Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

>> Hệ thống vũ khí của Gepard Đinh Tiên Hoàng



Là chiến hạm hiện đại bậc nhất trong biên chế Hải quân Nhân dân Viêt Nam, chiến hạm Đinh Tiên Hoàng sở hữu hệ thống vũ khí có uy lực tương đối mạnh.






Thượng tầng cấu trúc của Gepard Đinh Tiên Hoàng là các hệ thống radar phòng không, đối hải.


Hệ thống radar này sẽ phát hiện các mục tiêu trên không, trên biển từ xa để đưa ra cảnh báo, đồng thời cung cấp các tham số cho các hệ thống vũ khí của chiến hạm tiêu diệt mục tiêu như hệ thống phòng không Palma, hệ thống phòng thủ tầm cực gần AK-630...




Hệ thống tên lửa - pháo phòng không Palma có thể chống trực thăng, máy bay, tên lửa hành trình chống hạm. Palma gồm hai pháo tự động 6 nòng 30mm AO-18KD/6K30GSh và 8 tên lửa siêu vượt âm dẫn bằng laser Sosna-R (lắp trên hai cụm ống phóng 3R-99E).



Palma có thể đánh chặn đồng thời 6 mục tiêu ở cự ly 200-8.000 m và bay ở độ cao tối đa 3.500 m; thời gian phản ứng của hệ thống là 3-5 giây. Các pháo AO-18KD 30mm có tầm bắn xa 200-4.000 m và bắn cao đến 3.000 m. Cơ số đạn 1.500 viên đạn xuyên giáp, phá-mảnh hoặc cháy. Các khẩu pháo có tốc độ bắn tối đa 10.000 phát một phút.




Pháo hạm đa năng AK-176M, được sử dụng cho nhiệm vụ phòng không, đối hải.



Đối tượng của AK-76M là các mục tiêu mặt nước, mặt đất và trên không tầm thấp.




Pháo bắn nhanh AK-630 gồm 6 nòng cỡ 30mm, có tốc độ khai hỏa lên tới 6.000 phát/phút. AK-630 là "lá chắn" cuối cùng của Gepard, được sử dụng trong trường hợp hệ thống Palma không tiêu diệt hết các tên lửa diệt hạm đe dọa Gepard.




Vũ khí uy lực nhất của Gepard Đinh Tiên Hoàng là hệ thống tên lửa diệt hạm Uran E. Tên lửa sử dụng trong hệ thống Uran E là loại tên lửa chống hạm dưới âm, bay sát mặt biển, sử dụng hệ dẫn quán tính giai đoạn bay giữa và radar chủ động giai đoạn cuối, có chiều dài 4,2m; đường kính 0,42m, trọng lượng 630kg, đầu đạn 145kg, tầm bắn 5-130km, tốc độ tối đa Mach 0,9, (tốc độ cận âm).

[VietnamDefence news]


Thứ Hai, 30 tháng 5, 2011

>> Ukraine tiếp tay cho chương trình tàu sân bay Trung Quốc



Công khai và bí mật, Ukraine đã và đang cung cấp cho Trung Quốc các vũ khí trang bị thiết yếu như động cơ xe tăng, tên lửa Kombat, R-27, tên lửa hành trình chiến lược Kh-55, tàu đổ bộ Zubr, động cơ máy bay, và đặc biệt là vũ khí trang bị cho dự án tàu sân bay như mẫu chế thử Su-33, động cơ thủy,...




Máy bay của Hải quân Nga luyện tập tại NITKA

Thiết kế tổ hợp mặt đất huấn luyện phi công tàu sân bay của Trung Quốc hầu như giống hệt tổ hợp NITKA ở Saki, Crimea, Ukraine; đặc biệt giống là kích thước và hình dáng bên ngoài của cầu bật (để máy bay cất cánh), một nguồn tin trong Hải quân Nga tiết lộ với tạp chí Kanwa.

Theo nguồn tin này, Trung Quốc không thể nào sao chép trung tâm NITKA sau khi tham quan NITKA 2-3 lần.

Nguồn tin trong ngành công nghiệp quốc phòng mới đây đã có bài trả lời phỏng vấn độc quyền với Kanwa về vấn đề này. Ông ta thừa nhận rằng, một công ty quốc doanh Ukraine (có thể là Ukrspetsexport) đang dính líu sâu vào chương trình đóng tàu sân bay của Trung Quốc và trang bị lại cho tàu sân bay Varyag. Song nguồn tin cũng nhấn mạnh rằng, sự tham gia đó mang tính chất rất hạn chế và mức độ tham gia thực tế của Ukraine vào dự án tàu sân bay Trung Quốc không giống như các đánh giá mà thế giới đưa ra, đồng thời lưu ý là toàn bộ thông tin có được về vấn đề này đều bắt nguồn từ công ty quốc doanh kia.

Nguồn tin cho biết, thông tin nói rằng, tàu Varyag sẽ được trang bị hệ thống động lực chính do Ukraine sản xuất là đúng. Ukraine cũng sẽ bán cho Trung Quốc 2 tàu đổ bộ đệm khí Zubr, chứ không phải 4 tàu như dư luận ngoài Ukraine bàn tán.

Nguồn tin cho hay: “Trong 2-3 năm qua, hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Trung Quốc và Ukraine đã tiến lên một trình độ mới về chất, chủ yếu là vì Trung Quốc muốn tiếp cận các công nghệ, nhưng chúng tôi cho rằng, việc đó không phù hợp với những lợi ích kinh tế của chúng tôi. Vì thế, trong chuyến thăm Bắc Kinh vừa qua của Tổng thống Ukraine, hai bên đã thảo luận triển vọng tăng cường hợp tác kỹ thuật quân sự, nhưng đến nay vẫn chưa có những kế hoạch cụ thể nào. Ở giai đoạn đầu, Trung Quốc muốn nghiên cứu cấu tạo của tàu đổ bộ Zubr, và chúng tôi giải thích với họ là sẽ không phải là chuyện khó nếu chúng tôi có thể hỗ trợ gì đó, nhưng sẽ không có chuyện chuyển giao công nghệ. Kết quả là biến thể Zubr của Trung Quốc khác với mẫu cơ sở vì trên tàu lắp đặt các hệ thống vũ khí, điều khiển hỏa lực của Trung Quốc, ngoài ra việc lắp ráp hoàn chỉnh cũng tiến hành ở Trung Quốc. Chúng tôi chỉ làm vỏ tàu. Ngoài ra, căn cứ vào kích thước các loại binh khí kỹ thuật cần đổ bộ của Trung Quốc, chúng tôi đã thay đổi cách bố trí các khoang”.

Một nguồn tin có uy tín mới đây cũng tiết lộ với Kanwa: “Các chuyên gia Ukraine đã đến thăm Nhà máy nồi hơi Harbin. Sau dự án hợp tác về turbine khí DN80 mà các vị đã biết (dự án nay bao gồm cả việc chuyển giao cho Trung Quốc công nghệ sản xuất turbine khí DN80, và các turbine này được lắp đặt cho tàu sân bay Varyag”), thì dự án hợp tác lớn nhất trong lĩnh vực vũ khí hải quân giữa Trung Quốc và Ukraine là hỗ Nhà máy nồi hơi Harbin sản xuất các nồi hơi và động cơ quân dụng công suất lớn”. Đáp lại câu hỏi liệu các nồi hơi mới có được lắp cho các tàu sân bay Trung Quốc dự định đóng sắp tới hay không, nguồn tin chỉ cười.

Hiện nay, có thể khẳng định chắc chắn, tàu Varyag và tàu sân bay nội địa của Trung Quốc sẽ được trang bị các nồi hơi của Ukraine. Công việc tiến triển tốt, Ukraine sẽ cung cấp các nồi hơi thử nghiệm cho Trung Quốc.

Trong khuôn khổ dự án xây dựng trung tâm huấn luyện phi công tàu sân bay tương tự tổ hợp NITKA, cũng theo các nguồn tin này, sự hợp tác mang tính chất rất hạn chế, bởi vì Ukraine đã bán các công nghệ và vũ khí trang bị, và không chịu trách nhiệm về việc xây dựng các công trình quân dụng. Ukraine chỉ tư vấn cho Trung Quốc về thiết kế bên trong của NITKA và cung cấp cho họ thông tin về các tòa nhà và công trình.

Theo Kanwa, kể cả như thế thì cũng có thể coi là kết quả không tồi. Nhờ sự hợp tác đó với Ukraine, Trung Quốc có khả năng nắm được những cách tiếp cận cơ bản đối với việc xây dựng NITKA.

Ukraine cũng có nhiều cơ hội bán vũ khí và công nghệ của mình cho Trung Quốc, khác với Nga, nơi toàn bộ hoạt động xuất khẩu vũ khí và công nghệ quân sự phải thực hiện thông qua công ty Rosoboronoexport.

Theo nguồn tin của Kanwa, “việc xuất khẩu các vũ khí như tên lửa chống tăng có điều khiển Kombat (phóng qua nòng pháo tăng) nằm trong thẩm quyền của công ty Artyom, công ty này cũng đang cung cấp cho Trung Quốc tên lửa không-đối-không R-27Т/R. Công ty này cũng có quyền xuất khẩu trực tiếp vũ khí. Công ty KhKBM A.A. Morozov ở Kharkov cũng có quyền xuất khẩu động cơ diesel dành cho xe tăng 6TD-2. Các công ty Antonov và Ivchenko-Progress cũng có thể cung cấp trực tiếp động cơ cho Trung Quốc”.

Trở lại với vấn đề xây dựng trung tâm tương tự NITKA ở Trung Quốc, vài năm trước Kanwa đã đưa tin nói rằng, tổ hợp NITKA của Ukraine đang thuộc quyền quản lý trực tiếp của Hải quân Ukraine, còn Bộ Quốc phòng Ukraine thì có quyền tự chủ trong xuất khẩu một số hệ thống vũ khí. Một nguồn tin khác tiết lộ với Kanwa rằng, mẫu chế thử của tiêm kích Su-33 (Т-10К) được chuyển cho Trung Quốc không phải thông qua Ukrspetexport. Theo Kanwa, Т-10К có thể đã do Hải quân hoặc Bộ Quốc phòng Ukraine cung cấp cho Trung Quốc dưới dạng vũ khí thanh lý. Cũng nhiều khả năng là tài liệu về NITKA cũng đã được Bộ Quốc phòng Ukraine cung cấp trực tiếp cho Trung Quốc.

Liên quan đến vai trò của Ukraine trong việc hỗ trợ Trung Quốc đóng các tàu sân bay, nguồn tin cho biết, Ukraine đã cử một số lượng hạn chế chuyên gia sang Trung Quốc. Theo Kanwa, điều đó có nghĩa là sau khi nghỉ việc, đa số các chuyên gia Ukraine sẽ đến Thượng Hải dưới tên thật của họ.
[VietnamDefence news]


>> Cắt cáp dầu khí Việt Nam, Trung Quốc nói là bình thường!



Sau khi bị Việt Nam phản đối về việc các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Dư đã có một số bình luận.

Bà Khương Dư nói trong một tuyên bố đăng tải trên trang web của bộ này rằng: "Những gì mà các cơ quan liên quan của Trung Quốc đã làm là các hoạt động giám sát và thực thi luật pháp hoàn toàn bình thường ở khu vực biển thuộc thẩm quyền tài phán của Trung Quốc”.


Thủ tướng Ôn Gia Bảo và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở thủ đô Bắc Kinh


Giống như mọi tuyên bố sau khi xảy ra những tranh chấp ở Biển Đông với các bên liên quan, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc vẫn khẳng định: "Trung Quốc đã cam kết bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Chúng tôi sẵn sàng làm việc với các bên có liên quan để tìm kiếm một giải pháp cho các tranh chấp liên quan”.

Hồi đầu tháng 3, tại các khu vực tranh chấp tại biển Hoa Đông và Biển Đông đã liên tiếp xảy ra những vụ việc có liên quan tới tàu, máy bay Trung Quốc. Trước phản ứng của Nhật, Philippines, ngày 8/3, phát biểu với báo chí ở Bắc Kinh, bà Khương Dư từng quả quyết: "Trung Quốc nắm giữ chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông. Trung Quốc tìm kiếm giải quyết tranh chấp bằng tham vấn thân thiện với các quốc gia khác”.

Trở lại vụ việc tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh. Hôm 27/5, quan chức Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận sáng 26/5, trong khi đang tiến hành khảo sát tại lô 148 trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, tàu Bình Minh 02 của PVN đã bị 3 tàu hải giám số 72, 17 và 84 của Trung Quốc cắt cáp thăm dò.

Lô 148 hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Vị trí cáp thăm dò bị phía Trung Quốc cắt chỉ cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên khoảng 120 hải lý, tức là còn 80 hải lý nữa mới đến ranh giới 200 hải lý. Khác với tình hình trong vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan, ở khu vực miền Trung vào phía Nam, trong đó có lô 148, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoàn toàn không chồng lấn với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, kể cả Trung Quốc.

Địa điểm tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp cách bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 340 hải lý. Do đó, việc tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa của mình. Là một thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982 nhưng hành động này của Trung Quốc lại hoàn toàn trái với nghĩa vụ của mình theo Công ước này.

Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội trao công hàm phản đối hành động nói trên của phía Trung Quốc, yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay, không để tái diễn những hành động vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.

Nội dung công hàm cũng nêu rõ hành động nói trên của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa của mình, vi phạm Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, trái với tinh thần và lời văn của Tuyên bố năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng như nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam và Trung Quốc về việc không làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông.

Biển Đông được coi là nơi cung cấp lộ trình vận chuyển quan trọng cho thương mại hàng hải toàn cầu và với các nền kinh tế Đông Á vốn phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu từ Trung Đông. Đây còn là vùng đa dạng sinh học cực lớn, nguồn thủy sản dồi dào, và được tin là rất giàu tài nguyên dầu khí.

Trong bài nghiên cứu về Biển Đông đăng trên tạp chí Hàng hải và Thủy sản quốc tế KMI, tác giả Nazery Khalid khuyến cáo: "Vì lợi ích chung của các nước trong khu vực, Biển Đông cần được xem là nền tảng của sự thịnh vượng hơn là nơi tranh chấp hay đấu khẩu. Các quốc gia liên quan tới tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông nên tự mình chấp nhận một tư thế linh hoạt hơn, ít hiếu chiến hơn trong vùng biển. Sẽ không có tác dụng trong việc thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng vùng biển khi mỗi người tham gia cuộc chơi có hành động gây hấn hay quan điểm cứng rắn để đảm bảo tuyên bố chủ quyền của mình. Và, con đường hòa bình thông qua các kênh ngoại giao cần được khai thác triệt để hơn là con đường dẫn tới căng thẳng gia tăng ở Biển Đông".
[Vitinfo news]


>> Nga giúp Hải quân Việt Nam tương đương với Ấn Độ



Trung tâm phân tích mua bán vũ khí TSAMTO của Nga nhận định, hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Nga ở trên mức đối tác chiến lược.


Sự kiện chuyển giao tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 thứ 2 cho Việt Nam là một cột mốc quan trọng trong khuôn khổ chương trình hợp tác kỹ thuật quân sự tầm đối tác chiến lược giữa hai nước.

Trước đó đầu tháng 5/2011, Hải quân Nhân Dân Việt Nam cũng đã tổ chức tiếp nhận chiếc tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đầu tiên.

Hợp đồng đóng mới tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đã được ký kết vào năm 2006, tàu được khởi đóng vào năm 2007. Theo số liệu của TSAMTO giá trị hợp đồng khoảng 350 triệu USD.

Zelenodolsky PKB đã đề xuất biến thể của tàu hộ tống tên lửa Tatarstan cho Hải quân Việt Nam với một loạt các nâng cấp.



Tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đang được đưa lên tàu vận chuyển.


Tàu được thiết kế với khả năng tàng hình nhẹ, trang bị hệ thống phòng không phức tạp Palma-SU với hệ thống dẫn hướng quang-điện tử. Hệ thống tên lửa chống hạm Kh-35 Uran E. Vũ khí khác bao gồm, pháo hạm cải tiến AK-176M 76mm, hai pháo bắn siêu nhanh AK-630M 30mm, ống phóng ngư lôi kép 533mm.

Đặc biệt, tàu hộ tống tên lửa Gepard thứ 2 đã được cải tiến hiệu suất của động cơ, tốc độ trung bình của tàu vượt quá 21 hải lý/giờ thay vì 18 hải lý/giờ như ban đầu, tốc độ tối đa đạt 28 hải lý/giờ.

Tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 có thể thực hiện một loạt các nhiệm vụ khác nhau, tuần tra, hộ tống, tìm kiếm, phát hiện và tiêu diệt các mục tiêu mặt nước, phòng không và tàu ngầm.

Tàu có khả năng hoạt động độc lập hoặc tác chiến biên đội, tàu có khả năng hoạt động liên tục 20 ngày trên biển. Nội thất của tàu đã được cải tiến rất nhiều để tăng độ tiện nghi cho thủy thủ đoàn.

Phía Việt Nam đã bày tỏ ý định đóng mới thêm 2 chiếc nữa theo giấy phép từ phía Nga tại một nhà máy đóng tàu của Việt Nam, tuy nhiên đề nghị này chưa thực hiện được.

Hợp tác quân sự giữa Nga và Việt Nam trong những năm gần đây có bước phát triển vượt bậc.

Hiện tại Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, hợp tác trong các lĩnh vực kỹ thuật quân sự giữa hai nước sẽ được mở rộng hơn nữa trong thời gian tới.

Trước đó, Việt Nam cũng đã hoàn thành việc mua giấy phép đóng mới tàu tuần tra tên lửa Project 1241.8. Điều kiện để đóng tàu tuần tra tên lửa này tại Việt Nam đã hoàn tất vào năm 2006. Năm 2010, việc giải quyết một phần của giấy phép để đóng mới 10 tàu tuần tra tên lửa đã bắt đầu. Dự kiến công việc đóng mới 10 tàu tuần tra tên lửa Project 1241.8 sẽ được hoàn thành vào năm 2016.

Ngoài ra, phía Việt Nam cũng đã hoàn thành việc ký kết hợp đồng mua 10-12 tàu tuần tra cao tốc Project 10412. công việc đang được tiến hành tại nhà máy đóng tàu Almaz ở St Petersburg. Tàu tuần tra Project 10412 có khả năng đạt tốc độ tới 30 hải lý/giờ.



Hệ thống phòng thủ bờ biển K-300P Bastion.


Không chỉ vậy, Việt Nam cũng đã trở thành khách hàng nước ngoài đầu tiên của hệ thống phòng thủ bờ biển di động K-300P Bastion. Bên cạnh đó Việt Nam cũng đang xúc tiến các hoạt động để ký kết một thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật trong sản xuất tên lửa chống tàu Yakhont.

Năm 2009, Việt Nam và Nga cũng đã ký kết hợp đồng lớn nhất từ trước đến nay về việc mua bán 6 tàu ngầm tấn công điện-diesel Kilo 636. Cùng với đó là hợp đồng xây dựng cơ sở hạ tầng hầu cần và dịch vụ kỹ thuật cho tàu ngầm tại Việt Nam.

Việt Nam hy vọng nhận được một khoản vay từ Nga để mua các thêm các tàu ngầm, tàu hậu cần, tàu cứu hộ và máy bay chiến đấu hải quân. Lực lượng tàu ngầm và hàng không hải quân sẽ là những cấu trúc mới trong cơ cấu lực lượng vũ trang Việt Nam.

Bên cạnh việc mua vũ khí mới,Việt Nam cũng đã ký kết hợp đồng mua hệ thống mô phỏng huấn luyện hải quân Laguna 1241RE dùng để huấn luyện chiến đấu cho tàu tuần tra tên lửa Project 1241.8. Hệ thống mô phỏng huấn luyện Laguna-11661cho tàu hộ tống tên lửa Gepard.

Ngoài hải quân, không quân Việt Nam cũng đang được hiện đại hóa sâu rộng với các hợp đồng mua máy bay và hệ thống phòng không mới từ Nga. Việt Nam và Nga cũng đang xúc tiến các hoạt động để ký kết hợp đồng nâng cấp các hệ thống phòng không được Liên Xô chuyển giao trước đây.

TSAMTO nhận định, khối lượng công việc các hợp đồng mua bán vũ khí hải quân của Việt Nam gần tương đương với sự giúp đỡ mà Nga dành cho Hải quân Ấn Độ
[VietnamDefence news]


>> Việt Nam tự chủ số lượng tên lửa bảo vệ lãnh hải



Quan hệ hợp tác Nga - Việt trong những năm gần đây đã có tính chất đối tác chiến lược. Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Việt Nam.


Việt Nam là khách hàng đầu tiên mua hệ thống tên lửa bờ biển cơ động К-300P Bastion-P sau khi ký hợp đồng mua 2 hệ thống này vào năm 2006.

Nga đang chuẩn bị hợp đồng hỗ trợ Việt Nam sản xuất tên lửa chống hạm Yakhont. Hợp đồng này trị giá ước 300 triệu USD.

Tên lửa Yakhont được phóng từ hệ thống Bastion-P do công ty NPO của Nga nghiên cứu và chế tạo, chủ yếu dùng để tấn công các mục tiêu trên đất liền và trên biển. Phạm vi tấn công là 300 km, có thể dùng để bảo vệ đường bờ biển dài hơn 600km.



Hải quân Nhân dân Việt Nam thao diễn với hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion-P

Tên lửa Yakhont

Có tên thiết kế là 3k-55 Onyx/Yakhont P-800, SS-N-26 là tên lửa tầm trung chiến thuật, phát triển từ năm 1983, trang bị cho hải quân Nga vào năm 1999. Đến năm 2001, P-800 đã được triển khai trên nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả trên biển, trên không và đất liền.

Trong vài năm gần đây, Nga bán bản quyền hợp tác sản xuất P-800 cho Ấn Độ dưới tên là Brahmos A và Brahmos S.


SS-N-26 là tên lửa chiến thuật tầm trung, được trang bị cho cả máy bay, tàu chiến và trên xe ô tô. Ảnh là một chiếc Su-33 được trang bị Yakhont.

Về mặt thiết kế, P-800 giống tên lửa chống hạm Moskit (SS-N-22) và P-700 Granit. P-800 có kích thước 8,9 x 0,9 (m), trọng lượng 3 tấn, đầu đạn nặng 250 kg, sải cánh rộng 1,7 m, sử dụng động cơ đẩy phản lực thẳng, nhiên liệu lỏng, hoạt động trong phạm vi từ 120 - 300 km tùy theo độ cao và hành trình với vận tốc 2,5 M.

So với các tên lửa đối hải thế hệ trước, hành trình của P-800 đặc biệt hơn. Ngay khi rời bệ phóng P-800 bay vút lên cao, hành trình gần tới mục tiêu thì dần dần hạ thấp độ cao. Khoảng cách tới mục tiêu khi tên lửa hạ thấp có thể được lập trình từ trước.

Việc kiểm soát độ cao của tên lửa được thực hiện nhờ radar KTRV-Deltal K313, cho phép tên lửa có thể hoạt động tại độ cao từ 1.000 m đến 5000 m.



Nga và Ấn Độ phối hợp sản xuất một phiên bản SS-N-26, có tên là Brahmos A/S.
Ảnh là hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion, sử dụng tên lửa Brahmos.



Hệ thống dò mục tiêu Granit - Elektron được trang bị cho Yakhont của Nga và Brahmos của Ấn Độ.

P-800 sử dụng hệ thống dò tìm mục tiêu Granit – Elektron. Đây là một trong những hệ thống rò tìm mục tiêu kỹ thuật số hiện đại nhất của Nga cho đến ngày nay. Radar có thể hoạt động ở hai trạng thái: chủ động và thụ động.

Trong chế độ chủ động, radar hoạt động ở giải băng tần rộng với điều biến phổ tần ngẫu nhiên, có thể xác định mục tiêu cách 50km. Khi tên lửa phát hiện mục tiêu và lại gần ở khoảng cách 25 - 30 km, tên lửa tắt mọi liên lạc với hệ thống và chỉ sử dụng radar ở trạng thái thụ động.

Nhờ công nghệ hiện đại, P-800 có thể chống lại hiệu quả hệ thống gây nhiễu của đối phương, đồng thời cho phép hoạt động trong điều kiện biển động cấp 7.



Brahmos của Ấn độ có những cải tiến lớn về hệ thống dẫn đường và Ấn độ dự kiến triển khai trên cả máy bay Su-27/30

Trong phiên bản hợp tác sản xuất với Ấn độ, tên lửa Brahmos có những cải tiến đáng kể về hệ thống dẫn đường. Biến thể Brahmos dự kiến được Ấn độ triển khai trên các tàu chiến, các hệ thống phòng thủ bờ biển di động và trên máy bay Su27/30.

Nga và Ấn độ cũng đang xem xét triển khai phiên bản Brahmos tấn công đất liền. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào khả năng tăng độ chính xác cũng như hệ thống dẫn đường bổ sung.

Hệ thống Bastion-P

Hệ thống phòng thủ bờ biển sử dụng tên lửa P-800 được đặt tên là hệ thống phòng thủ Bastion. Đây là một hệ thống phòng thủ bờ biển di động, sử dụng xe MZKT-7930 TEL, trọng tải 41 tấn, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa, hoạt động trong đội hình bao gồm các xe mang tên lửa, xe chỉ huy, hệ thống radar truyền tiếp thông tin.

Hệ thống này được thiết kế dựa trên phiên bản của tên lửa chống tàu có tốc độ siêu âm nổi tiếng Ruby K301. Ống phóng TPS dạng kín của hệ thống dài 8,9m, đường kính 71cm, trọng lượng 3.900 kg. Tổng chiều dài của hệ thống bao gồm cả đầu đạn và hệ thống điều khiển là 8,6m. Đạn của tên lửa có đượng kính là 67cm.



Hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion sử xe MZKT-7930 TEL, mỗi xe mang theo ba quả tên lửa.

Hệ thống Bastion-P (còn gọi là Fortress-P) chuẩn gồm: Mô hình cơ bản của một tổ hợp bao gồm 4 xe mang tên lửa tự hành K340P SPU (loại xe dựa trên khung gầm xe tải MZKT-7930). Mỗi xe mang 2 ống phóng TPS chứa tên lửa; 1-2 xe điều khiển K380P MBU (trọng tải 25 tấn trên khung xe MZKT- 65273) có thể triển khai chiến đấu chỉ trong vòng 5 phút.

Theo yêu cầu của khách hàng, số lượng của các trang thiết bị trên các loại xe kể trên có thể điều chỉnh.

Ngoài ra, còn có một xe đảm bảo sẵn sàng chiến đấu MOBD và 4 xe chở đạn K342P TZM (trên khung xe MZKT-7930), trang bị cần cẩu có trọng tải 5,9 tấn dùng để tiếp đạn cho xe K340P và các thiết bị hỗ trợ kỹ thuật huấn luyện chiến đấu đi kèm.



Bastion-P được gọi là hệ thống tên lửa đối hạm tiên tiến nhất trên thế giới với thời gian triển khai bố trí của tên lửa chống tàu Fortress chỉ mất 5 phút.


Hệ thống này còn được trang bị thiết bị hỗ trợ ngắm bắn như, hệ thống radar ngắm bắn tự động Monolit-B hay hệ thống ngắm bắn đường không 1K130E.

Khi nhận lệnh phóng, đạn tên lửa được kích hoạt buồng đốt để thoát khỏi ống phóng trước khi mở hệ thống cánh ổn định hướng và điều hướng. Tên lửa này có hiệu quả tác chiến cao nhờ tốc độ nhanh, hành trình bay đa dạng, diện tích phản xạ radar nhỏ, do được bọc một lớp vật liệu có tính năng hấp thụ sóng radar.

Với tính năng “bắn rồi quên”, đạn tên lửa công kích mục tiêu hoàn toàn tự động sau khi nhận phần tử bắn từ hệ thống trinh sát/điều khiển của tổ hợp.
[BDV news]


Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

>> Thụy Điển phát triển tiêm kích trên hạm Sea Gripen



Công ty Saab (Thụy Điển) ngày 24.5 tuyên bố sẽ thành lập tại Anh một viện thiết kế làm nhiệm vụ phát triển Sea Gripen, biến thể trên hạm của tiêm kích JAS 39 Gripen NG.


Đồng thời, công ty cũng sẽ mở văn phòng đại diện tại London để tuyển dụng chuyên gia cho viện thiết kế này.

Dự kiến, viện nghiên cứu ở Anh sẽ đi vào hoạt động trong mấy tháng tới. Giai đoạn 1 phát triển Sea Gripen - giai đoạn thiết kế sẽ kéo dài 12-18 tháng, sau đó Saab sẽ chế tạo một mẫu chế thử để thử nghiệm ở Linkoping, Thụy Điển. Các tiêm kích Sea Gripen sản xuất loạt có thể bắt đầu chuyển giao cho khách hàng từ năm 2018.









Hiện chưa rõ, Saab dự định bán Sea Gripen cho những nước nào, song họ có nêu hải quân Brazil và Ấn Độ là những khách hàng tiềm năng.

Saab đã tiến hành các tính toán ban đầu cho dự án Sea Gripen từ 5 năm trước. Theo thiết kế, máy bay có thể sử dụng trên các tàu sân bay có lượng giãn nước không dưới 25.000 tấn (tàu sân bay São Paulo của Brazil có lượng giãn nước 33.000 tấn). Trong quá trình phát triển máy bay, Saab hy vọng sử dụng những kết quả nghiên cứu của Anh trong lĩnh vực máy bay trên hạm.

Trước đó, được biết liên doanh Eurofighter dự định chế tạo biến thể trên hạm của tiêm kích Typhoon. 33% cổ phần của liên doanh này thuộc về công ty BAE Systems (Anh). Tại triển lãm hàng không Aero India 2011 ở Bangalore, tháng 2.2011, Eurofighter đã mời chào Bộ Quốc phòng Ấn Độ mua Typhoon trên hạm cho hải quân nước này.

Typhoon trên hạm sẽ có bộ càng vững chắc hơn, móc hạ cánh và các động cơ điều khiển vector lực kéo theo phương thẳng đứng. Còn kết cấu chung của máy bay sẽ thay đổi không đáng kể.
[VietnamDefence news]


>> Indonesia mua 16 T-50 Đại bàng Vàng



Trong lễ ký ở Jakarta, công ty Korea Aerospace Industry (KAI) đã ký hợp đồng với Bộ Quốc phòng Indonesia cung cấp 16 máy bay huấn luyện phản lực T-50 Golden Eagle, tổng trị giá ước 400 triệu USD.

Tháng 4.2011, KAI đã được chọn làm nhà thầu ưu tiên trong cuộc đấu thầu bán máy bay huấn luyện phản lực mới cho Không quân Indonesia. Trong quá trình đàm phán sau đó, hai bên đã thảo luận các điều kiện và thời hạn giao hàng, trang thiết bị mặt đất, việc bảo dưỡng kỹ thuật và cung cấp phụ tùng.

Theo Korea Herald, hợp đồng vừa ký sẽ có hiệu lực ngay sau khi Bộ Tài chính Indonesia và Ngân hàng Xuất-nhập khẩu Hàn Quốc hoàn tất đàm phán khía cạnh tài chính của hợp đồng. Nếu tất cả các thủ tục được hoàn tất thuận lợi thì hợp đồng này là thương vụ xuất khẩu đầu tiên máy bay T-50.


Hiện nay, T-50 chỉ dùng để huấn luyện phi công tiêm kích của Không quân Hàn Quốc. Trước đó, T-50 đã thua máy bay M-346 Master của Italia trong các cuộc đấu thầu mua máy bay huấn luyện phản lực của không quân UAE và Singapore.

Những chiếc T-50 đầu tiên sẽ được bàn giao cho Indonesia vào năm 2013. T-50 sẽ thay thế các máy bay huấn luyện-chiến đấu vũ Hawk Mk.53 của Không quân Indonesia vốn dự kiến bị loại bỏ trong năm 2011.

Tham dự cuộc thầu, ngoài KAI, còn có Embraer (Brazil), Alenia Aermacchi Italia), Aero Vodochody (Czech) và Rosoboronoexport với các máy bay lần lượt là EMB-314 Super Tucano, M-346 Master, L-159B ALCA và Yak-130. Trong một thời gian dài, 2 loại máy bay Yak-130 của Nga và L-159B của Czech được Indonesia xem như phương án thay thế có thể cho Hawk. Năm 2010, Indonesia đã 2 lần công bố Embraer thắng thầu. Vì thế, việc lựa chọn T-50 là một bất ngờ lớn.

T-50 đã được đưa vào tham gia tranh thầu cùng với sự củng cố quan hệ quốc phòng Hàn Quốc-Indonesia. Hai bên đã ký hợp đồng hợp tác phát triển tiêm kích KF-X thế hệ 4.5.

Trước đó, KAI tuyên bố, T-50 được chọn trong điều kiện cạnh tranh ác liệt với các máy bay khác và công ty hy vọng thương vụ với Indonesia sẽ có hiệu ứng tích cực khi đàm phán bán T-50 cho Israel, Ba Lan, Mỹ và Ấn Độ.

Quân đội Indonesia cùng từng tuyên bố không loại trừ khả năng mua máy bay huấn luyện của một hãng dự thầu khác sau khi ký hợp đồng với hãng thắng thầu.

T-50 do KAI hợp tác với Lockheed Martin (Mỹ) phát triển trong một dự án 13 năm, trị giá khoảng 2.000 tỷ won (1,8 tỷ USD). Theo KAI, việc sử dụng Golden Eagle cho phép giảm 20% giờ bay và 30% thời gian huấn luyện.

T-50 Golden Eagle 2 chỗ ngồi, có khả năng đạt tốc độ đến 1.700 km/h, tầm bay đến 1.900 km. Thiết bị avionics, các hệ thống điều khiển bay và cánh của T-50 do Lockheed Martin sản xuất. T-50 được trang bị động cơ F404 của General Electric (Mỹ).

Ngoài nhiệm vụ huấn luyện, Không quân Indonesia còn dự định sử dụng T-50 làm tiêm kích hạng nhẹ.
[VietnamDefence news]


>> Việt Nam sắp sản xuất siêu tên lửa Yakhont



Quan hệ hợp tác Nga-Việt trong những năm gần đây đã có tính chất đối tác chiến lược. Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Việt Nam.



Tên lửa chống hạm siêu âm Yakhont


Trong tương lai, hợp tác kỹ thuật quân sự song phương sẽ còn mở rộng hơn nữa. Nga đang hợp tác với Việt nam về tất cả các loại vũ khí trang bị.

Trong quá trình hiện đại hóa hoàn toàn Hải quân, Việt Nam đã trở thành một trong những khách hàng lớn nhất của vũ khí trang bị hải quân Nga. Tổng giá trị các đơn đặt hàng mua vũ khí hải quân của Việt Nam có thể sánh với các hợp đồng hiện tại đang thực hiện cho Hải quân Ấn Độ.

Cuối năm 2009, Nga và Việt Nam ký hợp đồng mua bán 6 tàu ngầm diesel Projekt 636 Kilo trị giá gần 1,8 tỷ USD. Ngày 26.8.2010, tại xưởng đóng tàu Admiralteiskye Verfi đã diễn ra lễ khởi đóng tàu ngầm đầu tiên trong 6 chiếc Kilo mà Hải quân Việt Nam đặt hàng. Các tàu ngầm Kilo của Việt Nam sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S.

Ba tháng sau khi ký hợp đồng, hai bên đã bắt đầu đàm phán về việc xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng liên quan. Dự án này trị giá dự đoán tương đương, hoặc thậm chí lớn hơn giá trị các tàu ngầm.

Việt Nam muốn Nga cấp tín dụng xây dựng cả căn cứ tàu ngầm, cũng như các loại tàu khác (kể cả tàu cứu hộ và bảo đảm) và máy bay hải quân.

Lực lượng tàu ngầm và không quân hải quân là những đơn vị mới trong quân đội Việt Nam.

Dự án lớn thứ hai trong lĩnh vực vũ khí hải quân là chương trình mua sắm và đóng theo giấy phép các tàu tên lửa Molnya, tổng trị giá ước 1 tỷ USD. Trong thập niên 1990, Việt Nam đã nhận được 4 tàu tên lửa Projekt 1241RE Molnya trang bị hệ thống tên lửa chống hạm Termit. Năm 1993, Việt Nam mua giấy phép đóng các tàu tên lửa Projekt 1241.8 Molnya trang bị hệ thống tên lửa Uran Việc chuyển giao các tài liệu kỹ thuật, tiêu chuẩn và công nghệ để đóng các tàu này bắt đầu từ năm 2005. Từ năm 2006, bắt đầu quá trình chuẩn bị đóng tàu. Theo hợp đồng ký năm 2003, 2 tàu Projekt 1241.8 Molnya trang bị hệ thống tên lửa Uran dự định đóng tại Nga và 10 tàu còn lại đóng theo giấy phép tại Việt Nam. Tàu Molnya Projekt 1241.8 với hệ thống Uran-E đầu tiên được chuyển giao cho Việt Nam vào năm 2007, chiếc thứ hai vào năm 2008. Năm 2010, việc đóng theo giấy phép 10 tàu trong giai đoạn đến nă 2016 bắt đầu với việc khởi đóng tàu đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh.

Nga vẫn tiếp tục chương trình cung cấp tàu tuần tra cho Việt Nam. Mùa hè năm 2002, 2 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak, do Hải quân Việt Nam đặt hàng đã được hạ thủy tại xưởng đóng tàu Almaz (St. Petersburg). Hai tàu này đã được bàn giao cho Việt Nam vào tháng 1.2003. Trị giá mỗi tàu là 10-15 triệu USD.

Các tàu này đóng theo hợp đồng ký giữa Việt Nam và Rosoboronoexport vào tháng 11.2001. Tàu lớp Svetlyak dùng để bảo vệ hải phận, các tuyến giao thông ven bờ và chống đánh cá trộm. Vũ khí trên tàu gồm 2 ụ pháo АК-306, 1 bệ phóng tên lửa phòng không Igla-1М.

Hồi đó, Việt Nam cũng bày tỏ ý định tiếp tục đóng tàu Svetlyak (tổng số lên tới 10-12 chiếc). Chương trình này tiếp tục vào năm 2009. Mùa hè 2009, 2 xưởng đóng tàu Nga (hãng đóng tàu Almaz và Nhà máy sửa chữa tàu Vostochnaya Verf ở Vladivostok) đã khởi đóng tổng cộng 4 tàu Projekt 10412 Svetlyak (mỗi xưởng đóng 2 tàu) theo đơn đặt hàng của Việt Nam.

Projekt 10412 do hãng TsMKB Almaz ở St. Petersburg thiết kế. Tàu có khả năng đi biển tốt, tốc độ gần 30 hải lý/h. Tàu được trang bị 1 khẩu pháo, các súng máy phòng không, thủy thủ đoàn gồm 28 người.



Hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P Bastion-P

Việt Nam là khách hàng đầu tiên mua hệ thống tên lửa bờ biển cơ động К-300P Bastion-P sau khi ký hợp đồng mua 2 hệ thống này vào năm 2006.

Nga đang chuẩn bị hợp đồng hỗ trợ Việt Nam sản xuất tên lửa chống hạm Yakhont. Hợp đồng này trị giá ước 300 triệu USD.

Tháng 1.2002, công ty Kronshtadt đã cung cấp cho Hải quân Việt Nam hệ thống huấn luyện tổng hợp Laguna-1241RE. Kronshtadt đã sử dụng các công nghệ phần mềm hệ thống huấn luyện của công ty Tranzas để thiết kế hệ thống Laguna.

Laguna được sử dụng để huấn luyện các kỹ năng điều khiển các tàu tên lửa lớp Projket 12141RE trang bị hệ thống tên lửa Termit được cung cấp cho Việt Nam trong những năm 1990.

Việt Nam cũng bày tỏ ý định mua hệ thống huấn luyện tổng hợp cho 3 tàu Projekt 1241RE, Projekt 1241.8 và cho các frigate mới mua Gepard-3.9.

Tháng 9.2006, hãng Rosoboronoexport đã ký hợp đồng với Hải quân Việt Nam nhằm hiện đại hóa hệ thống huấn luyện Laguna-1241RE và cung cấp các hệ thống huấn luyện mới cho các tàu tên lửa Projekt 1241RE và 1241.8 Molnya. Hợp đồng đã được thực hiện vào tháng 12.2007.

Nga cũng đang thực hiện các dự án lớn bán máy bay chiến đấu và vũ khí phòng không cho Việt Nam.
[VietnamDefence news]


>> Thượng viện Mỹ 'bật đèn xanh' cho Đài Loan mua F-16



Gần 50% các Thượng nghị sỹ của Thượng viện Mỹ đồng ý bán thêm máy bay chiến đấu F-16 mới cho Đài Loan.

Các Thượng nghị sỹ Mỹ cho rằng, nếu không bán thêm các máy bay chiến đấu F-16 mới cho Đài Loan, hòn đảo này sẽ mất dần khả năng tự vệ trước sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc.

Tại một buổi điều trần tại Thượng viện Mỹ về việc bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Thương mại Gary Locke làm đại sứ tại Trung Quốc, Thượng nghị sỹ Robert Menendez cho biết, 40 thành viên của Thượng viện sẽ gửi một lá thư cho Tổng thống Obama thúc giục bán máy bay chiến đấu F-16 cho Đài Loan.

Ông Menendez cho biết rất quan tâm đến tốc độ chi tiêu cho quân sự của Trung Quốc, Mỹ cần đưa ra một quyết định về việc bán máy bay chiến đấu cho Đài Loan. “Nếu chúng ta rời bỏ Đài Loan, tôi nghĩ rằng điều đó sẽ làm trầm trọng thêm tình hình” Thượng nghị sỹ Menendez nói.

Rất hiếm khi cùng một lúc có nhiều nhà lập pháp gửi thư cho Tổng thống, do đó, Thượng nghị sỹ Menendez hy vọng rằng Bộ trưởng Locke sẽ ủng hộ việc bán F-16 cho Đài Loan.

Bộ trưởng Bộ Thương mại Gary Locke cho biết: “Mỹ đứng bên cạnh Đài Loan để đảm bảo rằng họ có thể bảo vệ mình và khả năng tự vệ của họ sẽ không bị sói mòn”.

Bắc Kinh luôn xem Đài Loan là một bộ phận không thể tách rời, mọi khả năng đều được đặt ra, ngay cả một chiến dịch quân sự để thu phục hòn đảo này.



Đài Loan vẫn đang mong muốn sở hữu thêm các máy bay chiến đấu F-16 mới, nhằm duy trì khả năng tự vệ.

Mỹ đã thiết lập ngoại giao với Bắc Kinh vào năm 1979, cùng với thời điểm đó Quốc hội Mỹ cũng đã thông qua Đạo luật quan hệ với Đài Loan. Trong đó, có điều khoản yêu cầu chính quyền cung cấp vũ khí để đảm bảo khả năng phòng thủ của Đài Bắc.

Năm 2010, Mỹ đã phê duyệt hợp đồng bán vũ khí trị giá 6,4 tỷ USD cho Đài Loan, bao gồm hệ thống tên lửa phòng không Patriot, trực thăng Black Hawk, nhưng không có các máy bay chiến đấu F-16 mới. Hợp đồng này đã khiến Bắc Kinh tức giận, sau đó, quan hệ ngoại giao quân sự giữa đôi bên bị cắt đứt suốt năm 2010.

Dù quan hệ ngoại giao giữa Đài Bắc và Bắc Kinh đang có những cải thiện rõ rệt, song Tổng thống Mã Anh Cữu vần nhiều lần yêu cầu Mỹ bán máy bay chiến đấu F-16 mới, thậm chí là cả tàu ngầm.

Sau chuyến thăm của Bộ trưởng Gates đến Bắc Kinh đầu năm 2011, các nhà phân tích chính trị cho rằng, nhiều khả năng Đài Bắc sẽ không còn cơ hội để sở hữu thêm các máy bay chiến đấu F-16 mới.

Tuy nhiên, mọi chuyện đang đi theo chiều hướng ngược lại, kể từ sau chuyến thăm của Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Trần Bình Đức đến Mỹ. Đặc biệt sau những lời phát biểu của ông tại đây.

Như vậy, với việc đa số các Thượng nghị sỹ trong Thượng viện Mỹ “bật đèn xanh” bán F-16 cho Đài Loan, Đài Bắc đang đứng trước cơ hội hiến có để sở hữu thêm các máy bay chiến đấu mới. Nếu điều này được thông qua, Washington sẽ phải đối mặt thái độ của Bắc Kinh.
[BDV news]


>> Lần đầu tiên Philippines không mua trực thăng của Mỹ



Bộ Quốc phòng Philippines đã ký hợp đồng mua 8 trực thăng đa nhiệm W-3A Sokol của Công ty PZL Swidnik (Ba Lan).


Flightlobal cho biết, hợp đồng chuyển nhượng 8 trực thăng Sokol cho Philippines sẽ có giá 2,8 tỷ peso Philippines, tương đương 64,5 triệu USD.

Theo các điều kiện của đồng, Philippines sẽ nhận 4 chiếc trực thăng đầu tiên vào tháng 11/2011, số còn lại sẽ được bàn giao vào quý 2 năm 2012.



Trực thăng W-3A Sokol. Ảnh galerie.paluzga.net

Theo bình luận của các chuyên gia quân sự nước ngoài, mục đích các nhà quân sự Philippines mua trực thăng của Ba Lan là dùng để chiến đấu trong đội hình của các thăng UH-1H/V Iroquois, loại trực thăng có vai trò vận chuyển là chính.

Hiện, trong trang bị của Không quân Philippines có tất cả 88 chiếc trực thăng UH-1H/V Iroquois, trong đó phần lớn được sử dụng từ những năm 1970.

Đầu tháng 11/2010, Philippines đã được Mỹ “cho không” 5 chiếc UH-1 đã qua sử dụng.

Có thể thấy rằng, đây là lần đầu tiên Philippines mua trực thăng quân sự mà không phải do Mỹ sản xuất. Điều này có thể cho thấy ý định của Chính phủ Philippines trong tương lai là muốn đa dạng hoá các loại máy bay cho không quân.



Trực thăng W-3A Sokol có thể nâng tải nặng 2 tấn. Trực thăng W-3A Sokol có thể chở được 12 người, tăng tốc đến 260 km/h và tầm hoạt động lên tới 745km.



Philippines đang xem xét khả năng hiện đại hoá các trực thăng tấn công hạng nhẹ MD Helicopters MD 520.

Theo kế hoạch cải tiến, trực thăng MD Helicopters MD 520 sẽ được nâng cấp hệ thống điện tử, lắp đặt thiết bị quan sát đêm và thay động cơ cũ bằng động cơ có công suất lớn hơn.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, các yêu cầu về việc hiện đại hoá loại trực thăng trên chưa được chính thức thông qua.

W-3A Sokol là loại trực thăng đa nhiệm do Công ty PZL Swidnik của Ba Lan sản xuất, trên cơ sở trực thăng đa nhiệm Kania. Nhà sản xuất bắt đầu thiết kế 5 chiếc W-3A Sokol thử nghiệm vào năm 1978.

Trong đó chiếc đầu tiên thực hiện chuyến bay đầu tiên vào 16/11/1979, chiếc thứ hai – 6/5/1982, sản xuất hàng loạt bắt đầu vào năm 1985. Lô hàng đầu tiên gồm 50 chiếc được chế tạo vào năm 1991.
[BDV news]


>> Mỹ dùng vũ khí hạt nhân chia rẽ châu Âu



Washington đã bí mật giúp đỡ Pháp đạt được sự tiến bộ trong công nghệ hạt nhân vào những năm 1970.


Thỏa thuận hợp tác hạt nhân giữa Pháp và Mỹ được chính thức ký kết vào năm 1996, song các hoạt động hỗ trợ bí mật đã được thực hiện từ rất lâu trước đó.

Các tài liệu mật được công bố bởi AFP cho thấy, trong những năm 1970, chính quyền của Tổng thống Mỹ Nixon đã bật đèn xanh cho việc bí mật giúp đở Pháp phát triển vũ khí hạt nhân nhằm gây chia rẽ châu Âu.

Việc giải mã các tài liệu mật cho thấy, ông Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ lúc đó tiết lộ, ông muốn làm cho người Pháp nghĩ rằng họ có thể cạnh tranh với Anh và làm suy yếu những nỗ lực thống nhất châu Âu.

Pháp đã thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên vào năm 1960, trở thành quốc gia thứ tư sau Mỹ, Liên Xô và Anh sở hữu vũ khí hạt nhân như một nỗ lực của Tổng thống Charles de Gaulle nhằm đưa nước Pháp trỏ thành một cường quốc.

Trước đó, 3 đời Tổng thống Mỹ đã từ chối hợp tác về vũ khí hạt nhân với Pháp vì lo ngại những chính sách ngoại giao của Tổng thống De Gaulle tạo ra một cuộc chay đua vũ trang dẫn đến việc nước Đức sở hữu vũ khí hạt nhân.


Sự tiến bộ trong công nghệ hạt nhân của Pháp có bàn tay của Washington.

Tuy nhiên, chính quyền của Tổng thống Nixon nhận thấy chương trình phát triển vũ khí hạt nhân của Pháp là không thể dừng lại được, thay vào đó nên giúp đỡ Pháp và tạo ra đòn bẩy chiến lược.

Tại thời điểm đó, luật pháp Mỹ ngăn cản các hỗ trợ nước ngoài trực tiếp phát triển công nghệ hạt nhân. Do đó chính quyền Nixon đã gián tiếp cung cấp các tài liệu cho phía Pháp.

Robert Galley, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp dưới thời Tổng thống Georges Pompidou yêu cầu Mỹ hướng dẫn việc phát triển đầu đạn hạt nhân.

Trong một báo cáo gửi cho Tổng thống Nixon, ông Henry Kissinger nói rằng, Mỹ sẽ cung cấp thông tin cho phía Pháp một cách từ từ. Theo đó, Mỹ sẽ làm một điều gì đó cho nước Pháp hiểu biết thêm về công nghệ hạt nhân. Nhưng không phải tất cả được cung cấp một lúc, báo cáo nhấn mạnh.

Ngoài ra, ông Kissinger còn kết luận trong một tài liệu: “Chúng ta muốn giữ cho châu Âu sự phát triển đoàn kết của họ như là một khối đối với chúng ta. Nếu chúng ta giúp người Pháp mục tiêu của chúng ta sẽ được thực hiện”. Thông tin trên được lấy ra từ các tài liệu tìm thấy tại kho lưu trữ ĐH Quốc gia George Washington và Trung tâm lịch sử dự án phổ biến hạt nhân quốc tế.

Klaus Larres, một giáo sư tại ĐH Ulster cho biết, hành động của chính quyền Nixon là một bất thường đối với Mỹ.
[BDV news]


>> Gepard thứ 2 sắp về Việt Nam



Theo thông tin từ trang mạng Zdship, chiếc tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 thứ 2 sẽ về Việt Nam trong khoảng 2 tháng nữa.


Sau khi các quá trình thử nghiệm hệ thống vũ khí, điện tử và các hệ thống liên quan thành công, chiếc tàu hộ tống tên lửa lớp Gepard 3.9 được chế tạo bởi nhà máy đóng tàu Gorky Zelenodolsk sẽ lên đường về Việt Nam.

Kết quả nghiệm thu cho thấy tất cả các hệ thống thiết bị kỹ thuật trên tàu đều đáp ứng các yêu cầu trong hợp đồng đề ra.

Theo kế hoạch, chiến hạm Gepard thứ 2 này sẽ được đưa lên tàu Edietransporter vào ngày 26/5, tàu chuyên dụng để chở các tàu thuyền.



Tàu hộ tống tên lửa Gepard thứ 2 sắp về đến Việt Nam.


Dự kiến chiếc tàu Edietransporter này sẽ cập cảng Việt Nam trong khoảng 65 ngày nữa.

Tàu hộ tống tên lửa Gepard 3.9 đã được cải thiện hiệu suất cho khả năng đi biển, khả năng cơ động cao, nhanh nhẹn trong xử lý tình huống và tầm hoạt động.

Theo nhà sản xuất, nội thất của tàu đã được sửa đổi nhằm tăng độ tiện nghi cho thủy thủ đoàn. Đặc biệt, theo các chuyên gia của nhà máy đóng tàu, chiếc Gepard thứ 2 này được cải tiến khá nhiều so với trước, tiện lợi hơn trong hoạt động bảo trì và hoạt động
[BDV news]


Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

>> Trung Quốc - Israel muốn thoát khỏi sự theo dõi của Mỹ?



Tư lệnh Hải quân Trung Quốc Đô đốc Ngô Thắng Lợi đã có chuyến thăm chính thức đến Israel nhằm thúc đẩy mối quan hệ quân sự giữa đôi bên.

Tại Thủ đô Tel Aviv, Đô đốc Ngô Thắng Lợi đã có cuộc hội đàm với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Israel ông Ehud Barak, Tư lệnh Hải quân Israel, Đô đốc Eliezer Marom.

Nội dung cuộc hội đàm giữa các quan chức cấp cao hai bên không được công bố, tuy nhiên theo một nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Israel, chuyến thăm có liên quan tới những thay đổi về thương mại quốc phòng giữa 2 nước.

Từ lâu nay, quan hệ thương mại quốc phòng giữa Tel Aviv và Bắc Kinh phải chịu sự chi phối từ phía Washington. Phía Mỹ nhiều lần lên tiếng cảnh báo và phủ quyết các hoạt động chuyển giao công nghệ từ Israel cho Trung Quốc, đất nước mà Washington luôn coi là đối thủ cạnh tranh chiến lược, nếu không muốn nói là “kẻ thù tiềm năng”.

Trước đó, Washington ép Israel phải hủy bỏ hợp đồng chuyển giao các công nghệ của tiêm kích Lavi, hợp đồng trị giá 1 tỷ USD hệ thống chỉ huy và cảnh báo sớm trên không Phalcon, ngăn cấm Israel bán các máy bay trinh sát không người lái cho Bắc Kinh.


Đô đốc Ngô Thắng Lợi trong buổi hội đàm với Bộ trưởng BQP Ehud Barak.

Không chỉ vậy, Israel phải tham vấn ý kiến của Washington trước khi thực hiện bất kỳ hợp đồng mua bán vũ khí ra nước ngoài.

Tuy nhiên, sau cuộc hội đàm với Đô đốc Ngô, một quan chức cấp cao giấu tên của Bộ Quốc phòng Israel cho biết: “Chính sách của chúng tôi đối với người bạn Mỹ gần gũi vẫn không thay đổi”. Đồng thời, ông này vẫn tìm cách từ chối giải thích mục đích chuyến thăm của Tư lệnh Hải quân Trung Quốc.

Thực tế cho thấy, mối quan hệ thương mại quân sự với Israel mang lại cho Trung Quốc một lối đi mới, một cách gián tiếp để tiếp cận công nghệ cao từ phương Tây.

Việc mua lại bản vẽ khí động học của máy bay tiêm kích Lavi đã bị hủy bỏ của Israel mang lại cho công nghiệp hàng không quân sự Trung Quốc một lối thoát để tạo nên J-10, xương sống cho lực lượng không quân nước này.

Israel là quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng rất mạnh, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao và là nước dẫn đầu thế giới trong công nghệ phát triển các UAV.

Mối quan hệ với Israel có ý nghĩa đặc biệt với Trung Quốc. Hiện nay, rất nhiều công nghệ từ Israel xuất hiện trong các hệ thống vũ khí hiện đại của Bắc Kinh.

Tuy nhiên, mối quan hệ của Bắc Kinh với Tel Aviv luôn bị Washington theo dõi chặt chẽ và tới nay, Tel Aviv không thể tự quyết định trong các mối quan hệ thương mại quân sự với Trung Quốc.

Nhận định về chuyến thăm này của Đô đốc Ngô, các nhà phân tích chính trị cho rằng, bất kể kết quả của cuộc hội đàm giữa đôi bên như thế nào, Tel Aviv vẫn phải nhìn “nét mặt” của Washington trước khi quyết định các hợp đồng thương mại quân sự với Bắc Kinh.
[BDV news]


>> Vũ khí hiện đại của lực lượng đột kích SEAL



Đầu tháng 5/2011, lực lượng đặc biệt SEAL của Mỹ, một lần nữa, thu hút sự quan tâm của giới truyền thông quốc tế bằng việc tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden.


Lực lượng đột kích SEAL hay còn gọi là “Hải cẩu” thuộc Quân đội Mỹ có khả năng chiến đấu trên cả 3 địa hình: nhảy dù trên không, chiến đấu dưới nước, và trên cạn.

Vì SEAL gánh vác sứ mệnh đặc biệt, nên các trang thiết bị, vũ khí tiên tiến nhất của lực lượng này luôn được quân đội Mỹ ưu tiên trang bị. Chiếc trực thăng bí ẩn được sử dụng trong cuộc tấn công tiêu diệt Osama bin Laden lần này chính là điển hình nổi bật nhất.

Trong những năm gần đây, trang thiết bị vũ khí của quân đội Mỹ ngày càng phong phú và hiện đại, điều này là do tốc độ phát triển của công nghệ thông tin và công nghệ điện tử, đã thúc đẩy việc xây dựng mạng lưới hóa, kỹ thuật số của quân đội Mỹ.

Một loạt các thiết bị trinh sát, hệ thống thông tin liên lạc, đặc biệt máy bay trinh sát không người lái đang được phát triển nhanh chóng. Cuộc chiến tranh nhiều năm ở Iraq và Afghanistan hay bất kỳ chiến trường đặc biệt nào đều rất cần đến SEAL. Do đó, trong tương lai quân đội Mỹ sẽ trạng bị cho SEAL những vũ khí hiện đại hơn

Súng trường bắn tỉa loại mới thay thế M-4

Trong giai đoạn diễn ra cuộc chiến tranh ở Iraq, Afghanistan, súng M-4 trước đó được coi là loại súng hoàn hảo, loại súng này cũng được trang bị cho SEAL, tuy nhiên, M-4 cũng đã bắt đầu để lộ những điểm yếu như uy lực của các viên đạn không đủ độ chính xác và tin cậy. Một loại các thử nghiệm đã được tiến hành cho thấy tỷ lệ kẹt đạn rất cao.



Súng trường tấn công đặc chủng FN SCAR.


Để giải quyết vấn đề này, quân đội Mỹ đã áp dụng hai phương pháp, một là cải tiến tính năng của súng M-4; hai là sử dụng súng trường bắn tỉa loại mới để thay thế M4.

Loại súng được quân đội Mỹ dự định thay thế là súng trường tấn công đặc chủng SCAR của công ty FN. Kết hợp với súng phóng lựu MK-13, thì loại súng này có thể thay thế toàn bộ loại súng M-4A1,MK-18, súng trường bắn tỉa MK-12 và súng truờng MK-14.

Súng phóng lựu tự động XM – 25

Hiện nay, súng phóng lựu XM - 25 mới của quân đội Mỹ đã được thử nghiệm thực tế ở chiến trường Afghanistan. XM-25 có cỡ nòng 25 mm được trang bị hệ thống kiểm soát hỏa lực tiên tiến, có thể dự đoán chính xác khoảng cách mục tiêu trước khi phóng và cài đặt giờ nổ cho lựu đạn.

Sau khi phóng lựu đạn vào các mục tiêu trên không, nó sẽ tự động phát nổ và sát thương đối phương.



Súng phóng lựu XM – 25.


Hệ thống kiểm soát hỏa lực tiên tiến của XM-25 sẽ hỗ trợ đáng kể các thủ thuật tấn công của binh sỹ SEAL và giảm thiểu thương vong, thậm chí thiết bị này còn có thể thay thế một số chức năng của súng cối, đối với lực lượng chiến đấu đặc biệt như SEAL thì trọng lượng được mang theo rất hạn chế, nên thiết bị này rất thích hợp với đặc thù chiên đấu của SEAL.

Súng trường bắn tỉa mới XM2010 và M107

Để tăng cường hơn nữa độ chính xác khi bắn, Quân đội Mỹ dự định trong tương lai lực lượng SEAL có thể sẽ được sử dụng súng trường bắn tỉa XM2010 cỡ nòng 7,62 mm và súng trường bắn tỉa M107 loại 12,7 mm.

Tất nhiên là loại súng mới này chỉ là thay đổi về lượng, và để có thể mang lại những thay đổi về chất cho việc bắn tỉa chính là tập trung cho phát triển đạn có điều khiển.



Súng trường bắn tỉa mới XM2010.


Viện nghiên cứu cấp cao của Bộ Quốc Phòng Mỹ (DARPA) đang thực hiện kế hoạch phát triển vũ khí quân sự có độ chính xác cao, trong đó sẽ tập trung nghiên cứu chế tạo một loại đạn cỡ 12,7 mm có điều khiển.

Do vậy, súng bắn tỉa không chỉ có thể bắn trúng mục tiêu đang chuyển động nhanh trong các điều kiện môi trường không thuận lợi như gió lớn, mà phạm vi bắn cũng xa hơn so với loại đạn thông thường.

Tàu chiến đấu đặc chủng

Các loại tàu được lực lượng SEAL thường sử dụng bao gồm tàu chiến đấu đặc biệt tốc độ cao MkV, thuyền hơi dạng cứng 11m, thuyền cao su chiến đấu….

Trong tương lai, Tàu chiến hạng nhẹ thế hệ mới M80 Stiletto sẽ được bàn giao cho lực lượng chiến đấu đặc biệt SEAL của Mỹ.

M80 Stiletto là mẫu tàu chiến mới của Hải quân Mỹ do công ty M Ship sản xuất năm 2006, được trang bị đặc biệt theo yêu cầu của Cơ quan tác chiến đặc biệt Bộ Quốc phòng Mỹ. Đây được coi là thế hệ tàu chiến sẽ thay thế các tàu chiến hạng nhẹ trong tương lai.



Tàu chiến hạng nhẹ thế hệ mới M80 Stiletto.


M80 Stiletto được chế tạo bằng vật liệu sợi các bon có kết cấu kiểu mạng lưới. Nó được coi là chiếc tàu độc nhất trên thế giới xét về góc độ thiết kế vỏ, tốc độ di chuyển, khả năng lướt sóng, trọng tải so với các loại tàu cùng cỡ.

M80 Stiletto hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm. Bộ Quốc phòng Mỹ từng sử dụng loại tàu chiến này trong cuộc tập trận Trident Warrior tại khu vực duyên hải bang California. Sau đó, M80 Stiletto còn được triển khai tại Colombia nhằm hỗ trợ lực lượng chống ma túy tại đây.

M80 Stiletto có tốc độ nhanh và có thể hoạt động ở các khu vực gần bờ với cấu tạo vỏ hai lớp, dài 27m, rộng 12m, cao 5,6m. Vỏ tàu M80 Stiletto chế tạo bằng sợi cacbon có những ưu điểm vượt trội so với vỏ các loại tàu chiến truyền thống giúp tăng cường tốc độ. Động cơ có sức mạnh 6.600 mã lực giúp M80 Stiletto đạt tốc độ tối đa lên tới 100 km/h. Tầm hoạt động trên 800 km.

Kết cấu đặc biệt còn giúp M80 Stiletto tránh được tầm quan sát của radar đối phương nên giúp tàu có khả năng an toàn rất cao.

Đặc biệt M80 Stiletto có khả năng quay 360 độ khi di chuyển ở tốc độ tối đa. Tàu rất thích hợp cho tấn công và rút lui vói tốc độ cao. Ngoài ra, M80 Stiletto có thể giảm dấu tích khi di chuyển nhanh, do đó có tính hoạt động bí mật tốt hơn.


Tàu ngầm mini S301
Lực lượng đột kích SEAL còn được biết đến với khả năng chiến đấu linh hoạt dưới nước. Do đó, các hoạt động tác chiến dưới nước cần phải có sự hỗ trợ của tàu ngầm loại nhỏ.



Tàu ngầm mini S301.



Để cải thiện khả năng hoạt động dưới nước cho lực lượng đột kích SEAL, công ty Marlin Submarines đã trực tiếp phát triển tàu ngầm mini S301.

Cuối năm 2009 S301 đã được tiến hành thử nghiệm vận chuyển một đơn vị đầu tiên của lực lượng SEAL, các thành viên trên tàu bao gồm 2 lái tàu và 6 thợ lặn
Trực thăng kiểu mới thay đổi khả năng chiến đấu đặc biệt

Hiện tại quân đội Mỹ nghiên cứu phát triển máy bay trực thăng có người lái và không người lái. Điều này nâng cao hiệu quả đáng kể cho các hoạt động chiến đấu đặc biệt có quy mô nhỏ của SEAL.

Với máy bay có người lái kiểu mới, khi phi công nhảy dù sẽ đối mặt với ít rủi ro hơn, hiệu quả tải trọng của trực thăng cao hơn.

Đối với máy bay trực thăng không người lái, thì quyền kiểm soát có thể được giao cho lực lượng chiến đấu đặc biệt ở mặt đất, điều khiển trực thăng bay đến các vị trí định trước, có thể nâng hạ đồ vật, vận chuyển người, cũng có thể hỗ trợ chữa cháy từ trên không.

Hiện nay, đã có trực thăng AH6 đang được nghiên cứu sửa đổi thành máy bay trực thăng chiến đấu không người lái, ngoài ra, kế hoạch này còn được dự kiến triển khai với máy bay trực thăng “Black Hawk”.
[BDV news]


>> UAV Searcher II dành riêng cho thị trường Nga



Công ty Israel Aerospace Industries (Israel) đã công bố những hình ảnh đầu tiên về UAV Searcher II sản xuất riêng cho Bộ Quốc phòng Nga.


Flightglobal cho hay, việc lắp ráp các UAV Searcher II và BirdEye-400 đang được tiến hành, chẳng bao lâu nữa Israel sẽ chuyển giao sản phẩm cho bên đặt hàng (Nga).

Hiện nay, các thông số cũng như các đặc tính chi tiết về chiếc UAV mà Nga đặt hàng sản xuất vẫn chưa được tiết lộ.
Việc sản xuất và cung cấp các UAV Searcher II được thực hiện trong khuôn khổ hợp đồng trị giá 400 triệu USD được hai bên ký năm 2010.

Theo điều kiện của hợp đồng, Nga sẽ nhận được các UAV Searcher II kèm theo tất cả các phụ kiện đáp ứng tiêu chuẩn của Bộ Quốc phòng nước này.

Theo số liệu của Flightglobal, sau khi nhận lô hàng UAV Searcher II đầu tiên, phía Nga sẽ đặt hàng mua thêm các phương tiện bay không người lái của Israel.



UAV Searcher II của Israel sản xuất riêng cho Nga

Ngày 13/10/2010, theo thông báo, Tập đoàn Oboronprom (Nga) đã ký hợp đồng với Công ty Israel Aerospace Industries mua các thành phần để lắp ráp UAV.

Các phương tiện thông tin đại chúng Israel đánh giá tổng giá trị hợp đồng này vào khoảng 300 triệu USD.

Theo kế hoạch của Nga, các UAV sẽ được lắp ráp hoàn chỉnh tại Nhà máy trực thăng Kazan.

Tháng 4/2009, Nga đã mua của Israel 12 UAV BirdEye-400, I-View Mk150 và Searcher II trị giá 53 triệu USD.

Sau đó, Nga còn ký hợp đồng mua 36 chiếc UAV với trị giá hợp đồng lên tới 100 triệu USD. Vào tháng 4/2010, Nga mua thêm của Israel 15 UAV nữa.

Đặc điểm Searcher II

Searcher II, biến thể cải tiến của UAV Searcher, là UAV trinh sát chiến thuật do Công ty IAI Malat UAV Division sản xuất. Trong biên chế của Không quân Israel, UAV Searcher II có mật danh là Meyromit II.

Lần đầu tiên Searcher II được “trình làng” trong cuộc triển lãm tại Singapore vào tháng 2/1998. Searcher II được trang bị động cơ piston UEL AR 68-1000 công suất 83 mã lực với cánh quạt đẩy 3 cánh.



UAV Searcher II của Israel.

Nhiệm vụ chính của Searcher II là trinh sát chiến trường. Ngoài ra, nó còn được sử dụng để kiểm soát các hoạt động tác chiến, chỉ thị mục tiêu và có thể đóng vai trò tấn công.

Để thực hiện các nhiệm vụ này, Searcher II được trang bị tổ hợp MOSP TV/FLIR giúp theo dõi mục tiêu bằng hình ảnh truyền hình thời gian thực hoặc hình ảnh ở các bước sóng hồng ngoại. Ngoài ra, Searcher II còn được lắp đặt thêm camera màu CCD.

UAV này có thể cất cánh tại một khu đất trống không cần chuẩn bị trước, với sự hỗ trợ của máy phóng khí nén hoặc máy gia tốc phản lực.

Loại UAV này được các lực lượng vũ trang Israel đưa vào trang bị tháng 6/1998 và được cung cấp cho nhiều nước trên thế giới, trong đó có Đài Loan, Thái Lan, Sri Lanka và Singapore. Tính đến nay, Israel đã xuất khẩu tất cả hơn 100 UAV.
[BDV news]


>> 'Hùm xám' của Lục quân Mỹ



Tổ hợp tên lửa đa năng АDATS (*) , được sản xuất năm 1984, là sản phẩm hợp tác của Công ty Oerlikon Contraves (Thụy Sỹ) và Công ty Martin Marietta (Mỹ).


(*) Air Defense Anti Tank System

Tổ hợp tên lửa đa năng АDATS được sử dụng để tiêu diệt các máy bay, trực thăng, các phương tiện trinh sát không người lái cao tốc hoạt động ở tầm thấp và các mục tiêu thiết giáp mặt đất. Ngoài ra, nó còn được sử dụng để phòng thủ trong trạng thái hành tiến hoặc cố định.

Thành phần

Tổ hợp được thiết kế chế tạo theo kết cấu module, cho phép lắp đặt trên các loại xe bánh xích và bánh lốp, gồm 8 tên lửa, trạm radar phát hiện các mục tiêu trên không, module quang - điện tử theo dõi mục tiêu và điều khiển tên lửa, máy tính điện tử và các trang thiết bị cần thiết khác...

Kíp chiến đấu gồm 3 người (chỉ huy, trắc thủ, thợ cơ khí kiêm lái xe).



Tổ hợp tên lửa đa năng АDATS.

Tên lửa siêu tốc

Tên lửa của hệ thống ADATS được trang bị động cơ nhiên liệu rắn, có khả năng làm việc ở hai chế độ. Nhờ vận tốc bay tối đa cao (Mach 3), tên lửa có khả năng tiêu diệt các mục tiêu di động ở cự ly tương đối xa và trong khoảng thời gian ngắn.

Tên lửa sử dụng đầu đạn nổ mảnh, có khả năng xuyên qua vỏ thép dày đến 900mm. Đầu nổ quả đạn gồm hai loại (phi tiếp xúc và tiếp xúc). Trong đó, đầu nổ phi tiếp xúc được sử dụng khi tiêu diệt các mục tiêu trên không. Đầu nổ tiếp xúc sử dụng khi tiêu diệt các mục tiêu mặt đất.

Thời gian nạp lại tất cả các tên lửa, do 2 thành viên trong kíp tiến hành mà không cần sử dụng các thiết bị chuyên dụng, chưa đến 10 phút.

Radar cải tiến hiện đại

Trạm radar áp dụng trên tổ hợp ADATS là biến thể cải tiến của trạm radar LPD-20 do chi nhánh tại Italy của Công ty Oerlikon Contraves chế tạo.

Trạm này có thể làm việc trong trạng thái cố định và cơ động, có khả năng phát hiện máy bay và trực thăng ở cự ly đến 24km. Tuỳ thuộc vào điều kiện địa hình, đối với các mục tiêu thiết giáp mặt đất, radar có thể phát hiện ở độ cao đến 6km.

Thiết bị phát của radar làm việc ở dải sóng từ có tần số 5,2-10,9GHz, có khả năng tái lập tần nhanh. Bộ xử lý bảo đảm theo dõi đồng thời đến 6 mục tiêu.

Đặc biệt, trạm radar được tích hợp với hệ thống nhận biết “địch-ta”, có khả năng truyền các toạ độ mục tiêu (góc phương vị và cự ly), các dữ liệu có liên quan trên màn hình quan sát.



Tổ hợp ADATS khai hỏa.

Hệ thống theo dõi hiệu quả

Module theo dõi quang - điện tử được bố trí trên tháp nóc tổ hợp, gần điểm bố trí đạn tên lửa. Nó có bệ ổn định kiểu con quay, trên đó lắp đặt thiết bị quan sát nhiệt, camera truyền hình, hệ thống laser điều khiển tên lửa, thiết bị đo xa bằng laser... và máy xác định toạ độ tên lửa khi động cơ làm việc dựa vào hồng ngoại.

Module cho phép theo dõi mục tiêu theo góc tà từ -1° đến +90° với góc phương vị bất kỳ. Sở dĩ, thiết bị theo dõi hồng ngoại và truyền hình (thụ động) được lựa chọn là do chúng có trọng lượng và kích cỡ nhỏ, khả năng chống nhiễu cao trước các phương tiện tác chiến điện tử và phát huy tối đa tính hiệu quả khi theo dõi các mục tiêu trên không tầm thấp và mặt đất, bảo vệ tổ hợp trước các tên lửa chống radar tự dẫn.

Thiết bị quan sát truyền hình được sử dụng trong tổ hợp ADATS, có độ phân giải cao và thường được sử dụng như là một thiết bị chính để theo dõi các mục tiêu mặt đất. Các kênh quang học của nó được tích hợp với thiết bị đo xa bằng laser.

Khả năng tích hợp cao

Tổ hợp ADATS được lắp đặt trên khung xe bọc thép chở quân М113М2, có thể vận chuyển bằng đường không (máy bay C-130 Hercules). Qua quá trình thử nghiệm nhiều lần trong các điều kiện khí hậu khác nhau (từ -40°С đến +70°С), tổ hợp ADATS đã chứng tỏ được khả năng hoạt động bền bỉ của mình.

Ngoài ra, tổ hợp ADATS có thể tích hợp với các khung xe thiết giáp khác hoặc các hệ thống phòng không cố định. Một trong những thành công trong việc tích hợp ADATS là vào năm 1995. Khi đó, tổ hợp được tích hợp vào khung gầm xe loại MO WAG Piranha (biến thể bánh hơi 10x10) sử dụng cho nhiệm vụ bảo vệ các sân bay, các trạm điện và các mục tiêu quan trọng khác.

Dự kiến, tổ hợp ADATS sẽ được cải tiến để sử dụng trong thành phần đội hình hải quân như là một hệ thống phòng không độc lập và tích hợp với các loại vũ khí phòng không khác.

Tổ hợp ADATS, với sự hỗ trợ của hệ thống С3 (Command, Control and Communication: Chỉ huy, điều khiển và truyền tin) có thể tích hợp với kết cấu mạng gồm 6 tổ hợp. Đây được coi là một trung tâm chiến thuật, cho phép tổ hợp ADATS có khả năng liên lạc với các trạm radar khác và các hệ thống vũ khí cũng như các trung tâm chiến thuật tương tự.

Trong hệ thống đó, một trong 6 tổ hợp ADATS được coi là “trung tâm chỉ huy” để truyền các thông tin về toạ độ vị trí của mỗi tổ hợp và tình hình chiến thuật hiện tại cho người chỉ huy.

Ngoài ra, trong thành phần trung tâm chiến thuật có một hoặc một vài trạm radar quan sát, bảo đảm thông tin radar cho tất cả các tổ hợp.

Người chỉ huy trung tâm chiến thuật có trách nhiệm chỉ huy các hoạt động tác chiến của các tổ hợp, truyền mệnh lệnh tác chiến điều khiển vũ khí đến các tổ hợp, tiến hành phân bố mỗi tổ hợp theo các kệnh liên lạc thích hợp.

Qúa khứ và tương lai

Tháng 4/1986, nhà sản xuất đã ký hợp đồng chế tạo và cung cấp 36 tổ hợp tên lửa đa năng АDATS và 800 quả tên lửa đi kèm cho các lực lượng vũ trang Canada với thời hạn chuyển giao trong giai đoạn 1988-1989.

Vào năm 1987, tổ hợp АDATS đã trở thành một trong 4 hệ thống phòng không được tham gia và công nhận thắng thầu trong cuộc mở thầu do Bộ Tư lệnh phòng không Mỹ tổ chức.

Trong cuộc thi này, các sản phẩm phải trải qua các giai đoạn như đánh giá độ chính xác phát hiện và theo dõi mục tiêu, thực hiện các vụ tấn công mục tiêu theo kịch bản cho trước.

Do không đủ về ngân sách nên trong cuộc mở thầu này Mỹ chỉ lựa chọn 8 tổ hợp ADATS. Hiện nay, Hà Lan, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ và hàng loạt các quốc gia khác được xem như là những khách hàng tiềm năng muốn sở hữu tổ hợp ADATS.

Các đặc tính kỹ - chiến thuật cơ bản

Cự ly tiêu diệt tối đa: 10km (các mục tiêu bay với vận tốc cao - 8km)
Độ cao tác chiến tối đa: 7km
Vận tốc tên lửa: hơn Mach 3
Chiều dài tên lửa: 2,05m
Đường kính tên lửa: 0,15m
Sải cánh tên lửa: 0,27m
Trọng lượng tên lửa: 51 kg
Trọng lượng tên lửa trong container vận chuyển – phóng: 67 kg
Trọng lượng đầu đạn: 12,5kg.
[BDV news]


>> PZH-2000 chuẩn mực của pháo binh hiện đại



Được đánh giá là một trong những loại pháo tự hành tốt nhất thế giới hiện nay, PZH-2000 thực sự là một chuẩn mực của pháo binh hiện đại


Pháo tự hành PZH-2000 được sản xuất bởi Tập đoàn Krauss-Maffei Wegmann (KMW), cùng với nhà thầu phụ chính là Rheinmetall Landsysteme.

Công việc sản xuất pháo tự hành PZH-2000 được bắt đầu vào năm 1996, hệ thống đầu tiên được giao cho Quân đội Đức vào năm 1998.

Đặc điểm kỹ thuật

Pháo tự hành PZH-2000 được phát triển trên cơ sở khung gầm của xe tăng Leopard-2A, sử dụng loại pháo L52 cỡ nòng 155mm do Rheinmetall Landsysteme sản xuất. Ngoài ra, pháo tự hành còn được trang bị súng máy MG3 7,62mm với cơ số 2.000 viên.



Kíp chiến đấu của pháo tự hành PZH-2000 gồm 5 người, chỉ huy, lái xe, pháo thủ và 2 người nạp đạn.


PZH-2000 có chế độ hoạt động tự động hóa rất cao, pháo sử dụng một hệ thống nạp đạn bán tự động. Một cánh tay nạp sẽ tra đầu đạn pháo vào nòng pháo, pháo thủ sẽ nạp liều phóng rời vào sau.

Hệ thống nạp đạn tự động kiểu ổ quay có thể chứa 60 đạn pháo, cùng với 228 liều phóng rời. Tầm bắn tiêu chuẩn của PZH-2000 là 30-35km, trên 40km nếu sử dụng đạn tăng tầm.



Hệ thống nạp đạn tự động kiểu ổ quay cho phép tăng tốc độ bắn.


Tốc độ bắn trung bình 10-13 viên/phút, PZH-2000 có một hệ thống tự quản lý vỏ đạn.

Chỉ huy được trang bị hệ thống quan sát toàn cảnh Leica PERI-RTNL 80, tích hợp khả năng quan sát ngày/đêm, máy đo xa laser.

Pháo thủ được trang bị hệ thống chỉ thị mục tiêu Leica PzF TN 80, tích hợp khả năng quan sát ngày đêm.

Hệ thống kiểm soát bắn được điều khiển bởi máy tính hiệu MICMOS, được cung cấp bởi hãng EADS, có khả năng nhận dạng và kiểm soát mục tiêu tự động.

Việc tính đường đạn do máy tính xử lý, hệ thống sẽ tự động hiệu chỉnh góc nâng của pháo phù hợp với khoảng cách đến mục tiêu.



Hệ thống điều khiển bên trong pháo tự hành PZH-2000.


Góc nâng của PZH-2000 tương đối lớn từ 3-60 độ, tháp pháo có thể quay 360 độ, do đó không bị hạn chế về góc bắn.

Hệ thống kiểm soát bắn của pháo tự hành dựa trên công nghệ MRSI, cho phép thay đổi quỹ đạo bắn ở loạt đạn tiếp theo để tăng độ chụm của đạn. Nhờ vậy, pháo tự hành PZH-2000 có khả năng bắn liên tiếp 5 viên đạn vào cùng một mục tiêu.

Hệ thống liên kết dữ liệu và chia sẽ mục tiêu cho phép nhiều khẩu pháo tự hành PZH-2000 cùng tấn công mục tiêu cùng lúc.

Sự phát triển nhanh chóng của các loại radar định vị pháo binh, cho phép xác định chính xác vị trí khai hỏa của PZH-2000. Do đó, nhanh chóng rời khỏi vị trí sau khi bắn là một yêu cầu quan trọng của pháo binh hiện đại.

Để đảm bảo không bị lộ vị trí bắn, PZH-2000 được thiết kế để có thể nhanh chóng “bắn - rút lui” với thời gian triển khai và thu hồi pháo chưa đầy 2 phút. Điều đó cho phép pháo tự hành PZH-2000 nhanh chóng rời khỏi mục tiêu sau loạt đạn đầu tiên.

PZH-2000 được bọc giáp rất tốt, giúp bảo vệ tổ lái trước mảnh đạn pháo, súng máy hạng nặng của đối phương, bom chùm từ 2 bên hông và phía trên.

Không chỉ vậy, PZH-2000 còn được trang bị hệ thống bảo vệ tổ lái trước tác nhân sinh, hóa học NBC, hệ thống báo cháy và dập lửa tự động.

Pháo tự hành PZH-2000 được trang bị động cơ diesel tăng áp MTU MT88, 8 xi lanh công suất 987 mã lực. Xe tự hành có khả năng vượt dốc 30 độ, chướng ngại vật cao 1m, tốc độ tối đa đạt 60km/giờ, tầm hoạt động 420km.
[BDV news]


Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang