Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011

>> Tương quan vũ khí tấn công Mỹ-Trung



Trung Quốc hành động như thể nước này muốn Mỹ đi khỏi khu vực mà họ muốn kiểm soát, giới phân tích nhận định.



http://nghiadx.blogspot.com


Andrew Krepinevich, Giám đốc Trung tâm chiến lược và đánh giá ngân sách - một viện nghiên cứu chính sách độc lập nói, Trung Quốc không muốn chiến tranh với Mỹ. "Dường như, điều Trung Quốc muốn là thay đổi sự cân bằng quân sự tại tây Thái Bình Dương để Mỹ không thể trợ giúp quân sự cho các đối tác an ninh lâu dài như Nhật, Hàn và Đài Loan", ông Krepinevich, người có 21 năm trong quân ngũ nhận xét.
Cả hai nước trên và Đài Loan đã cung cấp cho Mỹ những căn cứ, cảng biển quan trọng tại Thái Bình Dương, để Mỹ ngăn không cho Trung Quốc gây sức ép lên 3 khu vực trên và buộc họ phải tuân thủ chính sách ngoại giao của Bắc Kinh vì sợ bị tấn công,
Krepinevich nói. Liên Xô từng cố làm một việc tương tự như vậy ở Tây Âu. Theo Krepinevich, tình huống trên trùm lên vấn đề an ninh quốc gia mà Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta không thể phớt lờ.

Vậy, làm thế nào? Một số nhà phân tích nói, quân đội Mỹ nên lo lắng về việc Trung Quốc phát triển vũ khí có thể cản đường Mỹ ở trong vùng. Đó là tên lửa tầm xa có thể phá hủy tàu sân bay ở biển hoặc được dùng để nhằm vào các căn cứ trên đảo giống như tên lửa mà Mỹ đang đặt ở Guam.

"Phương pháp chặn tiếp cận là một trong những cách buộc Mỹ phải tấn công từ một nơi xa hơn nhiều", Jan van Tol, một nhà phân tích quân sự tại Trung tâm chiến lược và đánh giá ngân sách, đồng thời là một thuyền trưởng hải quân Mỹ đã về hưu nói. "Cần phải đặc biệt chú trọng tới tên lửa đạn đạo chống hạm vì nếu loại vũ khí này được sử dụng một cách hiệu quả, nó sẽ cho phép Trung Quốc sử dụng vũ khí tầm xa chống lại các tàu sân bay của Hải quân".

Tàu sân bay là xương sống sức mạnh của Mỹ ở nước ngoài, nó cho phép các máy bay tấn công hoạt động gần như là bất kỳ một nơi nào trên thế giới. Việc Trung Quốc phát triển vũ khí sẽ cho phép nước này rào một phần của Thái Bình Dương lại, ngăn không cho Mỹ tiếp cận khu vực này và để Bắc Kinh thoải mái hành động chống lại các đồng minh của Mỹ trong khu vực.

"Có đủ thứ mà Trung Quốc dường như đang cố thâu tóm mà không có lý do rõ ràng nào", van Tol nói.

Trung Quốc chưa bao giờ có ý định đe dọa bất kỳ một quốc gia nào, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Liang Guanglie nói với những người đồng nhiệm châu Á tại cuộc họp "Đối thoại Shangri-La" bàn về vấn đề an ninh tại Singapore mới đây.

"Không phải tất cả mọi người tại những nước láng giềng của Trung Quốc đều tin vào điều này", Arthur Ding, chuyên gia về các vấn đề quân sự Trung Quốc tại đại học Chengchi, Đài Loan, người cũng tham dự Đối thoại Shangri-La nói. Khi Bắc Kinh tiếp tục hiện đại hóa quân đội một cách toàn diện, thì nước này không thể thuyết phục các quốc gia láng giềng về ý định hòa bình của họ, Ding nhận xét.

Một manh mối chỉ ra ý định chiến lược của Trung Quốc sẽ nằm ở nơi Bắc Kinh triển khai tàu sân bay đầu tiên vào cuối năm 2011, Ding cho hay. "Nếu nó ở Biển Đông, ngoài khơi Quảng Đông thì cái gọi là mối đe dọa Trung Quốc sẽ lại trỗi dậy vì các nước châu Á và Mỹ sẽ coi đó là một thông điệp gây hấn đối với họ".

Tuy nhiên, Tân Hoa xã mới đây đưa tin, một phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc khẳng định, tàu sân bay đầu tiên của nước này sẽ được dùng vào mục đích huấn luyện và nghiên cứu. Đã từ lâu, Bắc Kinh đe dọa sẽ thâu tóm lại Đài Loan bằng vũ lực nếu khu vực này chính thức tuyên bố độc lập. Một số nhà phân tích nói, việc Trung Quốc xây dựng lực lượng phần lớn là nhằm lấy lại Đài Loan, và rằng, chỉ có sự can thiệp bằng quân sự của Mỹ mới có thể chặn hành động của Trung Quốc.

Sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc tại Biển Đông gây lo lắng song không phải là sự xâm chiếm, Ding nhận xét. "Điều đó khó xảy ra nhưng có khả năng tuyến đường dầu khí của Đài Loan có thể bị Bắc Kinh đe dọa.

Trong khi đó, Mỹ tiếp tục phát triển máy bay tàng hình tầm xa, có khả năng chọc thủng hệ thống phòng không hiện đại, gồm của cả Trung Quốc. Không quân Mỹ có kế hoạch chi 197 triệu USD trong năm nay để thiết kế một loại máy bay ném bom mới, tránh được radar. Máy bay mới này có thể do phi công lái hoặc điều khiển từ xa, cho phép nó bay trong một thời gian dài mà không cần tiếp nhiên liệu. Không quân hy vọng sẽ triển khai sứ mệnh bay đầu tiên vào giữa năm 2012.

Với việc tiếp nhiên liệu trên không, máy bay chiến đấu Mỹ có thể bay vòng vòng bên ngoài tầm với hệ thống phòng không của Trung Quốc và xác định điểm tấn công. Trong khi đó, Hải quân Mỹ cũng đang thử nghiệm một loại máy bay tấn công không người lái có thể triển khai từ tàu sân bay. Máy bay này được gọi là UCLASS.

Tàu sân bay có thể làm bệ phóng cho những máy bay ném bom không người lái hoạt động ngoài tầm với của các tên lửa mà Trung Quốc đang phát triển, van Tol cho hay. Các oanh tạc cơ này có thể cất cánh từ vùng biển an toàn và được tiếp nhiên liệu trước khi tấn công.

Dù có nhiều lo ngại, Trung Quốc vẫn khẳng định, nước này không nhằm chấm dứt ảnh hưởng của Mỹ tại Đông Á. "Mục đích của chúng tôi là phát triển kinh tế để đảm bảo rằng 1,3 tỷ dân sống khá hơn", tướng Trần Bỉnh Đức, tổng tham mưu trưởng quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc nói trong chuyến thăm Lầu Năm Góc gần đây. "Chúng tôi không muốn dùng tiền để mua thiết bị hoặc các hệ thống vũ khí tiên tiến nhằm thách thức Mỹ".

Tại Bắc Kinh, chủ cửa hàng Zhang Kexin nói, anh ta ủng hộ Trung Quốc xây dựng lực lượng nhưng chỉ với mục đích quốc phòng. "Kinh tế còn chưa phát triển đầy đủ, quân đội còn yếu, nên Trung Quốc dễ bị làm nhục. Nếu chúng tôi mạnh, tôi tự hào về sức mạnh đó". Tuy nhiên, Zhang, 50 tuổi nói, Trung Quốc không cần có tàu sân bay. "Đó là vũ khí tấn công, không cần thiết. Đã tốn hàng triệu USD chỉ để khởi động, số tiền đó dùng vào y tế và giáo dục ở nông thôn còn tốt hơn".


Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

>> Tên lửa siêu âm Brahmos thử nghiệm thành công lần thứ 25



Theo tuyên bố của bộ quốc phòng Ấn Độ, lục quân của quốc gia này đã bắn thử thành công tên lửa siêu thanh BrahMos vào ngày 12/8.



http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa BrahMos.


Đây là lần bắn thử thứ 25 của BrahMos và kết quả đã đáp ứng mọi yêu cầu kỹ thuật. Tên lửa này do công ty BrahMos Aerospace chế tạo dựa trên nguyên mẫu là tên lửa NPO Mashinostroyenie 3M55 Yakhont (SS-N-26) do Nga chế tạo.

BrahMos có tầm bắn là 290km và có khả năng mang đầu đạn có trọng lượng 300kg. Ưu điểm của BrahMos là tấn công hiệu quả các mục tiêu thấp (có độ cao dưới 10m) với tốc độ bắn lên tới 2,8 lần tốc độ âm thanh.

Quân đội Ấn Độ đã thử nghiệm thành công phiên bản BrahMos phóng từ tàu chiến hoặc từ đất liền và sẽ trang bị cho hải quân và lục quân trong thời gian tới.

>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 3)



Sau khi chinh phục thế giới nguyên tử, các nước trong khu vực Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc không chần chừ đưa nguồn năng lượng này vào vận hành tàu ngầm, nhằm tăng cường sức mạnh cho lực lượng dưới mặt biển.

>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 1)
>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 2)


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc, Type 091 (lớp Hán).


Kỳ 3: Giấc mơ đại gia tàu ngầm

20 năm cho bước đi đầu

Tham vọng tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc “nhen nhóm” từ cuối những năm 1950 nhưng nước này gặp không ít khó khăn về động lực hạt nhân, yếu tố kỹ thuật, tài chính… Đặc biệt, Trung Quốc đánh mất quan hệ tốt đẹp với Liên Xô nên kế hoạch đề ra bị đầy lùi hơn 10 năm. Năm 1965, lãnh đạo Nhà nước Trung Quốc “bật đèn xanh” tái triển khai chương trình phát triển tàu ngầm hạt nhân. Nhóm nhà khoa học hạt nhân và quan chức cấp cao chính phủ đã được thành lập để chỉ đạo phát triển tàu ngầm hạt nhân. Một loạt các cở sở công nghiệp quốc phòng Trung Quốc được huy động cho dự án này.

Năm 1968, việc đóng tàu ngầm tấn công chạy động cơ hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc, Type 091 (lớp Hán) bắn đầu. Năm 1970, lò phản ứng chế tạo trên đất liền sẵn sàng được lắp vào tàu. Tháng 12/1970, tàu ngầm Type 091 hạ thủy và lò phản ứng kích hoạt tháng 7/1971. Quá trình chạy thử nghiệm bắt đầu tháng 8/1971 và đi vào phục vụ trong Hải quân Trung Quốc năm 1974. Trên thực tế, cho đến thời điểm đó Type 091 chỉ là tàu ngầm hạt nhân “vô dụng” bởi nó không có hệ thống vũ khí phù hợp và hệ thống điều khiển hỏa lực. Giữa những năm 1980, mối quan hệ Trung Quốc – phương Tây ấm dần, Trung Quốc mua được công nghệ lò phản ứng, thiết bị điều khiển hỏa lực, sonar từ Pháp. Nhờ vậy, các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc đã có “hồn” hơn.

Nếu như Trung Quốc bỏ phí 20 năm cho tàu ngầm hạt nhân Type 091 với nhiều lỗi thiết kế thì với tàu ngầm tấn công hạt nhân thế hệ hai Type 093 (lớp Tống), Trung Quốc chỉ mất nửa thời gian. Đó là nhờ vào sự giúp đỡ đắc lực của Cục thiết kế Rubin – cơ quan chuyên phát triển tàu ngầm Nga, khi quan hệ giữa 2 nước được cải thiện.

Công việc chế tạo Type 093 bắt đầu vào năm 1995 hoặc 1996 ở nhà máy Bột Hải (Bohai). Type 093 chính thức hạ thủy tháng 12/2002 và đi vào hoạt động trong Hải quân Trung Quốc tháng 12/2006. Có nguồn tin cho rằng Type 093 là thiết kế dựa trên tàu ngầm tấn công lớp Victor III của Nga, nhưng giới chức Trung Quốc luôn phản đối điều này. Dù sao, họ không thể phủ nhận việc nhiều công nghệ Nga đã được tích hợp vào Type 093. Nhờ đó, trong suốt quá trình phát triển Trung Quốc không gặp bất kỳ khó khăn nào.

Có "danh" mà chưa có "tiếng"

Tương tự kế hoạch phát triển tàu ngầm tấn công chạy động cơ hạt nhân. Trung Quốc lên chương trình chế tạo tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo từ cuối những năm 1950. Năm 1959, Trung Quốc mua được một tàu ngầm chạy động cơ diesel – điện trang bị tên lửa đạn đạo lớp Golf (project 629) của Liên Xô. Loại tàu này có lượng giãn nước 3.553 tấn mang được 3 ống phóng tên lửa đạn đạo R-11FM.

Trung Quốc không sử dụng lớp Golf để chiến đấu mà để thử nghiệm, đánh giá. Đặc biệt cho dự án phát triển tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm JL-1 (Cự Lãng 1) và cũng có thể là dùng cho bắn thử JL-2 (Cự Lãng 2). Tháng 9/1970, Trung Quốc khởi công đóng tàu ngầm hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo đầu tiên mang tên Type 092 (lớp Hạ). Con tàu này được chế tạo gần với thời gian Trung Quốc đóng tàu ngầm hạt nhân tấn công Type 091. Ở đây, thay vì phát triển thiết kế hoàn toàn mới, Trung Quốc quyết định sử dụng khung thân Type 091 để chế tạo, họ đã kéo dài thân tàu dành chỗ chứa cho tên lửa.

Cũng như Type 091, Type 093 cũng gặp phải vấn đề kỹ thuật và chính trị, phải đến năm 1981, Trung Quốc mới hạ thủy Type 093 (lớp Hạ) và đưa vào phục vụ trong hải quân (năm 1983) nhưng thiếu vũ khí chính là tên lửa đạn đạo JL-1, do không hoàn thành đúng như kế hoạch.

Phải tới cuối những năm 1980, tàu ngầm hạt nhân Type 093 (lớp Hạ) mới vận hành đầy đủ theo đúng thiết kế. Giai đoạn 1995-2001, Trung Quốc tiến hành hiện đại hóa Type 092 (lớp Hạ) trang bị cho nó tên lửa đạn JL-1A có tầm bắn 2.500km tăng độ chính xác. Giống hệt giai đoạn phát triển tàu ngầm tấn công động cơ hạt nhân, việc chế tạo thế hệ hai tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc cực kỳ suôn sẻ. Tất nhiên, Trung Quốc phải nhờ tới sự giúp đỡ từ cục thiết kế Rubin.

Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Type 094 (lớn Tấn) bắt đầu chế tạo năm 1999, hạ thủy tháng 7/2004. Type 094 có nhiều điểm tương đồng với tàu ngầm Type 093 (lớp Tống), điều đó cho thấy cả hai lớp tàu được chia sẻ từ một thiết kế cơ sở.Tuy nhiên, kể từ khi hạ thủy tới nay người ta chưa ghi nhận bất kỳ lần phóng thử tên lửa JL-2 nào từ tàu ngầm Type 094. Trong khi, Type 094 vẫn chưa đi vào vận hành đầy đủ trong Hải quân Trung Quốc, đã có tin Trung quốc phát triển tàu ngầm hạt nhân chiến lược Type 096 (lớp Đường) có thể mang 24 tên lửa JL-2.

Giấc mơ không chỉ từ phim ảnh

Giống với Trung Quốc đã làm chủ được công nghệ hạt nhân và không chịu những ràng buộc quốc tế như Nhật Bản, Hàn Quốc bắt đầu nghĩ tới việc chế tạo tàu ngầm hạt nhân.

Năm 1999, ở Hàn Quốc xuất hiện bộ phim Yuryeong (có tên tiếng Anh là Phantom: The Submarine), nói về việc hải quân nước này vận hành một tàu ngầm hạt nhân. Ngay lập tức, bộ phim đã giành được 6 giải thưởng cao quý của điện ảnh Hàn Quốc.


http://nghiadx.blogspot.com

Giấc mơ tàu ngầm hạt nhân Hàn Quốc xuất hiện trên phim.



http://nghiadx.blogspot.com

Hình ảnh mô phỏng tàu ngầm Chang Bogo III được cho là tàu ngầm tấn công động lực hạt nhân đầu tiên của Hàn Quốc.


Tuy nhiên, đây không phải giấc mơ của riêng đạo diễn Byung-chun Min mà là một chiến lược của giới quân sự Hàn Quốc. Theo một số thông tin đăng trên tờ Choson Ilbo (tháng 1/2004), nhà báo Yu Yong-won đã tiết lộ lãnh đạo quốc phòng Hàn Quốc hoàn toàn nghiêm túc với ý tưởng sở hữu tàu ngầm nguyên tử. Tháng 8/2004, nhà báo Kim Yong-Sam tái khẳng định thông tin trên bằng một bài viết đăng trên tạp chí Wolgan Choson.

Theo đó, Bộ Quốc phòng Hàn Quốc đã xúc tiến thiết kế mẫu tàu ngầm nguyên từ từ tháng 6/2003. Trên mạng Global Security cũng nhắc tới dự án chế tạo SSX-N của Hàn Quốc như là một tàu ngầm động lực hạt nhân. Nếu quả thực như vậy, thế độc tôn tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc trong khu vực sẽ bị phá vỡ. Tag: Hải quân các nước trên thế giới.

Tàu ngầm Type 091 (lớp Hán) thiết kế với kiểu dáng “giọt nước”, thân tàu bố trí làm 7 khoang kín nước. Tàu có lượng giãn nước 5.500 tấn (khi lặn). Vũ khí chính của tàu gồm 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm (bắn ngư lôi Yu-3 có cự ly 15km) và tên lửa hành trình đối hạm YJ-8 (tầm bắn 40 km, đầu đạn nặng 165kg). Từ 1977-1990, Trung Quốc đóng liên tiếp 4 tàu Type 091 (đánh số hiệu 401-405). Đầu năm 2000, Trung Quốc cho nghỉ hưu 2 chiếc 401 và 402.

Tàu ngầm Type 093 (lớp Tống) có lượng giãn nước 6.000-7.000 tấn (khi lặn). Vũ khí của Type 093 gồm: 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm có thể đáp ứng yêu cầu bắn ngư lôi hoặc tên lửa hành trình đối hạm YJ-82.

Tàu ngầm Type 092 (lớp Hạ) có lượng giãn nước 6.500 tấn. Vũ khí chính gồm: 6 ống phóng lôi 533mm (12 quả Yu-3, tầm bắn 15km) và 12 tên lửa đạn đạo JL-1 (Cự lãng 1) với tầm bắn tối đa 2.150km, mang đầu đạn hạt nhân 25-50 kiloton. Tên lửa JL-1 được phóng lần đầu tiên từ tàu ngầm Type 092 tháng 9/1987.

Type 094 có lượng giãn nước 8.000-9.000 tấn, chiều dài toàn thân 133m. Tàu được vũ trang 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm (12 quả loại Yu-3 có tầm bắn 15km) và tên lửa đạn đạo JL-2 (Cự lãng 2) có tầm bắn lên tới 7.000-8.000km, mang đầu đạn hạt nhân cỡ 1.000 kiloton.

>> Nhật Bản yêu cầu Trung Quốc giải thích về tàu sân bay



Ngày 12/8, bộ trưởng bộ quốc phòng Nhật Bản đã kêu gọi Trung Quốc giải thích lý do quốc gia này cần có sự phục vụ của các tàu sân bay.



http://nghiadx.blogspot.com
Bộ trưởng bộ quốc phòng Nhật Bản Toshimi Kita yêu cầu Trung Quốc giải thích về động cơ cho ý muốn sở hữu tàu sân bay.


Trước đó, Mỹ cũng có yêu cầu tương tự khi nhiều quốc gia trong khu vực đã thể hiện mối quan ngại trước sự tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Đặc biệt là sau sự kiện tàu sân bay đầu tiên của quốc gia này chính thức đi vào thử nghiệm.

“Là một tàu sân bay, vũ khí này có khả năng cơ động cao và có khả năng tấn công rất mạnh. Chúng tôi muốn Trung Quốc giải thích lý do tại sao họ cần có sự phục vụ của tàu sân bay”, ông Toshimi Kitazawa nói trước báo chí.

“Không còn nghi ngờ gì nữa, sự kiện này đang tạo ra tác động lớn lên cả khu vực”, ông Kitazawa cho biết thêm.

Mới đây, Trung Quốc đã đưa tàu sân bay Varyag ra biển. Mặc dù cố gắng giảm bớt khả năng của tàu sân bay này và nhấn mạnh mục đích “nghiên cứu và huấn luyện”, Trung Quốc vẫn làm dấy lên sự lo ngại trên toàn khu vực.

Trong bản báo cáo quốc phòng thường niên, Nhật Bản đã thể hiện sự quan ngại đối với sự áp đặt ngày càng gia tăng của Trung Quốc cũng như “tầm với” của hải quân Trung Quốc đang được mở rộng nhanh chóng ra Thái Bình Dương.

Nhật Bản kêu gọi sự minh bạch đối với ngân sách mà Trung Quốc dành cho lĩnh vực quốc phòng.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã phản ứng và chỉ trích bản báo cao quốc phòng thường niên của Nhật Bản là “vô trách nhiệm”, đồng thời khẳng định động cơ hiện đại hóa quân đội của họ chỉ nhằm tăng cường tính phòng thủ.

>> 'Cuộc chiến ở Syria sẽ lôi kéo cả khu vực'



Ngày 9/8/2011, bộ trưởng Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Davutoglu có 6 giờ liên tục tranh cãi không nghỉ với các đại diện của chính quyền Syria ở Damascus.


http://nghiadx.blogspot.com
'Cuộc chiến ở Syria sẽ lôi kéo cả khu vực ?


Hai giờ trong đó là trực tiếp với tổng thống Bashar Al-Assad. Ông này đã chuyển “thông điệp cứng rắn” của thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan.

Những yêu cầu chủ yếu là chấm dứt các hành động quân sự chống lại dân thường và xác định chính xác ngày bầu cử quốc hội. Ngược lại, Ankara đe doạ áp dụng những biện pháp khẩn cấp: Coi lãnh đạo Syria là bất hợp pháp như đã từng xảy ra đối với Gaddafi.

Phái viên Thổ Nhĩ Kỳ cũng thông báo, trong trường hợp các cuộc đàn áp quần chúng vẫn tiếp tục, sẽ khởi động kế hoạch can thiệp của NATO vào công việc của Syria. Giới phân tích nhận định, dường như đó không phải sự can thiệp quy mô lớn mà là những cuộc đột kích chính xác vào các mục tiêu.

Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ không cho biết các cuộc tấn công này chống lại ai, nhằm vào những mục tiêu nào và được tiến hành dưới danh nghĩa gì.

Trước đó, Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố dứt khoát ủng hộ chuyến công cán này của Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ.

Chuẩn bị chiến tranh?

Ông Assad đã tiếp nhận “sự cảnh báo cuối cùng của Thổ Nhĩ Kỳ” một cách bình tĩnh và đã khuyến nghị không can thiệp vào công việc nội bộ của Syria.

Báo chí Lebanon trích dẫn lãnh đạo Syria: “Nếu các ngài muốn chiến tranh thì các ngài sẽ có nó, và đó là cuộc chiến trong toàn khu vực”. Assad cho biết thêm, là quân đội chiến đấu không phải với dân chúng, mà là với “những nhóm khủng bố” đang lật đổ chính quyền hợp pháp.

Thậm chí ông còn ám chỉ rằng những tên cực đoan bị người Syria vô hiệu hoá đã được "ném vào" từ lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ.

Ở Thổ Nhĩ Kỳ, phản ứng đối với chuyến thăm của bộ trưởng Ngoại giao là đặc biệt. Một số tờ báo đưa tin Ankara không quá tin vào thành công của chuyến đi của Davutoglu.

Trước đó ở Thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ đã diễn ra hội nghị về an ninh của chỉ huy các cơ quan vũ lực với thủ tướng Recep Tayyip Erdogan. Cuộc họp này bàn về chuẩn bị các chiến dịch quân sự ở miền Bắc Syria. Hội nghị cũng đã bàn về những tác động chính trị, kinh tế và quân sự lên chế độ Syria. Đáng lưu ý là ngay lập tức kết quả thảo luận đã được thông báo cho đại sứ Hoa Kỳ.

Người lãnh đạo đoàn đại biểu thường trực của Hội đồng Liên bang của Nga tại Hội đồng nghị viện châu Á Rudick Iskuzhin nói với báo “Tin tức”: “Không loại trừ là người Thổ Nhĩ Kỳ định thừa cơ tấn công đánh người Kurd sinh sống ở phía Bắc và Đông – Bắc Syria. Chính xác hơn là đánh những tổ chức cực đoan đang hoạt động tại đây.

Trong các hoạt động của đối lập Syria được chiếu trên màn hình TV, có thể thấy rõ những người phản đối cầm trong tay vũ khí bộ binh hiện đại. Xem ra, đó không phải là người Syria, mà là những đại diện của các đơn vị quân sự được vũ trang và tổ chức rất tốt của người Kurd.

Trước đây Ankara chưa gặp phải vấn đề gì: Bashar Assad và các cơ quan mật vụ của ông kiểm soát vùng này rất chắc chắn và không để người Kurd tăng áp lực quân sự lên Thổ Nhĩ Kỳ. Đến nay tình hình đã khác: Các lực lượng vũ trang Syria tập trung sang hướng khác, họ tấn công Hama và các thành luỹ khác của phe đối lập. Họ không làm gì các chiến binh người Kurd nữa, và hoạt động của những người này lan sang lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ.

Ngay ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong cuộc bầu cử tháng 6/2011 vừa qua Đảng hoà bình và dân chủ ủng hộ người Kurd đã giành được 36 ghế trong Hạ viện Thổ Nhĩ Kỳ.

Về phần mình, Đảng chính nghĩa và phát triển cầm quyền đã tuyên bố chương trình giải quyết vấn đề người Kurd bằng biện pháp hoà bình. Sau 31 năm lưu đày, nhà chính trị và nhà thơ người Kurd Kemal Burkan đã trở về nước, và trên báo chí Thổ Nhĩ Kỳ đã có tin về việc chính quyền đàm phán với thủ lĩnh đảng công nhân người Kurd cấp tiến bị tù chung thân Abdullah Ocalan.


>> Ấn Độ giúp VN xây dựng hạm đội tàu ngầm



Trong khuôn khổ chương trình xây dựng đối tác chiến lược, Hải quân Ấn Độ sẽ giúp đỡ Hải quân Việt Nam phát triển hạm đội tàu ngầm.


http://nghiadx.blogspot.com
Với kinh nghiệm phong phú của mình Ấn Độ sẽ giúp Việt Nam xây dựng hạm đội tàu ngầm. Trong ảnh, một sĩ quan hải quân Ấn Độ quan sát bên ngoài tàu ngầm Kilo bằng kính tiềm vọng.


Hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng là một phần cơ bản trong khuôn khổ xây dựng đối tác chiến lược giữa Ấn Độ và Việt Nam.

Cũng giống như Việt Nam, trong biên chế của quân đội Ấn Độ nói chung và hải quân nói riêng có rất nhiều trang thiết bị có nguồn gốc từ Liên Xô và Nga.

Ấn Độ là một trong nhưng quốc gia nước ngoài sử dụng tàu ngầm Kilo sớm nhất, với những kinh nghiệm phong phú. Hải quân Ấn Độ sẳn sàng chia sẽ điều này với Hải quân Việt Nam cho kế hoạch xây dựng hạm đội tàu ngầm Kilo trong thời gian tới.

Một quan chức của Hải quân Ấn Độ cho biết: “Chúng tôi đang giúp đỡ Việt Nam trong việc xây dựng hạm đội tàu ngầm của họ. Kinh nghiệm của chúng tôi trong vận hành tàu ngầm Kilo sẽ được chia sẻ với họ”.

Vị quan chức này cũng từ chối cung cấp thông tin, liệu các thủy thủ Việt Nam có được cung cấp kinh nghiệm thực tế trên các tàu ngầm Kilo của Ấn Độ hay không.

Việt Nam đã chính thức công bố việc mua 6 tàu ngầm điện diesel từ Nga vào năm 2009 và gần đây nhất, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng đã lên tiếng xác nhận việc xây dựng hạm đội tàu ngầm trong khoảng 5-6 năm tới.

Hiện tại trong biên chế Hải quân Ấn Độ đang có 10 tàu ngầm điện diesel lớp Sindhughosh, đây là biến thể xuất khẩu cho Ấn Độ của tàu ngầm Kilo thuộc dự án 877EKM.

Ông Uday Bhaskar, Giám đốc Viện Hải dương Commodore nhấn mạnh, Việt Nam là một đối tác chiến lược quan trọng của Ấn Độ, chúng tôi có nhiều điểm chung trong các vấn đề lịch sử. “Cả hai chúng tôi có rất nhiều vũ khí trang bị từ Nga, vì thế Ấn Độ có thể mang lại nhiều hỗ trợ kỷ thuật cho phía Việt Nam”, ông nói.

Trước đó trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ AK Antony đến Việt Nam năm 2010, phía Ấn Độ đã cam kết tăng cường giúp đỡ Việt Nam hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân.

Trong đó có chương trình nâng cấp các chiến hạm có từ thời Liên Xô, cũng trong khuôn khổ chuyến thăm này, phía Ấn Độ đã chuyển giao cho Hải quân Việt Nam rất nhiều trang thiết bị kỹ thuật để nâng cấp các chiến hạm từ thời Liên Xô.

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2011

>> Tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc



Hoàn thành tham vọng nguyên tử, Trung Quốc đang xây dựng lực lượng tàu ngầm hạt nhân cho riêng mình.

Dưới đây là một số tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc:


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 091 (lớp Hán).


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 093 (lớp Tống).



http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm hạt nhân Type 092 (lớp Hạ) trang bị tên lửa đạn đạo Cự Lãng-1.



http://nghiadx.blogspot.com

Quang cảnh nạp đạn tên lửa Cự Lãng 1 lên tàu ngầm lớp Hạ.



http://nghiadx.blogspot.com

Phóng thử nghiệm tên lửa đạn đạo Cự Lãng 1 từ tàu ngầm.


http://nghiadx.blogspot.com

Tàu ngầm hạt nhân Type 094 (lớp Tấn) với các ống phóng tên lửa đang được mở nắp.



>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 2)



Là nước có tham vọng tiến ra biển mạnh mẽ, Trung Quốc đã phát triển lực lượng tàu ngầm vào hàng lớn nhất ở châu Á.

>> Hồ sơ tàu ngầm Đông Bắc Á (kỳ 1)


http://nghiadx.blogspot.com
Tàu ngầm tấn công chạy động cơ điện - diesel Type 035 (lớp Minh).


Chìm nổi theo quan hệ Trung - Xô

Trong khu vực châu Á, Trung Quốc có khoảng 70 tàu ngầm các loại. Nếu bỏ qua số tàu ngầm Triều Tiên (gần 90 chiếc nhưng chủ yếu là loại mini), đây là lực lượng tàu ngầm đông đảo nhất và có chất lượng đáng kể. Sự hùng hậu này khởi đầu từ sự giúp đỡ hết mình của Liên Xô, tính từ khi 2 nước ký kết thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 1954.

Khi đó, Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc tàu ngầm tấn công chạy động cơ điện – diesel lớp Whiskey, có thiết kế dựa theo kinh nghiệm chiến tranh kết hợp với công nghệ tàu ngầm của Đức. Tàu lớp Whiskey có lượng giãn nước 1.350 tấn với hệ thống vũ khí gồm 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm (12 quả), tháp pháo 40mm và 20mm.

Liên Xô còn trợ giúp Trung Quốc tự đóng tàu ngầm bằng việc cung cấp linh phụ kiện, các tài liệu liên quan. Điều này đã giúp ích nhiều cho công nghệ non trẻ của Trung Quốc trong lĩnh vực đóng tàu. Nhờ đó, Trung Quốc tự đóng được các tàu ngầm lớp Whiskey và biến thể nâng cấp của nó, tàu ngầm lớp Romeo.

Ở lớp tàu Romeo, Trung Quốc tăng dần yếu tố nội địa. Công việc đang triển khai hết sức tốt đẹp thì mối quan hệ Trung – Xô căng thẳng, vào những năm 1960, Liên Xô rút hết tất cả cố vấn quân sự cùng tài liệu kỹ thuật quan trọng về nước. Việc đóng tàu Romeo theo đó bị dừng mất vài năm do Trung Quốc phải tự sản xuất một số trang thiết bị cho tàu. Tới năm 1965, tàu ngầm lớp Romeo của Hải quân Trung Quốc chính thức hạ thủy. Và phải mất 5 năm (1970), tàu mới chính thức đi vào hoạt động. Đến nay, có khoảng 84 chiếc Romeo (Trung Quốc gọi lại là Type-033) đã được chế tạo.

Đối đầu với “người thầy, người bạn tốt bụng” Liên Xô trong khi nền công nghiệp quốc phòng còn lạc hậu, Trung Quốc buộc phải tự thân phát triển tàu ngầm tấn công động cơ diesel – điện. Từ tháng 11/1969, Viện thiết kế và phát triển tàu Vũ Hán (Viện 701) được giao nhiệm vụ chế tạo tàu ngầm Type 035 (lớp Minh), dựa trên thiết kế tàu ngầm lớp Romeo.

Trong khi thế giới đã phát triển bước dài chế tạo tàu ngầm cực kỳ hiện đại, độ ồn khi vận hành thấp thì Trung Quốc vẫn loay hoay ngụp lặn trong kỹ thuật kiểu cũ. Ở tàu ngầm Type-035, Trung Quốc cải tiến chút ít để tăng tốc tàu, hệ thống điều khiển, định vị thủy âm. Tuy nhiên, điểm yếu cố hữu Viện 701 không giải quyết được sự “ầm ĩ” của Type-035, vốn là nhược điểm của tàu lớp Romeo, khiến tàu dễ bị phát hiện và tiêu diệt.

Pha trộn công nghệ Nga, phương Tây và nội địa

Thế bế tắc trong thiết kế, chế tạo tàu ngầm của Trung Quốc được thông tỏ khi quan hệ với Nga được cải thiện. Năm 1994, này nhập khẩu 2 tàu ngầm tiến công lớp Kilo (Project 877EKM) và sau đó trở thành khách hàng đầu tiên mua tàu ngầm Kilo cải tiến (Project 636) vào năm 1996. Những công nghệ ứng dụng trên tàu Kilo đã trợ giúp rất nhiều để Trung Quốc nâng năng lực chế tạo tàu ngầm của mình.

Sau năm 2002, khi Trung Quốc sở hữu tổng cộng 10 chiếc Kilo Project 636, nước này trình làng tàu ngầm tấn công chạy động cơ diesel – điện lớp Tống (Type 039), một sản phẩm của công nghệ Nga, Trung Quốc và phương Tây.

Type-039 có lượng giãn nước 2.250 tấn (khi lặn), kiểu dáng “giọt nước” khác biệt hoàn toàn so với lớp Romeo. Nhờ động cơ được gắn bộ phận giảm sốc và chân vịt tàu có 4 lá, thân tàu bọc miếng cao su chống phản hồi âm thanh tương tự kiểu của Kilo mà Type-039 hoạt động êm ái hẳn. Hệ thống định vị thủy âm chế tạo dựa trên mẫu Thomson-CSF của Pháp cho phép theo dõi đồng thời 4-12 mục tiêu cùng lúc.

Tiếp tục là sự kết hợp công nghệ Nga – Trung Quốc – phương Tây, năm 2004, Trung Quốc giới thiệu tàu ngầm tấn công điện – diesel thế hệ mới Type 041 (lớp Nguyên). Theo trang mạng Sinodefence, lớp Nguyên có vỏ rất dày với vật liệu đặc biệt có khả năng hấp thụ tín hiệu của sonar âm thanh. Vỏ tàu được bọc lớp “cao su” để làm giảm tiếng ồn kzhi hoạt động. Đặc biệt, đây là tàu ngầm Trung Quốc đầu tiên ứng dụng hệ thống đẩy khí độc lập (AIP).

Theo một số nguồn tin, các chuyên gia Trung Quốc tuyên bố tàu ngầm lớp Nguyên hiện đại và chạy êm hơn 8 lần so với tàu ngầm lớp Lada của Nga.

Tàu ngầm Type-033 có lượng giãn nước khoảng 1.800 tấn (khi lặn), tốc độ 13 hải lý/h (khi lặn), tầm hoạt động hơn 14.000km. Về vũ khí, Type 033 trang bị 8 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm, có thể bắn các loại ngư lôi Yu-1 (Trung Quốc sao chép loại Type 53-51 của Liên Xô) có tầm bắn 9,2km và Yu-4 có tầm bắn 15km. Ngày nay, Type 033 chỉ còn làm nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ mới trong Hải quân Trung Quốc.

Tàu ngầm Type-035 có lượng giãn nước 2.100 tấn (khi lặn), tốc độ15 hải lý/h (khi lặn), tầm hoạt động khoảng 13.000km. Tàu có hệ thống vũ khí giống tàu ngầm lớp Typ-033.

Tàu ngầm Type-039 và Type-041 trang bị 6 ống phóng ngư lôi có 533mm có thể dùng để bắn ngư lôi chống ngầm hoặc tên lửa hành trình chống hạm YJ-82 (tầm bắn 40-80km, đầu đạn nặng 165kg). Trong đó, tàu ngầm lớp Nguyên (Type-041) có thể bắn được các loại ngư lôi do Nga chế tạo.

>> REDUT-M - 'Sát thủ tàu sân bay' một thời



Tuy phải nhường chỗ cho những tên lửa chống hạm hiện đại hơn trong biên chế Hải quân Nga, song REDUT-M vẫn là một mối đe dọa đối với nhiều loại tàu chiến.



http://nghiadx.blogspot.com

Tổ hợp tên lửa chống hạm REDUT-M đang khai hỏa.


Tổ hợp tên lửa chống hạm REDUT-M là một biến thể dùng cho lực lượng phòng thủ bờ biển của tên lửa P-5 Pyatyorka, NATO định danh là SS-N-3 Shaddock.

Từng là một trong những tên lửa chống hạm chủ lực của Hải quân Liên Xô trong những năm chiến tranh lạnh. P-5 Pyatyorka từng được mệnh danh là “sát thủ tàu sân bay”.

Đến nay tuy phải nhường chỗ cho những tên lửa chống hạm hiện đại hơn trong biên chế của Hải quân Nga nhưng P-5 Pyatyorka vẫn là một mối đe dọa lớn đối với các chiến hạm bởi tốc độ và uy lực của nó. P-5 Pyatyorka vẫn là tên lửa chống hạm chiến lược với các quốc gia không có được lực lượng hải quân hùng hậu.

Bối cảnh ra đời và lịch sử phát triển

Biến thể đầu tiên của P-5 Pyatyorka là 4K48 chính thức đi vào phục vụ trong Hải quân Liên Xô vào năm 1959. Ngay sau đó biến thể nâng cấp là P-35 4K44 và P-6 4K88 được đưa vào sử dụng trong những năm 1960.

Biến thể sử dụng cho lực lượng phòng thủ bờ biển được ra đời ngay sau đó, biến thể này được gọi là REDUT, NATO định danh là CSS-1A. Biến thể REDUT đầu tiên sử dụng tên lửa FKR-2, được phát triển vào năm 1954, thử nghiệm lần đầu tiên vào năm 1959.

Sự phát triển của tên lửa mới P-35B được ủy quyền vào tháng 8/1960, thử nghiệm đầu tiên diễn ra vào tháng 9/1963. Hệ thống được chấp nhận vào phục vụ ngày 11/8/1966.

Tên lửa P-35B (CSS-1B) được phát triển dựa trên loại tên lửa phóng từ các tàu chiến mặt nước P-35 (SS-N-3B). Biến thể nâng cấp REDUT-M, được đưa vào sử dụng từ năm 1973, chú trọng đến cải thiện khả năng kháng nhiễu, giảm độ cao hành trình và một động cơ tên lửa mới.

Đặc điểm, thông số kỹ chiến thuật

Tổ hợp tên lửa chống hạm REDUT-M là một hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển di động, được triển khai trên xe phóng SPU-35B hoặc SPU-35V . Một tổ hợp REDUT-M có 3 xe phóng, xe chỉ huy và xe radar 4R45 Skala.

Tên lửa được đặt trong ống phóng ZIL-135K và được đặt trên xe tải BAZ-135MB 8x8 bánh. Mỗi xe phóng được vận hành bởi 5 người, thời gian triển khai sẳn sàng chiến đấu khoảng 30 phút.

Tên lửa P-35B có chiều dài 10,2m, đường kính gần 1m, sải cánh 2,6m, trọng lượng phóng 4.500kg. Tên lửa có tầm bắn tối đa 460km,với tốc độ Mach-1.4, biến thể nâng cấp về sau đạt cự ly 550km. Tên lửa sử dụng động cơ nhiên liệu rắn KRD-26.


http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa của tổ hợp REDUT-M trong biên chế của Hải quân Việt Nam(ảnh:VTV1)



Tên lửa được dẫn hướng kết hợp quán tính, hiệu chỉnh tham số trong suốt hành trình và radar chủ động. Được trang bị đầu đạn thông thường nặng 1.000kg hoặc đầu đạn hạt nhân chiến thuật 350kiloton.

Để khởi động tên lửa, 4 chân trụ thủy lực sẽ được kích hoạt để cố định vị trí của xe phóng, ống phóng được một hệ thống thủy lực khác nâng lên một góc 20 độ so với mặt bằng của xe phóng.

Sau khi phóng, tên lửa được theo dõi trong suốt chuyến bay thông qua máy bay trinh sát Tu-95RT, Tu-16D, hoặc Ka-25T. Các lệnh dẫn hướng được gửi đến tên lửa từ trạm chỉ huy mặt đất thông qua các hình ảnh mà radar của tên lửa cung cấp cho trạm chỉ huy mặt đất thông qua một liên kết dữ liệu video.

Từ hình ảnh radar của tên lửa cung cấp, kỷ thuật viên điều khiển sẽ xác định và lựa chọn mục tiêu ưa thích, sau đó khóa mục tiêu bằng radar chủ động của tên lửa.

http://nghiadx.blogspot.com

Lực lượng phòng thủ bờ biển Hải quân Việt Nam luôn sẳn sàng chiến đấu, bảo vệ biển đảo tổ quốc thân yêu (ảnh: VTV1)


Trong trường hợp không có sự hỗ trợ dẫn hướng từ các máy bay trinh sát, sỹ quan điều khiển tên lửa sẽ phóng 3-4 tên lửa cùng lúc. Một trong số các tên lửa này sẽ được điều khiển bay lên cao hơn so với các tên lửa khác. Tên lửa này sẽ dùng radar của mình để dẫn đường cho các tên lửa còn lại tấn công một tàu hoặc nhóm tàu được phát hiện bởi các radar cảnh giới.

Tên lửa có độ cao hành trình từ 100-400m, hoặc có thể bay cao từ 4.000-7.000m trong trường hợp dùng radar của tên lửa để dẫn đường cho các tên lửa khác. Ở pha cuối tên lửa hạ thấp độ cao xuống dưới 100 mét trước khi lao đến mục tiêu.

Hạn chế

Giống như phần lớn các tên lửa chống hạm được sản xuất dưới thời Liên Xô, tên lửa P-35B có kích thước khá đồ sộ, cùng với độ cao hành trình tương đối cao. Tên lửa dễ dàng bị phát hiện từ xa bởi các hệ thống radar trên các chiến hạm đối phương.

Dù tên lửa có tốc độ khá nhanh Mach-1.4, tuy nhiên do kích thước lớn, tên lửa cũng dễ dàng bị bắn hạ bởi các hệ thống phòng không hiện đại. Thời gian triển khai và thu hồi của hệ thống tương đối chậm.

Một nhược điểm khá lớn nữa là, trong suốt quá trình bay đến mục tiêu, tên lửa được dẫn hướng với sự hỗ trợ của máy bay trinh sát hoặc radar của một trong các tên lửa thông qua một liên kết dữ liệu video.

Tuy nhiên, kiểu liên kết dữ liệu này rất dễ bị tổn thương trong môi trường tác chiến điện tử mạnh. Radar của tên lửa cũng rất dễ bị đánh lừa bởi các biện pháp đối phó điện tử. Đây cũng là nhược điểm cơ bản của các hệ thống vũ khí được sản xuất dưới thời Liên Xô.

Hệ thống phòng thủ bờ biển REDUT-M được Liên Xô chuyển giao cho Việt Nam trong giai đoạn 1979, đây cũng là cơ sở để hình thành lực lượng phòng thủ bờ biển của Hải quân Nhân dân Việt Nam. Đây cũng là loại tên lửa chống hạm có tầm bắn xa nhất hiện nay trong khu vực ASEAN. Hiện tại, tên lửa được nâng cấp để cải thiện khả năng kháng nhiễu và khả năng khóa mục tiêu của radar.

>> 'Nhị pháo' Trung Quốc tập chiến thuật mới



Thời gian gần đây, lực lượng nhị pháo (*) Trung Quốc liên tục tập luyện chiến thuật mới: tấn công tiêu diệt lực lượng tên lửa đạn đạo của đối phương.


http://nghiadx.blogspot.com

Công nghệ dẫn đường tên lửa đạn đạo chính xác không những giúp Trung Quốc chế tạo tên lửa diệt tầu sân bay mà nó còn giúp nước này có năng lực đánh phủ đầu các lực lượng tên lửa đạn đạo đối phương.


(*) Còn gọi là lực lượng pháo binh số 2, cách Trung Quốc gọi lực lượng tên lửa mặt đất.

Phản pháo là một trong những kỹ năng cổ điển của lực lương pháo binh và tất nhiên nó cũng được áp dụng với lực lượng tên lửa đạn đạo. Gần đây Trung Quốc đang cố gắng luyện tập kỹ thuật này với khả năng cao hơn: tấn công phủ đầu các bệ phóng tên lửa đạn đạo di động của đối phương.

Đây là một việc rất khó vì các hệ thống phóng tên lửa đạn đạo này có kích thước nhỏ và rất cơ động. Dù vậy, Trung Quốc tin rằng họ sẽ luyện tập thành công khả năng này trong một tương lai gần.

Lực lượng pháo binh số hai của Trung Quốc đã được mở rộng rất nhiều so với trước đây. Trong đó, mới đây họ đã tăng thêm 2 lữ đoàn sử dụng tên lửa đạn đạo chống hạm tầm siêu xa DF-21D, nâng tổng số lữ đoàn sử dụng tên lửa DF-21 của lực lượng này lên 10 lữ đoàn, cùng với một số lữ đoàn sử dụng các loại tên lửa đạn đạo khác.

Mỗi lữ đoàn DF-21 được biên chế gồm 6 tiểu đoàn tên lửa (với 2 xe phóng tên lửa cho mỗi tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bảo dưỡng, sửa chữa, 1 tiểu đoàn chỉ huy, 1 tiểu đoàn trinh sát và 1 tiểu đoàn đối kháng điện tử (ECM). Tên lửa DF-21D được cho là để chống lại các hàng không mẫu hạm của quân đội Mỹ.

Các tên lửa DF-21 được sử dụng trong 8 lữ đoàn còn lại đều là các mẫu đã cũ. Đây là loại tên lửa nhiên liệu rắn 2 tầng đẩy, có chiều dài 10,7m, đường kính 1,4m và khối lượng 15 tấn.

Các tên lửa này có tầm bắn từ 1.700 km đến 3.000 km tùy theo biến thể, với khả năng mang đầu đạn hạt nhân hay thuốc nổ thông thường nặng từ 500 - 2.000 kg.

Tên lửa DF-21 loại này thường dùng để nhắm vào các mục tiêu quan trọng ở Đài Loan vì với tốc độ rất cao ở pha cuối, DF-21 sẽ có khả năng vượt qua tầng phòng thủ của các tên lửa Patriot-PAC3 đang bố trí trên hòn đảo này.

Dù chưa có một cuộc thử nghiệm tổng thể nào đối với tên lửa DF-21D, nhưng các cuộc thử nghiệm từng phần đã được diễn ra trong suốt 2 năm vừa qua và có vẻ chúng hoạt động tốt.

Trung Quốc cũng đã có thêm nhiều động thái khẳng định việc vận hành chính thức tên lửa DF-21D như việc phóng các vệ tinh địa tĩnh dẫn đường với quỹ đạo cao 600 km trên bầu trời Thái Bình Dương.

Mỗi vệ tinh này có trang bị các radar và camera viễn thám có độ phân giải thấp ( ích cỡ điểm ảnh 20m) có khả năng bao quát một vùng rộng 10.000km2 hay các camera độ phân giải trung bình (kích cỡ điểm ảnh 3m) có khả năng bao quát diện tích 1.600km2.


http://nghiadx.blogspot.com

Với tên lửa DF-21D, Trung Quốc có thể đe dọa phần lớn biển Ấn Độ Dương, Tây Thái Bình Dương, biển Đông và eo biển Malacca.


Trong 6 năm qua, Trung Quốc đã làm việc không ngừng nghỉ để chế tạo các hệ thống dẫn đường giúp tên lửa đạn đạo có khả năng đánh trúng các mục tiêu di động. Các bộ dẫn đường này có thể sử dụng đầu dò hồng ngoại cho pha cuối tấn công.

Với các phương tiện trinh sát như vệ tinh, máy bay trinh sát, Trung Quốc có khả năng phát hiện sơ bộ vị trí của hàng không mẫu hạm hay hệ thống tên lửa đạn đạo đối phương, sau đó, các đầu đạn được dẫn đường sẽ lo nốt phần còn lại.

Hiện tại, Trung Quốc đã chế tạo thành công các bộ dẫn đường này và lắp đặt trên tên lửa DF-21D với tầm bắn 3.000 km, điều này cũng mở ra khả năng lắp đặt chúng lên các tên lửa tầm xa hơn, có khả năng vươn tới các căn cứ tên lửa của Nga, Ấn Độ hay Mỹ.

>> Việt Nam mua thêm hệ thống tên lửa bờ biển



Tập đoàn NPO Mashinostroenia bắt đầu chuẩn bị hợp đồng bán hệ thống tên lửa bờ biển Bastion-P cho Việt Nam.


http://nghiadx.blogspot.com
Hệ thống tên lửa bờ biển Bastion-P trong biên chế Hải Quân Việt Nam


Tập đoàn NPO Mashinostroenia đã bắt đầu chuẩn bị hợp đồng xuất khẩu hệ thống tên lửa bờ biển Bastion-P với Việt Nam không thông qua công ty xuất khẩu vũ khí Rosoboronoexport. Kinh phí cho hợp đồng này được lấy từ tín dụng nhà nước do Nga cấp cho Việt Nam.

Hiện nay, hai bên đang xác định các điều kiện sơ bộ của hợp đồng xuất khẩu: số lượng chính xác trang bị mua bán, quy mô tín dụng nhà nước của Nga và thời hạn chuyển giao.

Theo một nguồn tin gần gũi với Bộ Tài chính Nga, Nga đang đàm phán với Việt Nam về việc cấp tín dụng mua vũ khí Nga. Quy mô tín dụng nhà nước này chưa được xác định vì “phụ thuộc trực tiếp vào số lượng vũ khí mua sắm, mà điều đó thì hiện đang được thảo luận”. “Một trong các bên của hợp đồng mới sẽ là NPO Mashinostroenia. Vai trò đó được xác định cho NPO và hãng này đang đàm phán với Việt Nam về việc cung cấp một số hệ thống Bastion”. Nguồn tin này cũng cho biết, việc chuyển giao các hệ thống tên lửa cho Việt Nam có thể diễn ra không sớm hơn năm 2013-2014 do phía Nga cần chuẩn bị và có những bổ sung vào luật ngân sách để có thể cấp tín dụng xuất khẩu cho Việt Nam.

Một nguồn tin gần gũi với Rosoboronoexport, hôm 10.8, cho biết, “vấn đề cấp tín dụng có liên quan cho Việt Nam để mua vũ khí Nga đang ở giai đoạn bàn bạc thống nhất cuối cùng”.

NPO Mashinostroenia đã được phép của đích thân Tổng thống Nga Dmitri Medvedev tự chuẩn bị hợp đồng xuất khẩu, mặc dù việc đó chưa được hợp thức hóa về mặt pháp lý. Tập đoàn này sẽ chỉ có thể ký kết hợp đồng xuất khẩu không qua Rosoboronoexport nếu có được quyền này về mặt pháp lý.

Một nguồn tin trong văn phòng Tổng thống Nga tiết lộ, Tổng thống Dmitri Medvedev đã được báo cáo từ tháng 6.2011 về kế hoạch của NPO độc lập xuất khẩu vũ khí thành phẩm, người đệ trình báo cáo này là trợ lý Tổng thống Sergei Prikhodko đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị của NPO Mashinostroenia và Tổng thống Medvedev đã viết lên tờ trình là “Đồng ý”, tuy nhiên chưa có sắc lệnh chính thức của Tổng thống.

Một nguồn tin trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật quân sự cho hay, NPO Mashinostroenia đang thực sự chuẩn bị tự đi ra thị trường thế giới. Đến năm 2007, NPO đã tự xuất khẩu vũ khí và hiểu rõ thị trường Việt Nam, và nay đã được Tổng thống Nga cho phép tiếp tục làm việc đó. Cơ quan liên bang về hợp tác kỹ thuật quân sự đã thông báo việc này cho Rosoboronoexport.

NPO Mashinostroenia cho đến năm 2007 đã từng xuất khẩu độc lập một số mẫu sản phẩm quân dụng nên có đủ kinh nghiệm. Năm 2007, thị trường xuất khẩu vũ khí Nga đã hình thành rõ ràng và toàn quyền bán sản phẩm quân dụng thành phẩm chuyển sang tay một công ty nhà nước là Rosoboronoexport đóng vai trò nhà trung gian cung cấp vũ khí.

Quy chế chủ thể hợp tác kỹ thuật quân sự không trao quyền xuất khẩu thành phẩm, song cho phép cung cấp cho khách hàng nước ngoài phụ tùng, các tổng thành, bộ phận hay dịch vụ hiện đại hóa và bảo dưỡng.

Hiện nay, có quy chế chủ thể hợp tác kỹ thuật quân sự là Rosoboronoexport (công ty trung gian quốc doanh), Rostechnologyy (hoạt động marketing) và 21 hãng phát triển và sản xuất hàng quân sự. Trong đó, chỉ có Rosoboronoexport có quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng quân sự, trước hết là thành phẩm. Các hãng còn lại chỉ có thể xuất khẩu phụ tùng, các tổng thành, tài liệu, cũng như dịch vụ bảo dưỡng hậu mãi cho các vũ khí trang bị đã cung cấp trước đó.

Ngoài Rosoboronoexport, hiện chỉ có 2 công ty có quyền bán sản phẩm thành phẩm ra nước ngoài - đó là hãng đóng tàu Zvezdochka ở Severidvinsk và Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg. Hai hãng này nằm trong Tập đoàn Đóng tàu thống nhất OSK. Tháng 11.2010, Admiralteiskye Verfi công bố chiến lược phát triển của mình, trong đó đề xuất trao cho họ “quy chế chủ thể hợp tác kỹ thuật quân sự”. Quy chế này sẽ trao cho tập đoàn toàn quyền độc lập cung cấp sản phẩm của mình ra thị trường thế giới mà không cần sự trợ giúp của Rosoboronoexport.

Hiện nay, Rosoboronoexport kiểm soát phần lớn hoạt động xuất khẩu quân sự của Nga. Năm 2010, Nga đã bán ra nước ngoài 10 tỷ USD vũ khí trang bị, trong đó có 8,6 theo kênh Rosoboronoexport. Trong khi đó, năm 2009, các chỉ số này tương ứng là 8,8 và 7,4 tỷ USD. Tính đến đầu năm 2011, khối lượng đơn đặt hàng của Rosoboronoexport là 38 tỷ USD.

Có ý kiến cho rằng, nếu hợp đồng bán trực tiếp Bastion cho Việt Nam sẽ được ký kết, thì đây là đòn đau đầu tiên vào sự độc quyền của Rosoboronoexport, nhà xuất khẩu sản phẩm quân sự thành phẩm duy nhất của Nga.

Tuy nhiên, chuyên gia Konstantin Makienko, thuộc Trung tâm Phân tích chiến lược và công nghệ (TsAST, Nga) thì cho rằng, tổn thất tài chính của Rosoboronoexport do NPO Mashinostroenie độc lập xuất khẩu vũ khí là không lớn. “Nhiều lắm là bằng số hợp đồng mà NPO có thể ký được, trung bình cung cấp 1 hệ thống/năm.

Hệ thống này rất mạnh, rất đắt và rất nhạy cảm về chính trị. Ở phân khúc này, thị trường chắc chắn sẽ tập trung vào hệ thống thay thế khác là Bal-E. Vì thế, Rosoboronoexport có thể có biện pháp đối phó đối xứng là bắt đầu tiếp thị hệ thống dễ bán hơn nhiều là Bal-E. Năm 2010, trong khuôn khổ các hợp đồng mà Rosoboronoexport đã ký trước đó, Nga đã cung cấp cho Việt Nam 1 hệ thống Bastion có giá 150 triệu USD.

Còn theo ý kiến của ủy viên Hội đồng Xã hội thuộc Bộ Quốc phòng Nga, ông Ruslan Pukhov thì tổn thất lớn hơn nhiều là tổn thất về hình ảnh của Rosoboronoexport.

>> Falcon HTV-2 mất tích sau khi phóng thử



Vào ngày 11/8 vừa rồi, Cơ quan nghiên cứu công nghệ cao của Bộ Quốc phòng Mỹ (DARPA) đã phóng thử lần thứ hai thiết bị bay siêu thanh Falcon HTV-2


http://nghiadx.blogspot.com

Thiết bị bay siêu thanh Falcon HTV-2 có khả năng bay với tốc độ gấp 20 lần tốc độ âm thanh.


Thiết bị này được biết có khả năng bay với vận tốc tới gần 21.000 km/h , tức tương đương với 20 lần tốc độ âm thanh trong bầu khí quyển. Với tốc độ này, Falcon HTV-2 có thể bay từ New York tới Los Angeles trong vòng 12 phút.

Mọi việc tưởng như suôn sẻ cho đến khi chiếc máy bay chuyển sang pha lượn trong bầu khí quyển, ngay lúc đó, trung tâm điều khiển đã mất toàn bộ liên lạc với thiết bị.

Theo thông tin công bố của DARPA qua trang mạng xã hội Twitter, chiếc Falcon HTV-2 được phóng vào 8 giờ sáng (giờ địa phương) tại Căn cứ không quân Vandenberg tại California.

Giai đoạn ban đầu, HTV-2 sẽ được tên lửa đẩy Minotaur-IV đưa lên quỹ đạo gần một cách thành công. Sau đó, thiết bị sẽ tách khỏi tên lửa đẩy và sử dụng hệ thống điều khiển của mình để quay trở lại tầng khí quyển.

Sau giai đoạn này, thiết bị sẽ chuyển sang giai đoạn tự hành để kiểm soát vận tốc cũng như độ cao trong giai đoạn liệng.

Khi đã tiến sang giai đoạn liệng, chiếc HTV-2 sẽ được thử nghiệm các động tác thao diễn cũng như làm các bài kiểm tra khí động học của thiết bị. Sau giai đoạn này sẽ là giai đoạn cuối cùng, khi chiếc máy bay sẽ xoay và hạ cánh xuống biển.

Cũng qua Twitter, DARPA cho biết họ đã mất dấu HTV-2 khi thiết bị này bắt đầu đi vào giai đoạn liệng. Đoạn Tweet cuối cùng của DARPA cho biết “ không thể thu lại tín hiệu cũng như biết được thiết bị bay HTV-2 đang ở đâu”.

Tuy nhiên, theo DARPA, điều này không có nghĩa thử nghiệm thất bại hoàn toàn vì chiếc HTV-2 có cơ chế lái tự động khiến nó vẫn có thể gửi tín hiệu trở lại.


http://nghiadx.blogspot.com

Các giai đoạn trong quá trình bay của Falcon HTV-2

Trong chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của chiếc HTV-2, DARPA cũng mất tín hiệu của thiết bị 9 phút trước khi nó hạ cánh thành công xuống biển. Thử nghiệm lần một cho thấy thiết bị có thể bay với vận tốc 5,8 km/giây và vẫn duy trì tín hiệu GPS.

Hiện tại, các trạm quan trắc dọc bờ biển Thái Bình Dương vẫn chưa thu được tín hiệu của HTV-2 và thiết bị bay này vẫn trong tình trạng mất tích.

>> Hàn Quốc có thể mua công nghệ tàng hình của Mỹ



Công ty Lockheed Martin đã công bố ý đồ chuyển giao công nghệ tàng hình cho Hàn Quốc trong khuôn khổ của việc sản xuất máy bay đa mục đích F-35.


http://nghiadx.blogspot.com


Korea Times trích lời phó chủ tịch phát triển kinh doanh của Lockheed Martin, Stephen O'Brien, "các nhà sản xuất Mỹ có thể trở thành đối tác của Hàn quốc trong chương trình KF-X và mua F-35 sẽ cho phép Hàn Quốc tiếp cận với công nghệ tàng hình và sản xuất máy bay thế hệ thứ 5".

Ông O'Brien khẳng định rằng chính phủ Mỹ đã thông qua việc cho phép lắp ráp công đoạn cuối máy bay F-35 tại Nhật Bản. Về phần mình, công ty Lockheed Martin cũng công bố ý định cho phép các công ty của Nhật Bản sản xuất các linh kiện của máy bay.

Trước kia, quyết định như vậy đã được thực hiện đối với Italy, khi Roma có kế hoạch mua 130 máy bay F-35. Điều này sẽ tạo ra dây chuyền lắp ráp công đoạn cuối trên đất Italy. Các nhà máy ở nước này sẽ lắp ráp F-35 cung cấp cho Không quân Italy và Không quân Hà Lan.

Trong chiến lược, hiện đại hoá quân đội và đặc biệt là lực lượng không quân, Hàn Quốc hiện đang thực hiện chương trình quốc gia để phát triển máy bay chiến đấu đa chức năng có khả năng tàng hình KF-X và có kế hoạch mua sắm 60 máy bay trong khuôn khổ chương trình FX-3.

Hàn Quốc là một đồng minh lâu năm của Mỹ trong khu vực và có tiềm năng công nghiệp quốc phòng mạnh. Với lý do đó, khả năng xây dựng dây chuyền lắp ráp công đoạn cuối máy bay F-35 trên đất Hàn quốc rất khả thi. Tuy nhiên, Chính phủ Mỹ sẽ chính thức xem xét mức độ chuyển giao công nghệ chỉ sau khi Seoul đưa ra đề nghị trong khuôn khổ của chương trình FX-3.

Chương trình FX-3 của Hàn Quốc là để thay thế các máy bay đã lỗi thời F-4E và F-5E/F . Cơ quan mua sắm quốc phòng của Hàn Quốc (DAPA) công bố ý định mua máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ mới vào đầu năm sau và sẽ chọn một nhà cung cấp vào tháng 10/2012.

Theo ước tính của DAPA, chi phí dự án mua 60 máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 sẽ vào khoảng 8.290 tỷ won (7,86 tỷ USD). Dự kiến, danh tính hãng thắng thầu sẽ được công bố vào tháng năm 2012.

Danh sách các ứng cử viên gồm bốn công ty: Lockheed Martin với máy bay F-35 Lightning-2; Boeing với 15SE-F; Eurofighter với EF-2000. Ngoài ra, còn có còn có Su-T-50 của Sukhoi. Gần đây, Eurofighter thông báo, nếu thắng thầu, sẽ tổ chức lắp ráp EF-2000 tại Hàn Quốc.


>> Trấn an tinh thần bằng tên lửa Hùng Phong



Đài Loan đã khoe biến thể của tên lửa chống hạm Hùng Phong-III ngay sau khi Trung Quốc tiến hành thử nghiệm tàu sân bay.


http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa Hùng Phong-III được giới thiệu tại triển lãm TADTE, phía sau là pano quảng cáo tên lửa này đang đánh chìm một tàu sân bay (ảnh: CNA)


Trong khi dư luận trong và ngoài Trung Quốc đang dõi theo từng bước tiến triển của tàu sân bay Thi Lang. Sự kiện tàu sân bay Thi Lang rẽ những bước sóng đầu tiên bằng tàu kéo đánh dấu một cột mốc quan trong trọng lộ trình sở hữu tàu sân bay của Trung Quốc.

Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, hôm qua 10/8, Đài Loan cũng đã tổ chức một buổi giới thiệu khá hoành tráng về một tên lửa chống tàu mới tại Triển lãm công nghệ quốc phòng Đài Loan TADTE được tổ chức tại Đài Bắc.

Loại tên lửa mới được giới thiệu chính là một biến thể nâng cấp của tên lửa chống hạm Hùng Phong-III. Gian hàng trưng bày tên lửa Hùng Phong-III được bố trí ngay tại vị trí nổi bật nhất trong triển lãm.

Các phóng viên cũng như khách tham quan đã có được một cái nhìn đầy đủ nhất về tên lửa chống tàu mới này, ít nhất là hình dáng khí động học đầy đủ của tên lửa.


Tập trung đánh thủng đáy tàu

Hùng Phong-III là một tên lửa chống tàu siêu âm, có thể triển khai hoạt động trên nhiều phương tiện khác nhau. Có thể phóng từ các bệ phóng di động trên mặt đất, từ tàu khu trục. Tên lửa có tầm bắn tối đa là 300km.

Tên lửa được phát triển tại Viện khoa học công nghệ Trung Sơn (Chung Shan) CSIST, được khởi xướng từ năm 1995, bắt đầu sản xuất vào năm 2007, dự định chính thức đưa vào trang bị trong năm 2012.

Tên lửa này được giới thiệu là có công nghệ phát triển khá hiện đại, tên lửa sử dụng radar chủ động băng tần X cải tiến khả năng bắm bắt và xử lý mục tiêu. Thời gian phản ứng với mục tiêu nhanh hơn, khả năng kháng nhiễu tốt hơn so với biến thể Hùng Phong-II.

Tên lửa được trang bị đầu đạn nặng 225kg, với ngòi nổ thông minh, đầu đạn được thiết kế với lực nổ có định hướng. Theo đó, ngòi nổ thông minh sẽ kích hoạt đầu đạn và hướng toàn bộ sức mạnh của vụ nổ xuống phía dưới sau khi tên lửa đã xuyên thủng qua vỏ tàu.

Các nhà thiết kế của Đài Loan cho rằng, kiểu thiết kế này sẽ phát huy tối đa sức mạnh của đầu đạn, hướng vụ nổ để đánh thủng đáy tàu là cách nhanh nhất để nhấm chìm bất kỳ tàu chiến nào.

Sản xuất ít nhất 900 tên lửa Hùng Phong-III

Ban đầu tên lửa được thiết kế với tầm bắn tối đa là 300km, nhưng thực tế tên lửa chỉ đạt được tầm bắn tối đa là 130km, các nhà thiết kế đã phải giảm khối lượng của đầu đạn từ 225kg xuống còn 120kg để tăng tầm bắn.

Khi các phóng viên tham dự triển lãm đặt câu hỏi, có bao nhiêu tên lửa sẽ được sản xuất và triển khai trong thời gian tới. Ông Chiang Wu-ing, Phó giám đốc chương trình Hùng Phong tại CSIST đã từ chối xác nhận điều này. Tuy nhiên, theo một số nguồn tin không chính thức, Đài Loan sẽ sản xuất và đưa vào trang bị khoảng 900 tên lửa Hùng Phong-III.

Buổi giới thiệu trước công chúng khá hoành tráng này cũng úp mở cho thấy mục tiêu của chương trình phát triển tên lửa này không nằm ngoài mục đích đối trọng lại với sự xuất hiện của tàu sân bay Thi Lang được cải tạo lại từ tàu sân bay Varyag của Ukraine.

Nhìn nhận về sự phát triển của tên lửa chống hạm Hùng Phong-III, một số ý kiến tại Trung Quốc cho rằng, Hùng Phong-III sẽ là một “sát thủ” đối với tàu sân bay của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong các lần thử nghiệm thực tế, không ít lần tên lửa này bắn trượt mục tiêu.

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011

>> Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung: Lựa chọn nào cho nước Nga? (Phần 2)



Hợp tác kỹ thuật quân sự nối lại trong thập niên 1990 giữa Moskva và Bắc Kinh đã nhanh chóng không còn chỉ là “mua bán vũ khí” mà trở thành một thứ công cụ chiến lược.


http://nghiadx.blogspot.com
Nga phải loại trừ khả năng lọt vào tay Bắc Kinh các công nghệ “thiết yếu” của Nga,
kể cả công nghệ hiện có lẫn đang được nghiên cứu (Andrei Sedykh)


Với sự trợ giúp của nó, Nga đã bảo đảm thực hiện được khái niệm thế giới đa cực. Ngày nay, ta hiểu rằng, việc tiếp tục xích lại gần Trung Quốc sẽ chỉ dẫn tới sự trở lại của trạng thái hai cực trên thế giới, nhưng trong đó Nga không được dành cho vai trò một trong các cực đó.

Kỹ thuật hàng không, động cơ và trang thiết bị hàng không trong những năm 1990-2000 là mặt hàng chủ yếu trong hợp tác kỹ thuật quân sự Nga-Trung. Kém nổi bật hơn về mặt thông tin, song rất lớn là các hợp đồng bán cho Trung Quốc các hệ thống phòng không, cũng như tàu nổi và tàu ngầm. Trong khi đó, hầu như vắng bóng các hợp đồng trong lĩnh vực vũ khí lục quân - ở đây Bắc Kinh lựa chọn dựa vào sức mình và chỉ hạn chế ở việc mua và/hoặc nhập những bộ phận và tổng thành riêng lẻ quan trọng.

Việc sao chép, kể cả là công khai làm nhái trái phép, vẫn là sở trường cầm tay, là đặc điểm nổi bật của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc (cũng như một bộ phận đáng kể các ngành chế tạo máy dân sự Trung Quốc). Đồng thời, danh hiệu “kẻ cướp toàn cầu” đang ngày càng mâu thuẫn với các tham vọng địa-chính trị của Trung Quốc và những hy vọng chủ yếu vào tương lai của họ có liên hệ với việc phát triển độc lập, kể cả trong lĩnh vực sản xuất vũ khí trang bị.

Các đặc điểm Trung Quốc trên nền tảng Xô-viết

Việc nhập các giải pháp thành công nào đó ở nước ngoài và sau đó nhái lại có thể tìm thấy trong lịch sử bất kỳ quốc gia công nghiệp phát triển nào, nhưng “trường hợp Trung Quốc” có hàng loạt những đặc điểm buộc ta phải xem xét nó như một ví dụ riêng biệt với các ví dụ khác, chẳng hạn Liên Xô, mà Trung Quốc rất nhiều khi được so sánh với.

Nét chủ yếu xác định cách tiếp cận đối với việc nhập công nghệ ở Liên Xô, cũng như ở đế quốc Nga trước đây là sao chép các trường phái. Được tái lập hay du nhập từ nước ngoài là các dây chuyền công nghệ trọn vẹn làm việc để sản xuất ra một mẫu sản phẩm cụ thể (mà nhiều khi là cả một họ sản phẩm) kỹ thuật, và đồng thời là còn cả nhiều sản phẩm hữu ích kèm theo nữa. Ở nước ngoài hay tại chỗ, dưới sự lãnh đạo của các chuyên gia nước ngoài, người ta tiến hành đào tạo các cán bộ có khả năng không chỉ triển khai sản xuất các trang bị kỹ thuật tương ứng, mà cả đào tạo ra nhân lực thay thế của mình.

Sau khi tái tạo thành công mẫu sản phẩm nước ngoài, hệ thống bắt đầu tự phát triển. Điều đó một mặt là bảo đảm sự độc lập công nghệ của đất nước trong một lĩnh vực cụ thể, mặt khác là tạo ra khả năng nhập tiếp các giải pháp kỹ thuật thành công mà không phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống, vì cơ sở cần thiết dã có. Sau đó, nhờ việc tập trung nguồn lực và nỗ lực ở một lĩnh vực nào đó, Liên Xô/Nga thường chế tạo được những mẫu vũ khí trang bị hoàn thiện, không thua kém, thậm chí vượt trội các thương hiệu thế giới. Với các ngành dân sự thì tình hình đáng buồn hơn, nhưng ở đây không đề cập đến việc đó.

Cách tiếp cận tương tự là không tránh khỏi đối với cả Trung Quốc, nhất là khi xét đến việc Liên Xô là nước đã khởi đầu việc công nghiệp hóa Trung Quốc trên thực tế vào cuối những năm 1940-đầu những năm 1950 khi mang đến hình thái phát triển kỹ thuật của mình. Trong thập niên 1950, Trung Quốc đã nhận được cả một nền công nghiệp quốc phòng trọn vẹn, như chìa khóa trao tay: ở Trung Quốc đã ra đời hàng chục nhà máy, công xưởng liên kết thành các dây chuyền sản xuất tạo ra ngay sản phẩm cuối cùng: từ khẩu súng AK cho đến máy bay tiêm kích MiG-17. Tuy vậy, sau khi đổ vỡ quan hệ với Liên Xô vào nửa đầu thập niên 1960, “cái cây” công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đã không ra “quả”. Tình trạng buồn thảm của không quân Trung Quốc sau khi cãi vã với Moskva đã được nêu trong phần 1 bài báo này cũng giống như những khó khăn hiện nay trong việc sao chép các mẫu vũ khí trang bị của Liên Xô và phương Tây thời những năm 1980-1990. Lúc này chúng ta quan tâm đến những nguyên nhân khiến Trung Quốc thất bại trong việc du nhập kỹ thuật.

Để hiểu được các nguyên nhân đó, cần một lần nữa trở lại với kinh nghiệm phát triển công nghiệp của Liên Xô/Nga. Khác biệt chính của Nga đối với Trung Quốc là thực tế mặc dù có sự tụt hậu ở những ngành ứng dụng nào đó, Nga từ thời Piotr Đại đế đã dành sự chú ý sát sao nhất cho tình trạng khoa học cơ bản và kỹ thuật cơ bản. Không sự du nhập giải pháp kỹ thuật nước ngoài nào và thậm chí mua sắm các dây chuyển sản xuất có thể đi quá việc sao chép các sản phẩm sơ khai nếu như trong nước không có một trường phái khoa học có khả năng hiểu được các giải pháp này, “tiêu hóa” và biến thành tiềm lực của mình.

Chính sự phát triển của khoa học cơ bản đã bảo đảm cho sự đột phá công nghệ ấn tượng của Liên Xô, cho phép Liên Xô trở thành quốc gia sở hữu lá chắn tên lửa hạt nhân, thực hiện chuyến bay vào vũ trụ, thiết kế và phóng lên vệ tinh duy nhất của trái đất là mặt trăng phương tiện tự hành mặt trăng. Không có một nền tảng hùng mạnh được xây dựng từ lâu trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, được củng cố và mở rộng dưới thời Liên Xô sẽ không thể nghĩ đến cuộc tranh đua nhiều năm với Mỹ, quốc gia dẫn đầu khoa học công nghệ đương nhiên của cả thế giới trong thời chiến tranh lạnh. Trên nền tảng tuy cũ nát và rời rã đó, công nghiệp quốc phòng Nga vẫn trụ lại đến nay.

Ở Trung Quốc, có những khó khăn mà đơn giản là tại thời điểm thành lập CHND Trung Hoa năm 1949, khoa học cơ bản không tồn tại. Vào giữa thế kỷ XX, trong khi sẵn lòng đào tạo các kỹ sư và kỹ thuật viên tương lai các ngành ứng dụng của Trung Quốc, Liên Xô đã né tránh giúp đỡ Trung Quốc đào tạo các nhà khoa học có khả năng xây dựng trường phái khoa học riêng. Sau khi đổ vỡ quan hệ với Moskva, tình hình ở Trung Quốc thêm trầm trọng bởi những sai lầm của chính sách đối nội như phong trào đại nhảy vọt, đại cách mạng văn hóa và hậu quả của những thử nghiệm to lớn này của Mao ở dạng nạn đói hàng loạt và những cuộc thanh trừng rộng khắp, vượt xa những “thành tựu” đáng buồn của Liên Xô trong thập niên 1920-1930. Tất cả những cái đó không hề trợ giúp cho sự hưng thịnh của khoa học và các thành tựu kỹ thuật. Nhiều nhà khoa học bị thanh trừng, từ phải đi làm những công việc chân tay cưỡng bức cho đến xử tử, lúc thì theo bản án của tòa, khi thì theo “ý muốn” của đám hồng vệ binh điên rồ.

Không biết công nghiệp quốc phòng và công nghiệp Trung Quốc có thể đạt được gì nếu không có những rối loạn ấy, nhưng chính thời kỳ Mao đã định hình những nét chính của ngành chế tạo máy Trung Quốc, kể cả lĩnh vực chế tạo máy quân sự. Các đặc điểm điển hình của nó là:

1. Sự thiếu vắng trường phái công nghiệp phát triển kỹ thuật, đại đa số các sản phẩm là hàng nhái các mẫu của nước ngoài ở thế hệ 1, tối đa là thế hệ 2. Các nỗ lực tự phát triển kỹ thuật có độ phức tạp lớn thường kết thúc thất bại. Ví dụ như chương trình chế tạo máy bay ném bom chiến thuật JH-7, tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đường đạn lớp Hạ và nhiều chương trình khác.

2. Sự lạc hậu so với các sản phẩm cùng loại của các nước tiên tiến chính là về những thông số vốn phụ thuộc trước hết vào sự phát triển của khoa học cơ bản. Việc vượt qua sự lạc hậu đó không thể thực hiện bằng một cú nhảy vọt, kể cả khi có đầu tư cực lớn, chẳng hạn như lĩnh vực chế tạo động cơ. Tuy nhiên, họ có thể giải quyết nhiệm vụ chiến thuật cụ thể, từ chế tạo tiêm kích hay tàu ngầm làm nhái cho đến bay lên quỹ đạo.

3. Luôn cần có sự “hà hơi tiếp sức” từ bên ngoài. Việc duy trì trình độ công nghệ đạt được ở mẫu sao chép cụ thể tự thân nó không bảo đảm sự phát triển tiếp theo, bởi vì để làm thế cần phải liên tục du nhập các hệ thống ngày càng mới. Ví dụ, sau khi sản xuất được động cơ máy bay WS-10 trên cơ sở động cơ AL-31F nhận được vào đầu thập kỷ 1990, Trung Quốc đã không giải quyết được vấn đề xây dựng ngành chế tạo động cơ turbine phản lực hiện đại và lại cần sự sao chép mới, vì thế mà họ rất quan tâm đến động cơ “Izdelie 117” mới đây được Nga đưa vào sản xuất loạt cho tiêm kích Su-35 và Т-50.

Cuộc chạy đua trường kỳ vì tiến bộ

Không thể nói là ban lãnh đạo Trung Quốc không hiểu các khó khăn mà công nghiệp Trung Quốc đang đối mặt. Nên để đánh giá triển vọng công nghệ quân sự của Trung Quốcс, cần phải chú ý đến sự tăng trưởng đột biến của tiềm lực khoa học cơ bản của Trung Quốc trong thập niên gần đây. Một trong những dấu hiệu căn bản của sự tăng trưởng này là sự gia tăng số lượng bài báo khoa học mà tác giả là các nhà khoa học Trung Quốc ở các lĩnh vực tri thức rất khác nhau, được ghi nhận chẳng hạn bởi hệ thống SCOPUS (cơ sở dữ liệu lớn nhất về thư mục, tóm tắt và là công cụ giám sát các bài báo được trích dẫn đăng tải trên các ấn phẩm khoa học).

Nếu xu hướng này tiếp diễn liên tục trong mấy chục năm tới thì trước hết, sự tụt hậu của Trung Quốc ở các bộ môn khoa học cơ bản sẽ được khắc phục và hai là điều kiện để Trung Quốc tự lực phát triển khoa học kỹ thuật sẽ được bảo đảm.

Tuy vậy, tự thân sự tồn tại của các điều kiện đó không phải là sự bảo đảm cho thành công. Điều không kém phần quan trọng là sự tồn tại của một hệ thống hiệu quả áp dụng các thành tựu của các nhà khoa học và công trình sư Trung Quốc vào sản xuất, điều này đặc biệt khó khăn nếu xét đến truyền thống du nhập, sao chép lâu nay. Không phải ngẫu nhiên mà ban lãnh đạo Trung Quốc đã thông qua chương trình hoàn thiện nền kinh tế, trong đó có đặt ra mục tiêu tăng tỷ trọng các nghiên cứu tự lực sử dụng trong ngành công nghiệp từ mức 5% hiện nay lên đến 25-30% trong 30 năm tới.

Hai trong một

Chính vai trò đó của Trung Quốc vào giữa thế kỷ XXI được nhiều nhà dự báo, tác giả các kịch bản địa-chính trị ham sáng tác hiện nay nêu ra. Có thể nói gì ở đây?

Nếu nhân loại phát triển bình thường, không có những thảm họa địa-chính trị lớn lao cỡ Thế chiến I và II, con rồng đỏ vào những năm 2050 sẽ leo lên được những vị thế tương xứng, chuyển từ một quốc gia chuyên tiếp nhận công nghệ hiện đại thành quốc gia đóng góp công nghệ hiện đại. Một phần vai trò này Trung Quốc ngay lúc này đã có đối với nhiều nước thế giới thứ ba, tuy nhiên ở đây là chúng ta đã nói về những khả năng và kết quả hoàn toàn khác.

Nhưng đồng thời cũng có những lý do lớn để nghi ngờ. Vấn đề là ở chỗ, bản thân vai trò đó của Trung Quốc trong tương lai tất yếu kích phát những thay đổi địa-chính trị nghiêm trọng nhất, chỉ có thể so sánh với những thảm họa nêu trên của thế kỷ trước. Bắc Kinh khi đó sẽ hợp nhất một cách kỳ quặc hai vai trò: một mặt là vai trò của một nước Đức đế chế phong kiến từng mưu toan tranh giành quyền bá chủ địa-chính trị của văn minh Anglo-Saxon trong một cuộc ganh đua hòa bình (ban đầu), và mặt khác là vai trò của nước Mỹ hiện nay. Tuy bị ràng buộc với Mỹ bằng các quan hệ kinh tế chặt chẽ nhất, Trung Quốc về kinh tế có khả năng đóng vai trò của chính nước Mỹ đối với đế quốc Anh, khi Mỹ kế thừa từ Mỹ vai trò quốc gia dẫn đầu kinh tế toàn cầu.

Nhưng sự kế thừa đó trong thế kỷ XX là có thể chỉ nhờ sự đồng thuận có được của giới tinh hoa chính trị-tài chính thế giới và được tạo điều kiện nhờ việc Mỹ thuộc về nền văn minh Anglo-Saxon. Sự chuyển giao tương tự về quyền lãnh đạo đối với một cường quốc có nền văn minh xa lạ với nước Mỹ hơn Liên Xô đương thời, xem ra là cực kỳ khó khả năng xảy ra. Ngay hiện nay, khi quan sát cách hành xử của Nhà Trắng, có thể kết luận rằng, dưới tất cả các đời tổng thống, Washington vẫn tiến hành nhất quán chính sách hạn chế sự phát triển của Trung Quốc, bằng cách cố gắng “tách” Bắc Kinh khỏi những nguồn lực và phong tỏa quan hệ của Trung Quốc với những đối tác mạnh nhất (và những đồng minh tiềm năng). Đồng thời, hai bên ráo riết xâm nhập vào sân sau của đối thủ. Ví dụ, Trung Quốc nhất quán mở rộng ảnh hưởng của mình ở Mỹ Latinh, còn Mỹ ráo riết xích lại gần địch thủ địa-chính trị truyền kiếp của Bắc Kinh khi tăng cường hợp tác với Dehli …

Câu đố đối với Moskva

Trong bối cảnh đó, có hai câu hỏi đặt ra với nước Nga: câu hỏi chiến thuật là làm thế nào đối phó với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ phía Trung Quốc trên các thị trường vũ khí thế giới; và câu hỏi chiến lược phải lựa chọn thế nào trong cuộc chạy đua địa-chính trị đang khai diễn?

Hiện thời, ban lãnh đạo Nga rõ ràng là chưa có sự lựa chọn: một mặt, việc tái khởi động quan hệ với Washington, mở rộng và củng cố quan hệ với NATO là một trong những ưu tiên của chính sách đối ngoại Nga, mặt khác, quan hệ đối tác với Trung Quốc trong khuôn khổ Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, cũng như các tiếp xúc song phương cũng không kém phần quan trọng đối với Moskva.

Đồng thời, có thể hoàn toàn chắc chắn khi nói rằng, trong trường hợp “cả hai đều xấu đi”: cả lựa chọn “Bắc Đại Tây Dương” (Mỹ, NATO) và lựa chọn “Viễn Đông” (Trung Quốc), thì Nga trong tương lai có nguy cơ hứng chịu cả đống vấn đề nghiêm trọng.

Lựa chọn thứ nhất có nghĩa là khả năng đối đầu quân sự gần như chắc chắn với Trung Quốc và không loại trừ là chiến tranh, trong đó Nga sẽ được dành cho vai trò bất lợi của một kẻ đi đầu chịu báng địa-chính trị. Thậm chí nếu giả định rằng, dựa vào ưu thế áp đảo về tiềm lực tên lửa hạt nhân (có những lý do có sức nặng để giả định Nga giữ được ưu thế này), Nga sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh này, thì những tổn thất gánh chịu kể cả về người và vật chất cũng sẽ là không thể chấp nhận, đe dọa làm suy thoái chưa từng có đối với nước Nga vốn chưa bình phục sau những chấn động của thế kỷ XX.

Lựa chọn “con đường Trung Quốc” có nghĩa là biến Nga trở thành đối tác đàn em của Bắc Kinh, mất đi vị thế đang giữ được trên thế giới và trong phương án tồi tệ nhất cũng là nguy cơ chiến tranh, nhưng ở đây địch thủ của Nga đã là Mỹ và NATO, mà cuộc chiến tranh đó đã không còn là nguy cơ gây ra suy thoái mà là hủy diệt, tuy là hủy diệt lẫn nhau.

Kết luận từ những điều trình bày ở trên chỉ có thể có một: để giữ vững sự độc lập của mình, Nga trong bất cứ trường hợp nào cũng không được là thành viên của bất kỳ liên minh chiến lược nào mà quốc gia lãnh đạo không phải là chính nước Nga. Về mặt chiến thuật, Nga cần hạn chế tối đa hợp tác kỹ thuật quân sự với Bắc Kinh vì cả những lý do kinh tế lẫn địa-chính trị.

Trong thập niên 1990, khi mà sự hợp tác đó đã là một trong những nhân tố chủ yếu giúp công nghiệp quốc phòng Nga sống sót, thì sự hợp tác ấy dù là không xác đáng, nhưng còn hiểu được. Việc Moskva không có một chính sách rõ ràng (nếu như không kể chính sách “tư nhân hóa” mang tính hủy hoại mà hậu quả của nó đến nay vẫn đang phải khắc phục), ngành công nghiệp quốc phòng Nga đã tồn tại trong hoàn cảnh “khôn sống, mống chết”, “tự lo lấy thân”.

Ngày nay, khi mà đơn đặt hàng nhà nước tăng hết năm này đến năm khác, còn Trung Quốc từ lâu đã không còn là nước nhập khẩu có tầm quan trọng chiến lược vũ khí Nga, thì cần phải loại trừ chính khả năng lọt vào tay Bắc Kinh các công nghệ “thiết yếu” của Nga, kể cả công nghệ hiện có lẫn đang được nghiên cứu. Đồng thời, có thể bác bỏ ngay những ý kiến phản đối dạng “chúng ta không bán thì người khác cũng sẽ bán” - những kẻ có thể là nguồn tiếp máu công nghệ đối với Trung Quốc ngày nay ngoài Nga chỉ có thể là Mỹ, Eu và phần nào là Nhật Bản (bản thân Nhật cũng đang chịu cảnh “thiếu hụt công nghệ” rõ ràng, nhất là trong lĩnh vực quân sự). Nhưng chính sách của Mỹ và EU (đúng hơn là NATO) về mặt này đã xác định, còn sự hợp tác Trung-Nhật là không thể tưởng tượng trong thực tiễn địa-chính trị hiện nay.

Hãy cứ để Trung Quốc tự bò lên đỉnh cao công nghệ quân sự và phương Tây cũng phải tự lực giải quyết vấn đề Trung Quốc trở nên quá mạnh. Nước Nga, phải nhớ lại châm ngôn cổ của Trung Quốc, nên là “một con khỉ sáng suốt” để mà tọa sơn quan hổ đấu. Năm 1914, Nga đã không thể giữ lập trường đó khi chỉ là một đối tác đàn em trong khối hiệp ước Nga-Anh-Pháp ra đời thời trước Thế chiến I.

Ngày nay, chúng ta với tất cả những khó khăn lại có không gian rộng lớn hơn cho cuộc chơi độc lập và điều chủ yếu là Nga có sự bảo đảm chắc chắn cho sự độc lập đó - đó chính là lực lượng hạt nhân chiến lược.

>> 3 con át chủ bài trong canh bạc cuối của Gaddafi



Dưới 3 sức ép lớn – các cuộc không kích của NATO, các cuộc tấn công của phe nổi dậy và lệnh bắt giữ của Tòa án Hình sự quốc tế, Gaddafi vẫn không khuất phục. Để giữ được sự bình tĩnh đó, hẳn trong tay nhà lãnh đạo Libya còn có “át chủ bài”.


http://nghiadx.blogspot.com

Hàng vạn dân chúng thủ đô Tripoli biểu tình ủng hộ Gaddafi


Gần đây, sau khi Pháp cung cấp vũ khí cho phiến quân Libya, Gaddafi đã đưa ra lời đe dọa sẽ tấn công Châu Âu nhằm trả thù các hành động của NATO tại Libya. Thế giới đều nghi ngờ về khả năng này hoặc quyết tâm thực hiện khả năng này của Gaddafi.

Tuy nhiên, điều không thể nghi ngờ là bài phát biểu này ít nhất cho thấy ý chí của Gaddafi không hề thay đổi. Dưới ba sức ép lớn – các cuộc không kích của NATO, các cuộc tấn công của phe nổi dậy và lệnh bắt giữ của Tòa án Hình sự quốc tế, Gaddafi vẫn cứng đầu không khuất phục, có lẽ vì tin rằng trong tay mình còn có “át chủ bài”.

Át chủ bài lòng dân

Bất chấp phiến quân tại miền đông gọi Gaddafi là “đồ tể”, bất chấp quân đội chính phủ đánh chết người biểu tình tại tỉnh Benghazi là chuyện có thật; xuất phát từ yêu cầu thống trị, Gaddafi vẫn “ban” những ân huệ cho những bộ lạc trung thành và tin tưởng rằng có thể nhận được sự “báo đáp” từ những bộ lạc này.

Điều này có thể được kiểm chứng từ 2 phương diện: thứ nhất, khi NATO bắt đầu triển khai các cuộc không kích, Gaddafi đã phát vũ khí cho người dân tại thủ đô Tripoli mà không hề e sợ rằng dân chúng có thể lật đổ ông bằng chính những vũ khí này; thứ hai, mấy tháng nay, hàng vạn dân Tripoli không ngừng biểu tình ủng hộ Gaddafi.


Đối với một quốc gia dân số chỉ trên 6 triệu người thì sự ủng hộ này đủ khiến Gaddafi đắc ý. Người ta có lí do để phản biện rằng đây chỉ là sự thao túng của nhà độc tài đối với dân chúng; tuy nhiên, vấn đề ở chỗ: Tại sao cũng là nhà độc tài nhưng Mubarak lại không có bản lĩnh này?

Át chủ bài quân sự

Hồi đầu tháng, chỉ huy hành động của NATO tại Libya, Trung tướng Canada Charles Bouchard tuyên bố: "Chúng tôi đã tiêu diệt quân lực của Gaddafi trên diện rộng; hiện nay, Gaddafi đã không còn khả năng tấn công”.

Hiện nay, tình hình quân sự có thể chứng thực vế sau trong lời phát biểu của tướng Bouchard, còn về tiêu diệt quân lực của lãnh đạo Gaddafi trên diện rộng như thế nào thì không ai có thể nói rõ.

Còn nhớ trong hành động không kích của NATO đối với Nam Tư năm 1999, cường độ không kích mạnh hơn rất nhiều so với hiện nay; khi đó, NATO tuyên bố quân đội Nam Tư bị tổn thương nghiêm trọng. Tuy nhiên, sau khi các cuộc không kích kết thúc, quân đội Nam Tư gần như hoàn hảo không hề bị thương tổn xuất hiện chỉnh tề trên đường phố đã khiến truyền thông phương Tây kinh ngạc: “Đây nào phải đoàn quân bại trận, rõ ràng là quân đội khải hoàn”.


http://nghiadx.blogspot.com

Trung tướng Charles Bouchard: "Gaddafi đã không còn khả năng tấn công".


Cũng chính tướng Bouchard thừa nhận rằng: “Quân đội chính phủ Libya đang áp dụng chiến thuật quân đội trà trộn vào nhân dân, gây khó khăn cho hành động tấn công của NATO”. Đoạn phim tướng Bouchard cho phóng viên đài BBC xem cho thấy, một dàn phóng tên lửa gồm nhiều ống phóng được đưa vào nhà ở của dân, nữ chủ nhân của ngôi nhà này và những đứa con phơi quần áo trên dàn phóng tên lửa này.

Phương pháp phòng ngự này đang khiến quân đội NATO hết sức lúng túng.

Ngoài ra, sức mạnh quân đội được phản ánh từ tinh thần binh sĩ. Mặc dù sau các cuộc không kích của NATO, liên tục xuất hiện hiện tượng quan chức Libya đào tẩu, trong đó bao gồm cả quan chức quân đội chính phủ, nhưng hiện tượng chia rẽ trong nội bộ quân đội chính phủ đến nay vẫn chưa hề xảy ra. Điều này nói rõ sĩ khí quân đội chính phủ vẫn còn.

Đội quân vẫn còn sức mạnh, chưa mất sĩ khí tất nhiên khiến Gaddafi cảm thấy bản thân còn sức mạnh.

Át chủ bài tuyên truyền

Mấy ngày trước, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Nga, con trai Gaddafi Saif đã lên án: "Phương Tây can thiệp vào công việc nội bộ Libya, mục đích chính là khống chế và cướp dầu mỏ và những nguồn tài nguyên khác của đất nước này".

Mặc dù những lời cáo buộc như thế này không hề mới, nhưng lại có thể gây cộng hưởng trong thế giới Ả rập. Cách đây không lâu, trang web Đài truyền hình Ả rập có đăng bài viết nhận định: Những năm gần đây, thái độ của các quốc gia phương Tây như Anh, Pháp đối với Gaddafi thay đổi nhanh chóng, từ tôn lên thượng khách đến dồn vào chỗ chết; bởi họ đã để ý đến hai “món hời” từ Libya là lượng dầu mỏ dữ trữ chất lượng cao gần 45 tỉ thùng và vốn đầu tư gần 100 tỉ USD.


http://nghiadx.blogspot.com

Con trai Gaddafi Saif: "Mục đích chính của phương Tây là khống chế và cướp dầu mỏ và những nguồn tài nguyên khác của Libya".


Bài viết còn chỉ ra: “Sự tàn bạo của Gaddafi không phải bây giờ mới bắt đầu. Năm 1996, khi trấn áp bạo loạn tại một nhà tù ở Tripoli, Gaddafi hạ lệnh giết gần 1200 người; nhưng tại sao khi đó phương Tây không có phản ứng?”

Tháng 3 năm nay, trả lời phỏng vấn của đài BBC, trí thức cánh tả Mỹ Noam Chomsky tiết lộ: hồi tháng 9 năm ngoái, khu vực Tây Sahara tại bờ biển phía tây Bắc Phi nổ ra cuộc biểu tình của dân chúng, quân đội Morocco chiếm đóng khu vực này 30 năm trước đã trấn áp hết sức tàn bạo đối với quần chúng biểu tình; sau đó, sự kiện này lên đến Liên Hợp Quốc, các bên liên quan yêu cầu điều tra nhưng lại bị Pháp lờ đi; bởi Pháp là nước bảo hộ chủ yếu của Morocco.

Như vậy, mặc dù bản thân Gaddafi không phải vẻ vang gì; nhưng việc vạch trần bản chất quan tâm đến lợi ích hơn là chính nghĩa, tự cho mình quyền hô mưa gọi gió của ông này với một số nước lớn, vô hình trung đã kéo các nước trong liên minh phương Tây đang ở trên cao xuống đất trũng, khiến các quốc gia này không thể không cân nhắc trong hành động của mình.

Xét cho cùng, ở nhiều khía cạnh, đó cũng là bài học chung của các nước lớn khi định dùng sức mạnh quân sự để áp đặt các nước nhỏ.

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

>> UAE có thể mua 63 chiếc Rafale



Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) có thể ký hợp đồng mua máy bay chiến đấu Rafale trong năm 2011.


http://nghiadx.blogspot.com

Chiến đấu cơ đa năng Rafale.


Các cuộc đàm phán đã được nối lại giữa UAE và công ty Dassault Aviation của Pháp về việc bán 63 máy bay chiến đấu Rafale. Dự kiến, thỏa thuận này có thể được ký kết trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 12/2011.

Trong đàm phán, có cả chương trình bán tên lửa tầm xa không đối không lớp Meteor, đang được phát triển bởi nhiều công ty, dẫn đầu là Tập đoàn Vũ trụ và Phòng không Châu Âu (MBDA) mà mới đây đã tiến đến giai đoạn thử nghiệm cuối cùng. (>> chi tiết)

Tháng 7/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Gerard Longuet cho biết UAE được coi là ứng cử viên chính để cung cấp máy bay chiến đấu Rafale.

Việc Rafale tham chiến ở Libya cho phép các nhà lãnh đạo của UAE đánh giá được khả năng chiến đấu của loại máy bay này.

Pháp và UAE đã đàm phán để cung cấp 60 máy bay chiến đấu Rafale từ năm 2008 nhằm thay thế cho các máy bay Mirage-2000-9 được mua từ năm 1983.

Rafale là một máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ, cánh tam giác, hai động cơ rất nhanh nhẹn của Pháp, với trọng lượng cất cánh tối đa lên đến 24,5 tấn, tốc độ tối đa 2.250 km/giờ, tầm hoạt động 1.800 km, trần bay 18 km, trang bị hệ thống điện tử hiện đại.

Rafale có thể trang bị 8 tấn vũ khí gồm các tên lửa không đối không hiện đại như MBDA Meteor hay Magic II, cũng như các tên lửa không đối đất AASM hay AM 39 Exocet.

Ban đầu, chi phí của hợp đồng ước tính khoảng 10 tỷ euro, nhưng theo thông tin không chính thức, hiện nay giảm xuống còn 7 tỷ euro.

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang