Tin Quân Sự - Blog tin tức Quân sự Việt Nam: Bộ quốc phòng Mỹ

Paracel Islands & Spratly Islands Belong to Viet Nam !

Quần Đảo Hoàng Sa - Quần Đảo Trường Sa Thuộc Về Việt Nam !

Hiển thị các bài đăng có nhãn Bộ quốc phòng Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bộ quốc phòng Mỹ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2011

>> Vũ khí “tia sét” trị ác mộng mìn tự tạo



[Vietnamdefence news] Bom mìn tự tạo (IEDs) là vũ khí gây thương vong nhiều nhất cho lính Mỹ và liên quân tại Iraq và Afghanistan thời gian qua. Quân đội Mỹ đang đau đầu đối phó với mối đe dọa phi đối xứng này.





IEDs là ác mộng đối với binh lính Mỹ, NATO tại Iraq và Afghanistan (wired.com)


Trong nhiều năm qua, Lầu Năm góc và Tổng thống Mỹ đã trách móc các nhà báo về việc tiết lộ thông tin về một loại vũ khí thần diệu dùng để phá hủy các bom mìn tự tạo bằng sét nhân tạo. Năm 2006, TT Mỹ George Bush kêu ca việc các nhà báo đăng tải “thông tin chi tiết về các công nghệ chống mìn tự tạo mới” và rằng “chúng tôi không thể cho phép kẻ thù biết được những gì chúng tôi đang làm để không cho kẻ thù có được ưu thế”.

Mặc dù vũ khí này chưa thể sử dụng chiến đấu và thất bại trong hàng loạt thử nghiệm, Mỹ tiếp tục chi tiền cho chương trình mật này. Các nhà thiết kế đã thuyết phục được Bộ Quốc phòng Mỹ chi 30 triệu USD để tiếp tục nghiên cứu chế tạo “thiết bị vô hiệu hóa mìn tự tạo” JIN (Joint IED Neutralizer). JIN sử dụng các xung laser cực ngắn tạo ra trong không khí các kênh dẫn điện. Một dòng điện được đưa vào các kênh này và kích nổ mìn tự tạo từ khoảng cách an toàn.

JIEDDO (Joint IED Defeat Organization), cơ quan chuyên trách về chống mối đe dọa mìn tự tạo (IEDs) của Lầu Năm góc cũng đã đưa ra tuyên bố tương tự về công nghệ xử lý bom mìn bằng tia sét.

Điều này thật lạ bởi vì cho đến lúc này, công nghệ này đã thất bại trong hàng loạt thử nghiệm. Các nhà khoa học tham gia các vụ thử đã nói rằng, thiết bị này sẽ vô dụng trong đất ẩm ướt và bụi.



Một xe quân sự Mỹ trúng mìn tự tạo (wired.com)


Năm 2006, JIN cũng đã được triển khai ở Afghanistan, nhưng các thử nghiệm thực chiến cũng thất bại thảm hại. Xe vận tải lắp JIN đã rất khó khăn khi chạy trên địa hình núi non, được bảo vệ kém, thậm chí có tin nói rằng, thiết bị còn “tự ý” phóng ra các tia sét, ngay cả khi công tắc trên bàn điều khiển đã ngắt. JIN đã không thể hoàn thành chức năng chính của nó vì để kích nổ bom mìn, người ta đã phải đưa thiết bị gần như sát vào thiết bị nổ, điều đó làm cho việc sử dụng JIN trở nên hầu như vô nghĩa.

Tuy nhiên, việc tiết lộ về JIN đến nay không hề bị Lầu Năm góc chỉ trích, còn tiền thì tiếp tục được chi ra. JIEDDO, Thủy quân lục chiến Mỹ (USMC) và các nhà đầu tư quốc gia đã chi tổng cộng gần 2 triệu USD để tích hợp JIN với dàn bánh xe phá mìn vốn đang được sử dụng rộng rãi và hiệu quả ở Afghanistan. Sự kết hợp này được gọi là JOLLER và từ tháng 10.2010, USMC đã sử dụng thử “thiết bị kích nổ bằng tia sét” này.


Hệ thống JOLLER của USMC (wired.com)


Bức ảnh chụp vào tháng 5.2009 và được USMC giới thiệu cho thấy cấu tạo của JOLLER gồm thiết bị tạo tia sét giống như quả cầu của Nikola Tesla và một dàn bánh lăn phá mìn.

Toàn bộ các thiết bị được lắp trên khung gầm một xe tải quân sự, máy phát được lắp trên thùng xe. Chắc chắn, thiết bị này sẽ lại bị các chuyên gia JIEDDO đang làm việc ở Afghanistan chỉ trích. Trước hết, đó là vì kíp xe và các thiết bị của xe không được bảo vệ đúng mức, còn kích nổ bom dưới quả cầu có lẽ sẽ làm hỏng cả hệ thống đắt tiền.

Tuy vậy, những nhược điểm của JIN có lẽ đã được khắc phục nên giới quân sự Mỹ hy vọng thiết bị công nghệ cao dị kỳ này sẽ giải quyết được vấn đề mìn tự tạo mà phiến quân Afghanistan cài tới 1.300 quả/tháng.

Hiểm họa bom mìn tự tạo là một đặc điểm chính của các cuộc chiến tranh của Mỹ ở Iraq và Afghanistan. Loại vũ khí tiêu hao gây khiếp đảm này đang được Taliban sử dụng hiệu quả chống lính Mỹ và NATO tại Afghanistan.

Trong tháng 7, 8, 9.2010 tổng số vụ nổ bom tự tạo là 1.374-1.391 quả, so với tháng 6.2010 là 1.314 quả. Theo thống kê của Mỹ, chỉ trong 8 tháng đầu năm 2010 đã xảy ra 1.063 vụ tấn công thành công bằng bom tự tạo nhằm vào lính Mỹ, liên quân, so với 820 vụ trong 8 tháng đầu năm 2009. Riêng trong tháng 11.2010, 1.508 quả bom tự tạo đã phát nổ, giết hại 24 lính Mỹ, NATO, lính chính phủ Afghanistan, làm bị thương 301 người; so với 1.415 quả trong tháng 10.2010, làm chết 52 lính và bị thương 297 người. Tháng 1.2011, có 1.344 quả bom bị phát hiện hoặc phát nổ ở Afghanistan.




Thứ Năm, 7 tháng 4, 2011

>> Pháp cả gan đánh cuộc ở cả Libya và Bờ Biển Ngà?



[VITINFO news]Trong năm nay, quốc gia đã tiến hành các cuộc tấn công quân sự và kéo cộng đồng quốc tế vào cuộc chống lại những người chuyên quyền tại cả Libya và Bờ Biển Ngà: đó chính là nước Pháp.

Pháp đã từng phản đối mạnh mẽ cuộc xâm lược Iraq do Mỹ đứng đầu cách đây 8 năm và đã ủng hộ việc cố gắng tiếp cận mọi cách có thể trước khi mang súng vào các cuộc khủng hoảng quốc tế khác.

Giới phân tích nhận định, sự thay đổi bất thường này có thể được bén rễ từ nỗ lực của Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy nhằm nới lỏng châu Âu khỏi sự phụ thuộc lâu nay vào chiếc ô an ninh của Mỹ.

Trong bối cảnh bất ổn ở thế giới Ả Rập và sức mạnh kinh tế của châu Á ngày càng phát triển, giới chuyên gia cho rằng Pháp muốn thúc đẩy sự tham gia của châu Âu với các hoạt động can thiệp quân sự dựa trên nhân quyền và dập tắt tình trạng bất bình kéo dài trong dân chúng về sự suy sụp của lục địa này.

Hiện cũng có một nhân tố khác liên quan đến sự thay đổi trên: Ông Sarkozy phải đối mặt với chiến dịch tái tranh cử vào năm tới và ông ấy có thể sẽ đánh cuộc rằng việc thúc đẩy các giá trị nhân quyền của Pháp có thể giúp ông giành thắng lợi.

Hành động can thiệp quân sự tại Libya cũng là sự chuyển hướng cá nhân đáng chú ý đối với ông Sarkozy, người đã nồng nhiệt đón chào lãnh đạo Libya Moammar Gadhafi tới Paris trong năm 2007, thời điểm hai nước ký kết một loạt thỏa thuận vũ khí và thương mại. Tháng trước, Tổng thống Pháp đã tập hợp các nhà lãnh đạo châu Âu chống lại đại tá Gadhafi khi ông này phát động chiến dịch đẫm máu nhằm vào người biểu tình.




Xác chiếc Soko của không quân Libya sau khi bị máy bay Rafale của Pháp bắn hạ hôm 24/3. (Ảnh Defensetalk)


Tại Bờ Biển Ngà, một thuộc địa cũ của Pháp, Pháp đã trở thành quốc gia đầu tiên khai hỏa vào lực lượng của lãnh đạo Laurent Gbagbo trong tuần này. Hành động của họ tại Bờ Biển Ngà liên quan tới yếu tố kinh tế và văn hóa.

Trong Liên minh châu Âu, Pháp và Anh là những nước có ảnh hưởng lớn nhất về quân sự. Trong khối này, một số quốc gia, đáng chú ý là Đức, hiện do dự trong việc điều binh lính của họ tới các chiến trường nước ngoài.

“Tôi nghĩ rằng hiện nay Pháp có thể tự hào khi can thiệp quân sự và sự biểu hiện dân chủ tại Bờ Biển Ngà”, Thủ tướng Pháp Francois Fillon phát biểu trước quốc hội hôm 05/4.

Cũng trong ngày hôm qua, Ngoại trưởng Pháp tiết lộ ông Gbagbo đang đàm phán về đầu hàng.

Hôm 04/4, máy bay trực thăng của Pháp và Liên Hợp Quốc đã khai hỏa vào Bờ Biển Ngà và vô hiệu hóa các loại vũ khí hạng nặng, chẳng hạn như súng đại bác và máy phóng rocket, của lực lượng trung thành với ông Gbagbo, người từ chối chuyển giao quyền lực cho ông Alassane Ouattara. Liên Hợp Quốc khẳng định, ông Alassane Ouattara đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm ngoái.


Trực thăng của LHQ và Pháp không kích một doanh trại của lực lượng thân ông Gbagbo ngày 04/42011. (Ảnh CNN)


Theo một nhà phân tích, tại Bờ Biển Ngà và Libya, Pháp đang tìm cách lay chuyển châu Âu từ bỏ thái độ do dự trong việc sử dụng vũ lực khi cần thiết và có thể để bảo vệ công dân và các giá trị của họ.

“Tại Pháp, các quan chức nhìn thấy các cơ hội tham gia – thường dưới tên của châu Âu – khi giương lá cờ châu Âu, bởi vì ngoài các bạn Anh của chúng ta, các nước đều lặng im về việc sử dụng vũ lực. Người Pháp nghĩ rằng châu Âu chưa chủ động trong việc ủng hộ nhân quyền”, Jean-Dominique Giuliani, Chủ tịch Quỹ Robert Schuman, cho biết.

Ông khẳng định, Pháp muốn nhắc tới các bài học khó khăn trước đây như các bài học từ cuộc chiến những năm 1990 tại Nam Tư cũ, nơi những trì hoãn, những cuộc tranh luận và đường lối ngoại giao không hiệu quả đã khiến nhiều dân thường thiệt mạng.

“Bài học của những người vùng Balkan này là các cuộc tàn sát, và người Mỹ cuối cùng tới giúp đỡ chúng tôi khôi phục trật tự”, ông Giuliani nói. “Các bạn cảm nhận được ý nghĩ trong số các quan chức Pháp rằng không ai muốn tiếp tục chiều hướng này”, ông nói thêm.

Nhưng nhà phân tích Philippe Moreau Defarges cho hay, hành động quân sự của Pháp tại Libya và Bờ Biển Ngà không nên gộp lại với nhau: điểm giống nhau duy nhất là họ nhắm tới những người chuyên chế - những người mà thể chế của họ đã giết hại dân thường trong nỗ lực duy trì quyền lực.

“Mặc khác, có chiến dịch “duy tâm” ở Libya, và chiến dịch “thực tế” tại Bờ Biển Ngà – được ra lệnh bởi những lợi ích cụ thể”, Moreau Defarges, người thuộc Viện nghiên cứu Quan hệ Quốc tế của Pháp (IFRI), nhận định.

Dominique Moisi, một cố vấn cấp cao tại IFRI, khẳng định rằng sau khi Pháp đóng vai trò chính tại các cuộc không kích chống lại binh lính của ông Gadhafi, quốc gia này gần như buộc phải hành động tại Bờ Biển Ngà.

“Sau chiến dịch can thiệp của Pháp tại Libya, sẽ không thể hiểu được nếu Pháp không hành động gì tại Bờ Biển Ngà”, ông cho biết, giải thích hàng ngàn người Pháp xa xứ và mối quan hệ văn hóa của Pháp với quốc gia châu Phi này.

Khi cuộc chiến Nga - Gruzia đang ở thời điểm hết sức căng thẳng và có dấu hiệu ngày càng leo thang, Tổng thống Sarkozy, trên cương vị Chủ tịch EU, đã chủ động bay đến Moscow trong vai trò nhà trung gian hòa giải để thuyết phục ban lãnh đạo Nga về một thỏa thuận hòa bình 6 điểm mang tên Medvedev/Sarkozy, được các bên liên quan chấp thuận. Với nỗ lực ngoại giao con thoi không mệt mỏi của mình, ông Sarkozy đã thành công trong việc làm "nguội" cái đầu "nóng" của cả Moscow lẫn Tbilisi.

Theo ông Giuliani, mục đích của ông Sarkozy là để “cho thấy rằng châu Âu muốn tồn tại, thậm chí chỉ có một số quốc gia thành viên, đặc biệt khi Tổng thống Barack Obama hi vọng châu Âu sẽ gánh vác trách nhiệm nhiều hơn về an ninh.

Tại Libya và Bờ Biển Ngà, ông Sarkozy “đã cả gan đánh cuộc”, Moisi nói.

“Thật là nguy hiểm khi có sự đánh cuộc là ông Gaddafi sẽ ra đi, và cộng đồng quốc tế sẽ nói “Ồ, Tổng thống Pháp đã đóng một vai trò then chốt”, ông khẳng định.


Thứ Hai, 4 tháng 4, 2011

>> Hệ lụy khi cường điệu quá Trung Quốc nổi lên



[BDV news] Những người theo chủ nghĩa hiện thực phân tích về việc các quá trình chuyển đổi quyền lực sẽ diễn ra như thế nào dựa trên giả định rằng các quốc gia hiểu đúng và phản ứng chính xác trước các tình huống quốc tế mà họ đối mặt.

Những người theo chủ nghĩa hiện thực lạc quan trong trường hợp này dựa vào giả định rằng, giới lãnh đạo ở Mỹ đánh giá cao (và sẽ có thể hành động) mức độ an toàn cao bất thường mà Mỹ đang tận hưởng hiện nay.

Nếu giả định này là sai, tức là nếu Mỹ thổi phồng thái quá mối đe dọa mà Trung Quốc đặt ra thì các nguy cơ xảy ra xung đột trong tương lai sẽ càng lớn hơn.

Thật không may, có một số lý do khiến ta phải lo ngại rằng giả định này trên thực tế có thể là sai.

Ví dụ, hiện rất nhiều người tin rằng một Trung Quốc đang nổi lên sẽ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh của Mỹ. Niềm tin này có thể trở thành một lời tiên đoán tự đúng.

Nếu Washington không nghĩ rằng việc Trung Quốc tăng cường khả năng quân sự không đe dọa đến các lợi ích sống còn của Mỹ, họ có thể có các chính sách ngoại giao và quân sự mang tính cạnh tranh thái quá, những chính sách mà đến lượt nó lại khiến Trung Quốc hiểu rằng Mỹ đang có những động cơ xấu.

Nếu Trung Quốc khi đó cảm thấy bất an, nhiều khả năng họ sẽ có những chính sách cạnh tranh mà Mỹ cũng sẽ xem là mang tính đe dọa cao hơn. Kết quả sẽ là một vòng luẩn quẩn không quyết định bởi tình hình quốc tế mà các nước này thực sự đang đối mặt, mà bởi sự bất an mà chính họ thổi phồng.

Hơn nữa, các nước thường xem nặng sự bất an của mình khi đánh giá không đúng các khả năng quân sự nhằm mục đích quốc phòng có thể với tới đâu. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức cường điệu về khả năng dễ xâm lược nên tin rằng sức mạnh đang gia tăng của Nga đe dọa đến sự tồn vong của mình. Kết quả là Đức phát động một cuộc chiến tranh phòng vệ không cần thiết.

Trong cuộc chiến tranh Lạnh, Mỹ cường điệu hóa mối đe dọa hạt nhân của Liên Xô, nên nghĩ rằng những cải tiến trong các lực lượng vũ trang của Liên Xô có thể vô hiệu quá mặt mạnh nhất trong khả năng răn đe của Mỹ - một cuộc trả đũa mạnh tay.

Rất may là điều này không dẫn tới chiến tranh, nhưng nó làm gia tăng nguy cơ chiến tranh và gây ra quá nhiều căng thẳng và kéo theo những chi tiêu không cần thiết.

Washington sẽ phải cảnh giác để không mắc phải những sai lầm tương tự khi Trung Quốc gia tăng các sức mạnh hạt nhân và thông thường, và khi các cuộc va chạm trong các vấn đề thứ yếu làm căng thẳng quan hệ.

Đến nay chưa có phản ứng thái quá nào của Mỹ trước sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc, nhưng khả năng đó chắc chắn tồn tại. Ví dụ, Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ hiện nay kêu gọi Mỹ duy trì thế bá chủ về quân sự thông thường, nhưng lại không giải thích tại sao thế bá chủ này là cần thiết cũng như việc nó đòi hỏi có những lực lượng và khả năng quân sự như thế nào.

Trong tương lai trước mắt, Trung Quốc sẽ yếu hơn Mỹ về khả năng tấn công, nhưng chính việc họ tăng cường sức mạnh quân sự làm giảm khả năng của Mỹ trong việc tấn công vào các khu vực ngoại biên của Trung Quốc.

Điều này sẽ sớm đặt ra những câu hỏi như chính xác tại sao Mỹ cần có sự bá chủ về các khả năng tấn công thông thường trên thế giới, các nhiệm vụ đặc biệt nào Mỹ sẽ không thể thực hiện nếu không có thế bá chủ ấy và việc không thể thực hiện các nhiệm vụ này sẽ gây nguy hại cho an ninh của Mỹ đến mức nào.

Nếu không có những câu trả lời rõ ràng, Mỹ có thể sẽ đánh giá quá cao ý nghĩa của việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự.



Nếu Mỹ thổi phồng thái quá mối đe dọa mà Trung Quốc đặt ra thì các nguy cơ xảy ra xung đột trong tương lai sẽ càng lớn hơn. Ảnh minh họa.


Nguy cơ của một mối đe dọa an ninh bị cường điệu hóa sẽ càng lớn hơn trong lĩnh vực hạt nhân. Báo cáo tình hình hạt nhân (NPR) năm 2010 của chính quyền Obama nhận định: "Mỹ và các nước láng giềng châu Á của Trung Quốc vẫn quan tâm đến việc Trung Quốc hiện đại hóa quân sự, trong đó có việc hiện đại hóa về chất lượng và số lượng kho vũ khí hạt nhân của họ".

Tuy nhiên, NPR không nói rõ việc hiện đại hóa này đặt ra mối nguy hiểm nào. Hoàn toàn không có chuyện hiện đại hóa hạt nhân trong tương lai gần sẽ giúp Trung Quốc có thể phá hủy toàn bộ sức mạnh hạt nhân của Mỹ và hủy hoại khả năng đáp trả mạnh mẽ của Mỹ.

Một cuộc hiện đại hóa lớn nhất cũng chỉ có thể loại trừ một phần ưu thế hạt nhân của Mỹ khi tạo cho Trung Quốc một lực lượng lớn hơn và bền bỉ hơn, từ đó giảm khả năng Mỹ đe dọa Trung Quốc bằng việc chạy đua hạt nhân trong một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.

NPR cho rằng, Mỹ "nên tiếp tục duy trì các quan hệ chiến lược ổn định với Nga và Trung Quốc", nhưng Trung Quốc luôn thiếu dạng sức mạnh có thể tạo sự ổn định theo tiêu chuẩn của Mỹ. Nếu Mỹ quyết định rằng an ninh của họ cần duy trì ưu thế hạt nhân so với Trung Quốc, họ sẽ đầu tư vào các khả năng nhằm phá hủy các sức mạnh hạt nhân mới của Trung Quốc.

Một nỗ lực như thế sẽ giống với chiến lược hạt nhân thời chiến tranh Lạnh của Mỹ, theo đó đặt tầm quan trọng hàng đầu vào việc phá hủy các sức mạnh hạt nhân của Liên Xô. Kiểu chạy đua vũ trang này giờ đây càng không cần thiết hơn trước.

Mỹ có thể duy trì khả năng răn đe mạnh ngay cả khi Trung Quốc hiện đại hóa kho vũ khí, và một chính sách cạnh tranh hạt nhân có thể làm giảm an ninh của Mỹ vì nó sẽ khiến Trung Quốc hiểu rằng Mỹ đang thù địch, làm gia tăng sự bất an của Trung Quốc và hủy hoại quan hệ Mỹ - Trung.

Chắc chắn việc Trung Quốc tăng cường hạt nhân và vũ khí thông thường sẽ giảm một số khả năng của Mỹ mà Washington muốn duy trì. Nhưng Mỹ cũng không nên coi việc tăng cường các sức mạnh quân sự này là có động cơ xấu, thay vì thế nên hiểu là việc này cho thấy mong muốn chính đáng của Trung Quốc là đảm bảo an ninh cho mình.

Khi ông Donald Rumsfeld là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, ông nói về Trung Quốc tăng chi tiêu cho quốc phòng rằng "vì không có nước nào đe dọa Trung Quốc, nên nước này phải tự hỏi: Tại sao phải gia tăng đầu tư cho quốc phòng? Tại sao phải tiếp tục tăng mua vũ khí?"

Câu trả lời là quá rõ. Nếu Trung Quốc có thể đưa các tàu sân bay tới gần bờ biển Mỹ và tấn công vào nước Mỹ bằng máy bay ném bom tầm xa, Washington đương nhiên sẽ muốn "mài cùn" các khả năng này, và nếu Mỹ có một sức mạnh hạt nhân chiến lược cũng dễ bị tổn thương và kém cạnh tranh như của Trung Quốc (hiện chỉ bằng 1/10 hoặc 1/100 của Mỹ), họ cũng sẽ cố gắng đuổi kịp nhanh nhất có thể.

Các hành động này sẽ không nhằm khuất phục thế giới, vì vậy không có lý do nào đủ thuyết phục để nghĩ rằng Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự là vì như thế.

Tóm lại, sự nổi lên của Trung Quốc là hòa bình, nhưng không có gì để đảm bảo điều đó. Ngược lại với lập luận của người theo chủ nghĩa hiện thực thông thường, các sức ép cơ bản của hệ thống quốc tế sẽ không đẩy Mỹ và Trung Quốc vào xung đột.

Vũ khí hạt nhân, ngăn cách về địa lý bởi Thái Bình Dương, và các quan hệ chính trị hiện tương đối tốt sẽ khiến hai nước này đảm bảo an ninh ở mức cao và tránh các chính sách quân sự gây căng thẳng nghiêm trọng quan hệ giữa họ.

Nhu cầu của Mỹ bảo vệ các đồng minh của mình ở Đông Bắc Á làm phức tạp vấn đề trong một chừng mực nào đó, nhưng hoàn toàn có thể tin rằng Washington có thể gia tăng khả năng răn đe cho Nhật Bản và Hàn Quốc, các đối tác khu vực quan trọng nhất của mình.

Thách thức đối với Mỹ sẽ là khả năng điều chỉnh chính sách trong các tình huống mà các lợi ích chưa phải là sống còn (như Đài Loan) có thể gây ra vấn đề, và ở chỗ đảm bảo rằng không cường điệu hóa nguy cơ đặt ra bởi việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh và khả năng quân sự.


Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

>> Mỹ tăng số lượng hệ thống phòng không



[BDV news]Chiến dịch quân sự tại Libya đã làm nóng thị trường vũ khí thế giới, đặc biệt là thị trường tên lửa phòng không.


Ngày 31/3/2011, Cơ quan phòng thủ tên lửa của Mỹ MDA đã ký kết một bản hợp đồng cung cấp 6 tổ hợp tên lửa phòng không di động THAAD (Theatre High Altitude Area Defense) với công ty Lockheed Martin.

Tổng trị giá của bản hợp đồng lên tới 694,9 triệu USD. Dự kiến đến năm 2013 Quân đội mỹ sẽ đưa vào biên chế cho lực lượng phòng không hệ thống tên lửa di động hiện đại này.

Hiện nay trong biên chế của Quân đội Mỹ có hai tổ hợp THAAD với tên gọi Alpha. Trong đó, tổ hợp Alpha thứ nhất được biên chế cho Trung đoàn phòng không số 4, Tổ hợp Alpha thứ hai được biên chế Trung đoàn phòng không số 2 có căn cứ tại Fort Bliss bang Texas.

Tổ hợp THAAD bao gồm 3 bệ phòng với 24 tên lửa cùng với một hệ thống chỉ huy và hệ thống rađa band-X.



Tên lửa phòng không của hệ thống THAAD rời bệ phóng.


Tổ hợp THAAD thực hiện theo nguyên tắc tấn công trực tiếp các mục tiêu tên lửa, có khả năng trao đổi thông tin với các tổ hợp tên lửa đạn đạo bao gồm Aegis, tên lửa phòng không Patriot PAC-2 và PAC-3.

Hệ thống phòng thủ THAAD được mệnh danh là "nỗi khiếp sợ" của tên lửa. Hệ thống này được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm thấp, tầm trung như tên lửa Scud. Ngoài ra, THAAD cũng có khả năng tấn công lại các tên lửa đạn đạo liên lục địa.

Do khả năng của của hệ thống Patriot PAC-2 và PAC-3 đã không đủ khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tiên tiến, Quân đội Mỹ đã đưa ra đề xuất chính thức cho việc chế tạo hệ thống phòng thủ chống tên lửa mới THAAD. Lockheed Martin được lựa chọn cho sự phát triển hệ thống phòng thủ tiên tiến THAAD.

THAAD là một phần của một mạng lưới phòng thủ tên lửa ba lớp. Trong đó, lớp phòng thủ thứ nhất là hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis, được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo. Nếu lớp thứ nhất không ngăn chặn được thì đến hệ thống đánh chặn THAAD và lớp cuối cùng là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm ngắn Patriot PAC-2 và PAC-3.

Hệ thống đánh chặn tên lửa THAAD có một phạm vi hoạt động khoảng 150-200 km và có thể đạt đến độ cao 25 km. Trong giây đầu tiên sau khi được phóng tên, lửa sẽ xoay vòng và sau đó mới tấn công mục tiêu.


THAAD là một phần của một mạng lưới phòng thủ tên lửa ba lớp.


Xe gắn bệ phóng THAAD gắn trên xe tải hạng nặng Oshkosh M1120 LHS có tính cơ động cao, mỗi xe có thể được mang được 8 ống phóng tên lửa, tên lửa có chiều dài 6,17 m, đường kính 0,34 m trọng lượng của tên lửa là 900 kg, vận tốc tối đa lên tới 100 km/h.

Xe được trang bị một động cơ diesel Detroit 8V92TA với công suất tối đa 450 mã lực.

Biên chế đủ của một đơn vị THAAD bao gồm một radar, một trung tâm kiểm soát-điều khiển và 4 xe phóng tên lửa.



>> Dự án quốc phòng Mỹ tăng 135 tỷ USD từ 2008-2011



[BDV news]Ngày 31/3, theo báo cáo của Cơ quan kiểm soát Chính phủ Mỹ (GAO), kinh phí đầu tư cho các dự án quốc phòng của Mỹ từ năm 2008 đến đầu năm 2011 đã tăng thêm 135 tỷ USD.


Mặc dù hồi tháng 2/2011, Lầu Năm Góc đã đưa ra kế hoạch cắt giảm chi tiêu quân sự, nhưng theo thống kê của GAO, từ năm 2008 những dự án quốc phòng của Mỹ đã tăng từ 96 đến 98 dự án. Và tổng kinh phí để thực hiện những chương trình này ước tính lên tới 1,68 nghìn tỷ USD.

Như vậy, chỉ trong vòng 3 năm, ngân sách đầu tư quốc phòng của Mỹ đã tăng thêm 135 tỷ USD, trong đó bội chi 70 tỷ USD là do của việc mua sắm vũ khí.

Chỉ tính riêng năm 2008, Lầu Năm Góc đưa ra dự tính, giá trị thực hiện các hợp đồng quốc phòng là 407 tỷ USD, tuy nhiên đến năm 2010 con số này đã tăng lên mức 428 tỷ USD.

Cũng trong năm 2008, dự kiến tổng ngân sách mua sắm vũ khí mới và trang thiết bị quân sự sẽ ở mức 1,089 nghìn tỷ USD, nhưng đến năm 2010 đánh giá này đã tăng lên mức 1,219 nghìn tỷ USD.

Đặc biệt dự án chiến đấu cơ thế hệ 5, F-35 Lightning II ký kết với công ty Lockheed Martin nằm trong danh sách những dự án quốc phòng đắt nhất của Mỹ trong giai đoạn này.

Ngày từ khi khởi động chương trình F-35 từ năm 2008, quân đội Mỹ ước tính chi phí cho toàn bộ dự án chỉ ở mức 149,7 tỷ USD, nhưng trong năm 2010 con số này đã lên tới 263,7 tỷ USD. Trong khi đó, dự đoán giá một máy bay F-35 đã tăng từ 101,7 triệu USD lên 115,5 triệu USD.

Tiếp theo là chương trình đóng tàu khu trục thuộc dự án DDG 51 Arleigh Burke cũng là một trong những dự án bội chi. Tổng chi phí cho dự án này tăng từ 77,4 tỷ USD lên 94,3 tỷ USD, giá trị của một chiếc tàu khu trục loại này đã tăng từ 1,2 lên 1,3 tỷ USD.



Mô phỏng tàu khu trục DDG-1000 Zumwal.


Chương trình mua chiến đấu cơ F-22 Raptor cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự, tổng giá trị của chương trình này chỉ trong vòng 2 năm (2008-2010) đã tăng từ 75,2 lên 77,4 tỷ USD. Trong khi đó, giá mỗi chiếc F-22 trong giai đoạn này đã tăng từ 408,7 lên 411,7 triệu USD.

Khi đề cập đến giá thành mua mỗi sản phẩm quốc phòng, Cơ quan kiểm soát Chính phủ Mỹ không chỉ tính giá trị thực của sản phẩm mà cả tất cả những trang thiết bị và dịch vụ đi kèm bao gồm mua vũ khí, thiết bị bảo dưỡng, dịch vụ kỹ thuật đi kèm và đào tạo nhân viên.

Trong khi đó, Giám đốc chương trình thu mua và tính toán kinh phí của GAO, Michael Sullivan tuyên bố, trong 2 năm trở lại đây xuất hiện xu hướng gia tăng sự phá vỡ Quy chế Nunn-McCurdy (tổng chi phí thực tế của dự án vượt qua chi phí dự kiến 15%).

Từ năm 1997 tới nay đã ghi nhận 74 trường hợp vi phạm quy chế Nunn-McCurdy, trong đó có tới 47 dự án quân sự. Phần lớn các trường hợp vi phạm do Quốc hội Mỹ nghiên cứu xảy ra trong các năm 2001, 2005, 2006 và 2009.


Chiến đấu cơ thế hệ 5 F-35 Lightning II.


Quy chế Nunn-McCurdy Chính phủ Mỹ ban hành từ năm 1982 và có hiệu lực vào năm 1983. Theo quy chế này, Lầu Năm Góc phải có trách nhiệm giải trình chi tiết cho Quốc hội Mỹ nếu tổng giá trị của dự án quốc phòng tăng lên hoặc giá cuối cùng của mỗi sản phẩm quốc phòng đưa ra tăng quá 15% so với dự kiến ban đầu.

Quy chế Nunn-McCurdy yêu cầu ngừng bất kỳ dự án nào do Lầu Năm Góc và các đơn vị của Lầu Năm Góc tiến hành nếu chi phí chương trình vượt quá 25% so với dự tính ban đầu.

Dự án máy bay chiến đấu F-35 đã vi phạm quy tắc Nunn-McCurdy. Lầu Năm Góc đã dự đoán một sự gia tăng chi phí cho chương trình F-35 tới 51 tỷ USD. Việc chi phí quá cao cho chương trình phát triển máy bay chiến đấu trình F-35 được coi như là một kịch bản bi quan.

Lầu Năm Góc đã tổ chức một loạt các cuộc tham vấn từ Quốc hội Mỹ nhằm tiếp tục hoàn chương trình F-35. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã thành công trong việc tái thiết dự án chiến đấu cơ F-35 bất chấp kinh phí phát triển dự án tăng quá 25% và chương trình này đứng trên bờ vực đóng cửa. Dự án đã được duy trì vì chứng minh được lợi ích của chương trình là quan trọng đối với an ninh quốc gia.



Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

>> Mây phóng xạ là gì?



[Vnexpress news] Thuật ngữ "mây phóng xạ" xuất hiện trên các phương tiện truyền thông tại Việt Nam và thế giới trong nhiều ngày qua, tuy nhiên không phải ai cũng biết khái niệm cụ thể về nó.



Mô hình di chuyển của mây phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I hôm 18/3. (Ảnh: paranoidnews.org)


Bộ Quốc phòng Mỹ và Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) dùng thuật ngữ "mây phóng xạ" để chỉ khí nóng, hơi nước, khói, bụi và các sản phẩm của phản ứng phân hạch hạt nhân được tạo ra sau vụ nổ bom nguyên tử. Thuật ngữ này cũng được dùng cho các sự cố trong nhà máy điện hạt nhân, mặc dù các lò phản ứng không phát nổ giống như bom nguyên tử. Trên thực tế tỷ lệ các chất đồng vị phóng xạ trong đám vật chất phát sinh từ vụ nổ của bom hạt nhân hoàn toàn khác với vụ nổ của lò phản ứng.
Thông tin từ Tổ công tác xử lý thông tin sự cố Nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1 của Bộ Khoa học và Công nghệ chiều 28/3 cho biết trạm quan trắc của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã phát hiện đồng vị phóng xạ I-131 trong không khí, nhưng hàm lượng rất nhỏ, không ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

 Đối phó với tình hình ô nhiễm phóng xạ từ Nhật Bản sắp ảnh hưởng tới Việt Nam, 3 bệnh viện đã được chuẩn bị để điều trị nhiễm phóng xạ đó là Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ Huế và Bệnh viện Chợ Rẫy.

Trường hợp nếu có biểu hiện nghi vấn sẽ được chuyển tiếp đến các cơ sở y tế như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện TƯ Huế, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện TƯ Quận đội 108, Viện Y học phóng xạ quân đội… kiểm tra nhiễm xạ trong.

Theo từ điển Khoa học và Công nghệ McGraw-Hill, mây phóng xạ là thuật ngữ dùng để chỉ một lượng không khí và hơi nước mang theo các chất phóng xạ từ vụ nổ hoặc sự cố hạt nhân.

Các nguyên tố hóa học có thể có một hoặc nhiều đồng vị. Các đồng vị có số nguyên tử và số proton trong hạt nhân nguyên tử giống nhau song số neutron của chúng khác nhau nên số khối cũng khác. Chúng được gọi là "đồng vị" vì nằm cùng vị trí trong bảng tuần hoàn hóa học.

Hạt nhân nguyên tử gồm hai loại: ổn định và không ổn định. Phân rã phóng xạ hay phân rã hạt nhân là hiện tượng hạt nhân nguyên tử không ổn định tự biến đổi và phát ra các bức xạ hạt nhân để đạt tới trạng thái ổn định. Các nguyên tử có tính phóng xạ (không ổn định) được gọi là các đồng vị phóng xạ, còn các đồng vị không có tính phóng xạ được gọi là đồng vị bền. Chẳng hạn, nguyên tố Carbon (C) có hai đồng vị phóng xạ là C-12 và C-13, một đồng vị phóng xạ là C-14.

Tia phóng xạ là các dòng hạt chuyển động nhanh phát ra từ các chất phóng xạ trong quá trình phân rã hạt nhân. Chúng có thế là chùm các hạt mang điện dương (như hạt alpha, hạt proton) hay mang điện âm (như electron) hay không mang điện (như hạt neutron, hạt gamma, hạt neutrino).

Một số người cũng chưa hiểu tại sao người dân Trung Quốc đổ xô đi mua muối chứa i-ốt do lo ngại mây phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, trong khi báo chí Nhật Bản đưa tin các chuyên gia phát hiện đồng vị phóng xạ i-ốt bên ngoài nhà máy. Tại sao người dân Trung Quốc muốn đưa muối i-ốt vào cơ thể họ trong khi nguyên tố này cũng có thể tồn tại trong mây phóng xạ?

Nguyên tố i-ốt có tới 37 đồng vị, trong đó chỉ có I-127 là đồng vị ổn định. Muối chứa I-127 và những viên nén i-ốt kali (KI) có thể được dùng để rửa trôi đồng vị phóng xạ I-131, một sản phẩm phụ của phản ứng phân hạch hạt nhân, trong cơ thể người. Như vậy có nghĩa là người ta dùng đồng vị bền duy nhất của i-ốt để ngăn chặn tác động của đồng vị phóng xạ i-ốt.


Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

>> Tình báo Nga 'đi guốc trong bụng' NATO



[VietnamDefence news] Một quan chức cao cấp trong cơ quan tình báo Liên bang Nga tiết lộ họ nắm được kế hoạch tấn công trên bộ của NATO.



Chiến dịch trên bộ của Libya sẽ vào rơi vào cuối tháng 4. Ảnh minh họa.


Theo lời của quan chức này, chiến dịch tấn công trên bộ có thể bắt đầu vào cuối tháng tư hoặc đầu tháng 5. Kế hoạch này của NATO sẽ thành hiện thực nếu tổng thống Gaddafi chịu đầu hàng trước đòn tấn công bằng tên lửa và không quân của Liên minh. Mỹ và Anh sẽ là hai quốc gia tham gia tích cực nhất vào chiến dịch này.

Trước đó, theo thông báo chính thức của các nước tham chiến thì họ sẽ không có ý định mở chiến dịch trên bộ.



Ngày 17/3 vừa qua, Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc cho phép cộng đồng quốc tế sử dụng các biện pháp quân sự để bảo vệ dân thường tại Libya. Chiến dịch tấn công có tên gọi Bình minh Odyssey bắt đầu từ ngày 19/3. Pháp, Anh, Mỹ cùng một số nước khác tích cực tham gia vào chiến dịch này. Trong thời gian diễn ra chiếu dịch, các phương tiện của phòng không không quân của Libya đã bị phá hủy.

Theo lời của đại diện quân đội Mỹ, trong mấy ngày gần đây, đội quân của ông Gaddafi bắn 16 tên lửa có cánh. Trong khi đó, đài truyền hình quốc gia Libya kết tội lực lượng nước ngoài giết hại 100 người dân. Tuy nhiên, Libya lại không đưa ra được chứng cớ chắc chắn những người dân Libya này không phải là lực lượng tham chiến.



Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2011

>> Chính trường Yemen ‘nóng’ từng ngày



[BDV news] Tổng thống Yemen Abdullah Saleh phải đối mặt với sự cô lập ngày càng tăng sau khi các quan chức quân đội và chính phủ quay sang ủng hộ các cuộc nổi dậy ủng hộ dân chủ.

Bộ trưởng Quốc phòng Yemen tuyên bố rằng quân đội vẫn ủng hộ tổng thống. Ngày 21/3, nhiều xe tăng đã được triển khai trên đường phố Sanaa để ngăn chặn các cuộc biểu tình, bạo loạn.

Mohammed Nasser Ahmed công bố “Các lực lượng vũ trang sẽ ở lại trung thành với Tổng thống Ali Abdullah Saleh. Chúng tôi sẽ không cho phép bất kỳ một cuộc đảo chính chống lại dân chủ hoặc vi phạm an ninh quốc gia nào xảy ra”.

Thiếu tướng Ali Mohsen Saleh, người đứng đầu quân khu phía tây bắc đã quyết định ủng hộ những người biểu tình sau một cuộc đàn áp của chính phủ đối với những người biểu tình.



Các cuộc biểu tình tại Yemen không ngừng gia tăng.

Một chỉ huy quân sự cao cấp và ít nhất 18 sĩ quan khác đã đào thoát sang các phong trào đối lập, trong đó bao gồm : Ali Abdullaha Aliewa (chủ tịch cố vấn tối cao của quân đội Yemen), Al Koshebi Brigadiers Hameed (chỉ huy lữ đoàn 310 ở khu vực Omran), Mohammed Ali Mohsen, Nasser Eljahori (chỉ huy trưởng lữ đoàn 121),...

Ngoài ra, một số Đại sứ Yemen ở Syria, Saudi Arabia, Lebanon, Ai Cập, Trung Quốc, Liên đoàn A Rập cũng từ chức để bày tỏ sự ủng hộ với phong trào phản đối.

Đại sứ Yemen Abdullah Alsaidi tại Liên Hiệp Quốc phát biểu với phóng viên Al Jazeera: “Tôi nghĩ rằng hiện nay chúng ta cần thay đổi và chúng tôi đã chuẩn bị tất cả cho một sự thay đổi hòa bình. Tôi kêu gọi Tổng thống và tất cả những người làm việc cho Tổng thống tiến hành chuyển giao quyền lực trong một bầu không khí hòa bình”.

Phát biểu tại Paris, Bộ trưởng ngoại giao Pháp Alain Juppé cho biết, việc từ chức của Tổng thống Yemen là điều "không thể tránh khỏi" và ông cam kết "hỗ trợ cho tất cả những người đấu tranh cho dân chủ".


Quân đội Chính phủ tăng cường đàn áp các cuộc biểu tình.


Trưởng ban biên tập tờ Yemen Post Al Hakim Masmari cho biết, 60% binh lính trong quân đội đã trở thành đồng minh của những người biểu tình. "Đối với Ali Mohsen Saleh thông báo này là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy ‘trò chơi chính trị đã kết thúc’ và ông phải bước xuống ngay bây giờ".

Thiếu tướng Masmari cho biết cả đất nước Yemen đều không ủng hộ Saeh, ông là trung tâm của sự tham nhũng và không được tôn trọng tại Yemen. Đại sứ Yemen tại Pháp nói rằng Tổng thống Saleh phải từ chức để tránh thêm đổ máu.

Các bộ lạc mạnh nhất tại Yemen bao gồm cả bộ lạc nơi sinh ra của Tổng thống Yemen cũng yêu cầu ông phải từ chức đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phải ra đi một cách hòa bình.

Cựu đại sứ của Yemen Barbara Bodine cho rằng một thỏa thuận đàm phán có thể kết thúc cuộc khủng hoảng tại Yemen. Chính phủ sẽ không thể tồn tại được khi mà các cuộc biểu tình nổ ra trên khắp đất nước và các quan chức của chính phủ đang lần lượt từ chức đi theo các phong trào dân chủ.

Tổng thống Saleh lên nắm quyền từ năm 1978 và cam kết từ chức vào cuối nhiệm kỳ của ông trong năm 2013. Tuy nhiên sau khi ông từ chức lại không có người kế nhiệm rõ ràng. Đây cũng là một trong những lý do tại sao các đồng minh thân cận nhất của ông – Mỹ và Ả Rập Saudi lo lắng về hình chính trị tại Yemen và đã không giúp đỡ ông.

Việc Tổng thống Yemen từ chức sẽ giáng một đòn mạnh đối với chính quyền Mỹ, tại Yemen Mỹ đã không ngừng giúp đỡ Tổng thống Ali Mohsen Saleh nhằm tạo dựng ảnh hưởng của mình tại đất nước này.


>> Người Hàn Quốc muốn có vũ khí hạt nhân



[ BDV news] Đa số người dân Hàn Quốc ủng hộ ý tưởng phát triển vũ khí hạt nhân hoặc triển khai lại các tên lửa hạt nhân chiến thuật của Mỹ để đối phó với mối đe dọa từ Triều Tiên, theo một cuộc khảo sát được công bố hôm 23/3.

Viện nghiên cứu chính sách ASAN đã tiến hành một cuộc khảo sát với người dân Hàn Quốc với hai ý tưởng được đưa ra: một là phát triển vũ khí hạt nhân trong nước, hai là triển khai lại các tên lửa hạt nhân chiến thuật của Mỹ.

Kết quả cho thấy đối với việc phát triển vũ khí hạt nhân trong nước thì có tới 68,6% người dân ủng hộ việc phát triển bom nguyên tử, 28,9% phản đối ý tưởng phát triển vũ khí hạt nhân và 2,5% còn lại không đưa ra ý kiến của mình.

Đối với việc triển khai lại các tên lửa hạt nhân chiến thuật của Mỹ có 67,3% ủng hộ ý kiến này, 30,1% phản đối, và 2,6% không bình luận gì. Cuộc khảo sát được thực hiện qua điện thoại với 1.000 người được mời tham gia trả lời.



Người dân Hàn Quốc mong muốn phát triển vũ khí hạt nhân.

Hàn Quốc không có vũ khí hạt nhân nhưng một số chính trị gia bảo thủ đã kêu gọi một chương trình phát triển hạt nhân độc lập. Hay là tái triển khai tên lửa hạt nhân chiến thuật của Mỹ để đáp trả lại các hành động mà họ cho là khiêu khích của Triều Tiên.

Hiện tại, giới chức Hàn Quốc chưa có bình luận gì về kết quả của cuộc khảo sát này. Cuộc khảo sát này cũng không đại diện cho quan điểm của chính phủ Hàn Quốc về vấn đề vũ khí hạt nhân.

Quân đội Mỹ đã rút toàn bộ tên lửa hạt nhân chiến thuật ra khỏi lãnh thổ Hàn Quốc vào năm 1991, khi hai miền Triều Tiên ký một thỏa thuận về giải trừ vũ khí hạt nhân.

Trong chuyến thăm Seoul vào ngày 2/3, ông Robert Einhorn - cố vấn đặc biệt của Bộ Ngoại Giao về vấn đề không phổ biến và quản lý vũ khí hạt nhân đã loại trừ khả năng tái triển khai các tên lửa hạt nhân chiến thuật của Mỹ ở Hàn Quốc.

Việc Bình Nhưỡng tiết lộ và cho các quan chức của Mỹ thăm nhà máy làm giàu Uranium của họ vào tháng 10/2010 đã làm dấy lên mối lo ngại về vũ khí hạt nhân.

Mặc dù Bình Nhưỡng cho biết nhà máy làm giàu Uranium của họ để phục vụ cho mục đích hòa bình. Tuy nhiên các chuyên gia về hạt nhân cho biết, cơ sở này có thể gia tăng số lượng dự trữ plutonium để chế tạo bom nguyên tử.


Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

>> Vì sao Mỹ dùng vũ lực với Libya, còn Yemen và Bahrain thì không?


[BDV news] Cả ba nước đều sử dụng vũ lực để "xử lý" các cuộc biểu tình nhưng Mỹ chỉ lên kế hoạch phản ứng quân sự với mỗi Libya. Hai nước còn lại chỉ bị phản đối bằng lời bởi họ là đồng minh của Mỹ.

Khi cuộc nổi dậy lan ra khỏi Bắc Phi thì Washington tỏ ra thận trọng với cách tiếp cận riêng biệt đối với mỗi nước bởi sự ổn định tại các quốc gia giàu dầu mỏ dường như quan trọng hơn là hy vọng của Mỹ về các phong trào phản kháng.

Cụ thể, Yemen có ý nghĩa rất quan trọng đối với Washington trong cuộc chiến chống al-Qaeda. Điều này khiến chính quyền Obama phải hết sức thận trọng trong việc gây áp lực tới đâu đối với Tổng thống Yemen Ali Abdullah Saleh.

Nói cách khác, “Mỹ rất sợ rằng nếu ông Saleh đi, Yemen sẽ sụp đổ”, bà Marina Ottaway, Giám đốc chương trình Trung Đông tại Carnegie Endowment for International Peace ở Washington nhận định. Tương tự, ở Bahrain, Mỹ có căn cứ hải quân lớn nên cũng không phản ứng quân sự.

“Mỹ luôn luôn thuyết giảng những giá trị mà chính họ không thể sống theo. Cuối cùng thì quyền lợi của Mỹ luôn là trên hết”, bà Marina khẳng định.



Mỹ chỉ lên kế hoạch phản ứng quân sự với mỗi Libya. Ảnh minh họa.

Ngay cả với Libya, sự thận trọng mới cũng đang được thể hiện. Chính quyền ngần ngại một thời gian trong việc ủng hộ quyết định áp dụng vùng cấm bay, bởi lo ngại rằng điều này có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh thứ ba của My tại một quốc gia Hồi giáo, sau Afghanistan và Iraq.

Và Mỹ chỉ quyết định việc này sau khi nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia Arab và các đồng minh châu Âu.

Và hiện vẫn chưa rõ Mỹ sẽ đóng góp quân sự tới mức nào đối với khu vực cấm bay được Liên Hiệp Quốc hậu thuẫn, cũng như chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông Gaddafi thành công trong việc níu giữ quyền lực.

Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử và làn sóng biểu tình tràn qua khu vực, người ta có thể nói rằng thận trọng là một chính sách hợp lý, nếu nhìn từ quan điểm Mỹ.

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

>> Trung Quốc triển khai 'siêu' tên lửa nhắm vào Đài Loan



Cục trưởng Cục an ninh Đài Loan Tsai Teh-sheng vừa thông báo: “Trung Quốc triển khai loại tên lửa mới, rất mạnh là Đông Phong 16 nhắm vào Đài Loan. Đây là tên lửa tầm xa và nó tăng sự đe dọa Đài Loan”.
Ông Tsai từ chối cung cấp thông tin chi tiết về kỹ thuật của tên lửa mới của Trung Quốc; cũng như số lượng tên lửa mà Trung Quốc triển khai nhưng khẳng định Đông Phong 16 là tên lửa mạnh nhất của Bắc Kinh từng nhắm vào Đài Bắc.




Nhiều chuyên gia quân sự Đài Loan dự đoán Trung Quốc hiện có hơn 1.600 tên lửa nhắm vào hòn đảo này. Chúng chủ yếu được đặt ở Phúc Kiến và Giang Tây.

Liberty Times dẫn một nguồn tin quân sự Đài Loan giấu tên cho biết, ngoài việc tăng số tên lửa, Trung Quốc còn sửa chỉnh sửa nhiều máy bay chiến đấu cũ, biến chúng thành những máy bay không người lái với sự trợ giúp công nghệ của Israel. Mục đích cuối cùng là giúp các chiến đấu cơ này thoát khỏi hệ thống phòng không Đài Loan và tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trên đảo.

Ở tầm cao hơn, Trung Quốc triển khai 45 trong tổng số 60 vệ tinh trên vũ trụ thu thập tin tức tình báo cho các hoạt động quân sự.

Nhà phân tích Lin Cheng-yi của Học viện Academia Sinica khẳng định, Trung Quốc không còn diễn tập quân sự ở Phúc Kiến, khu vực đối diện Đài Loan mà chuyển sang các khu vực khác nhưng Bắc Kinh chưa bao giờ dừng việc tăng cường sức mạnh vũ trang, gia tăng các hoạt động quân sự tại các khu vực miền Nam, Bắc, thậm chí là phía Đông Đài Loan, tới tận Guam.

Còn theo Bộ Quốc phòng Mỹ, từ khi ông Mã Anh Cửu lên lãnh đạo Đài Loan, quan hệ đôi bờ ấm hẳn lên nhưng Trung Quốc vẫn chưa loại trừ khả năng dùng quân đội thống nhất Đài Loan.


Quan hệ đôi bờ ấm lên nhưng Trung Quốc vẫn tăng cường vũ khí nhắm vào Đài Loan.

Do đó, Đài Loan rất tích cực tăng cường vũ trang nhưng do "ngại" Trung Quốc, chẳng mấy nước dám bán cho Đài Loan thứ gì, ngay cả Mỹ cũng không phải ngoại lệ.

Tới nay, Washington chuyển giao cho đảo một số loại vũ khí và mỗi lần làm vậy, họ lại bị Trung Quốc phản đối gay gắt. Điển hình là thương vụ bán 6,4 tỷ USD vũ khí cho Đài Loan hồi tháng 1/2010, khiến quan hệ Bắc Kinh-Washington lạnh nhạt.

Sau vụ này, có lẽ Mỹ "chùn tay" nên từ đó tới nay, Mỹ chỉ làm rất ít để đối phó với tình trạng mất cân bằng về quân sự ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc với Đài Loan.

(theo AP news )

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2011

>> Tướng tình báo Liên Xô nói về những bí mật quá khứ và hiện tại



Trung tướng N.S. Leonov, nguyên cục trưởng Cục Phân tích KGB, đánh giá về chủ nhân trang WikiLeaks Julian Assange, nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô, Iran, Trung Quốc...

Ngày 20.12 là tình báo Nga tròn 90 tuổi. Trung tướng về hưu Nikolai Sergeyevich Leonov, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục I (Tình báo đối ngoại) KGB (nay là Cục Tình báo đối ngoại Nga SVR) từng phục vụ 33 năm trong ngành tình báo. Nhưng ông trao đổi không chỉ về những việc đã qua.

Julian Assange là người hùng máy tính Che Guevara
PV: Nikolai Sergeyevich, ông nghĩ thế nào về Julian Assange và trang web nổi danh tai tiếng của anh ta? Bởi lẽ người ta muốn gọi là Nhân vật của năm và thậm chí còn đề cử cho giải Nobel. Liệu đây có phải con mồi mà xung quanh đang diễn ra một trò chơi của các cơ quan tình báo không?

Tướng Leonov: Không có vẻ là có trò chơi ở đây. Trang web của anh ta là một sự kiện rất tồi tệ. Anh ta đã gây tổn hại to lớn cho nhiều cường quốc. Nước Nga cũng bị đụng chạm. Nhưng dính nặng nhất là Mỹ. Bởi vậy, rồi anh xem, người Mỹ sẽ trả thù anh ta. Tôi coi Assange là nhân vật bi kịch giống như Che Guevara, người mà tôi biết rất rõ. Bằng việc đăng tải một số lượng tài liệu mật như thế, Assange đã “đánh một đòn hạt nhân” trong cuộc chiến tranh thông tin. Tất cả các cơ quan tình báo trên thế giới trong năm nay không đạt được kết quả như vậy.

PV: Thế còn các cơ quan tình báo Mỹ mà mùa hè năm nay đã khám phá ra 11 tình báo viên bất hợp pháp của Nga thì sao?

Tướng Leonov: Người Mỹ đã được tên phản bội Poteyev tiếp tay. Hắn thậm chí còn lấy đem đi cả hồ sơ cá nhân của Anh hùng Liên Xô Mikhail Vasenkov. Giờ thì người ta nói rằng, việc đó về mặt kỹ thuật là không thể làm được. Nhưng trong tình trạng thờ ơ, cẩu thả hiện thì tất cả đều có thể xảy ra. Chuyện phản bội vẫn thường xảy ra trong tình báo. Ta cần nhớ là cả Kim Philby, cả Molody đều là nạn nhân của những kẻ phản bội …

PV: Có đúng là các gián điệp bị bại lộ được tặng thưởng những huân chương cao quý nhất của Nga và được bố trí vào những “chỗ béo bở” không? Chẳng hạn, Anna Chapman đã trở thành cố vấn của giám đốc ngân hàng, còn một người tham gia khác của “scandal gián điệp” Nga-Mỹ ầm ĩ là Andrei Bezrukov vài ngày trước đã được bổ nhiệm làm cố vấn của Chủ tịch công ty dầu mỏ nhà nước Rosneft.



Trung tướng KGB N.S Leonov hiện nay

Tướng Leonov: Tôi muốn sửa lại một chút, đó không phải là các gián điệp mà là những cán bộ tình báo của chúng ta, không phải là bị bại lộ mà là bị phản bội. Nhà nước đang làm đúng khi quan tâm đến những người này. Nếu không thì ai sẽ còn chịu làm việc trong tình báo đối ngoại? Vì ở đó người ta phải mạo hiểm cả mạng sống.

Kẻ nào đã bán đứng Liên Xô?
PV: Nikolai Sergeyevich, xin ông nói về sự đối đầu giữa CIA và KGB. Tại sao các ông đã chịu tổn thất?

Tướng Leonov: Tổn thất cái gì?

PV: Liên Xô ấy. Chẳng lẽ không phải là Mỹ đã chiến thắng các ông trong chiến tranh lạnh sao? Thậm chí họ còn có huy chương cho sự kiện này cơ mà …

Tướng Leonov: KGB chẳng tổn thất gì. Liên Xô bị nhóm lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước bán đứng. Tôi với tư cách Cục trưởng Cục Phân tích KGB đã vô số lần báo cáo với Gorbachev là đường lối của ông ta đang dẫn tới sự sụp đổ. Bằng chứng cho điều đó là hàng chục, hàng trăm báo cáo của tôi mà kể cả hiện giờ vẫn được lưu giữ với dấu “Tuyệt mật”. Ở đó cũng có cả họ tên những điệp viên ảnh hưởng của Mỹ. Anh hãy tin là đó không chỉ có Yakovlev (Trưởng Ban Tư tưởng Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô) và Shevardnadze (Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô) đâu…

PV: Thế thì tại sao KGB lại thụ động như thế trong tháng 8.1991?

Tướng Leonov: Ủy ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp (GKChP) là nỗ lực tuyệt vọng nhằm cứu vãn tình hình của những con người thối nát với một tổng thống Liên Xô hoàn toàn thối nát. KGB cũng ở đó - nhưng vị thế nhỏ nhoi như chiếc nan hoa thứ bảy của cỗ xe. Trong những ngày đó, thậm chí tôi đã lệnh cho các sĩ quan dưới quyền giao nộp súng ngắn. Khi đó đã không thể cầm súng chống lại một đám đông sôi sục. Điều đó là vô nghĩa. Với một khẩu súng ngắn, anh có thể gây ra những chuyện khiến sẽ có những nạn nhân và chính anh vì thế cũng bị người ta xé xác. Tháng 8.1991 đòi hỏi ở chính quyền trí tuệ chứ không phải vũ lực. Nhưng ban lãnh đạo chính trị cấp cao đã chẳng có cái nọ lẫn cái kia.


Tướng Nikolai Sergeyevich Leonov

Sinh ngày 22.8.1928 tại làng Allmazovo, quận Gorlovsky, tỉnh Ryazan. Năm 1952, tốt nghiệp Đại học Quan hệ quốc tế Moskva. Từng làm phiên dịch viên tiếng Tây Ban Nha tại Nhà xuất bản Ngoại văn. Năm 1953-1956, sinh viên khoa Ngữ văn và triết học Đại học tổng hợp quốc gia Mexico. Năm 1956-1958, phiên dịch viên Nhà xuất bản Ngoại văn, nghiên cứu sinh hàm thụ Viện Lịch sử, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Năm 1958-1960, học nghiệp vụ tại Trường 101, KGB Liên Xô. Năm 1960-1961, cán bộ bộ máy trung ương Tổng cục I (PGU) KGB Liên Xô (tình báo đối ngoại). Năm 1961-1968, công tác tại Mexico dưới vỏ bọc bí thư thứ ba sứ quán. Tham gia làm việc với Fidel Castro và các nhà lãnh đạo Cuba khác với chức danh phiên dịch viên. Từ cuối năm 1968-1971, Phó trưởng phòng tại PGU. Có những chuyến công tác ngắn hạn ở Peru, Panama, Nicaragua, Afghanistan… Năm 1971-1973, Phó Cục trưởng Cục Phân tích tin PGU. Năm 1973-1984, Cục trưởng Cục Phân tích tin PGU. Năm 1984-1990, Phó Tổng cục trưởng PGU, KGB Liên Xô. Từ tháng 2-8.1991, Cục trưởng Cục Phân tích KGB Liên Xô. Năm 1991, về hưu. Năm 1994-2000, Giáo sư Đại học Quan hệ quốc tế Moskva (MGIMO). Năm 2003-2007, đại biểu Duma Quốc gia Nga. Trung tướng về hưu. Được tặng thưởng Huân chương Cách mạng tháng Mười, 2 Huân chương Lao động Cờ Đỏ, Huân chương Sao Đỏ, các Huân chương Che Guevara hạng nhất, Playa Giron của Cuba. Tiến sĩ sử học. Tác giả một số cuốn sách và nhiều bài báo. Đã lập gia đình và có 2 con.
Trứng cá không phải là quả táo gây bất hòa. Iran và Trung Quốc với Nga không phải là kẻ thù
PV: Những nguy cơ nào đang đe dọa nước Nga? Người ta nói tai họa sẽ đến từ phía Nam. Chúng ta có cần sự bảo vệ chống lại tên lửa của Iran không?

Tướng Leonov: Tên lửa chiến lược Iran, hơn nữa lại là với đầu đạn hạt nhân là hoàn toàn không có. Nhưng người Mỹ kiên trì lôi kéo chúng ta vào cuộc xung đột với người Ba Tư. Thế nhưng chúng ta và người Iran có chung cái gì? Trứng cá đen biển Caspie chăng? Trứng cá giờ có còn thì cũng quá ít rồi.

Nga luôn luôn hiểu rõ phương Đông Hồi giáo, còn ở Iran chúng tôi đã hoạt động từ lâu. Hãy nhớ lại lịch sử mà xem. Cuộc cách mạng ở Iran. Người Mỹ khi đó chỉ hiểu Hồi giáo lờ mờ nên đã quyết định chống lại và chém giết những người nổi dậy. Và họ đã giết hại 3 đến 5 ngàn người mỗi ngày trên đường phố Tehran! Nhưng sự việc kết thúc bằng việc quốc vương Iran bỏ chạy. Và điều đó xảy ra khi có mặt 30 ngàn cố vấn đủ loại của Mỹ ở nước này! Đối với CIA, đây là thảm họa to lớn nhất.

PV: Hiện nay, quốc gia hùng mạnh nhất sau Mỹ là Trung Quốc. Thế còn tình báo Trung Quốc có mạnh không?

Tướng Leonov: Tôi nghĩ rằng, tình báo Trung Quốc, cũng giống như các vận động viên Trung Quốc tại Thế vận hội Olympic, đang đứng ở một trong những vị trí có giải. Đặc thù công việc với Trung Quốc là ở chỗ thông tin về nước này luôn thiếu hơn thông tin về các nước khác.

Điều đó được lý giải là trong thời kỳ thành lập CHND Trung Hoa năm 1949-1951, lãnh đạo Liên Xô vì sự tốt bụng khó hiểu đã hạ lệnh giao cho lãnh đạo Trung Quốc toàn bộ lực lượng điệp viên của chúng ta mà tình báo của ta đã kỳ công xây dựng trên lãnh thổ Trung Quốc trong những năm dài chiến tranh với Nhật Bản và trong thời Thế chiến II. Đó là một lưới điệp báo cực kỳ rộng. Người ta đã đem cho đi mất. Không một điệp viên nào của chúng ta còn thấy được ánh sáng mặt trời nữa. Tất cả họ đã biến mất. Bởi vậy, trong thời kỳ sau chiến tranh, chúng ta không còn các nguồn tin ở Trung Quốc. Đây dĩ nhiên là một thảm kịch nghề nghiệp.

Sau đó, tất nhiên là chúng ta đã nắm được, điều gì đang diễn ra sau cái chết của Mao Trạch Đông. Còn về tình hình sức khỏe của Người cầm lái vĩ đại thì chúng tôi theo rất sát, viết báo cáo từng ngày tình hình sức khỏe của ông ta. Xuất hiện Đặng Tiểu Bình. Với ví dụ là ông này thì rõ ràng là vai trò của cá nhân trong lịch sử không được phép xem nhẹ.

Chúng tôi đã báo cáo cho ban lãnh đạo Liên Xô rằng, Trung Quốc “đã chuyển sang đường lối mới” trong phát triển kinh tế. Họ đã đưa ra những khẩu hiệu mới. Chẳng hạn, không quan trọng mèo trắng hay mèo đen, miễn là bắt được chuột. Nhưng ban lãnh đạo của chúng ta đã không muốn học hỏi kinh nghiệm của ông bạn láng giềng khổng lồ.

PV: Liệu có chiến tranh với Trung Quốc không?

Tướng Leonov: Theo quan điểm của tôi, trong tương lai gần chúng ta sẽ không công khai thù địch với Trung Quốc. Điều đó không nằm trong lợi ích của họ, cũng như của chúng ta. Bởi vì, trên thực tế, chúng ta là hai quốc gia tựa lưng vào nhau. Họ quay ra đại dương, ra khu vực Nam Á với cộng đồng người Hoa khổng lồ, quay sang Singapore, Malaysia, Philipinnes. Ở đó, họ có cùng một tôn giáo. Những chủng tộc giống nhau. Khí hậu. Tôi phản đối việc cổ súy thái độ bài Trung Quốc.

Tiếng chuông báo động trên quảng trường Manezhnaya
PV: Nhưng cũng có một thực tế khách quan. Trung Quốc có dân cư đông đúc, còn chúng ta có lãnh thổ rộng lớn. Liệu họ có đè bẹp chúng ta về nhân khẩu không?

Tướng Leonov: Hiện nay, nước Nga không bị ai đe dọa một cách hiện thực, trừ chính người Nga. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn những sự kiện mới đây trên quảng trưởng Manezhnaya. Đó là tiếng chuông nhỏ nghiêm túc đối với chính quyền. Đừng có đùa giỡn với các cộng đồng dân Kavkaz mà làm tổn hại dân tộc Nga. Những mâu thuẫn dân tộc có thể phá tan đất nước thành những mảnh nhỏ. Mối đe dọa từ bên trong hiện thực hơn mối đe dọa từ bên ngoài.

Hiện thời, Nga có vũ khí hạt nhân. Nó có cả dầu mỏ và khí đốt. Những yếu tố đó dĩ nhiên không mang tính bất biến, nhưng nhờ chúng mà không ai, kể cả Trung Quốc, Mỹ, có khả năng lấn át nước Nga. Nhưng sau đó sẽ là cái gì? Sau 15-20 năm nữa? Từ năm 2012, các cô gái sinh sau năm 1991 sẽ bước vào lứa tuổi sinh con. Sự sụt giảm nhân số ở Nga sẽ đạt mức 1,5 triệu người/năm. Nếu sự việc sẽ cứ diễn ra tiếp như thế thì sẽ đến lúc khi mà cộng đồng quốc tế, chứ không chỉ Trung Quốc, sẽ xâu xé các vùng lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên của chúng ta. Đã từng có những cuộc chiến tranh giành di sản của Tây Ban Nha, Áo-Hung.

Tuy nhiên, để nói tất cả những điều đó sẽ diễn ta ở những hình thức tổ chức nào vào ngày hôm nay thì dĩ nhiên là khó. Nhưng sự biến đổi của Nhà nước Nga là không tránh khỏi. Về mặt kết cấu quốc gia-sắc tộc. Về mặt suy thoái các thiết chế khoa học-kinh tế. Quá trình này sẽ mất bao lâu? Tôi không biết.

PV: Người ta nói rằng, quốc gia càng hùng mạnh, thì tình báo của nó càng giỏi. Vậy theo ông thì cơ quan tình báo nào là giỏi nhất?

Tướng Leonov: Đối với tôi thì dĩ nhiên là tình báo Liên Xô. Chẳng gì thì tôi cũng đã làm việc ở đó từ năm 1958 đến năm 1991. Tôi dám khẳng định: ngay cả hồi đó chúng tôi cũng không thua kém CIA.

Một việc dễ hiểu là từ giác độ kỹ thuật, người Mỹ luôn hơn chúng ta. CIA có micro tốt hơn, vệ tinh do thám tốt hơn, tình báo vô tuyến điện tốt hơn... Còn về tài chính thì chẳng còn gì để nói. Họ chi cho tình báo nhiều hơn chúng ta cả năm chục lần.

Còn liên quan đến yếu tố con người thì ở đó có thể nói là chúng ta có ưu thế trước người Mỹ nhờ những phẩm chất thiên phú của con người Nga... Chính là yếu tố con người Nga. Trong ngành tình báo, có tiếng nói quyết định và chiếm đa số áp đảo là người Nga. Mà người Nga thì có một nét đặc biệt mà Leskov đã nhận thấy rõ trong chuyện ngắn Levsha. Nét tính cách này bộc lộ đặc biệt rõ thời Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Từ chẳng có gì, chúng ta đã có thể làm được tất cả. Chúng ta có những nhà phân tích siêu việt nhất.

PV: Ông có thể nêu các ví dụ chứng minh không?

Tướng Leonov: Được thôi, cuộc cách mạng Cuba. Người Mỹ đã nói: vớ vẩn, tay Fidel rậm râu nào đó ư, anh ta là cái gì đâu, rồi anh ta phải lê gối đến. Còn chúng tôi nêu ra một đánh giá hoàn toàn khác: Cách mạng Cuba là một hiện tượng rất có triển vọng và thú vị. Hồi đó, tôi đã quan hệ gần gũi với Che Guevara và nhận được những thông tin từ gốc nóng hổi.

Còn Việt Nam?.. Cũng vậy. Người Mỹ có đặc điểm là dựa vào cho đến cùng những kết luận sai mà họ đi theo trong chính sách đối ngoại. Và họ làm điều đó cho đến khi chính sách đó bắt đầu có ảnh hưởng hủy hoại đối với chính nước Mỹ. Và tất cả là vì người Mỹ không có khả năng tư duy chiến lược khi nhúng mũi vào việc của các dân tộc khác. Nhân đây cũng nói là việc trao đổi thư từ của các nhà ngoại giao của họ mà Julian Assange đăng tải chứng minh rõ điều đó.

PV: Xin chúc mừng ông, Nikolai Sergeyevich! Nhân kỷ niệm 90 năm tình báo Nga.

(vietnamdefence news)

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2011

>> SWATS - Khắc tinh của xạ thủ



Bộ binh Mỹ tại chiến trường Afghanistan vừa được trang bị thiết bị dò tìm xạ thủ SWATS (*), nhằm hạn chế một trong những mối đe dọa hàng đầu với người lính tại đây.

SWATS: Hệ thống định vị xạ thủ qua âm thanh của tiếng súng, có thể đeo trên người.
Theo Bộ quốc phòng Mỹ, đến cuối năm nay, sẽ có khoảng 1.500 lính được trang bị thiết bị này.

Với trọng lượng chỉ 183 g, thiết bị gồm 2 phần: một cảm biến gắn trên vai, một thiết bị điều khiển có kích thước bằng chiếc di động với màn hình LCD nhỏ đeo phía trước giúp người lính dễ dàng quan sát nhờ một cái liếc mắt.

Với mức giá khoảng 2.000 USD, thiết bị SWATS có thể phát hiện hướng của đường đạn (từ khi xuất hiện tiếng nổ) trong khoảng 1/10 giây. Nó có thể được lắp ráp trên các phương tiện khác nhau và hoạt động tốt dù chạy vận tốc lớn hơn 80 km/h.

Những thiết bị tương tự như SWATS đã xuất hiện trong nhiều năm nay nhưng quân đội Mỹ nhận thấy, thiết bị dò tìm xạ thủ thực sự rất hữu ích. Nhờ nó mà chỉ khoảng 4.500 lính Mỹ tại Afghanistan dính đạn (đa phần chỉ bị thương). Nếu không có SWATS, con số này có thể tồi tệ hơn nhiều. Bởi vì nếu phát hiện hướng đạn, đội quân có thể nhanh chóng chuyển hướng sang kẻ bắn tỉa và tấn công chính xác, dồn dập.



Phát hiện nhanh xạ thủ nhờ cảm ứng và phát hiện hướng phát hỏa lực của thiết bị dò tìm SWATS.

Một trong những thiết bị phát hiện xạ thủ đầu tiên và hữu dụng nhất là Boomerang do Bộ Quốc Phòng Mỹ yêu cầu nghiên cứu, phát triển năm 2004.

Sau 2 năm trì hoãn thử nghiệm, Boomerang mới được lắp đặt lên các phương tiện quân sự, có tuổi thọ khoảng 5 năm và giá 5.000 USD. Hiệu quả của hệ thống này được chứng minh bằng việc 10.000 đơn vị ứng dụng. Hiện tại, chúng được nâng cấp 2 lần nhằm kéo dài thời gian phục vụ.

Trong suốt thập kỷ qua, các thiết bị dò tìm hướng điểm hỏa dựa vào âm thanh ngày càng phát triển. Hơn 60.000 chiếc được chuyển tới chiến trường Iraq và Afghanistan. Những nhà sản xuất tập trung vào nâng cấp khả năng xử lý máy tính, chất lượng cảm biến, phát triển phần mềm để giảm tối thiểu khả năng báo động sai.

Cảnh sát các nước Anh, Mỹ, Pháp, Israel cũng được trang bị những hệ thống này, với khả năng và giá thành khác nhau. Nhờ vậy, giá của SWATS đã giảm dần, thay vì mức giá lên tới 200.000 USD như ngày đầu.

Bên cạnh thiết bị dò tìm độc lập, Mỹ còn phát triển một số hệ thống tích hợp, gồm cả robot.

Hãng iRobot của Mỹ đã chế tạo loại robot chiến đấu PackBot có tên gọi REDOWL. Nó được trang bị camera cảm ứng nhiệt hồng ngoại, thiết bị đo khoảng cách bằng laser và thiết bị dò tìm tiếng súng nhờ âm thanh, giúp cho quân đội nhanh chóng chế áp đối phương.

Trong các bài thử nghiệm, REDOWL đạt độ chính xác 94%. Một số chuyên gia muốn trang bị cho REDOWL súng máy để khai hỏa tự động khi phát hiện. Tuy nhiên, quân đội Mỹ chưa sẵn sàng sử dụng loại robot vũ trang mà tự động nhận dạng và bắn vào mục tiêu.

Một hệ thống khác là Pilar, hoạt động tương tự như REDOWL nhưng tầm phát hiện xa tới hàng nghìn mét, gấp đôi của REDOWL. Tuy nhiên, mức giá cho Pilar quá đắt, 65.000 USD nên khó có thể sử dụng rộng rãi. Israel cũng sản xuất được hệ thống tương tự là SADS (Hệ thống phát hiện vũ khí nhỏ).

(bdv news)

Copyright 2012 Tin Tức Quân Sự - Blog tin tức Quân Sự Việt Nam
 
Lên đầu trang
Xuống cuối trang