sự nước ngoài. Nga đã mua máy bay không người lái của Israel, ký hợp đồng đóng ở Pháp 2 tàu sân bay trực thăng, đang chuẩn bị sản xuất xe ô tô bọc thép Italia tại Nga, đang mua vũ khí bộ binh cho các đơn vị đặc nhiệm…

Ngày 4.2.11, khi đi thăm công ty đóng tàu Severnaya Verf, Tư lệnh Hải quân Nga, Đô đốc V. Vysotsky đã chỉ thị xem xét khả năng lắp các hệ thống pháo nước ngoài cho các frigate đang đóng.

Rõ ràng, điều đó liên quan đến ụ pháo 130 mm А-192 hiện đang được xem là vũ khí chính của các tàu lớp Projket 22350.

Ụ pháo nhẹ 130 А-192М Armat (do KB Arsenal phát triển và do MZ Arsenal sản xuất) hiện đang ở giai đoạn thử nghiệm mẫu chế thử. Toàn bộ công tác thử nghiệm và cải tiến thiết kế đang diễn ra đúng tiến độ đã hợp đồng với Hải quân Nga và sẽ hoàn thành vào năm 2012. Xét về tất cả các tính năng chiến-kỹ thuật, A-192M ở trình độ thế giới và không thua kém các mẫu pháo nước ngoài.

Tính năng của pháo А-192
Số nòng x cỡ, mm: 1 x 130;
Nguyên lý nạp đạn: tự động;

Tầm bắn, km:

- mục tiêu trên biển: đến 23;
- mục tiêu bay: đến 18.
Góc tầm: -15° đến +80°;
Góc hướng: 170°;

Tốc độ bắn: đến 30 phát/phút;
Khẩu đội, người: 5;
Trọng lượng ụ pháo, không đạn, tấn: 25;
Thay cho pháo A-192, Đô đốc Vysotsky đề xuất ụ pháo 100 mm Creusot-Loire Compact (Pháp) và 127 mm OTO-Melara 127/64LW (Italia).



Pháo tàu A-192
Nếu quyết định chọn các hệ pháo tàu nước ngoài, Nga có thể hứng chịu một số hậu quả tiêu cực:

- Mất đi trường phái chế tạo pháo tàu cỡ nòng lớn, các chuyên gia đó là vô giá;
- Phụ thuộc nước ngoài về linh kiện và đạn pháo, mà điều đó có thể có hậu quả nguy hiểm một khi xảy ra xung đột với phương Tây;
- Mất việc làm trong ngành công nghiệp Nga vốn đang gặp khó khăn do khủng hoảng.
Ngoài pháo ụ, Tư lệnh Hải quân Nga còn đề nghị xem xét các phương án sử dụng các hệ thống và thiết bị khác của nước ngoài như động cơ diesel, máy phát điện diesel, các hệ thống quạt và điều hòa.


(Rita news)

>> Nga bắt đầu sản xuất S-500 vào năm 2014



Hệ thống tên lửa phòng tối tân S-500 của Nga sẽ bắt đầu được sản xuất loạt vào năm 2014, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Phòng thủ đường không vũ trụ Nga, Trung tướng Valery Ivanov cho hay.



Hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumf
Theo ông, S-500 sẽ làm cả nhiệm vụ phòng thủ vũ trụ ở độ cao đến 40-50 km. Dự án S-500 hiện vẫn được giữ bí mật nên thông tin kỹ thuật của hệ thống vẫn chưa được tiết lộ.
Cuối tháng 1.2011, có tin Bộ đội Phòng thủ đường không vũ trụ Nga đã bắt đầu chuẩn bị nhận vào trang bị hệ thống S-500.

Dự kiến, S-500 sẽ được sử dụng để bảo vệ Moskva và nhiều mục tiêu chiến lược trọng yếu ở miền Trung nước Nga.

Cùng với việc đưa vào trang bị S-500, Nga cũng sẽ tăng số lượng hệ thống S-400 Triumf tham gia trực chiến.

Theo tướng Ivanov, trung đoàn S-400 thứ hai sẽ bước vào trực chiến trong tháng 3.2011 tại Dmitrov, ngoại ô Moskva (với 2 tiểu đoàn được triển khai, mỗi tiểu đoàn có 8 bệ phóng) và trong những năm tới dự kiến triển khai gần Moskva tổng cộng không dưới 3-4 trung đoàn S-400 vào năm 2016-2020 để bảo vệ thủ đô. Tung đoàn S-400 đầu tiên đóng tại Elektrostal đi vào hoạt động năm 2009.

Tướng Ivanov cũng cho biết, trung đoàn S-400 thứ ba sẽ được triển khai tại Viễn Đông, nhưng không tiết lộ địa điểm cụ thể.

Nga công bố việc phát triển S-500 vào năm 2009 và dự kiến hoàn thành phát triển vào năm 2012. Sau đó, được biết, S-500 sẽ được nhận vào trang bị vào năm 2015. Theo thông tin sơ bộ, hệ thống mới sẽ gọn, cơ động và hiệu quả hơn về năng lượng so với S-400, đồng thời có sức chiến đấu đối không mạnh hơn Triumf.

Tướng Ivanov cũng cho biết, trong tương lai có thể xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa phi chiến lược ở SNG, còn việc xây dựng hệ thống phòng thủ đường không-vũ trụ thống nhất của Nga sẽ hoàn thành trước cuối năm 2011.

Hệ thống phòng thủ đường không-vũ trụ thống nhất của Nga sẽ là hệ thống chỉ huy thống nhất, cho phép thực hiện mọi nhiệm vụ đặt ra cho phòng thủ đường không-vũ trụ trong tương lai như cảnh báo, phát hiện, tiêu diệt, chế áp và bảo vệ các mục tiêu.

Bộ Tư lệnh chiến dịch-chiến lược Phòng thủ đường không vũ trụ Nga kiểm soát không phận khu vực công nghiệp miền trung nước Nga và đảm nhiệm phòng không Moskva, bảo vệ trên 140 mục tiêu cấp quốc gia, của ngành công nghiệp, năng lượng, các tuyến đường giao thông, các nhà máy điện nguyên tử.

Hệ thống tên lửa phòng không S-400 Triumf có khả năng tiêu diệt máy bay tàng hình, tên lửa hành trình và tên lửa chiến dịch-chiến thuật ở tầm đến 400 km.


S-400 có thể phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 600 km và bắn đồng thời 36 tên lửa và dẫn đồng thời 72 tên lửa tới các mục tiêu.

S-400 có khả năng tiêu diệt mục tiêu bay ở độ cao từ 5-30.000 m ở tốc độ đến 4.800 m/s.


(RIA Novosti, Lenta)

>> Trung Quốc phát triển tên lửa quái dị



Tên lửa mới mang đầu đạn thông thường và sẽ có thể tiêu diệt mục tiêu trên biển, trên bộ, trên không và vũ trụ.

Ngoài ra, tên lửa có thể bảo vệ Trung Quốc chống các cuộc tấn công “điều khiển học”, nhưng cụ thể là thế nào thì không được tiết lộ.



DF-21C (armscontrolwonk.com)
Theo Hoàn cầu thời báo, tập đoàn khoa học và công nghệ hàng không vũ trụ Trung Quốc chuyên sản xuất tên lửa cho quân đội Trung Quốc dự định “hoàn thành toàn bộ công việc phát triển, sản xuất và cung cấp thế hệ tên lửa mới vào năm 2015”.

Tên lửa này “sẽ là một bộ phận của hệ thống phòng thủ thống nhất, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cả về bảo về lẫn tiến công và có khả năng ngăn chặn mọi mối đe dọa từ trên bộ, biển, trên không và vũ trụ, cũng như cuộc tấn công điều khiển học”.

Việc phát triển tên lửa đang diễn ra thuận lợi và sẽ sẵn sàng sau 5 năm nữa. Tên lửa “có tầm bắn vượt trội các tên lửa hiện có của Trung Quốc và như vậy sẽ góp phần lớn vào khả năng quốc phòng của Trung Quốc".

Các nguồn tin quân sự Trung Quốc cho biết, đó sẽ là một tên lửa tầm trung và tầm xa mới, có khả năng bay 4.000 km.

Đầu năm 2010, một số chuyên gia Mỹ nghi ngờ Trung Quốc đang phát triển công nghệ tiêu diệt vệ tinh trên quỹ đạo bằng các phương tiện của hệ thống phòng thủ tên lửa.

Nguồn tin cũng cho biết, Trung Quốc đã đưa vào trang bị tên lửa đường đạn chống hạm DF-21D, còn được gọi là “sát thủ tàu sân bay”, bán kính hoạt động 1.800-2.800 km.

Tháng 1.2011, khi ở thăm Trung Quốc, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tuyên bố rằng, DF-21D khiến Mỹ rất lo ngại và tình báo Mỹ đã đánh giá sai tốc độ phát triển vũ khí của Trung Quốc.


(Radiomayak, Armstrade, AN, Lenta)

>> 16 tàu chiến Indonesia trang bị tên lửa Yakhont



Cuối tháng 1.2011, hãng Antara (Indonesia) dẫn nguồn Tham mưu trưởng Hải quân Indonesia đưa tin nước này dự định thử nghiệm tên lửa chống hạm Yakhont trong tháng 2.2011.



Vụ bắn thử nhằm vào một (một số) tàu thanh loại sẽ diễn ra trong tháng 2.
Như vậy, thông tin trước đó nói rằng, Indonesia, cùng với Việt Nam và Syria là những khách hàng đầu tiên mua tên lửa Yakhont/Oniks của Nga, đã được khẳng định.

Do tình hình địa-chính trị căng thẳng trong khu vực, Indonesia đã dự định thử nghiệm toàn diện kho vũ khí hải quân, kể cả các tên lửa chống hạm có “tầm quan trọng chiến lược” Yakhont có tầm bắn và tốc độ lớn hơn mọi loại vũ khí khác mà hạm đội Indonesia hiện có.

Theo báo chí Indonesia, 6 tàu frigate của Hải quân Indonesia được trang bị mỗi tàu 8 tên lửa Yakhont, 10 tàu corvette được trang bị mỗi tàu 4 tên lửa Yakhont. Việc lắp đặt tên lửa dường như hoàn toàn do xưởng đóng tàu PT PAL ở Surabaya thực hiện. Giá mỗi quả Yakhont ước khoảng 1,2 triệu USD.

Tham mưu trưởng Hải quân Indonesia cũng cho biết, nước này đã quay lại nghiên cứu khả năng mua 2 tàu ngầm. Hai ứng viên có khả năng nhất là các tàu ngầm của Nga và Hàn Quốc.






Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2011

>> Thăm bảo tàng tăng - thiết giáp thế giới (kỳ 2)



Bảo tàng tăng - thiết giáp Đức thành lập năm 1983 với mục đích ban đầu để cung cấp tư liệu huấn luyện cho các học viên sĩ quan tương lai của quân đội Đức.

>> Thăm bảo tàng tăng - thiết giáp thế giới (kỳ 1) 

Sau này, bảo tàng được cho phép mở cửa đón dân chúng vào thăm quan. Khuôn viên bảo tàng trải rộng trên diện tích 9.000 mét vuông, trong đó có 7.200 mét vuông dành cho trưng bày các hiện vật.


Hiện vật bảo tàng khá đa dạng gồm các loại xe tăng, thiết giáp của quân đội Đức, quân đội CHDC Đức, khí tài của các nước trong thế chiến thứ hai. Đặc biệt, bảo tàng còn trưng bày những tài sản, vật dụng cá nhân của tướng Rommel - vị tướng lừng danh của nước Đức.

Dưới đây là chùm ảnh hiện vật tại bảo tàng xe tăng Đức:


AV-7 tank

AV-7 được quân đội Anh đặt biệt danh không mấy dễ chịu là "pháo đài di động" vì nó có hình dáng khá kỳ lạ cùng lượng vũ khí lớn (một pháo 57mm và sáu khẩu súng máy 7,9mm). Có khoảng 21 chiếc AV-7 được xuất xưởng, hầu hết bị quân đồng minh tiêu diệt trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Những hiện vật còn lại tại bảo tàng chỉ là mẫu xe phục chế lại.


Đại chiến thế giới lần thứ nhất, tăng Đức tỏ ra lép vế trước quân đồng minh. Nhưng trong thế chiến thứ hai, quân đồng minh đã phải kinh hoàng trước các mẫu xe tăng quân Đức. Với ưu thế hỏa lực mạnh, giáp dày, bánh xích xe tăng Đức đã lăn khắp Châu Âu, Châu Phi. Trong ảnh là mẫu xe tăng hạng trung Panther với giáp dày hơn 100mm, trang bị pháo cỡ 75mm.

Tiger II tank

Xe tăng hạng nặng Tiger II của quân Đức chế tạo giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai. Tiger II có thông số kỹ thuật khá ấn tượng, giáp dày 180mm, trang bị pháo cỡ 88mm. Tham chiến vào những ngày cuối của cuộc chiến, Tiger II ít nhiều cũng chứng minh được sức mạnh của mình, tuy nhiên nó không thể cứu vãn được tình thế của quân đội phát xít khi đó.

Panzer I tank

Xe tăng hạng nhẹ Panzer I do Đức sản xuất từ trước thế chiến thế hai, nhưng đây có thể lại là loại tăng của Đức có thời gian tồn tại lâu hơn các thiết kế khác. Cho tới tận năm 1954, Panzer I vẫn còn được sử dụng trong một vài cuộc chiến. Panzer không được đánh giá cao về hỏa lực cũng như giáp phòng vệ nhưng bù lại sức cơ động tương đối tốt.

Jagdpanzer IV

Pháo tự hành diệt tăng Jagdpanzer IV phục vụ trong quân đội Đức giai đoạn cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Jagdpanzer IV là sản phẩm của những bài học kinh nghiệm sau mỗi cuộc chiến. Ra đời khá muộn nhưng loại xe này đã chứng minh được sức mạnh áp đảo của mình trong những cuộc chiến cuối cùng của quân đội phát xít. Jagdpanzer IV trang bị một pháo 75mm.

Sturmpanzer IV tank

Dựa trên khung thân xe tăng, người Đức đã chế tạo ra nhiều biến thế pháo tự hành có sức công phá khủng khiếp. Trong ảnh là pháo tự hành hạng nặng Sturmpanzer IV (đặt trên khung xe tăng Panzer IV), nó được trang bị một pháo cỡ 150mm. Hơn 300 chiếc Sturmpanzer IV được sản xuất phục vụ cho tới khi kết khi kết thúc cuộc chiến. Ngày nay chỉ còn khoảng 4 chiếc được trưng bày ở các bảo tàng Châu Âu.

Panzer III tank

Xe tăng hạng trung Panzer III được thiết kế cho mục đích hỗ trợ bộ binh và tiêu diệt xe tăng thiết giáp quân địch. Panzer III đã từng làm mưa làm gió trên khắp chiến trường châu Âu, tuy nhiên sự xuất hiện của T-34-85 đã đánh bại Panzer III. Nó tỏ ra kém thế hơn T-34-85 về độ dày của giáp cũng như sức mạnh hỏa lực.

Kleines Kettenkraftrad HK101 tank

Thiết kế độc đáo của Đức trong thế chiến thứ hai mang tên Kleines Kettenkraftrad HK101. Đây là mẫu xe máy lai bánh xích, loại xe này dùng chủ yếu cho việc chở lính, vận chuyển hàng, thậm chí nó còn được dùng để kéo máy bay từ khoang chứa ra đường băng.

 T-55AM2B tank

Sau thế chiến thứ hai, nước Đức chia tách thành hai quốc gia riêng biệt (Cộng Hòa Dân Chủ Đức và Cộng Hòa Liên Bang Đức). Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức) ngả về Liên Xô nhận sự tiếp trợ quân sự từ người "anh cả" này. Trong ảnh là mẫu xe tăng T-55AM2B do Liên Xô sản xuất.

 Leopard 1 tank

Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) ngả về phía Mỹ - Anh, nhận sự viện trợ kinh tế - kỹ thuật từ các quốc gia Tư bản phương tây. Không chỉ nhận các loại xe tăng thiết giáp từ nước ngoài, họ còn tái lập lại những mẫu tăng "tiếp nối" dòng tăng nổi tiếng trong thế chiến thứ hai là thiết kế xe tăng chiến đấu chủ lực Leopard 1.

(English Russia)

>> 'Gia đình' súng trường huyền thoại Nga (kỳ 1)



AK-47 là mẫu súng trường đã đi vào huyền thoại nước Nga và thế giới, đây là mẫu thiết kế súng thành công nhất thế giới hiện đang phục vụ trong quân đội 60 quốc gia.

Trong suốt hàng chục năm phát triển, AK-47 đã được cải tiến thành nhiều biến thế mạnh mẽ, tốt hơn, ưu việt hơn. Dưới đây là chùm ảnh về AK-47 cùng những người 'anh em' của no:
Cha đẻ Mikhail Kalashnikov "bế" một thành viên trong gia đình súng trường huyền thoại AK. 


Thực sự, cho tới ngày nay nguồn gốc AK-47 vẫn đang nằm trong vòng tranh cãi quyết liệt. Một số cho rằng Kalashnikov đã "học tập" tiểu liên MP-44 (ảnh trên) của Đức chế tạo trong thế chiến thứ II, nhưng cha đẻ AK-47 luôn luôn phủ nhận điều này. Dù thế nào đi nữa, lịch sử MP-44 đã chôn vùi cùng chế độ phát xít năm 1945 còn AK-47 đã đi vào huyền thoại quân sự thế giới.


AK-47 chính thức đưa vào biên chế trong Hồng Quân Liên Xô năm 1949. Súng hoạt động theo nguyên lý trích khí qua thành nòng, có thể bắn phát một hoặc liên thanh. AK-47 chế tạo với cỡ nòng 7,62mm, khối lượng 3,8 kg. Tốc độ bắn thực tế 40 viên/phút (phát một) và 100 viên/phút (liên thanh). Tầm bắn hiệu quả 400m. AK-47 được phát triển thành nhiều phiên bản khác nhau như AKM, AKMS, AK-74... . AK-47 hoạt động trong thành phần quân đội 60 quốc gia trên thế giới.


Hai binh lính Etiophia trang bị súng tiểu liên AKM. Đây là phiên bản cải tiến từ mẫu AK-47, AKM nhẹ hơn AK-47. AKM cũng được đánh giá là có độ tin cậy, độ bền cao, hỏa lực mạnh, chính xác hơn nhờ nòng súng được "vát" chéo, giảm lực nảy của nòng sau mỗi phát bắn. AKM tới ngày nay vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong thành phần lực lượng vũ trang nhiều nước trên thế giới.


Năm 1974, Liên Xô cho ra đời phiên bản mới AK-74 với một loạt các cải tiến. AK-74 sử dụng cỡ đạn 5,45mm thay vì 7,62 mm. Súng được thiết kế với một số vật liệu làm nhẹ bớt trọng lượng, tăng độ bền, tăng tầm bắn hiệu quả (100 - 1.000m), sơ tốc đầu đạn 900 m/s. AK-74 phát triển thành nhiều biến thể cải tiến khác nhau như AKS-74, AKS-74U, AK-74M. Trong ảnh là người lính hải quân Xô Viết đang bồng khẩu AK-74.
 

Giữa những năm 1990, Nga quyết định phát triển seri AK-10x phục vụ cho mục đích trong nước và đặc biệt là xuất khẩu. Đầu tiên là AK-101/102 sử dụng đạn 5,56mm chủ yếu xuất khẩu cho các quốc gia Đông Âu thuộc khối NATO (trên ảnh là súng tiểu liên AK-101 lắp kính ngắm). AK-101/102 có một số tính năng nổi bật như: ống giảm nảy bù giật đầu nòng cải tiến, có khe cài để lắp kính ngắm quang hoặc quang điện tử, tương thích với các ống phóng lựu kẹp nòng GP-25 và GP-30, sử dụng một số vật liệu mới tăng độ bền. AK-101/102 có khả năng hoạt động ở ba chế độ: phát một, loạt ngắn ba viên, liên thanh. Đây là điểm cải tiến rất mới so với AK-47. Nhìn chung, hai mẫu AK-101 và AK-102 có cấu tạo, nguyên lý hoạt động giống hệt nhau. Điểm khác ở đây là chiều dài nòng AK-102 ngắn hơn AK-101. Ngoài ra, tầm bắn hiệu quả của AK-101 là 1.000m còn AK-102 là 500 m.


AK-103/104 sử dụng cỡ đạn 7,62mm dùng cho quân đội Nga và xuất khẩu tới một số khách hàng có truyền thống sử dụng cỡ đạn 7,62mm. Các tính năng, vật liệu chế tạo tương tự AK-101/102, chỉ khác nhau về cỡ đan. Trên ảnh là mẫu AK-103.


Seri AK-107/108 lại quay trở về với cỡ bạn 5,54mm và 5,56mm. Điểm cải tiến quan trọng so với các biến thể trước đó là hệ thống ổn định cân bằng dọc theo Định luật 3 NewTon (trong ảnh là mẫu AK-107 với súng phóng lựu kẹp nòng GP-25). AK-107/108 có cấu tạo độc đáo với hệ thống máy lùi đối trọng nhằm loại bỏ xung lực giật do bệ khóa nòng và các bộ phận chuyển động trong quá trình đẩy về gây ra hay còn gọi là "ổn định dọc", giúp xạ thủ duy trì hướng ngắm và độ chụm đạn khi bắn loạt. Theo đánh giá ban đầu, độ chụm đạn khi bắn loạt tăng lên 1,5 lần so với dòng AK-100 và 2 lần so với AK-47. Khả năng tác xạ chính xác khi bắn loạt nhờ ổn định hướng ngắm và chụm đạn theo cơ cấu ổn định dọc của AK-107/108 được đánh giá là vượt trội so với các loại súng trường tiến công hiện nay. Súng có ba chế độ bắn: phát một, loạt ngắn ba viên và liên thanh. AK-107/108 thiết kế với ốp lót tay và báng súng làm bằng vật liệu tổng hợp, gia cố bằng polime và sợi thủy tinh để tăng độ bền cũng như giảm bức xạ nhiệt khi tác xạ.


Quân đội Nga đang phát triển AK-200. Theo thông tin ban đầu thì AK-200 thiết kế theo dạng mô đun tích hợp dễ dàng hoán đổi nòng để dùng nhiều cỡ đạn khác nhau. Dự kiến, AK-200 sẽ được thử nghiệm vào năm 2011.


RPK là là súng máy thiết kế hoàn toàn dựa trên AKM, báng súng kiểu RPD và có nòng dài hơn. RPK dùng cỡ đạn 7,62mm với hộp tiếp đạn 40 viên hoặc 75 viên. Súng máy hạng nhẹ thường được sử dụng để hỗ trợ bộ binh tuyến đầu. Trong ảnh, binh sĩ Iraq huấn luyện sử dụng súng máy hạng nhẹ RPK.

( theo báo đất việt)

>> Những vụ thử hạt nhân của Mỹ trong chiến tranh lạnh (kỳ 2)



Thể hiện sức mạnh quân sự áp đảo thông qua những vụ thử hạt nhân "đình đám" là một trong những chiêu bài của các cường quốc.

Ivy Mike
Ivy Mike là mật danh của một vụ thử hạt nhân Mỹ tiến hành ngày 1/11/1952 trên đảo san hô Enewetak, một phần trong chiến dịch Ivy. Đây là thiết bị nhiệt hạch được thử nghiệm đầy đủ đầu tiên theo thiết kế Teller-Ulam (bom nhiệt hạch tầng) và thường được coi là quả bom khinh khí đầu tiên.

Chiến dịch Ivy là những nỗ lực mạnh mẽ được tổng thống Mỹ Harry Truman phát động sau khi Liên Xô chế tạo quả bom nhiệt hạch đầu tiên vào mùa thu 1949, khiến cuộc đua vũ trang trong Chiến tranh lạnh gia tăng.



Với mức giải phóng năng lượng 10,4 Megaton, Mike là quả bom khinh khí đầu tiên được kích nổ thành công.

Quả bom Mike (nhiều người coi nó giống như thiết kế một xưởng chế tạo hơn là một loại vũ khí) có chiều dài 6,9 m; đường kinh 2,03 m và nặng tới 54 tấn với lớp vỏ thép ngoài cùng dày 30 cm.

Vụ nổ đã giải phóng khoảng 10,4-12 Metaton năng lượng, tạo thành quả cầu lửa rộng tới 5,2 km và đám mây hình nấm cao tới 37 km, phá hủy gần như toàn bộ hòn đảo nơi tiến hành vụ thử nghiệm.

Castle Bravo
Castle Bravo là mật danh của vụ thử bom hydro nhiệt hạch nhiên liệu khô đầu tiên, được kích nổ 1/3/1954 tại đảo san hô Bikini, quần đảo Marshall, mở đầu cho chuỗi thử nghiệm của Chiến dịch Castle. Đây là thiết bị hạt nhân mạnh mẽ nhất do Mỹ kích nổ với mức năng lượng đạt tới 15 Megaton, vượt xa mức dự kiến ban đầu là 4-6 Megaton.

Điều này đã vô tình tạo ra sự ô nhiễm phóng xạ lớn nhất tại Mỹ; bụi phóng xạ từ vụ nổ đã khiến những người từng sống ở đảo bị nhiễm độc. Đặc biệt trong số đó là một thuyền đánh cá của Nhật, tạo nên những quan ngại quốc tế về các vụ thử nhiệt hạch trên khí quyển.


Đám mây do vụ thử hạt nhân Bravo trên đảo Bikini, giải phóng mức năng lượng 15 Megaton.

Bravo nặng 10,7 tấn với chiều dài 4,56 m, được kích hoạt trên một hòn đảo nhân tạo xây dựng trên rặng san hô gần đảo Namu, thuộc đảo san hô Bikini. Quả bom sử dụng nhiên liệu lithium deuteride cho tầng nhiệt hạch, không giống như với quả bom Ivy Mike, sử dụng deuterium-tritium lỏng đông lạnh.

Vụ nổ của Bravo đã tạo ra một quả bóng lửa có đường kính 7 km, có thể nhìn thấy từ đảo san hô Kwajalein cách đó 450 km, tạo thành một hố có đường kính 2 km và sâu 75 m.

Chiến dịch Plumbbob
Chiến dịch Plumbbob là chuỗi thử nghiệm hạt nhân do Mỹ tiến hành từ 28/5 đến 7/10/1957 ở bãi thử nghiệm Nevada, tiếp sau chiến dịch Redwing và trước chiến dịch Hardtack 1.

Plumbbob được coi là chuỗi thử lớn nhất, lâu nhất và gây tranh cãi nhiều nhất trên đại lục Mỹ. Nguyên nhân lớn của sự tranh cãi là do chiến dịch đã giải phóng lượng phóng xạ lớn chưa từng có. Phân đội tiến hành vụ thử nghiệm Smoky đã mắc phải chứng bạch cầu do tiếp xúc với lượng phóng xạ.


Ảnh chụp vụ thử Priscilla ngày 24/6/1957 với mức năng lượng giải phóng là 37 kiloton.
Tham gia vào chiến dịch gồm 21 phòng thí nghiệm và cơ quan chính phủ.

Một vụ nổ khác trong chiến dịch Plumbbob là Priscilla, giải phóng 37 Kiloton, xếp thứ 3 trong chuỗi các vụ thử lớn nhất của Plumbboob. 700 con lợn đã được sử dụng trong thí nghiệm để nghiên cứu về tác động phóng xạ. Chúng được đặt trong những chiếc lồng và được mặt những vật liệu khác nhau để kiểm chứng mức bảo vệ đối với phóng xạ.

Operation Ranger
Chiến dịch Ranger là chuỗi thử nghiệm hạt nhân thứ 4 của người Mỹ tiến hành năm 1951. Đây cũng là chuỗi thử nghiệm đầu tiên trên đại lục Mỹ tại bãi thử Nevada.


Bức ảnh chụp vụ thử Fox khi quả bom vừa phát nổ.

Tất cả những quả bom nguyên tử đều cho phát nổ trên không, do các máy bay ném bom B-50 thả xuống. Mục đích chủ yếu của vụ thử là phát triển thế hệ vũ khí hạt nhân thứ hai sử dụng lượng vật liệu hạt nhân ít hơn nhằm tiết kiệm nguyên liệu.

Chính vì thế, 5 vụ thử bao gồm Able, Baker 1 và 2, Easy và Fox đều giải phóng năng lượng rất khiêm tốn, lớn nhất là Fox với 22 Kiloton, thấp nhất là Easy, 1 Kiloton.

(tổng hợp)

>> Làn sóng nâng cấp vũ khí tối tân tại Châu á



Sau cuộc chạy đua vũ trang Mỹ - Nga thời Chiến tranh Lạnh, giới phân tích quân sự cho rằng, thế giới đang chứng kiến làn sóng nâng cấp vũ khí tối tân với tốc độ nhanh và quy mô lớn ở châu Á - Thái Bình Dương.


Những con số…
Tháng 12/2010, Nhật Bản hiệu chỉnh Đại cương Phòng vệ mới, lên kế hoạch mua 5 tàu ngầm, 3 tàu khu trục, 12 máy bay chiến đấu, 10 máy bay tuần tra và 39 máy bay trực thăng.

Nhật Bản mới đây đã công bố kế hoạch triển khai thêm 3 giàn tên lửa đánh chặn Patriot và xúc tiến sản xuất các tàu chiến trang bị tên lửa thế hệ Aegis, tuyên bố chương trình này nhằm đối phó với Triều Tiên, đặc biệt sau khi xảy ra vụ đắm tàu Cheonan và Triều Tiên tiết lộ chương trình làm giàu urani.

Đồng thời, theo “Kế hoạch quốc phòng trung hạn” mới được Chính phủ Nhật Bản thông qua ngày 17/12/2010 cho thấy trong vòng 5 năm tới Nhật Bản sẽ đầu tư 276 tỷ USD nhằm xây dựng lực lượng Phòng vệ, trong đó sẽ chú trọng cải cách biên chế quân đội và phát triển các loại kỹ thuật tiên tiến và vũ khí có độ chính xác cao.

Tháng 3/2009, Chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh công bố Dự án 15B, theo đó Ấn Độ sẽ xây dựng các tàu chiến thế hệ tiếp theo trong các giai đoạn khác nhau. Ngoài ra, Ấn Độ xây dựng ít nhất 3 tàu khu trục lớp Kolkata theo Dự án 15A và hai tàu sân bay: INS Vikramaditya và INS Vikrant.

Để đạt được sự cân bằng tương đối, Hải quân Ấn Độ đang xây dựng hạm đội tàu khu trục hộ tống tàng hình và bắt đầu thực hiện một số dự án mới. Tàu Shivalik sẽ là chiếc khu trục tàng hình đầu tiên của Ấn Độ. Các tàu khu trục lớp Sahyadri và Satpura đang được xây dựng. Sau khi tất cả các kế hoạch của chính phủ được hoàn tất, Ấn Độ sẽ có hơn 140 tàu chiến.

Trong 10 năm qua, Trung Quốc đã mua số vũ khí trị giá 150 tỷ USD. Động thái đáng chú ý hiện nay là các hoạt động trên biển gần đây của Hải quân Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh có ý định tăng cường kiểm soát các tuyến đường hàng hải trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Hàng không mẫu hạm Varyag, thuộc lớp Kuznetsov, đang được xây dựng. Trung Quốc sẽ đưa vào sử dụng tất cả 3 hàng không mẫu hạm năm 2017. Các tàu sân bay này sẽ giúp Hải quân Trung Quốc đạt được khả năng cạnh tranh trên biển với Hải quân Mỹ.

Gần đây, Trung Quốc cũng không ngừng phô trương các loại vũ khí mới - một tiêu chí nhằm nâng cao sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Có chuyên gia nhận định nhiều khả năng sẽ nổ ra một cuộc chạy đua vũ trang tại khu vực Đông Á, sau khi các phương tiện thông tin đưa hình ảnh Trung Quốc công bố loại máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ J-20.

Việc công bố công nghệ mới của Trung Quốc trùng hợp với thời điểm tại Seoul, Nhật Bản và Hàn Quốc nhất trí tìm kiếm một thỏa thuận quân sự song phương đầu tiên sau khi Mỹ hối thúc Hàn - Nhật tăng cường hợp tác để đối phó với Triều Tiên.

Trong khi tìm cách tăng cường quan hệ quân sự với Nhật Bản, quân đội Hàn Quốc cũng thông báo kế hoạch triển khai hệ thống tên lửa dẫn đường diệt xe tăng do Israel chế tạo trên đảo YeonPyeong, hòn đảo vừa bị Triều Tiên pháo kích hồi cuối tháng 11/2010.

Hàn Quốc cũng đầu tư đáng kể cho sức mạnh quân sự. Ngoài việc tổ chức các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn với Mỹ, quân đội Hàn Quốc còn gia tăng tổ chức các cuộc diễn tập quân sự giả định quy mô lớn.

Trong khi đó, nhập khẩu quân sự của Malaysia cũng đang tăng lên, Singapore cũng đang có kế hoạch mua 2 tàu ngầm; Australia đang lập kế hoạch chi 179 tỷ USD trong vòng 20 năm tới để mua mới tàu ngầm, tàu khu trục và máy bay chiến đấu.

Bên cạnh đó, Nga cũng có kế hoạch tổ chức cuộc diễn tập quân sự quy mô lớn nhất trong lịch sử tại khu vực Viễn Đông vào năm 2011, tăng cường sự hiện diện sức mạnh quân sự của Nga tại khu vực này.

Điểm đáng quan tâm là hiện nay, Mỹ đang tăng cường sức mạnh cho các lực lượng đồn trú tại khu vực Đông Bắc Á. Theo các phương tiện truyền thông của Anh, Mỹ có kế hoạch đầu tư 12,6 tỷ USD nhằm xây dựng và mở rộng căn cứ quân sự trên đảo Guam - khoản đầu tư lớn nhất để xây dựng căn cứ quân sự tại khu vực Tây Thái Bình Dương của Mỹ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, với mục đích là biến đảo Guam thành căn cứ quân sự lớn nhất khu vực Tây Thái Bình Dương.

Chưa hết, Mỹ, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ đang chạy đua mạnh mẽ phát triển các tên lửa chống hạm, điều có thể tạo ra một cuộc cách mạng trong chiến tranh trên biển và thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu.

Ấn Độ và Nga đang bắt tay chế tạo tên lửa BrahMos thế hệ thứ hai, dự kiến có thể đạt tốc độ tới 7.300 km/h. Trong khi đó, Trung Quốc cũng đang phát triển tên lửa chống hạm siêu âm như vậy của riêng mình, mang tên Đông Phong 21D (DF-21D). Được mệnh danh là “sát thủ tàu sân bay”, loại tên lửa này có thể được dùng để chống các tàu sân bay của Mỹ, qua đó hủy diệt uy quyền tối thượng của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.

Bản thân Mỹ cũng đang đẩy mạnh phát triển tên lửa siêu tốc của mình mang tên X-51A WaveRider, sử dụng công nghệ phản lực tĩnh siêu âm.

… và “động cơ” kích động cuộc đua
 Sau khi xuất hiện một số sự kiện như vấn đề hạt nhân, phóng thử tên lửa đạn đạo và cái gọi là thử vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, Triều Tiên đã trở thành một trong những nhân tố nổi bật tác động đến quyết định nâng cao sức mạnh quân sự của Hàn Quốc và Nhật Bản.

Đặc biệt là sau sự kiện tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc bị đánh chìm và hai miền Triều Tiên pháo kích lẫn nhau, Hàn Quốc và Nhật Bản càng có các động thái tăng cường sức mạnh quân sự hơn nữa. Tương quan sức mạnh quân sự trong khu vực đang có những thay đổi.

Nhưng một lý do được nhắc đến nhiều nhất trong cuộc đua sức mạnh quân sự tại châu Á - Thái Bình Dương là các nước trong khu vực đang lo ngại sự ngày càng trỗi dậy về kinh tế và sức mạnh quân sự của Trung Quốc, trong khi cho rằng Mỹ ít có khả năng can dự vào sự vụ khu vực.

Trung Quốc đã chính thức vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc đang xúc tiến chính sách ngoại giao kinh tế, và vũ khí mạnh nhất của Trung Quốc ngày nay chính là sức mạnh kinh tế, đặc biệt là dự trữ ngoại tệ.

Về quân sự, trước kia, các nước khác cho rằng, Trung Quốc phát triển quân sự chỉ để trấn áp “giặc cỏ”. Hiện nay, các nước bất ngờ phát hiện ra rằng, quân đội Trung Quốc đã đột phá chuỗi đảo thứ nhất, tiến ra Thái Bình Dương.

Trong khi đó, toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương có nguy cơ sẽ bước vào một thời kỳ “không xác định” chưa từng có: rối loạn trên bán đảoTriều Tiên, kinh tế phập phù khó đoán định và thời gian tại chức ngắn ngủi của nhiều vị Thủ tướng Nhật Bản, ngoài ra còn có vấn đề “chuyển giao quyền lực” ở nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… sắp diễn ra.

Đối với nhiều nhà quan sát, 2010 là một năm đầy thử thách đối với ngoại giao của Bắc Kinh do quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc với các nước láng giềng và những quan ngại trước việc Mỹ cam kết "quay trở lại" khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Báo cáo của các cố vấn quân sự Australia cho rằng Australia cần một hạm đội tàu ngầm hạt nhân tấn công cùng một loạt hệ thống vũ khí tiên tiến nhằm đáp lại những mối đe dọa về an ninh từ việc xây dựng quân đội quy mô lớn của Trung Quốc. Nguyên nhân chủ yếu khiến Ấn Độ đang ra sức mở rộng kho vũ khí cũng bắt nguồn từ Trung Quốc.

Trung Quốc nói nước này không phải là một mối đe dọa, nhưng lập trường ngoại giao và quân sự của họ ngày càng cứng rắn, đặc biệt là tại các vùng biển. Các tàu hải quân của Trung Quốc hoạt động ngày càng thường xuyên tại các vùng biển xung quanh phía Nam Nhật Bản. Nhật Bản tuyên bố sẽ tăng cường giám sát các lực lượng của Trung Quốc và tăng cường hạm đội tàu ngầm.

Còn các chuyên gia về Nga cho rằng chính sách quân sự và các cuộc tập trận mà Nga đã tiến hành trong những tháng gần đây dường như chứng tỏ rằng Moscow đã bắt đầu cảm thấy bị đe dọa bởi sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc. Ngân sách quốc phòng của Nga trong năm 2011 tăng khoảng 20% so với năm 2010.

Nhìn nhận sự thay đổi trong quan hệ quân sự giữa các bên có lợi ích an ninh trong khu vực và sự thay đổi sức mạnh giữa các bên, không khó phát hiện cục diện quân sự khu vực đang có sự thay đổi từng bước, mà nguyên nhân cơ bản chính là sức ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc ở vị trí hàng đầu, tiếp đến là sức ảnh hưởng của Nhật Bản và Hàn Quốc.

(internet info)

Thứ Sáu, 18 tháng 2, 2011

>> Việt Nam chưa chủ trương tham gia các cuộc tập trận quốc tế



Việt Nam sẵn sàng tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc khi điều kiện cho phép, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cho biết.





Trong thời điểm hiện nay Việt Nam không tham gia các cuộc tập trận hay các cuộc diễn tập quân sự. Tuy nhiên, Việt Nam sẵn sàng tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc khi điều kiện cho phép, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cho biết.

- Cuộc tập trận "Hổ mang vàng" hiện đang diễn ra tại Thái Lan. Vừa qua đã xuất hiện những thông tin khác nhau liên quan tới sự tham dự của Việt Nam vào cuộc tập trận. Thông tin của báo chí nước ngoài về việc Việt Nam cử 3 sĩ quan tham gia lập kế hoạch tác chiến có chính xác hay không, thưa Trung tướng?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Việt Nam đã tham dự các cuộc tập trận "Hổ mang vàng" với tư cách quan sát viên từ năm 2003. Từ đó đến nay, tùy thuộc vào điều kiện của mình cũng như tùy thuộc vào tính chất hay nội dung của cuộc tập trận, có năm Việt Nam tham dự, có năm không. Mục đích tham dự của Việt Nam là để xem các nước thực hiện tập trận như thế nào.

Năm nay, Việt Nam không cử người tham gia cuộc tập trận kể cả ở mức độ quan sát viên. Thông tin về Việt Nam cử người tham gia lập kế hoạch tác chiến là sai lệch, không rõ nguồn tin xuất phát từ đâu. Thông tin sai lệch này có thể làm cho dư luận hiểu sai chủ trương của Việt Nam. Trong thời điểm hiện nay Việt Nam không tham gia các cuộc tập trận hay các cuộc diễn tập quân sự.

- Như vậy, chủ trương của Việt Nam là không tham gia các cuộc tập trận nhưng có thể cử quan sát viên. Mới đây, phát biểu tại Malaysia, Đô đốc Patrick Walsh, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đã ngỏ ý mời Việt Nam tham dự cuộc tập trận CARAT giữa Mỹ và một số nước trong khu vực. Trung tướng nghĩ như thế nào về lời mời này?

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Cho đến nay chúng ta chưa nhận được lời mời chính thức và đầy đủ, cũng chưa có đủ điều kiện nghiên cứu kỹ nội dung của cuộc diễn tập này là gì. Nhưng tôi nhấn mạnh lại là cho đến thời điểm này, Việt Nam không tham gia các cuộc diễn tập quân sự. Trong thời gian tới, nếu có thì Việt Nam cũng bước đầu chỉ tham gia vào các cuộc diễn tập chung mang tính chất nhân đạo như rà phá bom mìn, cứu trợ thảm họa, quân y…

- Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố sẽ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc khi điều kiện cho phép. Xin Trung tướng cho biết QĐND Việt Nam đã chuẩn bị cho việc này như thế nào? Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh: Việt Nam đánh giá hoạt động của Lực lượng gìn giữ hòa bình trong khuôn khổ Liên hợp quốc, trên cơ sở luật pháp quốc tế, có sự kêu gọi và đồng thuận của các nước, là điểm tích cực để đem lại hòa bình và ổn định cho thế giới.

Việt Nam đã tuyên bố sẽ sẵn sàng tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc khi điều kiện cho phép, đóng góp trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế. Điều này sẽ đề cao vị thế, vai trò, trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, ổn định của thế giới, cũng là cơ hội để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm, tìm hiểu tình hình, nghiên cứu các vấn đề của thế giới để phục vụ lợi ích của đất nước.

Việt Nam hiện đang trong quá trình chuẩn bị gồm nhiều nội dung. Trước hết, chúng ta phải nghiên cứu đầy đủ về cơ chế, cách thức hoạt động của lực lượng này. Thứ hai, Việt Nam phải chuẩn bị về con người. Bộ đội tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình phải biết ngoại ngữ, phải biết kỹ thuật đặc thù, phải hiểu biết về luật pháp quốc tế v.v.. Thứ ba là vấn đề pháp lý, vì việc đưa quân ra nước ngoài cần phải có sự đồng ý của Nhà nước. Thứ tư là chúng ta phải chuẩn bị về cơ sở vật chất vì đất nước còn nghèo.

Quá trình chuẩn bị này đã bắt đầu được thực hiện một cách tích cực từ cách đây 4, 5 năm. Tôi tin rằng, trong thời gian sắp tới, Việt Nam sẽ có những bước đi ban đầu trong việc tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Việt Nam sẽ lựa chọn lĩnh vực để tham gia như quân y, rà phá bom mìn, tẩy độc… Việt Nam cũng tham gia với mức độ phù hợp, có thể là cử sĩ quan tham mưu, các nhóm chuyên ngành. Chủ trương của Việt Nam không đưa Lực lượng gìn giữ hòa bình vào bất kỳ nơi nào đang xảy ra xung đột. Việt Nam cũng sẽ không cử lực lượng chiến đấu tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình.

Xung đột Thái Lan - Campuchia là thách thức chung của ASEAN

"Xung đột giữa Thái Lan và Campuchia là điều đáng tiếc cho tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN, cũng như là một điều đáng tiếc cho các cam kết của ASEAN. Rõ ràng, cả hai nước đã vi phạm Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC). Giải quyết vấn đề này là thách thức chung của ASEAN nhưng mà tập trung trách nhiệm vào nước Chủ tịch luân phiên, cũng như trách nhiệm của Thái Lan và Campuchia đối với hòa bình và ổn định của ASEAN.

Vấn đề này trước hết phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, đối thoại, tôn trọng lẫn nhau. Thứ hai là phải công khai, minh bạch trên các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc và ASEAN. Thứ ba là phải tuân thủ luật pháp quốc tế mà cụ thể là Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế. Thái Lan cũng như Campuchia, với trách nhiệm đối với đất nước mình cũng như đối với ASEAN, nên thực hiện những điều này.

Qua vấn đề giữa Campuchia và Thái Lan, chúng ta cũng có thể thấy, những vấn đề song phương bên cạnh việc cần giải quyết tay đôi thì rất cần những ý kiến thiện chí, đúng mực, đúng luật pháp, tôn trọng nước chủ nhà của cộng đồng quốc tế để làm dịu tình hình. Có như vậy, các nước tranh chấp mới có cơ sở để nhìn lại hành vi của mình, tính toán bước đi để đảm bảo lợi ích của dân tộc và quốc tế, ví dụ như chủ quyền lãnh thổ thì không thể từ bỏ, nhưng đồng thời phải tính đến lợi ích chung của khu vực".


Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh

(tổng hợp)

>> Mỹ phát triển bia bay đối phó tên lửa của Nga



ATK đã công bố các tính năng then chốt của bia bay mới được phát triển để mô phỏng chế độ bay của tên lửa chống hạm Club của Nga.

Một báo cáo công khai do Hiệp hội công nghiệp quốc phòng Mỹ (US National Defense Industries Association, NDIA) công bố đầu tháng 1/2011, song đề ngày 20/10/2010 có thông tin nói rằng, bia bay siêu âm nhiều tầng (MSST) ZGQM-173A sắp tới có thể chào bán xuất khẩu với cơ chế xem xét cụ thể từng trường hợp.

Tại hội thảo thường niên của NDIA chuyên về máy bay không người lái (UAV), bia bay và thử nghiệm tại trường thử, Giám đốc АТК (Công ty Alliant TechSystems) về phát triển công nghệ tên lửa M. Stuart đã tuyên bố, chuyến bay thử đầu tiên của bia bay được ấn định vào ngày 17/11/2010, nhưng công ty thừa nhận, ngày bay thử lần đầu đã được hoãn sang quý I năm 2011 do “những chậm trễ trong quá trình phát triển” và “mức độ sẵn sàng của hạ tầng trường thử”.





АТК và Bộ chỉ huy về các hệ thống không quân của hải quân Mỹ (US Naval Air Systems Command, NAVAIR) sẵn sàng bình luận ngay về hiện trạng chương trình bay thử. NAVAIR đã ký với АТК hợp đồng trị giá 98 triệu USD để phát triển MSST từ năm 2008.

Theo đại diện АТК, ZGQM-173A gồm 2 hệ thống hiện có. Tầng dưới âm (tách khỏi tên lửa khi bắt đầu bổ nhào) dựa trên động cơ của bia bay CEi BQM-167X. Tầng hai siêu âm là biến thể tên lửa chống ngầm phóng thẳng đứng Mk 114 do АТК sản xuất.

Hải quân Mỹ phát động chương trình MSST sau khi tên lửa chống hạm 3М-54 Club (hay SS-N-27 Sizzler) do Viện MKB Novator, Nga sản xuất bất ngờ xuất hiện. Tên lửa Club được thiết kế để đột phá hệ thống phòng thủ của mục tiêu (tàu chiến nổi, tàu ngầm) bằng chế độ bay sát mặt sóng ở tốc độ cận âm, sau đó vọt lên cao và tăng tốc lên tốc độ Mach 3,5, rồi sau đó lại hạ thấp độ cao và tấn công vào thân tàu. Những thủ đoạn thay đổi tốc độ, độ cao và hướng bay làm cho Club trở thành một mục tiêu khó khăn với các hệ thống phòng thủ của tàu chiến.

Khi MSST được nhận vào trang bị vào năm 2014, Hải quân Mỹ sẽ có khả năng thử nghiệm đánh giá khả năng các hệ thống phòng thủ của họ trong đối phó với tốc độ và khả năng cơ động của tên lửa chống hạm Club.
(tổng hợp bdv)

>> Những vụ thử hạt nhân của Mỹ trong chiến tranh lạnh (kỳ 1)



Cùng với cuộc đua vũ trang từ sau Chiến tranh thế giới lần 2, Mỹ là quốc gia đi đầu tiến hành những vụ thử hạt nhân gây chấn động, giải phóng lượng năng lượng khổng lồ.

Castle Romeo

Vụ thử quả bom Castle Romeo nằm trong chuỗi thử nghiệm mang tên chiến dịch Castle của Mỹ. Romeo là tên của loại vũ khí nhiệt hạch TX-17 (lúc đầu mang tên “khả năng khẩn cấp” EC-17).

Được kích nổ ngày 27/3/1954, Romeo đã tạo ra lượng năng lượng vượt xa dự tính ban đầu (khoảng 4 Megaton), lên đến 11 Megaton. Nguyên nhân của sự gia tăng đột ngột là do sự tham gia ngẫu nhiên của đồng vị Lithium-7 trong các phản ứng nhiệt hạch.



Vụ thử của Romeo đã mạnh hơn dự kiến do có sự tham gia phản ứng của đồng vị Lithium-7.
Trở thành quả bom nhiệt hạch thả từ trên không đầu tiên, các nhà khoa học đã chế tạo khoảng 5 quả. Sau khi được tiếp tục phát triển thành Mk 17, 200 quả đã được sản xuất. Những quả bom EC-17 nặng từ 13-15 tấn, thường được các máy bay B-36 chuyên chở.

Hình ảnh từ vụ nổ của Romeo trở thành hình ảnh tiêu biểu cho những vụ nỗ hạt nhân trên những trang sách, bìa tạp chí, thể hiện sự đe dọa của vũ khí hạt nhân với màu đỏ, vàng, cam.

Chiến dịch Dominic 1 và 2
Chiến dịch Dominic là tên của chuỗi thử nghiệm nổ 105 quả bom nguyên tử của Mỹ chỉ riêng trong năm 1962 (từ tháng 4 đến tháng 7). Những vụ thử tiến hành tại Thái Bình Dương thường được gọi là Dominic 1, còn những vụ nổ tại Nevada được biết đến là Domonic 2.

Lý do khiến Mỹ tiến hành liên tiếp các vụ thử là biểu dương sức mạnh trong cuộc chạy đua với Liên Xô, sau khi siêu cường này thử Tsar Bomba và Cuba xảy ra sự kiện Vịnh Con Lợn.


Đám mây màu vàng độc đáo từ đám mây trong vụ thử Housatonic với mức giải phóng cực lớn, 8,3 Megaton.
Hầu hết những vụ thử đều tiến hành nhờ pháo đài bay B-52. Vụ thử lớn nhất là quả bom Housatonic, diễn ra ngày 30/10/1962 trên đảo san hô Johnston, giải phóng năng lượng lên tới 8,3 Megaton.

Chiến dịch Hardtack 1 và 2
Chiến dịch Hardtack 1 và 2 là chuỗi 72 thử nghiệm hạt nhân do Mỹ tiến hành năm 1958. Hardtack 1 được tiến hành chủ yếu trên Thái Bình Dương, hai đảo san hô Bikini và Enewetak, đảo Johnson.

Sự bùng nổ các vụ thử là do áp lực lệnh cấm thử nghiệm sắp diễn ra giữa Mỹ và Liên Xô. Lãnh đạo các phòng thí nghiệm muốn kiểm tra nhiều loại thiết bị, vũ khí hạt nhân nhất có thể, đồng thời trên đà tăng tốc cuộc đua vũ trang những năm 1950.


Ảnh chụp đám mây từ vụ thử Oak tại đảo Enewetak với mức giải phóng năng lượng tới 8,9 Megaton.
Chuỗi Hardtack 2 diễn ra song song với chiến dịch Argus của Mỹ tại Đại Tây Dương vào tháng 9/1958. Nó bao gồm 37 vụ thử, nhiều hơn so với 35 vụ thử của chuỗi Hardtack 1.Hai chuỗi thử nghiệm có sự khác biệt: chuỗi 1 bao gồm cuộc thử nghiệm vũ khí nhiệt hạch được phát triển hoàn chỉnh, sản sinh năng lượng cực lớn, với tổng số năng lượng giải phóng là 35,6 Megaton.

Trong khi đó, chuỗi 2 bao gồm các vụ thử với hiệu năng thấp, thậm chí là bằng 0. Đó là lý do, Hardtack 2 diễn ra an toàn ở Nevada, phần lớn được kích nổ ngầm dưới mặt đất, với tổng năng lượng sinh ra là 45,8 Kiloton.

Vụ thử lớn nhất là Poplar, diễn ra ngày 12/7/1958 tại đảo san hô Bikini, giải phóng 9,3 Metagon, nằm trong chuỗi Hardtack 1.

Chiến dịch Redwing
Chiến dịch Redwing là một chuỗi 17 thử nghiệm hạt nhân khác của Mỹ tiến hành từ tháng 5 - 7/1956. 17 vụ thử đều diễn ra trên hai đảo san hô Bikini và Eniwetok. Redwing diễn ra trước chiến dịch Plumbbob và sau Wigwam.

Mục đích chủ yếu của Redwing là thử nghiệm những thiết bị nhiệt hạch mới thế hệ hai để áp dụng cho vũ khí nhiệt hạch và một vài loại vũ khí chiến thuật nhỏ, sử dụng trong phòng không.


Hình ảnh của vụ thử Apache với mức giải phóng năng lượng 1,85 megaton.
Khác với mức giải phóng năng lượng lớn quá mức so với dự kiến trong chiến dịch Castle năm 1954, trong chiến dịch Redwing, các nhà khoa học đã sử dụng chính sách “ngân quỹ năng lượng”, hạn chế tổng năng lượng giải phóng và được kiểm soát chặt chẽ.

Tên những vụ thử trong chiến dịch Redwing đặt theo tên các bộ lạc người bản địa châu Mỹ. Toàn bộ vụ thử đều được kích nổ trên bầu khí quyển.

Chiến dịch Redwing đánh dấu nhiều mốc “đầu tiên”: Vụ thử Cherokee ngày 20/5 tại đảo san hô Bikini chứng minh thả bom nhiệt hạch thành công đầu tiên của Mỹ. Vụ thử Zuni ngày 27/5 là vụ thử đầu tiên đối với thiết kế nhiệt hạch 3 tầng. Vụ thử lớn nhất trong Redwing là Tewa, diễn ra ngày 20/7 tại đảo Bikini, giải phóng năng lượng 5 Megaton.



(tổng hợp bdv)

>> Máy bay săn ngầm P-8I



Máy bay P-8I mà Ấn Độ sắp mua là biến thể của P-8A Poseidon, loại máy bay phát triển dựa trên Boeing 737 được sử dụng rộng rãi, hiện đại nhất thế giới hiện nay.


Máy bay P-8 có sải cánh 37.7m, dài 39.5m, 2 động cơ phản lực với sức đẩy tổng cộng 27.000kg. Trần bay 12,5km, phi hành đoàn 9 người, trọng lượng cất cánh tối đa 90 tấn. Bán kính hoạt động, nếu máy bay dành 4 giờ bay vòng quanh khu vực tuần tra, là 1.200 hải lý.

Máy bay trang bị nhiều loại cảm biến khác nhau, gồm phao sonar thả từ máy bay, cảm biến hình ảnh tầm xa, cảm biến từ trường, radar quét tầm xa và radar độ phân giải cao SAR cho phép 'chụp ảnh' mục tiêu ở khoảch cách xa trong mọi điều kiện thời tiết, các thiết bị trinh sát điện tử.



Bố trí thiết bị, nội thất trên máy bay P-8I.
Bộ cảm biến quang điện tử-hồng ngoại chứa 7 thiết bị khác nhau như hồng ngoại, camera, khuyếch đại hình ảnh, đo khoảng cách và chỉ thị mục tiêu bằng laser. Radar trên máy bay có thể phát hiện tiềm vọng kính của tàu ngầm đưa lên khỏi mặt nước.

P-8 trang bị GPS thế hệ mới có tính năng chống nhiễu và tích hợp khả năng phân biệt bạn thù. Nguyên mẫu P-8A được trang bị một khoang chứa bom và 4 điểm treo vũ khí ở 2 cánh. Nó có thể mang theo rất nhiều loại vũ khí khác nhau, như tên lửa diệt hạm Harpoon, tên lửa hành trình, ngư lôi, bom, rocket, mìn chống tàu ngầm v.v…

Các hệ thống trên P-8 được thiết kế theo cấu trúc mở, cho phép dễ dàng nâng cấp, tích hợp những công nghệ mới trong tương lai.



Lắp đặt radar ở mũi P-8I.
So sánh với máy bay P-3
Dù P-8I phát triển dựa vào thiết kế Boeing 737 có 2 động cơ phản lực nhưng so với máy bay có 4 động cơ lực đẩy cánh quạt P-3 (>> xem thêm), máy bay này lại thể hiện khả năng vượt trội. P-8 có diện tích sàn lớn hơn 23% do đó mang theo nhiều thiết bị hơn. Trong khi đó, thời gian hoạt động giống nhau, khoảng 10 tiếng.

Tốc độ hành trình của P-8 là 910km/h, hơn hẳn tốc độ 590 km/h của P-3. Vận tốc này của P-8 cho phép máy bay này tới khu vực tuần tra nhanh hơn. Đây là lợi thế khi thực hiện săn tàu ngầm dựa trên thông tin ban đầu do dàn thiết bị phát hiện tàu ngầm (sonar) và vệ tinh cung cấp.

P-8 chở theo ít vũ khí hơn P-3, 6 tấn so với 10 tấn, nhưng vũ khí hiện nay hiệu quả hơn nhiều so với trước kia, nên ưu thế về sức mang không đáng kể.


(báo đất việt)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang