Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: asean

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn asean. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn asean. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

>>Tuyên bố Jakarta: Đường lưỡi bò không phù hợp



Hội thảo quốc tế "Triển vọng hợp tác, những vấn đề hội tụ và động lực ở Biển Đông" tại Jakarta (Indonesia) kết thúc chiều 31/5 đã ra Tuyên bố Jakarta.

Tuyên bố Jakarta nhấn mạnh các đại biểu tham dự hội thảo cho rằng duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông là cần thiết cho toàn bộ khu vực, vì lợi ích chung của các nước ven biển và các nước liên quan.

Các đại biểu nhất trí Biển Đông là vấn đề đa phương, từ việc duy trì hòa bình, ổn định cho đến đảm bảo tự do đi lại trên biển và triển khai Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã được Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc ký tháng 10/2002.

Tuyên bố khẳng định việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải với "Đường 9 điểm" trên bản đồ (đường lưỡi bò) chiếm tới 80% diện tích Biển Đông là không phù hợp và đã bị cộng đồng quốc tế chỉ trích.

Tuyên bố cho rằng các bên liên quan cần duy trì cam kết giải quyết tranh chấp lãnh thổ và pháp lý ở Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, tăng cường các nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an toàn biển, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm và hướng tới ký kết Bộ Quy tắc về ứng xử ở biển Đông (COC).

Tuyên bố cho rằng việc hướng tới ký COC là nỗ lực chung của cả ASEAN và Trung Quốc, thể hiện bước tiến tích cực hướng tới hòa bình và ổn định trong khu vực. Không chỉ các nước trong khu vực mà cả các cường quốc bên ngoài khu vực như Mỹ, Australia, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có vai trò hữu ích trong việc duy trì tình trạng hiện nay, cần tiếp tục ủng hộ DOC.

ASEAN và Trung Quốc cần tiếp tục triển khai các bước tích cực trong vấn đề DOC, đẩy nhanh nỗ lực hướng tới COC và Ban Thư ký ASEAN có thể có quyền hạn lớn hơn trong thực thi quá trình hòa bình để giải quyết các xung đột, ASEAN cần trung thành với nguyên tắc thống nhất, đoàn kết và nhất trí trong việc phối hợp và phát triển vị thế chung của khối trong đối thoại với các đối tác liên quan đến các vấn đề Biển Đông và bắt đầu thảo luận về COC.

Cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN và các nước đối tác (ADMM +) cần được xem là diễn đàn quan trọng thúc đẩy cam kết mang tính xây dựng giữa ASEAN và các đối tác trong các vấn đề chiến lược, quốc phòng và an ninh tác động đến khu vực.

Tại hội thảo, các học giả, chuyên gia trong nhiều lĩnh vực đến từ Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Philippines, Việt Nam, Australia,... đã trình bày 13 tham luận nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến Biển Đông được dư luận các nước trong khu vực và quốc tế quan tâm. Các diễn giả cũng trao đổi ý kiến, giải thích rõ hơn và trả lời các câu hỏi của các đại biểu.

Bế mạc hội thảo, ông A.B Mahapatra, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chiến lược châu Á của Ấn Độ, khẳng định việc giải quyết các tranh chấp, xây dựng lòng tin trong bối cảnh có những sự phụ thuộc toàn cầu và xung đột phức tạp hiện nay là đòi hỏi cấp thiết; theo tinh thần đó, việc xây dựng năng lực và lòng tin ở Biển Đông, cũng như thể chế hóa đối thoại về những vấn đề có khả năng gây bất đồng là sự hỗ trợ bổ sung cần thiết cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Ông Mahapatra cũng nhấn mạnh hai vấn đề quan tâm hàng đầu tại Biển Đông là xu hướng hiện đại hóa lực lượng vũ trang thông thường có thể làm gia tăng căng thẳng tại khu vực này. Ông cho rằng cần xây dựng một cơ chế chung cho việc khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông và việc sử dụng vũ lực để giải quyết các vấn đề là rất nguy hiểm.

Hội thảo do Trung tâm Habibie của Indonesia và Trung tâm nghiên cứu chiến lược châu Á (CASS) của Ấn Độ phối hợp tổ chức với sự tham dự của hơn 150 đại biểu.
[BDV news]


Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

>> Báo chí nước ngoài: "Trung Quốc ngày càng lấn lướt"



Việc tàu hải giám Trung Quốc ngang nhiên cắt cáp địa chấn tàu Bình Minh 02 ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khiến không chỉ chính quyền và người dân Việt Nam mạnh mẽ lên tiếng, mà báo chí quốc tế, đặc biệt là các nước trong khu vực cũng đặc biệt quan tâm.

Hãng tin AFP bình luận: "Việc Trung Quốc ngày càng lấn lướt trong việc giành quyền quyết định ở biển Đông đang làm gia tăng căng thẳng với các nước khác trong khu vực, cũng như với Mỹ."

Trong khi đó, BBC đưa tin: "Cuộc gây hấn mới nhất liên quan đến tàu hải giám Trung Quốc xảy ra ở 120 km ngoài khơi bờ biển phía Nam Trung Việt Nam, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 600km về phía Nam."



Tàu hải giám Trung Quốc


Hãng Reuters cũng xác nhận, vụ việc xảy ra trong khu vực lô 148, cách bờ biển Nam Trung Bộ của Việt Nam 80 hải lý tính từ thành phố biển Nha Trang (quy định về chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước Luật biển LHQ 1982 là 200 hải lý tính từ đường cơ sở - ND).
Cũng trên BBC, một nhà nghiên cứu chủ đề an ninh hàng hải khu vực, Th.S Iskander Rehman phân tích: "Sự kiện mới rồi dường như khá nhất quán với cách ứng xử gần đây của Trung Quốc tại các vùng Biển Đông và Đông Hải, theo đó Bắc Kinh thường sử dụng cả hai biện pháp là cưỡng ép về ngoại giao và ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định chủ quyền. Cách ứng xử này đã dẫn tới sự căng thẳng không chỉ với tàu Việt Nam mà cả các tàu của Mỹ, Nhật và Philippines.

Cần chú ý rằng cách tiếp cận của Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ trên biển không chỉ mạnh bạo hơn mà còn trở nên đa dạng hơn trước. Đụng độ trên biển mức độ nhỏ chỉ là một trong các biện pháp mà Bắc Kinh đang sử dụng nhằm củng cố chủ quyền trên các đảo đá và bãi cạn tại Biển Đông, vốn được cho là giàu khoáng sản.

Một biện pháp khác là phát tín hiệu quân sự như tổ chức tập trận và tăng cường tuần tra ngoài khơi gần các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là biện pháp chúng ta thấy được sử dụng ngày càng nhiều trong thời gian gần đây.



Cáp địa chấn tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám TQ cắt ngay trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam


Các hình thức khiêu khích này thường được thực hiện cùng điều mà các nhà phân tích chiến lược Trung Quốc gọi là 'chiến tranh pháp lý', tức người phát ngôn của chính phủ Trung Quốc mang một số điều đã được công nhận trong luật biển quốc tế ra công khai tranh cãi về khía cạnh pháp lý."

Tờ BangkokPost bình luận: "Tuần trước, Việt Nam phát hiện ra cáp địa chấn của một tàu thăm dò dầu khí đã bị cắt ở khu vực lô 148, ngay 120km ngoài khơi biển Nam Trung Bộ của Việt Nam, tức chỉ 1/5 so với khoảng cách từ Trung Quốc."

Tờ báo này nhấn mạnh: "Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã có những nỗ lực nhưng không mấy hiệu quả trong suốt 9 năm qua để đàm phán với Trung Quốc về vấn đề này, với mục đích đưa ra một bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông."
[VTC news]


Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

>> 'Phải làm thất bại mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền'



Đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại Quốc phòng Việt Nam được Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, khẳng định.


Trước thềm Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN lần thứ 5 (ADMM-5) tổ chức ngày 19/5 tại Jakarta (Indonesia), Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài viết gửi VnExpress, nêu rõ quan điểm, nội dung và chiến lược đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong thời gian tới.

Dưới đây là nội dung bài viết được trích đăng:

"Lần đầu tiên trong các kỳ đại hội của Đảng, Đại hội 11 đã đề cập trực tiếp đến công tác đối ngoại quốc phòng đó là: "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh".

Trên cơ sở định hướng quan trọng đó của Đảng, cần nhận thức sâu sắc về mục tiêu của hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục tiêu này chính là lợi ích quốc gia, dân tộc và phải được xem là thước đo hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại nói chung và nói riêng.

Để bảo vệ lợi ích quốc gia, công tác đối ngoại quốc phòng trước hết cần nắm vững và vận dụng quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu rõ trong Nghị quyết trung ương 8 (khoá 9) về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Từ quan điểm nêu trên, việc xác định đối tượng, đối tác để hợp tác và đấu tranh trong công tác đối ngoại quốc phòng phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí cơ bản.



Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Nguyễn Hưng.


Quan hệ quốc tế về quốc phòng nhằm đem lại và bảo vệ các lợi ích quốc gia về chính trị, ngoại giao, quốc phòng an ninh, khoa học - công nghệ, kinh tế... phục vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đó chính là lợi ích cơ bản của đất nước, và cũng là mục tiêu cơ bản của công tác đối ngoại quốc phòng, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác phát triển, cùng có lợi.

Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa bảo vệ lợi ích quốc gia với đóng góp cho hoà bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. Trong quá trình hợp tác khu vực và quốc tế, do sự đan xen và mâu thuẫn về lợi ích, tất yếu sẽ dẫn đến những điểm đồng và bất đồng giữa các nước đối với các vấn đề an ninh - quốc phòng. Chúng ta cần chủ động, tích cực phát huy các điểm đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục bất đồng nhằm thúc đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Tất cả các điểm đồng đều phải hướng về một điểm cơ bản là đồng về lợi ích - ở đây là lợi ích chính đáng của đất nước ta, của các nước bạn bè, đối tác, lợi ích chung của khu vực và thế giới chứ không phải là lợi ích cục bộ theo kiểu “được mình, hại người”, ngược lại, càng không thể vì lợi ích “chung chung” mà quên đi hay coi nhẹ mục đích lợi ích cơ bản, tiên quyết, đó là lợi ích của dân tộc mình.

Giữ vững độc lập tự chủ là nguyên tắc cơ bản, bất di, bất dịch và cần được quán triệt trong mọi kế hoạch, biện pháp công tác đối ngoại quốc phòng, là cơ sở để nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trong quan hệ quốc tế, là điều kiện để hội nhập thành công.

Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước cả về tiềm lực và thế trận, để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Ngược lại, giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện thuận lợi cơ bản để tăng cường hội nhập quốc tế về quốc phòng. Nếu không có độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập thành công, và dù có “thân thiện” đến mấy cũng không đem lại lợi ích đích thực cho đất nước, mà sẽ càng ngày càng sa vào lệ thuộc.

Khi chúng ta giữ độc lập tự chủ, giành lợi ích cho đất nước thì cũng phải tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của các nước khác. Nếu một nước đối tác không có độc lập tự chủ thì khó có thể hợp tác bền vững và đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Đồng thời phải giữ cho được quan hệ bình đẳng, không phân biệt giữa nước lớn và nước nhỏ.

Thấm nhuần tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại quốc phòng trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ chính sau: Một là, hợp tác quốc phòng trong những năm tới cần được tiến hành đồng bộ với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác để tạo thành một thể thống nhất trong chiến lược chung của quốc gia, giữ vững mối quan hệ hữu cơ giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đối ngoại quốc phòng không chỉ nhằm tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước hết và trên hết, công tác đối ngoại quốc phòng phải đấu tranh giữ vững môi trường hòa bình, ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai là, tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đối ngoại quốc phòng phải trở thành một trong những lực lượng nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi chiến lược bảo vệ tổ quốc. Đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các đối tác để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề an ninh có liên quan, đẩy mạnh hợp tác với các nước láng giềng để bảo vệ an ninh biên giới, giữ vững chủ quyền của tổ quốc. Phối hợp chặt chẽ với ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, trong bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích quốc gia là hai mặt của một vấn đề, không thể xem nhẹ mặt nào. Chúng ta đấu tranh không khoan nhượng trên những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng lại mềm dẻo, linh hoạt trong các vấn đề cụ thể để có thể hợp tác giải quyết các bất đồng, thông qua hợp tác để tác động, đấu tranh nhằm hạn chế các hoạt động xâm phạm chủ quyền của tổ quốc. Cần phải công khai minh bạch về chính sách đối ngoại quốc phòng để xây dựng lòng tin trong bạn bè quốc tế và phát huy tối đa sức mạnh chính nghĩa của ta.

Ba là, công tác đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng trong đấu tranh chống diễn biến hoà bình, chống bạo loạn lật đổ; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và ổn định chính trị của đất nước. Thông qua mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác, đối ngoại quốc phòng tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân ta với quân đội và nhân dân các nước, làm cho các nước hiểu rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, đối ngoại quốc phòng có thể làm thất bại ngay từ bên ngoài các luận điệu tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch. Mặt khác, đối ngoại quốc phòng phải đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu nhằm phi chính trị hoá quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, phòng và chống các hoạt động tuyên truyền phản cách mạng, các tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến tư tưởng của quân đội.

Bốn là đối ngoại quốc phòng tích cực góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiếp thu các kiến thức quân sự hiện đại của thế giới. Mặt khác, thông qua các cơ chế hợp tác công nghiệp, khoa học kỹ thuật, thương mại quốc phòng, tranh thủ các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến…, để trang bị cho quân đội các loại vũ khí, khí tài ngày càng hiện đại, phù hợp với điều kiện và nghệ thuật quân sự Việt Nam, làm cho đất nước ngày càng tự chủ về khoa học, kỹ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật.

Trong thời gian tới, cần tập trung phát triển các mối quan hệ quốc phòng theo chiều sâu, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng. Kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác song phương và đa phương. Quan hệ quốc phòng song phương với các nước láng giềng cần được ưu tiên và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc, phát huy các điểm đồng về lợi ích kinh tế, mô hình phát triển, nhu cầu hợp tác xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, bảo vệ an ninh chung và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định…

Quan hệ quốc phòng với Lào và Campuchia dựa trên cơ sở tình hữu nghị truyền thống, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, nâng cao hiệu quả, đi vào thực chất đáp ứng nhu cầu bảo vệ an ninh của mỗi nước. Trong điều kiện các nước bạn còn có những khó khăn, nền kinh tế - quốc phòng còn chưa phát triển… nhưng trên cơ sở tôn trọng độc lập tự chủ và lợi ích của bạn, chúng ta cần xây dựng mối quan hệ hợp tác vừa đem lại lợi ích cho đất nước mình, vừa tạo điều kiện giúp bạn mạnh lên, đồng thời tăng cường mối quan hệ truyền thống đoàn kết, gắn bó thêm sâu sắc, bền vững và lâu dài.

Cần coi trọng và tập trung đầu tư cho quan hệ hợp tác quốc phòng với Trung Quốc - quốc gia láng giềng có truyền thống quan hệ hữu nghị tốt đẹp, hiện là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, đồng thời cũng đang tồn tại những vấn đề khác biệt - nhất là những vấn đề trên biển Đông cần được giải quyết trong tình đồng chí, anh em, láng giềng gần gũi, bằng biện pháp hoà bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, công khai minh bạch, trên cơ sở tôn trọng và tin cậy lẫn nhau.

Ở đây, quan hệ quốc phòng có một ý nghĩa và tác dụng rất đặc biệt để tăng cường hợp tác phát triển về mặt chiến lược, vừa để đấu tranh giải quyết những khác biệt, hướng tới một quan hệ thật sự tốt đẹp, bình đẳng, ổn định, bền vững, lâu dài. Muốn có được mối quan hệ tốt đẹp như vậy, hoà hiếu chưa đủ, mà quan trọng hơn cả là ta phải giữ cho được độc lập tự chủ và tìm kiếm lợi ích chung trên con đường phát triển của hai nước. Thực tế cho thấy trong thời gian qua, khi chúng ta giữ vững độc lập tự chủ, tôn trọng lợi ích của bạn thì chúng ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, từng bước nâng cao hiệu quả hợp tác, đồng thời bàn bạc giải quyết những bất đồng còn tồn tại.

Quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam với các thành viên của ASEAN cần chú trọng hiệu quả trong quá trình xây dựng cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN, cần đặt trọng tâm vào những nội dung gắn với an ninh của Việt Nam như vấn đề an ninh biển, vấn đề sông Mê Kông... Cần chú ý thích đáng để mở rộng hợp tác với các đối tác lớn như Nga, Ấn Độ, Mỹ... và dần dần đi vào thực chất ở các khía cạnh, nội dung và mức độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu quốc phòng của đất nước. Chúng ta cũng coi trọng và tiếp tục phát triển quan hệ quốc phòng với các nước bạn bè truyền thống như Cuba, các nước Đông Âu, Liên Xô cũ…

Quan hệ quốc phòng đa phương cần phát huy các thành tích đã đạt được trong năm Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), cũng như tiếp tục nghiên cứu để tham gia ngày càng sâu hơn vào các hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương khác trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc.

Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ nêu trên, cần chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế về quốc phòng đi vào chiều sâu. Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, công tác đối ngoại quốc phòng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, bám sát sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, chủ động, tích cực phát triển đồng bộ, toàn diện, có chiều sâu, lấy hiệu quả làm thước đo thực hiện nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ quốc phòng của đất nước, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc".
[BDV news]


Thứ Hai, 16 tháng 5, 2011

>> Hải quân Nga ‘dương oai’ ở Đông Nam Á



Một đội tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương hôm nay thăm Singapore và Indonesia. Trong số này có tàu săn ngầm lớn nhất thế giới là Đô đốc Panteleev và tàu cứu hộ "khủng" nhất thế giới Fotiy Krylov.



Đội tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương hôm nay thăm Singapore và Indonesia.

Hôm nay, đội tàu chiến này tới Singapore để dự Triển lãm phòng vệ hải quân quốc tế (IMDEX-2011). Tới ngày 20/5, đội tàu chiến sẽ tới cảng Macasar của Indonesia để tham dự cuộc tập trận chung chống cướp biển với hải quân Indonesia.

Đông Nam Á từ lâu là khu vực hợp tác chặt với Nga trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Ngay từ giai đoạn đấu tranh vũ trang vì độc lập dân tộc, nhiều quốc gia trong khu vực là đối tác tiếp nhận vũ khí Liên Xô như Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia...

Tình hình ngày nay cũng không khác trước là mấy. Học giả Nga Anatoly Voronin khẳng định: “Do các nước của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á duy trì chính sách đối ngoại tự chủ nên họ mua của Nga thiết bị hàng không, các phương tiện phòng không, quân trang phục vụ lực lượng bộ binh và hải quân. Hiệp hội là một trong những thị trường hứa hẹn nhất đối với các sản phẩm quốc phòng của Nga. Nga tiếp tục thúc đẩy hợp tác quân sự với Malaysia, Myanmar, Thái Lan và cả Singapore”.

Tương lai là năng lượng

Học giả Nga Anatoly Voronin nhận định, ASEAN là những nhà nhập siêu dầu mỏ và khí đốt. Sự phụ thuộc rất lớn của họ vào thị trường năng lượng toàn cầu sẽ không ngừng tăng cùng với tiến trình tăng trưởng kinh tế của họ.

Tuy nhiên, việc phụ thuộc như trên là rất nguy hiểm bởi tình hình chính trị Trung Đông rất mất ổn định. Do đó, ASEAN ngày càng có nhu cầu đa dạng hóa thị trường năng lượng nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Đông. Và như một lẽ tất yếu, Hiệp hội ngày càng hướng sự chú ý của mình về phía Nga, cường quốc về sản xuất năng lượng với cơ sở vật chất, trình độ kỹ thuật vững chắc…

Hợp tác với Nga trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, năng lượng địa nhiệt và thủy điện là những sự lựa chọn tốt bởi nó không chỉ đáp ứng được các yêu cầu an ninh, thương mại và còn giúp các nước ASEAN hạn chế khí thải nhà kính, giảm phụ thuộc vào việc vận tải dầu, khí đốt… trên biển bởi nhiều nước trong Hiệp hội chưa kiểm soát được hoàn toàn vấn đề an ninh, dễ bị hải quân nước ngoài, cướp biển, khủng bố… phá rối.

Về phía Nga, đây là cơ hội lớn cho họ. Trong chuyến thăm Hà Nội vừa qua, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev cũng khẳng định, Nga có lợi ích to lớn tại châu lục này.



Nga tăng cường hợp tác với ASEAN.

Tiềm năng to lớn

Hiện, Nga và ASEAN có tiềm năng lớn về hợp tác kinh tế, năng lượng, quân sự và quan trọng hơn, cả hai đều muốn cộng tác với nhau.

Học giả Anatoly Voronin, thành viên Hội đồng chuyên viên thuộc Hội đồng liên bang Nga nhận xét: “Các nước của Hiệp hội là một thị trường phong phú và năng động. Tổng trị giá sản phẩm của họ vượt quá 500 tỷ USD. Đã vậy, ASEAN còn ở ngã tư động giao thông thế giới: một phần ba khối lượng lưu thông thương mại, một nửa dòng chảy dầu mỏ thế giới… đi qua eo biển Malacca. Rõ ràng rằng, cùng với sự đẩy mạnh các quá trình toàn cầu hóa về kinh tế, ý nghĩa của khu vực sẽ chỉ tăng lên”.

Tuy vậy, quan hệ kinh tế, thương mại Nga - ASEAN vẫn chưa tương xứng tiềm năng. Thương mại giữa các quốc gia ASEAN và Nga chiếm dưới 0,5% tổng kim ngạch ngoại thương của hiệp hội. Trong năm 2009, trị giá các hợp đồng qua lại giữa đôi bên không vượt quá 7 tỷ USD.

Trong khi đó, theo các chuyên gia Nga, trao đổi kinh tế giữa Nga và các nước ASEAN tới năm 2020 hoàn toàn có thể tăng tới 40-50 tỷ USD.

Học giả Voronin tiếp tục nói: “Trong mặt này, sự hợp tác của Nga và Việt Nam mang tính tiêu biểu, tự tin chứng minh hiệu quả kinh tế cao đối với cả hai bên. Nhờ có sự hợp tác với Nga, Việt Nam hiện sở hữu một tổ hợp nhiên liệu - năng lượng hiện đại, là nguồn đóng góp lớn cho ngân sách. Chỉ riêng Liên doanh Vietsovpetro trong thời gian hoạt động tại Việt Nam khai thác khoảng 200 triệu tấn dầu, thúc đẩy Việt Nam hòa nhập vị trí các nước hàng đầu trong khu vực về sản xuất dầu mỏ".

"Phía Nga cũng không hề chịu sự thiệt thòi. Ngân sách Nga nhận được khoảng 8 tỷ USD từ hoạt động liên doanh này. Và gần đây, Nga là đối tác được Việt Nam chọn lựa để xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên", ông Voronin nói tiếp.
[BDV news]


Thứ Năm, 12 tháng 5, 2011

>> Năm con rồng khuấy động biển cả (Kỳ 1)



Bài viết của Lyle J. Goldstein, Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ phân tích, đánh giá chi tiết chức năng, nhiệm vụ của 5 đơn vị mà tác giả gọi là “Năm con rồng” hình thành nên lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc .

Trong thời đại mà sự phô trương lực lượng giữa các cường quốc diễn ra rất tinh vi, bảo vệ bờ biển có vai trò mới và quan trọng trên vũ đài thế giới. Khi Washington muốn thể hiện sự hối lỗi và muốn tiếp viện Gru-di-a đang bị bao vây mà không làm gia tăng căng thẳng vốn đã nóng bỏng ở quanh Hắc Hải, USCGC Dallas, một tàu tuần duyên lớn của Mỹ đã được phái đi.1 Xu hướng này đã trở nên rõ ràng từ lâu ở châu Á. Lần sử dụng các lực lượng chết người rộng rãi nhất của Tokyo sau chiến tranh thế giới II là hành động của lực lượng tuần duyên Nhật Bản chống lại một tàu thăm dò Bắc Hàn.2

Gần đây hơn, một tàu tuần duyên Nhật Bản đã đánh chìm một tàu cá Đài Loan trong một vụ va chạm gần đảo Senkaku/Điếu Ngư Đài đang tranh chấp ở vùng biển Hoa Đông, châm ngòi cho những tranh chấp ngoại giao tương đối nghiêm trọng.3




Những lực lượng tuần duyên hùng mạnh nhất châu Á này đang đặt ra một tiền lệ xấu. Ví dụ, Ấn Độ đã thông báo một vụ mua máy bay chiến đấu dài hạn táo bạo phục vụ cho việc tuần tra biển vào mùa thu 2008.4 Đội tuần duyên đã được cải thiện của Hàn Quốc, trong khi đó, đã mời các phóng viên nước ngoài tiến hành một chuyến du lịch gần các đảo do Hàn Quốc quản lý nhưng Nhật Bản cũng tuyên bố chủ quyền, làm cho chuyến tham quan mang ý nghĩa hiếu chiến.5

Với những thông tin trên, cùng với sự đồng thuận rộng rãi rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những hiện tượng quan trọng nhất ảnh hưởng đến an ninh quốc tế trong thế kỷ 21, điều lạ lùng là cơ cấu tổ chức, khả năng, văn hóa dịch vụ hay triển vọng của lực lượng tuần duyên Trung Quốc này hầu như không được biết đến. Trong khi lực lượng tuần duyên Nhật Bản đã thu hút đáng kể sự chú ý gần đây của giới học giả trong lĩnh vực này, những sự phát triển tương tự của Trung Quốc đã không được chú ý, mặc dù những tài liệu nguồn về vấn đề này ở Trung Quốc là rất dồi dào.6 Đáng chú ý là một chuyên gia hàng đầu về “phòng vệ biên giới” của Trung Quốc gần đây đã nhận định rằng công trình của ông “chỉ xem xét cách tiếp cận của Trung Quốc trong việc bảo vệ biên giới đất liền của nước này…Những nghiên cứu trong tương lai nên nghiên cứu cách tiếp cận của Trung Quốc đối với việc phòng vệ biển.”7

Tất nhiên, các học giả cũng đã tương đối chú ý đến sự phát triển của hải quân Trung Quốc, và điều này là hoàn toàn hợp lý.8 Tuy nhiên, những nghiên cứu về sự phát triển của hải quân Trung Quốc có xu hướng tập trung vào những tình huống tranh chấp xa bờ và căng thẳng, bao gồm những cuộc khai phá dưới biển và những cuộc tập trận đổ bộ, cũng như những tiềm năng trong tương lai với việc bảo vệ đường biển mở rộng, triển khai sức mạnh và răn đe hạt nhân. Một vụ việc được biết đến rộng rãi năm 2009 liên quan đến tàu do thám Mỹ và các tàu hải giám của Trung Quốc (cùng với các tàu đánh cá Trung Quốc) cũng đã làm rõ hơn sự hiểu biết về khả năng giám sát hàng hải phi quân sự của Trung Quốc.

Nhìn chung, các vấn đề bảo vệ bờ biển và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến cái được gọi là an ninh phi truyền thống đã không được xem xét đầy đủ trong bối cảnh hàng hải Trung Quốc. Nếu nhận thức của Trung Quốc về vấn đề quản lý và giám sát bờ biển, an ninh cảng, cướp biển, buôn lậu ma túy, bảo vệ môi trường, tìm kiếm và giải cứu tiếp tục ít được biết đến bên ngoài Trung Quốc, hợp tác giữa các cường quốc biển Đông Á có thể cũng sẽ tiếp tục kém phát triển.9 Việc triển khai quân chưa từng có tiền lệ tháng 12 năm 2008 của hải quân Trung Quốc cùng với các lực lượng hải quân khác ở Vịnh Aden trong hoạt động chống cướp biển, không còn nghi ngờ gì nữa, là một bước tiến rõ rệt theo đúng hướng. Tuy nhiên, còn rất nhiều điều có thể và nên được thực hiện để tìm ra điểm chung với Trung Quốc trong việc đối phó với các mối đe dọa phi truyền thống.

Ngày nay, Trung Quốc còn khá yếu trong lĩnh vực trung tâm cực kỳ quan trọng - sức mạnh hàng hải, là sự kết hợp giữa năng lực thương mại và sức mạnh quân sự cứng và liên quan đến quản lý hàng hải, tức là thực thi luật pháp của một quốc gia và đảm bảo “trật tự tốt đẹp” ngoài khơi của quốc gia đó.10 Mặc dù đã có những tiến bộ lớn lao trong thập kỷ vừa qua, các cơ quan cưỡng chế hàng hải Trung Quốc vẫn chia rẽ và tương đối yếu. Nhiều chuyên gia Trung Quốc đã miêu tả tình trạng này một cách khá châm biếm là có quá nhiều “những con rồng khuấy động biển cả.”11 Ở Đông Bắc Á, khả năng tuần tra hàng hải yếu của Trung Quốc là ngoại lệ, đặc biệt nếu đem so sánh với khả năng tuần duyên của Nhật Bản (hay ở ngoài khu vực là Mỹ). Thật vậy, lực lượng tuần duyên của Nhật Bản gần đây đã được miêu tả là gần như, nếu không muốn nói là hoàn toàn, là hải quân thứ hai của Tokyo.12

Sự yếu kém tương đối của Trung Quốc trong lĩnh vực này là một điều bí ẩn và đã đặt ra câu hỏi nghiên cứu của bài này. Tình trạng yếu kém tương đối này được nêu ở phần một của nghiên cứu. Phần hai lần lượt miêu tả và phân tích tình trạng hiện tại của năm bộ máy thẩm quyền chịu trách nhiệm giám sát và quản lý hàng hải ở Trung Quốc ngày nay. Phần ba đưa ra câu hỏi là các cơ quan này, và bất kỳ một lực lượng tuần duyên thống nhất nào của Trung Quốc trong tương lai, có mối quan hệ như thế nào đối với hải quân Trung Quốc.

Trước khi đưa ra tác động và triển vọng, phần bốn sẽ đi sâu phân tích một loạt những lý giải vĩ mô cho sự yếu kém của các cơ quan tuần tra bờ biển Trung Quốc hiện nay. Phần năm phân tích các khả năng cho việc hợp tác an ninh hàng hải trong tương lai, bằng cách xem xét kỹ sự tham gia hàng hải dân sự Mỹ-Trung giữa các thực thể tuần duyên trong thập kỷ vừa qua. Phần cuối cùng làm rõ ba gợi ý chiến lược khả thi cho việc tăng cường khả năng tuần duyên của Trung Quốc. Toàn bộ nghiên cứu này dựa trên hàng trăm nguồn tài liệu tiếng Trung, các cuộc phỏng vấn tại Trung Quốc, và đặc biệt là một điều tra rất chi tiết và cực kỳ trung thực vào năm 2007 của giáo sư He Zhonglong và ba thành viên khác tại Học viện cảnh sát tuần tra biển Trung Quốc tại Ninh Ba.13

Sự phát triển đang diễn ra của các thực thể tuần duyên Trung Quốc thành những cơ quan quản lý hàng hải đồng bộ và hiệu quả đặt ra cả thách thức và cơ hội cho an ninh và ổn định ở Đông Á. Việc mở rộng khả năng sẽ tự nhiên dẫn đến sự thực thi chặt chẽ hơn các tuyên bố biển của Trung Quốc trước các nước láng giềng.14

Tuy nhiên, một kết quả triển vọng tốt đẹp hơn là việc tăng cường khả năng quản lý hàng hải của Trung Quốc sẽ dẫn đến việc Bắc Kinh sẽ sẵn sàng ủng hộ các quy tắc an ninh và an toàn hàng hải như một “nhân tố hàng hải” đủ năng lực và thiết yếu.

Sự yếu kém tương đối trong môi trường láng giềng mạnh

Những yếu kém của lực lượng tuần duyên Trung Quốc là nguồn tư liệu phong phú cho các nhà phân tích về biển Trung Quốc. Xem xét quy mô phát triển hàng hải của Trung Quốc, những nhà phân tích này cho rằng tiềm lực của lực lượng tuần duyên nước này là nhỏ bé và rời rạc. He Zhonglong và những cộng sự của ông viết: “Các lực lượng cảnh sát biển của chúng ta…không tương xứng với vị thế và hình ảnh của một siêu cường”.15

Ông và các tác giả nói thêm: “Hiện nay, trong hải đội của lực lượng tuần duyên, đa số là các tàu tuần tra có trọng tải nhỏ hơn 500 tấn, và con số trực thăng hải vận càng cho thấy lực lượng này không đạt đến những yêu cầu của một lực lượng chấp pháp trên biển toàn diện”.16 Các giáo sư của Học viện Cảnh sát Biển Ninh Ba cũng khẳng định rằng tình hình hiện nay là không thể chấp nhận được: “Trung Quốc là quốc gia có dân số đông, và các nguồn tài nguyên trên đất liền của nước này là không đủ. Các đại dương có thể thay thế và bổ sung không gian cho đất liền, và đối với các nguồn tài nguyên thì biển cũng có trữ lượng tiềm năng khổng lồ cùng với ý nghĩa chiến lược.”17

Ngược lại, những cường quốc ở Thái Bình Dương khác, đặc biệt là Mỹ và Nhật, duy trì các lực lượng tuần duyên rất mạnh. Các nhà phân tích hàng hải Trung Quốc ghi nhận đầy đủ và thấu hiểu thực tế so sánh bất lợi này. Quả thật, mức độ hiểu cặn kẽ của phía Trung Quốc về tiềm lực tuần duyên Mỹ và Nhật là rất ấn tượng, điều này ngay lập tức gợi cho người ta đồng thời sự đố kỵ lẫn ngưỡng mộ.19 Ví dụ như, để minh họa cho sự yếu kém của lực lượng tuần duyên Trung Quốc, He Zhonglong đã chỉ ra rằng Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG) được trang bị 250 máy bay các loại, trong khi phía Nhật có 75 máy bay. Các đơn vị tuần duyên Trung Quốc, với tiềm lực không quân trực thuộc kém phát triển hơn, chắc chắn không thể triển khai nhiều hơn 36 máy bay các loại.20

Máy bay rất quan trọng một mặt trong việc tuần tra tầm xa và mặt khác trong các nhiệm vụ cứu hộ phức tạp. Hơn nữa, những yêu cầu mang tính chuyên nghiệp đòi hỏi lực lượng tuần duyên của một quốc gia phải duy trì các đơn vị không quân mạnh là rất lớn. Do đó, các con số kể trên phản ánh được khoảng cách rất lớn giữa lực lượng tuần duyên Trung Quốc và lực lượng tuần duyên của các quốc gia Thái Bình Dương khác, điều này được ghi nhận rõ ràng bởi các nghiên cứu của Học viện Ninh Ba.21

Bảng 1 minh họa rằng dù các đơn vị tuần duyên của CHND Trung Quốc (PRC) có tương đối nhiều tàu tuần tra loại nhỏ và rất nhỏ (dưới 1,500 tấn), Bắc Kinh vẫn có ít hơn cả Washington và Tokyo về số tàu loại vừa (1,500 – 3,000 tấn) và loại lớn (trên 3,500 tấn).22 Nghiên cứu của Học viện Ninh Ba chỉ thêm rằng Hàn Quốc (ROK) đã tiến hành thành công vào năm 1996 chiến dịch thống nhất các đơn vị chấp pháp trên biển riêng lẻ thành một Lực lượng tuần duyên Hàn Quốc thống nhất, hùng mạnh theo mô hình của Mỹ và Nhật.23


Động lực để Bắc Kinh nâng cấp năng lực tuần duyên của mình rõ ràng liên quan đến mục tiêu chiến lược tổng thể của nước này là tăng cường tiềm lực hàng hải nói chung và do đó, hoàn toàn phù hợp với sự phát triển nhanh của hải quân Trung Quốc. Quả thực, tác động của sáng kiến này đối với an ninh Đông Á là rất quan trọng và sẽ được phân tích ở phần kết luận của bài nghiên cứu này. Sắc thái trong các bài phân tích của Học viện Ninh Ba rõ ràng gợi cho chúng ta thấy tầm quan trọng của yếu tố an ninh quốc gia trong tư tưởng của người Trung Quốc về tiềm lực tuần duyên.

Ví dụ, những tác giả của phân tích kể trên nhìn nhận rằng “ngày nay, tư duy có từ thời Chiến tranh Lạnh vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia… Vẫn có những thái độ thù địch”24. Xét đến vấn đề nhạy cảm liên quan đến chủ quyền ở Biển Đông, phân tích kể trên chỉ ra rằng: “Một mặt, Trung Quốc và 10 quốc gia thuộc khối ASEAN đã ký Quy tắc ứng xử trên Biển Đông ở Phnôm Pênh, [nhưng] ở mức độ nào đó, những gì đã diễn ra đó là chủ quyền và lợi ích của Trung Quốc đang tiếp tục bị xâm phạm nghiêm trọng”25.

Động cơ kể trên hoàn toàn không có gì bất ngờ và phù hợp trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc đang tồn tại mạnh mẽ trong giới trí thức Trung Quốc và trong các phân tích về chính sách nói chung.

Tuy nhiên, một luồng tư tưởng lớn khác liên quan đến việc xây dựng tiềm lực tuần duyên của Trung Quốc đang tồn tại rõ rệt mà nhận thức rõ về quá trình toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau càng nhiều giữa các quốc gia. Theo luồng tư tưởng này, cũng có thể tìm thấy rõ ràng và chi tiết trong phân tích của Học viện Ninh Ba, chúng ta có thể nhận thấy một khái niệm tinh tế và đáng khích lệ rằng lực lượng tuần duyên, dựa trên tính chất linh hoạt của nó, có thể hoạt động như một bước đệm giữa các lực lượng hải quân khác, hỗ trợ trong việc làm dịu đi tranh chấp giữa các quốc gia có thể xảy ra tại Đông Á.

Theo dòng tư tưởng đó, khái niệm này càng được củng cố thêm, He Zhonglong và các cộng sự kết luận: “Mọi người sống với nhau trên cùng một hành tinh, và cùng đương đầu với những đe dọa chung, và có cùng những lợi ích chung”26. Một phân tích khác cũng chỉ ra tương tự rằng những mối quan hệ quốc tế mà các lực lượng tuần duyên khác đã gầy dựng được “rất nhiều lần thành công trong việc đẩy lùi các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia”.27

Nghiên cứu của Học viện Ninh Ba cuối cùng cũng chỉ ra nguyên nhân nằm ở yếu tố tổ chức khi giải thích các yếu kém của lực lượng chấp pháp biển Trung Quốc. Như các tác giả của bản nghiên cứu viết:

“Mô hình tổ chức quản lý trên biển của Trung Quốc là chưa lý tưởng. Trong khoảng thời gian rất lâu, đã tồn tại một tình trạng “nhóm rồng lũng đoạn vùng biển”: trong tất cả các tình huống, luôn có rất nhiều bên tham gia, mỗi bên có quyền lực riêng của mình, với thẩm quyền chồng chéo, cũng như những lỗ hổng rõ ràng. Về mặt bên trong, điều này gây ra những vấn đề trong việc thi hành pháp luật sao cho phù hợp, trong khi xét về bên ngoài, không thấy có sự thống nhất trong các nỗ lực. Kết quả là cho ra đời một lực lượng thụ động, yếu kém và không hiệu quả.28

Trong khi bản thân lý giải này đã là khá thuyết phục, bài phân tích sẽ xem xét thêm một số nguyên nhân tiềm năng của sự yếu kém này, bên cạnh việc nghiên cứu những triển vọng cho việc cải tổ, tiềm năng cho việc phát triển xa hơn nữa hợp tác quốc tế về an ninh biển, và các gợi ý mang tính chiến lược liên quan đến an ninh Đông Á.
[Nghiencuubiendong news]


Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

>> Thủ tướng Ôn Gia Bảo 'trấn an' Đông Nam Á



Malaysia và Indonesia là điểm đến trong chuyến thăm Đông Nam Á bốn ngày của Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Đó có phải là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc chọn hai nước làm đột phá khẩu, trấn an và mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á?



Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo ngày 27/4 lên đường thăm chính thức Malaysia và Indonesia. Đây là chuyến thăm Malaysia lần thứ 2 và là chuyến thăm Indonesia đầu tiên của Thủ tướng Ôn Gia Bảo.

Sưởi ấm quan hệ sau 6 năm “xa cách” với Malaysia
Là một trong những quốc gia Đông Nam Á sớm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Malaysia là trạm dừng chân đầu tiên trong chuyến thăm hữu nghị lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo.

Trung Quốc và Malaysia vốn có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp. Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak cũng từng thăm hữu nghị Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa hai năm trước.





Thủ tướng Ôn Gia Bảo (trái) trong cuộc hội đàm thân mật với người đồng nhiệm nước chủ nhà Malaysia Najib Tun Razak tối ngày 27/4.


Trong cuộc hội đàm thân mật giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, Thủ tướng Ôn Gia Bảo tặng người đồng nhiệm nước chủ nhà bức ảnh chụp chung của Chủ tịch Chu Ân Lai và cố Thủ tướng Razak (phụ thân của Thủ tướng đương nhiệm Najib), ghi giấu thời khắc hai quốc gia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao song phương.

Món quà ý nghĩa này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo được đánh giá là một hành động “khôn khéo”, góp phần “sưởi ấm” mối quan hệ ngoại giao với quốc gia Đông Nam Á này kể từ chuyến thăm hữu nghị tới Malaysia 6 năm trước.

Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, ông Hồ Chính Dược khẳng định, mục đích chuyến thăm Malaysia lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo là nhằm: “Tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, củng cố lòng tin chiến lược, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, cơ sở hạ tầng, tài chính, khoa học kỹ thuật, tăng cường giao lưu thanh niên hai nước”.

Theo Tân hoa xã, sau hội đàm, Thủ tướng hai nước chính thức ký kết một số văn kiện hợp tác cấp Chính phủ và doanh nghiệp về các lĩnh vực tài chính, thương mại, đầu tư, năng lượng, truyền thông.

Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak cho rằng, những văn kiện hợp tác này là một bước đệm quan trọng để mở rộng hợp tác, đầu tư trên lĩnh vực kinh tế, thương mại giữa hai quốc gia.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng nhấn mạnh, Malaysia là đối tác thương mại lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á của Trung Quốc. Chính phủ nước này thông qua đề nghị đặt trụ sở đại diện của Ngân hàng nhà nước Malaysia tại Bắc Kinh, nhằm tăng cường giao dịch tiền tệ giữa hai nước.

Giới truyền thông Mỹ nhận định, các thỏa thuận hợp tác song phương đạt được sau chuyến thăm lần này góp phần thúc đẩy chiến lược vươn tầm ảnh hưởng của Trung Quốc tới khu vực Đông Nam Á dần trở thành hiện thực.

Còn theo Jane's Defence của Anh, chuyến thăm hữu nghị lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo là “nước cờ chiến lược”, nhằm củng cố niềm tin rằng Trung Quốc sẽ không trở thành một mối đe dọa trực tiếp cho các quốc gia Đông Nam Á.

Indonesia – mắt xích quan trọng trong chiến lược đối ngoại với ASEAN
Sau chuyến thăm hữu nghị Malaysia, Thủ tướng Ôn Gia Bảo tiếp tục chuyến công du hai ngày (từ ngày 29-30/4) tới đất nước Indonesia xinh đẹp, hội đàm với Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono tại Thủ đô Jakarta.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo khẳng định: “Trung Quốc có ấn tượng rất tốt đối với Indonesia”. Ông cho biết, chuyến thăm lần này sẽ tập trung vào việc duy trì trao đổi cấp cao, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư, tăng cường hợp tác quốc phòng và trên biển, củng cố nền tảng hợp tác hữu nghị Trung Quốc-Indonesia.


Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono (trái) và Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại ASEM năm 2008.


Thủ tướng Ôn đặc biệt nhấn mạnh mục đích tăng cường phối hợp trong các vấn đề quốc tế, khu vực; bảo vệ lợi ích chung giữa hai nước. Hai bên sẽ ra tuyên bố chung và ký một loạt văn kiện hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Ngoài ra, lãnh đạo hai nước cũng sẽ tham dự Đối thoại thương mại Trung Quốc-Indonesia.

Đây là chuyến thăm hữu nghị đầu tiên của Ôn Gia Bảo trên cương vị Thủ tướng tới Indonesia. Đại sứ Trung Quốc tại Indonesia nhấn mạnh, mục đích chuyến thăm lần này nhằm chính thức thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, mở ra cục diện hợp tác mới, đôi bên cùng có lợi.

Theo Tân hoa xã, với tiềm lực kinh tế lớn mạnh và ưu thế nổi bật trong vai trò Chủ tịch ASEAN năm nay, Indonesia sẽ là mắt xích quan trọng trong chiến lược tăng cường hợp tác và vươn rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á.

Còn theo Jane's Defence của Anh, chuyến thăm Indonesia lần này của Thủ tướng Ôn Gia Bảo còn nhằm mục đích tăng cường hợp tác song phương trong vấn đề buôn bán vũ khí quân sự.

Tuần báo này nhận định, mức độ ảnh hưởng về thương mại vũ khí của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á nói chung và Indonesia, Malaysia nói riêng còn khá mờ nhạt. Quân đội Indonesia chỉ chính thức đặt mua của Trung Quốc tên lửa chống hạm C-802 (tầm bắn 180 km); Malaysia đặt mua 16 hệ thống tên lửa phòng không vác vai FN -6 vào tháng 6/2009, tên lửa phòng không vác vai QW1 (hiện nay được trang bị cho Lục quân Malaysia) và tên lửa chống tăng HJ-8F.

Malaysia và Indonesia vốn là hai nước phụ thuộc lớn vào vũ khí nhập khẩu từ Mỹ và Nga. Tuy những năm gần đây, hai nước này cũng bắt đầu “để mắt” tới nguồn cung vũ khí của Trung Quốc, song tâm lý lo ngại sẽ vấp phải những phản ứng gay gắt của phương Tây vẫn còn tồn tại.

Jane's Defence tiết lộ, tuy không công khai trước truyền thông, song chuyến thăm chiến lược hai nước Đông Nam Á lần này ngoài những mục tiêu hợp tác kinh tế, thương mại; còn là bước đệm quan trọng để Bắc Kinh tăng cường uy tín và mở rộng thị trường vũ khí tới hai nước này, nhằm tạo ra một phản ứng dây chuyền trong toàn khu vực Đông Nam Á.


[BDV news]


Thứ Hai, 2 tháng 5, 2011

>> Đoàn quân sự Việt Nam dự ADSOM và ADSOM+



TTXVN ngày 30/4 đưa tin: Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đã tham dự Hội nghị Quan chức Quốc phòng cấp cao các nước ASEAN (ADSOM) và Hội nghị Quan chức Quốc phòng cấp cao các nước ASEAN mở rộng (ADSOM+).



Hai hội nghị diễn ra tại thành phố Yogyakarta của Indonesia từ ngày 27 đến ngày 29/4.

Đây là hai hội nghị quan chức quốc phòng ASEAN đầu tiên được tổ chức để triển khai các quyết định của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất, được tổ chức tại Việt Nam hồi tháng 10 năm ngoái.

Tham dự hội nghị có các thứ trưởng, thư ký thường trực Quốc phòng các nước ASEAN và tám nước đối tác đối thoại của ASEAN gồm Nga, Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có bài phát biểu tập trung vào Chương trình hành động ba năm (2011-2013) của ADMM, trong đó nhấn mạnh đến các thách thức an ninh đang nổi lên ở khu vực, như xung đột biên giới Thái Lan-Campuchia, an ninh môi trường và tài nguyên nước trong khu vực.

Trung tướng nhấn mạnh vấn đề an ninh trên Biển Đông không chỉ tác động, ảnh hưởng đến lợi ích các nước trực tiếp liên quan mà còn tác động mạnh mẽ đến nhiều quốc gia khác có lợi ích trong khu vực.

Trung tướng tái khẳng định cần giải quyết tranh chấp thông qua biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 và Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); đồng thời cho rằng các bên cần phải tích cực và có trách nhiệm xây dựng Bộ quy tắc Ứng xử khu vực ở Biển Đông (COC).



ảnh minh họa


Cũng theo Trung tướng, các nước ASEAN có trách nhiệm yêu cầu Thái Lan và Campuchia ngừng bắn, sớm quay lại đàm phán để giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Trung tướng đề nghị Indonesia tích cực hơn nữa trong vai trò trung gian hòa giải theo sự ủy quyền của Liên hợp quốc và quyết định của Ngoại trưởng các nước ASEAN ngày 22/4 vừa qua.

Cũng trong khuôn khổ Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh đã có các cuộc gặp song phương với một số đối tác quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ… để trao đổi về các vấn đề hợp tác quốc phòng-quân sự song phương và đa phương trong thời gian tới.

Bên lề hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh đã tới chào xã giao Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia. Thứ trưởng khẳng định Việt Nam hết sức ủng hộ Indonesia hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2011 cũng như trong việc duy trì động lực hợp tác quốc phòng giữa các nước ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác trong những năm tiếp theo.

Thứ trưởng cũng đề xuất một số biện pháp xử lý nhân đạo đối với các ngư dân bị bắt giữ do xâm phạm chủ quyền lãnh hải các nước trong khu vực.

Tại Hội nghị ADSOM, các quan chức quốc phòng ASEAN đã đánh giá kết quả thực hiện Chương trình hoạt động 3 năm của ADMM (2008-2010); thảo luận các tài liệu, nội dung và chương trình nghị sự cho Hội nghị ADMM-5 (gồm Dự thảo Tuyên bố chung, Chương trình hành động 2011-2013, Tài liệu khái niệm về thiết lập Mạng lưới các Trung tâm gìn giữ hòa bình ASEAN; Tài liệu khái niệm về hợp tác công nghiệp quốc phòng ASEAN và Chương trình nghị sự của Hội nghị ADMM-5).

Tại Hội nghị ADSOM+, trưởng đoàn các nước đã tập trung thảo luận và thông qua các tài liệu khái niệm thiết lập các nhóm chuyên gia (EWG); thông qua tài liệu khái niệm và đồng thuận quyết định thiết lập 5 nhóm chuyên gia theo 5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên đã được thông qua tại ADMM+ lần thứ nhất tại Việt Nam, gồm hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa; an ninh biển; chống khủng bố; quân y và gìn giữ hòa bình.


[BDV news]


Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

>> Thái Lan - Campuchia đưa vũ khí hạng nặng tới biên giới



Tình hình xung đột biên giới Thái Lan - Campuchia đang diễn biến theo chiều hướng phức tạp.

Mối lo ngại về nguy cơ chiến tranh ngày càng gia tăng khi cả hai bên đều điều động thêm vũ khí hạng nặng đến gần biên giới. Ngày 24/4/2011, lại xảy ra một vụ đấu súng nữa kéo dài đến 7 giờ, từ 10h sáng đến tận 18h, thêm 3 binh sĩ của Thái Lan bị thương.

Quân đội của đôi bên đã được đặt trong tình trạng báo động cao, cả hai đã điều động thêm viện quân đến khu vực xảy ra xung đột.



Xe tăng của Thái Lan đang được điều động đến biên giới làm cho tình hình trở nên căng thẳng hơn.


Sau vụ đấu pháo ngày 22/4/2011 giữa hai bên, tình hình vẫn chưa có dấu hiệu lắng xuống, cả hai đều đổ lỗi cho nhau về vụ xung đột này.

Theo thống kê sơ bộ,đến thời điểm hiện tại đã có 4 binh sĩ Thái Lan thiệt mạng và 27 người khác bị thương. Trong khi đó phía Campuchia có 6 binh sĩ thiệt mạng và 13 người khác bị thương.

Trong khi đó, cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN đang tỏ ra lo lắng trước tình hình xung đột biên giới giữa Thái Lan và Campuchia.

Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon, kêu gọi hai bên lập tức ngồi vào bàn đàm phán và thiết lập một lệnh ngừng bắn. Ông tin rằng, các tranh chấp không thể giải quyết ổn thỏa bằng phương tiện quân sự.

Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan cũng lên tiếng kêu gọi hai bên nhanh chóng ngồi vào bàn đàm phán. Tránh nguy cơ chiến tranh leo thang.

"Tôi chỉ có thể thêm vào đó tiếng nói của tôi để kêu gọi một giải pháp hòa bình cho một căng thẳng âm ỉ từ lâu giữa hai nước thành viên ASEAN của chúng tôi", ông Pitsuwan nói.


[BDV news]


Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011

>> Liên Hợp Quốc kêu gọi Thái - Campuchia ngừng bắn



Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon đang kêu gọi Campuchia và Thái Lan tuyên bố ngừng bắn, sau khi 10 binh sĩ của hai bên thiệt mạng trong hai ngày giao tranh dữ dội vừa qua.





Binh sĩ Campuchia gần khu vực biên giới tranh chấp với Thái Lan. Ảnh: AFP


Ông Ban cho rằng tranh chấp biên giới giữa hai nước Đông Nam Á này sẽ không thể giải quyết được bằng quân sự và hai bên cần phải đi đến đối thoại một cách thực sự. BBC dẫn lời phát ngôn viên Liên Hợp Quốc Martin Nesirky cho biết thêm: "Tổng thư ký kêu gọi hai bên kiềm chế tối đa và có các biện pháp ngay lập tức để thực hiện một lệnh ngừng bắn hiệu quả".

Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa, nước đang giữ chức chủ tịch luân phiên của ASEAN và nỗ lực làm trung gian cho một thoả thuận hoà bình lâu dài giữa Campuchia và Thái Lan, trước đó cũng kêu gọi các bên ngừng bắn ngay lập tức để chấm dứt bạo lực.

Các cuộc giao tranh đẫm máu giữa binh sĩ Campuchia và Thái Lan nổ ra tại khu vực phía tây ngôi đền tranh chấp ở biên giới Preah Vihear từ hôm thứ sáu. Hai bên đều đổ lỗi cho nhau đã châm ngòi cho vụ đọ súng và pháo khiến mỗi bên tổn thất 3 binh sĩ này.

Sang thứ bảy, giao tranh bằng súng và pháo vẫn tiếp diễn khiến thêm một binh sĩ Thái Lan và 3 binh sĩ Campuchia thiệt mạng, nâng tổng số người chết trong hai ngày đụng độ lên con số 10. Hiện trường giao tranh cũng là nơi từng xảy ra đọ súng gây thương vong hồi tháng hai vừa qua.

Sau căng thẳng hồi tháng hai, một lệnh ngừng bắn không chính thức được áp dụng tại khu vực gần ngôi đền 900 tuổi Preah Vihear. Tuy nhiên việc duy trì hoà bình tại vùng biên giới tranh chấp này khó thực hiện do binh sĩ hai bên đóng quá gần nhau. Hàng nghìn người địa phương của cả hai bên phải rời bỏ nhà cửa do căng thẳng.


[Vnexpress news]


Thứ Hai, 4 tháng 4, 2011

>> Mỹ cam kết mở rộng quan hệ với Việt Nam



[BDV news] Trong phiên điều trần tại Quốc hội Mỹ hôm qua, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương Kurt M. Campbell khẳng định, chính quyền Tổng thống Obama cam kết mở rộng quan hệ với Việt Nam cũng như các quốc gia đang lớn mạnh khác tại châu Á-Thái Bình Dương.

Trước Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban đối ngoại Hạ viện, ông Campbell trình bày chiến lược của chính quyền Tổng thống Obama nhằm can dự vào châu Á-Thái Bình Dương, khu vực được coi là tạo ra những cơ hội lớn cho nước Mỹ trên nhiều lĩnh vực, kể cả việc mở rộng thị trường cũng như hình thành các mối quan hệ đối tác chiến lược mới.

Ông Campbell đánh giá Việt Nam là một trong những đối tác ngày càng quan trọng của Mỹ (bên cạnh Indonesia, Malaysia, Mông Cổ, New Zealand, Singapore và Ấn Độ).

Ông khẳng định Việt Nam là một trong 8 đối tác đang tham gia đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương của Mỹ và trong các cuộc gặp tại Hà Nội vào năm ngoái, Ngoại trưởng Hillary Clinton và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thỏa thuận sẽ phát triển hơn nữa mối quan hệ song phương thành mối quan hệ đối tác chiến lược.




Ông Campbell khẳng định, chính quyền Tổng thống Obama cam kết mở rộng quan hệ với Việt Nam.


Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho biết, chính quyền ông Obama cam kết thúc đẩy can dự tại các tổ chức đa phương thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) mà Ngoại trưởng Clinton coi là "điểm tựa cho kiến trúc đang nổi lên của khu vực, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF).

Theo ông Campbell, trong năm nay, Tổng thống Obama sẽ dự EAS tại Indonesia và tập trung vào các bước đi mà tổ chức này thực hiện để thúc đẩy an ninh biển tại khu vực, tăng cường năng lực của các nước trong việc đối phó với các thảm họa thiên nhiên và nhân đạo cũng như việc không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Ngoài ra, Mỹ cũng sẽ làm việc với ASEAN để xác định các biện pháp mà Washington có thể hỗ trợ tổ chức này trong việc thực hiện Kế hoạch hành động. Tổng thống Mỹ cũng sẽ đồng chủ trì hội nghị cấp cao Mỹ- ASEAN.

Ông Campbell cho biết, Mỹ đang tiến hành chương trình ba điểm nhằm can dự thành công vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đó là phê chuẩn Hiệp định tự do thương mại Mỹ-Hàn Quốc, đạt tiến bộ quan trọng trong đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và tổ chức thành công APEC.


Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

>> Việt Nam đề xuất hợp tác giữa quân đội ASEAN



[BDV news] Ngày 31/3, Hội nghị không chính thức Tư lệnh lực lượng quốc phòng các nước thành viên ASEAN lần thứ 8 (ACDFIM-8) đã diễn ra tại Jakarta, với sự tham dự của nhiều tham mưu trưởng quân đội và tướng lĩnh các nước ASEAN.


Tổng Tham mưu Trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ dẫn đầu đoàn quân sự cấp cao Việt Nam tham dự hội nghị.




Phát biểu tại ACDFIM-8 với chủ đề "Phát huy sự đồng tâm hiệp lực của quân đội các nước ASEAN trong đối phó với những thách thức hiện tại của khu vực," Trung tướng Đỗ Bá Tỵ đã trình bày quan điểm của Quân đội Việt Nam về vấn đề an ninh khu vực và đề xuất phương hướng hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN trong thời gian tới.

Về tình hình an ninh Biển Đông, vấn đề đang được khu vực và thế giới quan tâm, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ nêu rõ Biển Đông là vùng biển gắn với lợi ích của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, song vùng biển này vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn khó lường. Các tranh chấp chủ quyền trên biển vẫn chưa được giải quyết. Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) chưa đủ sức mạnh pháp lý để được các bên tuân thủ nghiêm túc.

Việt Nam luôn nhất quán trong chủ trương giải quyết tranh chấp ở Biển Đông thông qua đàm phán hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và tinh thần của DOC trong khi tiếp tục tìm giải pháp đảm bảo hòa bình và ổn định lâu dài.

Vấn đề an ninh Biển Đông đòi hỏi nỗ lực hợp tác của tất cả các nước trong khu vực và có lợi ích liên quan, đặc biệt trong giải quyết vấn đề an ninh phi truyền thống, góp phần thực hiện đầy đủ DOC, ngăn chặn hoạt động làm phức tạp tình hình, các cuộc diễn tập phô trương sức mạnh quân sự hay đe dọa các nước khác.

Nhân dịp này, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ đã đề xuất một số vấn đề cụ thể cần được tập trung trong hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN như xây dựng nhận thức chung về các mối đe dọa và thách thức trong khu vực thông qua tăng cường chia sẻ và trao đổi; thiết lập đường dây nóng và phối hợp tuần tra chung giữa hải quân các nước nhằm đối phó với các thách thức an ninh biển; xây dựng và hoàn thiện cơ chế hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN, đặc biệt trong tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa thiên tai; thành lập các lực lượng phản ứng nhanh có khả năng ứng phó khẩn cấp tại chỗ cũng như hỗ trợ các nước láng giềng khi cần.

Trung tướng đề xuất hợp tác xây dựng các trung tâm cảnh báo sớm; tăng cường chia sẻ thông tin tình báo, phối hợp chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia; tăng cường diễn tập cả trên sa bàn và thực tế; tăng cường trao đổi đoàn, trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.

Đại biểu nước chủ nhà Indonesia, Malaysia và Singapore cũng đã phát biểu chia sẻ quan điểm về tình hình ở Biển Đông.

Cũng nhân dịp này, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ đã bày tỏ chia sẻ với Chính phủ và nhân dân Nhật Bản cũng như Chính phủ và nhân dân Myanmar trước những thiệt hại to lớn do hậu quả các trận động đất và sóng thần mới đây.



Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2011

>> Hé lộ về tàu đổ bộ chở trực thăng đóng cho Thái Lan



[Vietnamdefence news] Công ty Singapore Technologies Marine (ST Marine) đã cung cấp thông tin về tàu đốc đổ bộ chở trực thăng LPD (Landing Platform Dock) đang đóng cho Hải quân Thái Lan.



Tàu đổ bộ chở trực thăng lớp Endurance của Hải quân Singapore


Tàu đổ bộ LPD sẽ giống với tàu đổ bộ tăng Endurance của Hải quân Singapore. Điểm khác biệt chủ yếu là không có cửa dốc ở mũi mà thay cho nó là các cửa và thang tàu ở mạn phải rộng gần 6 m cho phép bốc xếp binh khí kỹ thuật nhẹ và binh lính, Jane’s navy International cho hay.


Tàu đổ bộ chở trực thăng LPD đóng cho Hải quân Thái Lan

Hải quân Thái Lan đã ký với ST Marine hợp đồng trị giá 5 tỷ baht (144 triệu USD) để thiết kế và đóng tàu đổ bộ dài 141 m và một số xuồng đổ bộ vào tháng 11.2008 sau một cuộc thầu quốc tế.

Hợp đồng bao gồm việc đóng 2 tàu đổ bộ tăng LCM (Landing Craft, mechanised) dài 23 m và 2 xuồng đổ bộ bộ binh LCVP dài 13m. Hai tàu LCM sẽ được bố trí ở khoang đốc ở đuôi tàu LPD, còn 2 xuồng LVCP bố trí trên các giá treo xà lúp ở 2 bên sườn phần thượng tầng của tàu.

Tàu LPD sẽ dùng để chuyển chở binh khí kỹ thuật và binh sĩ, tham gia các chiến dịch yểm trợ, tìm cứu và cứu trợ nạn nhân thiên tai.

LPD được đóng từ giữa năm 2009 và dự kiến bàn giao cho Thái Lan vào nửa cuối năm 2012.

Hệ thống động lực của tàu LPD bao gồm 2 động cơ diesel Catepillar C280-12 công suất 4.060 kW mỗi động cơ. Tàu được trang bị thiết bị trợ lái ở mũi. Tốc độ tối đa 17 hải lý/h, cự ly hành trình trên biển ở tốc độ 12 hải lý/h là 5.000 hải lý. Nguồn điện được cấp bởi 4 máy phát 3512B công suất 900 kW.





Các tàu RSS Endeavour (trên) và RSS Persistence lớp Endurance của Hải quân Singapore

Công ty Đan Mạch Terma sẽ cung cấp cho tàu LPD hệ thống chỉ huy chiến đấu C-Flex với 3 công-xon đa năng, radar C-Search và tổ hợp các sensor, bao gồm radar phát hiện mục tiêu bay/mục tiêu mặt nước SCANTER 4100 với hệ thống nhận dạng địch-ta và hệ thống quang-điện tử điều khiển hỏa lực C-Fire với 1 khí tài ảnh nhiệt, 1 camera truyền hình và 1 máy đo xa laser.

Hệ thống vũ khí bao gồm 1 pháo 76 mm Super Rapid của công ty OTO Melara và 2 giá để lắp các khẩu pháo MSI Seahawk 30 mm. Ngoài ra, trên cầu chỉ huy có thể lắp 2 súng máy.

Tàu LPD có trọng tải 1.000 tấn, lượng giãn nước đầy đủ 1.600 tấn. Tàu có thể chở 300 lính. Thủy thủ đoàn 120 người (cộng 15 người của đội bay), tức là gần gấp đôi tàu Endurance, điều này cho thấy tàu của Thái Lan có trình độ tự động hóa kém hơn.





Tàu đổ bộ chở trực thăng RSS Endurance của Hải quân Singapore



Thứ Bảy, 5 tháng 3, 2011

>> Thái Lan nhận trực thăng đa năng Mi-17V5



Tại căn cứ không quân Utapao, 3 máy bay trực thăng đa năng Mi-17V-5 được đưa đến bằng máy bay vận tải An-124.

Các chuyên gia Nga lắp ráp các bộ phận của trực thăng trong vòng 10 ngày tới.

Theo truyền thông Thái Lan, trị giá hợp đồng 3 máy bay này lên tới 990 triệu Baht (khoảng 27,5 triệu USD). Trong đó, kinh phí bảo dưỡng và đào tạo tri giá 50 triệu Baht.

Phần kinh phí này dự định chi cho hiện đại hóa 15 trực thăng UH-1 nhưng sau đó đã bị hủy bỏ.

Mi-17V-5 là trực thăng đa năng, thường được dùng để vận chuyển quân và hàng hóa. Dù đây là phiên bản trực thăng vận tải, song không mấy khó khăn để vũ trang cho trực thăng này bằng rocket không điều khiển, súng máy Mag-58 hoặc M-60.

Ngoài 3 chiếc Mi-17V-5 giao hàng lần này, chính phủ Thái Lan đang xem xét mua thêm 3 máy bay trực thăng khác từ Nga.




Việc đàm phán mua trực thăng từ Nga được Thái Lan khởi xướng vào năm 2005, nhưng sau đó hợp đồng đã không thực hiện do không quân đội Thái Lan không đạt được sự thống nhất trong nội bộ.

Hiện Không quân Thái Lan có khoảng 200 trực thăng do Mỹ sản xuất, 50% số máy bay này không thể hoạt động do tuổi đời đã trên 20 năm, trong khi đó, phụ tùng để sửa chữa và thay thế lại có giá cao.

Giá cả để mua trực thăng Mi-17 là khá mềm, hiệu suất hoạt động cao, trực thăng này có tuổi phục vụ khá dài, kinh phí bảo dưỡng và thay thế phụ tùng cũng thấp hơn nhiều so với của Mỹ Không quân Thái Lan đã quyết định mua 3 trực thăng Mi-17 từ Nga vào cuối năm 2008, đây cũng là hợp đồng mua trực thăng từ Nga đầu tiên của chính phủ Thái Lan. Trước đó, Thái Lan chỉ mua vũ khí và các phương tiện quân sự khác từ Mỹ.

Bằng hợp đồng cung cấp 3 chiếc trực thăng Mi-17V-5 cho Thái Lan, Nga đã đặt được chân vào thị trường vũ khí vốn là địa bàn của Mỹ. Điều này cũng cho thấy sự thay đổi quan điểm của giới quân sự Thái Lan, vốn sùng bái vũ khí Mỹ.

Mi-17V-5 là biến thể của Mi-8, có trọng lượng cất cánh tối đa là 13 tấn, tốc độ hành trình là 230km/giờ, tốc độ tối đa 300km/giờ, có thể chở 36 binh lính hoặc 4 tấn hàng hóa, bán kính hoạt động 750km. Mi-17V-5 đạt hiệu suất hoạt động rất cao trong các điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là các vùng núi.

Không chỉ Mi-17V-5, tất cả các loại trực thăng khác của Nga đều có đặc tính bay và hiệu suất hoạt động vượt trội so với trực thăng cùng loại của các nước khác. Trực thăng của Nga hiện có mặt ở hơn 80 quốc gia trên khắp thế giới.


(Armstrade news)

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2011

>> Trung Quốc có phải là kẻ hiếu chiến? (1)



Sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc gần đây đối với biển Hoa Đông và Biển Đông và dọc biên giới Trung - Ấn đã làm dấy lên một cuộc tranh cãi gay gắt. Phải chăng Bắc Kinh cuối cùng sẽ chứng tỏ mong muốn đòi chiếm đất thực sự?

Phải chăng chỉ là cách thể hiện trong một thời gian ngắn của chủ nghĩa dân tộc trong bối cảnh các lãnh đạo đang chạy đua vào các vị trí ở Bộ Chính trị và Ủy ban trung ương Đảng năm 2012, hay đây là những đoạn hồi rời rạc cho thấy một sự tiếp diễn hơn là thay đổi?

Chính sách đối ngoại dựa trên phát triển hòa bình và hài hòa xã hội
Tôi sẽ bắt đầu bằng cách nhấn mạnh rằng việc đánh giá tình hình đối ngoại của chúng ta dựa trên các trụ cột cơ bản của chủ nghĩa xã hội với các đặc trưng Trung Quốc, phát triển hòa bình và tạo một xã hội hài hòa. Ưu tiên cao nhất của chúng ta kể cả trong chính sách đối ngoại là củng cố các trụ cột này trong nước.



Những mối đe dọa lớn nhất đối với sự ổn định mà chúng ta đang phải đối mặt vẫn là từ bên trong. Tôi không cần nhắc nhở các thành viên Ban lãnh đạo Đảng rằng mỗi năm chúng ta có hơn 20 triệu người di cư ra thành phố tìm việc làm, rằng chúng ta đang phải đối mặt với sự chênh lệch kinh tế ngày càng lớn giữa các tỉnh duyên hải và các tỉnh phía Tây; rằng bức tranh dân số sẽ biến thiên nghiêm trọng trong thập kỷ tới; các vấn đề sinh thái và môi trường đang gia tăng; nguyên liệu đầu vào năng lượng và hàng hóa trong năm qua vẫn chưa chắc chắn; và chúng ta cần phải luôn luôn cảnh giác trước những bong bóng và sức nóng quá mức trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mình.

Các mối đe dọa lớn nhất đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng là từ bên trong, nhưng đó là nhờ các mối liên hệ bên ngoài nguy hiểm. Tôi muốn nói đến những nguy cơ của chủ nghĩa ly khai ở Tân Cương, Tây Tạng và Đài Loan.

Cách đây hai năm, trong bài báo cáo của mình, tôi bắt đầu bằng vấn đề Đài Loan, nhưng nay người đứng đầu chính quyền Đài Loan Mã Anh Cửu đã quay lưng lại với các hành động đòi độc lập nguy hiểm của chính quyền DPP tiền nhiệm, và hiện chiến lược của chúng ta nhấn mạnh tới sự phát triển hòa bình để thúc đẩy thống nhất đã đạt được một số tiến bộ. Tuy nhiên, chủ nghĩa ly khai ở Tân Cương và Tây Tạng đang trở thành những vấn đề cấp bách hơn, dù tình hình đã bình yên hơn trong một năm vừa qua tại các khu vực này.

Kiềm chế và đảo ngược các xu hướng ly khai này sẽ tiếp tục cho thấy các chiến lược chính sách đối ngoại của chúng ta trong bối cảnh các đồng nghiệp của tôi tại Ban Mặt trận Thống nhất và Văn phòng các vấn đề về Đài Loan đang nỗ lực bảo vệ chính sách một Trung Quốc và đề phòng một sự đảo ngược của các xu hướng có lợi trong 5 thập kỷ qua.

Chiến lược chính sách đối ngoại của chúng ta vận hành theo nguyên tắc phát triển hòa bình và xã hội hài hòa. Chúng ta sẽ tận dụng tối đa các thể chế và diễn đàn quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, ASEAN + 3, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và các cuộc đàm phán sáu bên để ngăn chặn chủ nghĩa đơn phương của Mỹ hoặc các cường quốc khác và bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ, duy trì một xã hội quốc tế hài hòa và thế giới đa cực. Đồng thời, chúng ta sẽ khẳng định lại các lợi ích cốt lõi ở Biển Đông và các vùng lân cận phù hợp với sức mạnh đang lớn dần của chúng ta.

Quan hệ quan trọng nhất: Mỹ
Như Chủ tịch Hồ Cầm Đào đã tuyên bố tại cuộc gặp các Đại sứ của Trung Quốc ở nước ngoài hồi năm ngoái, cách xử lý thận trọng quan hệ Trung - Mỹ sẽ vẫn là trụ cột chính cho một chiến lược chính sách đối ngoại thành công. Chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm một "đối tác chiến lược" với Washington về lâu dài, dù phải thừa nhận rằng chính quyền của Obama không sẵn lòng sử dụng cụm từ này hơn Bush.

Chúng ta vẫn chống lại những lời kêu gọi của các chuyên gia nước ngoài về việc thành lập một G-2 giữa Mỹ với Trung Quốc, vì điều này sẽ đẩy chúng ta vào cái bẫy trách nhiệm quốc tế có thể không phù hợp với chủ trương phát triển hòa bình và xây dựng một xã hội hài hòa.

Tuy nhiên, chúng ta sẽ tiếp tục hướng tới một chế độ quản lý chung hai cực với Washington, dựa trên sự tôn trọng các lợi ích cốt lõi của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ, và sự nhận thức rằng Trung Quốc đã trở thành trung tâm quyền lực quan trọng nhất ở châu Á.

Chúng ta cũng thận trọng đánh giá chính quyền Obama. Tất cả các ứng cử viên tổng thống Mỹ ở phe đối lập, kể từ thời Nixon, đều sử dụng "quân bài Trung Quốc" - hứa hẹn một chính sách cứng rắn hơn về nhân quyền hoặc Đài Loan nếu đắc cử. Các ứng cử viên McCain và Obama đã không động đến chiến lược đe dọa Trung Quốc và dường như sau khi trở thành tổng thống, Obama mới có khả năng xây dựng trên mối quan hệ ổn định mà Bush để lại.

Các dấu hiệu ban đầu từ Washington cho thấy Obama sẽ cam kết tự kiềm chế, thừa nhận gánh nặng lớn của Mỹ ở Iraq và Afghanistan và các xu hướng suy giảm trong nền kinh tế Mỹ. Obama cũng dường như lo lắng về các mâu thuẫn bên trong như hệ thống chăm sóc y tế của Mỹ. Lời hứa đảm bảo chiến lược của ông và sự trì hoãn các cuộc gặp với thủ lĩnh tinh thần của người Tây Tạng Đạt lai Lạt ma, cũng như việc hoãn bán vũ khí cho Đài Loan có vẻ như cho thấy ông hiểu tương quan sức mạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng. Tuyên bố chung tháng 11/2009 với thỏa thuận tôn trọng "các lợi ích cốt lõi" của nhau là một thành tựu lớn trong bối cảnh chúng ta đang tìm cách ngăn cản Mỹ hoãn thực hiện Tuyên bố chung về việc bán vũ khí cho Đài Loan.

Tuy nhiên, có thể chúng ta đang hiểu sai về chính quyền Obama. Dấu hiệu đầu tiên cho thấy một đường lối cứng rắn hơn là bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tại đối thoại Shangri-la ở Singapore tháng 6 vừa qua, mở lại cái được gọi là học thuyết "mối đe dọa Trung Quốc". Cuộc đối thoại kinh tế và chiến lược Mỹ - Trung hồi tháng Năm đã thành công, song quan điểm của chính quyền Mỹ còn cứng rắn hơn trước. Có vấn đề nhất là bài phát biểu của Ngoại trưởng Clinton tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), trong đó bà đứng về phía Việt Nam và các nước Đông Nam Á để chống lại "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc ở Nam Hải (mà Việt Nam gọi là biển Đông - người dịch). Chúng ta sẽ có thể trung hòa Philippines trong cuộc tranh cãi này bằng cách sử dụng các kênh và quỹ thông thường, nhưng Việt Nam, Malaysia và cả Indonesia dường như hoan nghênh sự can thiệp không có cơ sở của bà Clinton và logic chiến tranh Lạnh của bà về quyền tự do hàng hải.

Cách tiếp cận mặt trận liên minh để ổn định các quan hệ với Washington cũng đang thay đổi. Trong quá khứ, cộng đồng doanh nhân Mỹ hiểu rõ quan điểm của Trung Quốc và chống chủ nghĩa bảo hộ, ủng hộ các yếu tố bè phái hoặc chính sách ngăn chặn tại Mỹ. Nhưng gần đây, một số bộ phận trong cộng đồng doanh nhân đã tham gia học thuyết "mối đe dọa Trung Quốc" khi than phiền rằng các chính sách phát triển kinh tế hợp pháp, như cải tiến bản địa, là một dạng bảo hộ.


Ảnh: Telegraph.co.uk

Nói chung, chúng ta nên đánh giá sức mạnh Mỹ một cách thận trọng. Trong quá khứ chúng ta đôi lúc đã đánh giá quá cao sức mạnh Mỹ - ví dụ sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh - nhưng đôi khi cũng đánh giá thấp sức mạnh này. Chúng ta đã rất ngạc nhiên rằng chỉ vài năm sau khi Mỹ rút quân khỏi Somalia, chính quyền Clinton đã huy động một lực lượng do NATO dẫn đầu tấn công Serbia dưới danh nghĩa bảo vệ quyền tự quyết và nhân quyền cho Kosovo. Đây là một tiền lệ đáng ngại.

Bài học cho chúng ta là Mỹ đã từng là một cường quốc kiên cường về lịch sử. Tình trạng suy yếu của Mỹ do tình hình tài chính hiện nay và các cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan gây ra, rõ ràng sẽ thúc đẩy chủ nghĩa đa cực. Chúng ta có thể đẩy nhanh xu hướng này, nhưng không phải là bất chấp nguy cơ đối đầu với Mỹ. Chúng ta cũng không nên dựa quá nhiều vào các trông chờ trong nước rằng có thể uốn Mỹ theo cách của mình.

Việc mua trái phiếu chính phủ Mỹ đã đặt chúng ta vào một tình huống bấp bênh hơn nhiều so với Bộ Tài chính ở Washington. Chúng ta đã cho phép định giá lại đồng nhân dân tệ, nhưng vẫn chưa sẵn sàng chuyển sang một hệ thống tỷ giá hối đoái do thị trường ấn định hay tạo ra lượng cầu hàng hóa nội địa để bù vào lãi suất tiết kiệm cao hơn của Mỹ.

Giả định thực tế của chúng ta phải là Mỹ sẽ vẫn là trung tâm quyền lực nhất trong một thế giới đa cực trong ít nhất một thập kỷ nữa và Trung Quốc sẽ vẫn phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ. Vì vậy, chúng ta phải tiếp tục trung thành với chỉ dẫn chiến lược của Đặng Tiểu Bình là "giấu mình chờ thời", trong khi tìm kiếm các cơ hội để "đạt được một điều gì đó".

(tổng hợp bdv)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang